Tăng cường hoạt động đầu tư của Ngân hàng công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán

Tài liệu Tăng cường hoạt động đầu tư của Ngân hàng công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán: ... Ebook Tăng cường hoạt động đầu tư của Ngân hàng công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1287 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường hoạt động đầu tư của Ngân hàng công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu. Thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn mới cho nền kinh tế. Sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu. Việc phát triển thị trường chứng khoán còn liên quan đến tiến trình cổ phần hóa đang diễn ra sôi động hiện nay. Tuy nhiên từ sau khi ra đời, kết quả hoạt động của thị trường chứng khoán không như mong đợi, một phần là do sự tham gia hỗ trợ rất hạn chế của các ngân hàng thương mại. Hơn nữa hoạt động huy động vốn và cho vay truyền thống của các ngân hàng thương mại đã không còn đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Vì vậy việc nghiên cứu mối quan hệ giữa hai chủ thể trên đồng thời tìm ra giải pháp để thúc đẩy sự tham gia của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán, hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường chứng khoán là cần thiết. Việc lựa chọn đề tài nghiên cứu “tăng cường hoạt động đầu tư của ngân hàng công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán”, một mặt tìm ra giải pháp đổi mới củng cố hoạt động của ngân hàng công thương Việt Nam, thành ngân hàng đa năng hiện đại với những hoạt động đa dạng, đồng thời giúp cho thị trường chứng khoán trở nên sôi động hơn, thực sự phát huy vai trò kênh dẫn vốn mới cho nền kinh tế. 2. Mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu mối quan hệ giữa ngân hàng thương mại và thị trường chứng khoán , vai trò của ngân hàng thương mại đối với hoạt động của thị trường chứng khoán , từ đó chỉ ra lợi ích của ngân hàng thương mại cũng như của thị trường chứng khoán khi có sự tham gia của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán , phân tích đánh giá sự tham gia của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán , những hỗ trợ và hạn chế, phân tích nguyên nhân Thực trạng hoạt động đầu tư của ngân hàng công thương và sự tham gia của ngân hàng công thương trên thị trường chứng khoán , đánh giá kết quả, phân tích hạn chế và nguyên nhân Đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường hoạt động đầu tư của ngân hàng công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Về lý thuyết: Hoạt động của ngân hàng thương mại, cụ thể là hoạt động đầu tư chứng khoán và vai trò của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán. Về thực tế: Thực trạng hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán giai đoạn 2004-2007 của Ngân hàng công thương Việt Nam, trong đó tập trung chủ yếu vào hoạt động của phòng đầu tư hội sở chính. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp tổng hợp-phân tích Phương pháp quy nạp Phương pháp logic biện chứng Phương pháp thống kê mô tả 5. Kết cấu của Luận văn. Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục bảng biểu, phụ lục, luận văn được chia thành ba chương: Chương 1: Hoạt động ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư của NHCTVN trên thị trường chứng khoán Chương 3: Giải pháp tăng cường hoạt động đầu tư của NHCTVN trên thị trường chứng khoán CHƯƠNG 1 HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại 1.1.1. Sự ra đời và quan niệm về NHTM Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Vai trò của nó là biến các khoản tiết kiệm thành đầu tư thông qua dòng tài chính gián tiếp. Có rất nhiều cách định nghĩa về Ngân hàng, đó là theo chức năng hay các dịch vụ mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Theo quan niệm cổ điển, Ngân hàng là tổ chức nhận tiền gửi và cho vay tiền. Tuy nhiên cách định nghĩa trên không phân biệt được Ngân hàng với một số tổ chức tài chính khác. Vì vậy có một cách tiếp cận mới đầy đủ hơn về Ngân hàng, đó là dựa trên các dịch vụ mà nó cung cấp: Ngân hàng là một loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và các dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước. Như vậy, về bản chất, Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc thù, tính chất đặc thù thể hiện ở chỗ đối tượng tác nghiệp là tiền tệ. Ngân hàng thương mại không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất như các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất – kinh doanh nhưng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối sản phẩm xã hội bằng cách cung ứng vốn tín dụng, vốn đầu tư cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế mở rộng kinh doanh, góp phần tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế. 1.1.2. Hoạt động của Ngân hàng Thương mại 1.1.2.1. Hoạt động cơ bản, truyền thống của ngân hàng thương mại cổ điển Hoạt động huy động vốn: Toàn bộ các hoạt động tạo nên bên “Nguồn vốn” trong Bảng cân đối tài sản của NHTM Các ngân hàng luôn tìm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay hay nguồn đầu vào của bất kỳ hoạt động nào. Một trong những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng, đó là một món tiền được gửi tại ngân hàng theo đơn vị thời gian có thể là tuần, tháng hay năm.Gửi tại ngân hàng, khách hàng sẽ nhận được một mức lãi suất nhất định tuỳ theo từng thời điểm và từng ngân hàng. Ngoài ra, với chức năng là thủ quỹ cho các doanh nghiệp nên nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp là nguồn có tỷ trọng lớn nhất. Tuy nhiên đây lại là loại tiền gửi không kỳ hạn vì doanh nghiệp có thể yêu cầu rút ra hoặc sử dụng bất kỳ lúc nào. Bên cạnh đó, các NHTM cũng có thể chủ động phát hành kỳ phiếu, trái phiếu để huy động vốn mỗi khi có nhu cầu. Chính hoạt động này đã làm phong phú thêm lượng hàng hoá giao dịch trên TTCK. Cuối cùng, các NHTM khi cần thiết còn có thể đi vay vốn của NHTW, vay các NHTM khác trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc xác định lãi suất cho các hoạt động tài chính khác, đặc biệt tác động vào thị giá chứng khoán. Như vậy hoạt động huy động vốn của các NHTM rất đa dạng, phần nào đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh. Hoạt động sử dụng vốn: Toàn bộ các hoạt động tạo nên bên “Tài sản (hình thành từ nguồn)” trong Bản cân đối tài sản của NHTM. Hoạt động sử dụng vốn đầu tiên và chiếm tỷ trọng lớn của các NHTM là cho vay. Cho vay có thể được phân loại theo thời gian, theo đối tượng vay vốn, theo ngành nghề kinh doanh… Hoạt động cho vay trước đây thường đem lại thu nhập chiếm tỷ trọng lớn nhất cho ngân hàng. Hoạt động nhận tiền gửi và cho vay đối với các khách hàng đã hình thành chức năng tạo tiền của ngân hàng, tham gia vào quá trình mở rộng lượng tiền cung ứng, góp phần tác động vào sự hình thành lãi suất, ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Tiếp theo đó là hoạt động đầu tư, một hoạt động tuy có quy mô và chiếm tỷ trọng nhỏ song cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tạo điều kiện cho các NHTM thâm nhập sâu vào nền kinh tế. Hoạt động quan trọng khác bên cạnh cho vay và đầu tư là chiết khấu, cầm cố các giấy tờ có giá. Ngay từ thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương, những người bán các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Ngoài ra bên tài sản của NHTM còn có khoản mục ngân quỹ, trong đó có dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt quá. Đó là số tiền các NHTM trước khi tiến hành cho vay và đầu tư phải dự trữ một phần nguồn vốn của mình để đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh. Khoản mục dự trữ bắt buộc sẽ gửi tại NHTW, phần còn lại được giữ tại ngân hàng trong tài khoản thanh toán. Đây chính là tồn quỹ nghiệp vụ của ngân hàng, những khoản sinh lời rất thấp nhưng lại có tính lỏng cao nhằm đảm bảo cho khả năng thanh toán và sự an toàn trong các hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng. Các hoạt động sử dụng vốn còn lại của NHTM bao gồm: mua sắm tài sản cố định, thực hiện các hoạt động tài trợ, quảng cáo….chiếm tỷ trọng nhỏ và không trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng nhưng góp phần phát triển và quảng bá các hoạt động ngân hàng. Hoạt động trung gian tài chính hay hoạt động tài trợ ngoại bảng của ngân hàng thương mại Đây là những hoạt động rất cơ bản và chính là những hoạt động đầu tiên của một ngân hàng thương mại sơ khai. Thực hiện trao đổi ngoại tệ: Lịch sử cho thấy một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ, đó là việc một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này để lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi đó rất quan trọng đối với khách đi du lịch hay những khách buôn từ địa phương khác đến. Bảo quản vật có giá: Từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu trữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận về các tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền Cung cấp các tài khoản giao dịch. Một dịch vụ mới, quan trọng trong thời kỳ cách mạng công nghiệp ở Châu Âu, Châu Mỹ là tài khoản tiền gửi giao dịch, một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc ra đời loại tài khoản tiền gửi này đã cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng và an toàn hơn. Sau này với sự phát triển của tín dụng thương mại, các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đã không ngừng được phát triển, phương thức tổ chức thanh toán cho khách hàng và giữa các ngân hàng với nhau cũng đa dạng và thuận lợi hơn, nhờ đó làm tăng tốc độ chu chuyển tiền tệ của nền kinh tế, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn. Ngoài ra các ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ như bảo lãnh, uỷ thác, tài trợ thuê mua….ngày càng đáp ứng được tất cả các yêu cầu của khách hàng trong nền kinh tế. 1.1.2.2 Hoạt động của ngân hàng thương mại đa năng hiện đại Cùng với sự phát triển và yêu cầu của nền kinh tế, các ngân hàng thương mại truyền thống đã không ngừng đa dạng hoá và nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng, đồng thời trở thành những ngân hàng đa năng hiện đại. So với các hoạt động truyền thống, hoạt động của NHTM đa năng có những khác biệt sau: Hoạt động nguồn vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn được huy động bằng nhiều hình thức hơn, đồng thời việc sử dụng vốn an toàn và hiệu quả hơn. Nguồn vốn của NHTM đa năng vẫn bao gồm các khoản mục cơ bản như: vốn chủ sở hữu, vốn huy động và vốn vay nhưng cơ cấu vốn và phương thức huy động vốn đã có nhiều thay đổi. Các công cụ để huy động vốn đa dạng, phong phú hơn và đã chú trọng rất nhiều đến lợi ích khách hàng. Đặc biệt, các NHTM đã mở rộng và tăng cường huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu với các kỳ hạn khác nhau. Chức năng cơ bản của hệ thống ngân hàng ngày nay là tạo ra và cung cấp các dịch vụ tài chính mà thị trường có nhu cầu. Trước đây, một trong những dịch vụ quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn nhất là cho vay. Ngày nay các ngân hàng đã thực hiện được những khoản cho vay tài trợ đối với hoạt động đầu tư của các hãng kinh doanh hay tài trợ cho chi tiêu của các thành viên trong xã hội. NHTM đã mở rộng đối tượng cho vay từ chỗ chỉ ưu tiên cho các doanh nghiệp vay vốn để phục vụ sản xuất sang cho vay tiêu dùng. Những khoản vay này tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho hàng ngàn người. Mặc dù không phải tất cả những người này đều vay vốn ngân hàng nhưng chắc chắn họ là những người được hưởng lợi gián tiếp từ hoạt động cho vay. Các ngân hàng thương mại cũng có thể cho vay lẫn nhau. Tuy nhiên ngân hàng không thể sử dụng toàn bộ số vốn huy động để cho vay. Một mặt, hầu hết các khoản cho vay có tính thanh khoản thấp, ngân hàng không thể bán chúng trên thị trường một cách dễ dàng để đáp ứng nhu cầu tiền mặt. Một vấn đề khác nữa là những khoản cho vay thuộc nhóm tài sản của ngân hàng có mức rủi ro cao nhất như rủi ro do vỡ nợ cao nhất. Vì tất cả những lý do trên, các ngân hàng đã phân chia danh mục tài sản của mình vào một số loại hình tài sản sinh lời khác: đầu tư chứng khoán, kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh bất động sản . Ngân hàng chủ yếu đầu tư vào các loại chứng khoán sau: tín phiếu và trái phiếu chính phủ, tín phiếu và trái phiếu công ty, các loại chứng khoán nợ khác và một số loại cổ phiếu được pháp luật cho phép. Về hoạt động trung gian, trước hết là tư vấn tài chính. Các NHTM thường được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư vấn về các cơ hội thị trường trong và ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ. Ngoài ra, các ngân hàng còn quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Ngoài việc quản lý tiền mặt cho các tổ chức, còn một xu hướng khác là việc cung cấp các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan rộng là do các công ty môi giới chứng khoán đang cung cấp cho khách hàng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan. Các hoạt động khác như cho khách hàng kinh doanh thuê mua thiết bị, bán các dịch vụ bảo hiểm tín dụng cho khách hàng thông qua các liên doanh hoặc thoả thuận đại lý kinh doanh độc quyền, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán ở đó cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác, cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư (bảo lãnh phát hành chứng khoán) và ngân hàng bán buôn cho các tập đoàn lớn…. đã đưa ngân hàng thực sự trở thành một “bách hoá tài chính”, cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Nhìn chung, danh mục dịch vụ mà ngân hàng đa năng cung cấp đem lại sự thuận lợi rất lớn cho khách hàng và làm tăng thu nhập cho ngân hàng, cải thiện cơ cấu thu nhập của ngân hàng, tránh tập trung thu nhập chủ yếu từ hoạt động cho vay truyền thống, giảm rủi ro cho ngân hàng. Về mặt cơ cấu tổ chức của một NHTM đa năng ngày nay cũng có khá nhiều thay đổi. Các NHTM được tổ chức dưới dạng các công ty đa quốc gia hay các tập đoàn tài chính, có trụ sở chính tại một nước nhưng có công ty thành viên tại nhiều nước. 1.1.3. Hoạt động của NHTM trên TTCK 1.1.3.1 Hoạt động phát hành chứng khoán Để phục vụ cho nhu cầu tăng vốn dài hạn, ngoài hình thức huy động các loại tiền gửi, vay NHTM khác trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng… ngân hàng thương mại có thể huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu (đối với các ngân hàng thương mại cổ phần là tăng vốn điều lệ) và trái phiếu để vay tiền từ nền kinh tế. Việc các NHTM phát hành cổ phiếu, trái phiếu có ý nghĩa quan trọng: Một mặt nó góp phần tăng cung hàng hoá cho thị trường chứng khoán, là động lực giúp cho thị trường phát triển. Mặt khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM để phục vụ mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế. 1.1.3.2 Hoạt động tự doanh chứng khoán Với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn, các NHTM ngày nay không chỉ thực hiện vai trò là một trung gian tài chính - sử dụng nguồn vốn để cho vay hay biến các khoản tiết kiệm trong dân cư thành các khoản đầu tư của ngân hàng nhằm mục đích sinh lợi- mà còn tham gia trên TTCK với vai trò là nhà đầu tư trực tiếp. Hầu hết các NHTM đầu tư trên thị trường trái phiếu, đặc biệt là đối với trái phiếu Chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư trung và dài hạn. Hoạt động đầu tư nhằm mục đích tăng thu nhập cho chính bản thân ngân hàng. Trên thực tế, một số lượng lớn trái phiếu chính phủ và công trái là do các NHTM mua. Thêm nữa, các ngân hàng còn thực hiện kinh doanh chứng khoán theo sự ủy thác của khách hàng. Song song với các hoạt động đầu tư là đầu cơ chứng khoán trên thị trường nhằm hưởng chênh lệch giá: tiến hành mua chứng khoán để bán chứng khoán tại các thời điểm khác nhau khi có sự biến động của thị giá chứng khoán. Các hoạt động kinh doanh chứng khoán trực tiếp nói trên ngày càng được các ngân hàng chú trọng hơn vì chúng mang lại nhiều khoản thu nhập lớn cho ngân hàng. Khi đưa ra quyết định đầu tư vào các loại chứng khoán tại những thời điểm thích hợp, ngân hàng là người có lợi thế hơn bất kỳ một tổ chức, cá nhân nào khác vì có đầy đủ các cơ sở thông tin về doanh nghiệp phát hành chứng khoán, khả năng chuyên môn về phân tích thông tin, thẩm định năng lực tài chính tốt. 1.1.3.3 Hoạt động cung cấp các dịch vụ. a. Bảo lãnh phát hành chứng khoán Tại một số thị trường tài chính lớn trên thế giới, các trung gian tài chính, trong đó có các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường trái phiếu với tư cách là đại lý sơ cấp hoặc bảo lãnh phát hành. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng như các tổ chức Chính phủ khi muốn phát hành chứng khoán ra thị trường rất cần sự tư vấn của ngân hàng. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có ưu thế lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành. Dưới sự bảo lãnh bằng uy tín của các Ngân hàng thương mại lớn, chứng khoán sẽ được phát hành và đến với công chúng một cách dễ dàng hơn, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho các loại chứng khoán sớm được giao dịch tại thị trường cấp hai. b. Môi giới, tư vấn đầu tư chứng khoán Với chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp, thực hiện kiểm soát và giám sát bằng đồng tiền đối với các hoạt động kinh tế quốc dân, các ngân hàng thương mại luôn có đầy đủ các thông thin và khả năng phân tích mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, các nguồn tài trợ và cả xu hướng phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Vì vậy mà sự tư vấn của ngân hàng luôn có cơ sở thực tiễn, và thông tin thường chính xác, đáng tin cậy cho khách hàng. Đến với các ngân hàng thương mại, các cá nhân hay doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư vào chứng khoán sẽ luôn có được những cơ hội tốt và những lựa chọn đầu tư đúng đắn, hiệu quả nhất. c. Một số hoạt động khác * Cho vay cầm cố chứng khoán Xuất phát từ hình thức cho vay có tài sản đảm bảo, NHTM cho khách hàng của mình vay để mua chứng khoán và sử dụng ngay các chứng khoán mua được làm tài sản cầm cố cho khoản vay. Để thực hiện các khoản vay cầm cố, khách hàng phải sử dụng tài khoản ký quỹ. Theo đó, khách hàng sẽ ký quỹ một số tiền nhất định để mua chứng khoán, phần còn lại khách hàng vay của NHTM. Đến kỳ hạn thoả thuận, khách hàng phải hoàn trả vốn vay cùng lãi cho NHTM. Trường hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền bán chứng khoán cầm cố để thu hồi khoản vay. Trong hoạt động cho vay cầm cố, rủi ro xảy ra đối với NHTM là chứng khoán cầm cố có thể bị giảm giá tới mức giá trị của chúng thấp hơn giá trị khoản vay cầm cố. Vì thế khi cho vay, NHTM phải có những nguyên tắc riêng để đảm bảo thu hồi vốn và tránh tập trung cho vay quá mức vào một khách hàng hay một loại chứng khoán nhất định. Hoạt động này thường đi kèm với hoạt động môi giới và hỗ trợ hoạt động môi giới của NHTM. * Quản lý thu nhập từ chứng khoán cho khách hàng Xuất phát từ hoạt động lưu ký chứng khoán, NHTM tổ chức theo dõi tình hình thu lãi chứng khoán khi đến hạn rồi gửi thông báo cho khách hàng. Tuy nhiên trên thực tế, các NHTM thường không trực tiếp quản lý thu nhập chứng khoán mà việc trả lãi chứng khoán do các tổ chức phát hành tự động chuyển thành chứng khoán tại trung tâm lưu ký chứng khoán thuộc sở giao dịch chứng khoán. Ngoài việc quản lý thu nhập từ chứng khoán cho khách hàng, các NHTM còn quản lý số tiền đầu tư chứng khoán cho các nhà đầu tư chứng khoán. * Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của những người đầu tư, được uỷ thác cho các công ty quản lý quỹ đầu tư để quản lý và đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích phục vụ lợi ích cho những người đầu tư vào quỹ. Để hình thành một quỹ đầu tư chứng khoán, phải có một công ty quản lý quỹ đầu tư đứng ra thành lập quỹ huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng chỉ quỹ đâu tư. Khi quỹ đã được thành lập, công ty quản lý quỹ có thể sử dụng số tiền thu được từ việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư vào các loại chứng khoán trên thị trường theo điều lệ của quỹ đầu tư chứng khoán. Trong hoạt động quản lý đầu tư, công ty quản lý quỹ phải tách bạch các tài sản của công ty với tài sản của quỹ. Để thực hiện tốt việc này, phải có một ngân hàng giám sát đứng ra quản lý tiền và lưu ký chứng khoán của quỹ. Công ty quản lý quỹ có trách nhiệm thực hiện kinh doanh chứng khoán do điều lệ quỹ và Nghị quyết của Đại hội những người đầu tư. Khi thực hiện quản lý quỹ đầu tư, NHTM sẽ được hưởng một khoản phí quản lý do điều lệ quỹ quy định. * Thực hiện uỷ thác đầu tư cho khách hàng Xuất phát từ nghiệp vụ uỷ thác truyền thống, các NHTM hiện đại ngày nay đã quan tâm phát triển dịch vụ uỷ thác đầu tư cho khách hàng, đáp ứng nhu cầu đầu tư của khách hàng khi họ không có khả năng, điều kiện để tự thực hiện. Qua đó, NHTM thay mặt cho khách hàng để quyết định đầu tư vào các loại chứng khoán có mặt trên thị trường sau khi đã được sự đồng ý của khách hàng. Tuỳ theo từng điều kiện nhất định, NHTM có thể toàn quyền xử lý các tình huống và tự ra quyết định đầu tư hợp lý. 1.1.4. Vai trò của Ngân hàng thương mại trên Thị trường chứng khoán Qua phân tích hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán ở phần trên, có thể khái quát rằng ngân hàng thương mại có ba nhóm hoạt động: vừa là người phát hành, tự doanh chứng khoán, vừa là người cung cấp các dịch vụ hỗ trợ. Là một cấu thành của thị trường tài chính, sự phát triển của TTCK sẽ kém bền vững nếu thiếu sự gắn kết với hệ thống ngân hàng. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy rằng, “nếu thị trường chứng khoán là một cạnh cắt của thị trường tài chính thì các ngân hàng vừa là nền móng, vừa là xi măng”. Như vậy có thể thấy hệ thống ngân hàng và TTCK có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, kết hợp tác động với nhau cùng phát triển. Vai trò của hệ thống ngân hàng trong sự phát triển TTCK được thể hiện trên cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. 1.1.4.1. Trên thị trường sơ cấp Là một trong những chủ thể cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán, hoạt động của ngân hàng thương mại đã tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán. Các ngân hàng thương mại có thể phát hành và bán cổ phiếu của mình, phát hành để tạo nguồn vốn khi mới thành lập hoặc tăng vốn bổ sung, phát hành trái phiếu để huy động vốn từ nền kinh tế. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại cũng gián tiếp tham gia vào quá trình tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán thông qua các hoạt động trên thị trường sơ cấp bằng việc cung cấp các dịch vụ về tư vấn cho các doanh nghiệp phát hành chứng khoán, làm đại lý hoặc bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ, chứng khoán doanh nghiệp. Như vậy ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng đối với việc tạo ra lượng hàng hoá đa dạng, phong phú cho thị trường chứng khoán. 1.1.4.2. Trên thị trường thứ cấp NHTM có vai trò quan trọng trên thị trường thứ cấp như sau: a. Đối với các chủ thể khác nhau tham gia trên thị trường Hoạt động trên thị trường thứ cấp tuân theo ba nguyên tắc cơ bản là: Nguyên tắc trung gian, nguyên tắc đấu giá và nguyên tắc công khai. Trong đó, nguyên tắc trung gian đòi hỏi “những người muốn mua hay bán chứng khoán không tiến hành giao dịch trực tiếp với nhau mà phải thông qua các nhà trung gian môi giới”. Vì vậy, các NHTM, đặc biệt là các CTCK của NHTM là cầu nối giữa khách hàng hay các nhà đầu tư với các nhà phát hành trên TTCK. Thông qua các trung gian tài chính như NHTM, CTCK, hoạt động của TTCK sẽ đảm bảo đúng mục đích: ổn định, lành mạnh, hợp pháp, các chứng khoán giao dịch được đảm bảo là chứng khoán thực, bảo vệ lợi ích cho nhà đầu tư. Ngoài ra, với nghiệp vụ môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư cho khách hàng, NHTM có vai trò giúp khách hàng lựa chọn chứng khoán để đầu tư một cách hiệu quả nhât. Ngân hàng do có những quan hệ khách hàng lâu dài nên hệ thống thông tin của ngân hàng cũng vô cùng quan trọng, đây chính là cơ sở để tham chiếu tính chính xác, trung thực về thông tin liên quan đến các công ty niêm yết, đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch của TTCK. Đồng thời, việc ngân hàng thương mại tham gia sẽ tiết kiệm chi phí trong việc thu thập và xử lý thông tin cho nhà đầu tư. b.Đối với việc xác định giá cả trên thị trường. Khi các ngân hàng tham gia vào mua bán chứng khoán, hoặc ngân hàng làm cổ đông chiến lược cho một doanh nghiệp nào đó sắp phát hành chứng khoán, thì sẽ có tác động đến cung và cầu chứng khoán trên thị trường, do đó làm thay đổi thị giá chứng khoán theo chiều hướng nhất định. Ngoài ra, việc các ngân hàng được phép chủ động điều chỉnh lãi suất huy động và cho vay cũng tác động trực tiếp đến thị giá chứng khoán. Thị trường tiền tệ và TTCK như hai bình thông nhau trong sự luân chuyển vốn, lãi suất ngân hàng tăng hoặc giảm sẽ ảnh hưởng đến giá chứng khoán: vốn được chuyển từ TTCK sang thị trường tiền tệ hoặc ngược lại.Sau đó việc ổn định giá cả trên thị trường chứng khoán cũng có sự tham gia không nhỏ của các NHTM. Các NHTM và các CTCK phải giành một tỷ lệ nhất định mua vào khi giá chứng khoán xuống quá thấp và bán ra khi giá thị trường lên quá cao. 1.2. Hoạt động đầu tư của NHTM trên TTCK 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM * Khái niệm Hoạt động đầu tư chứng khoán là việc bỏ vốn thường xuyên, lâu dài hoặc là trong ngắn hạn vào các chứng khoán có mức độ rủi ro khác nhau để mong kiếm được thu nhập từ quyền sở hữu các chứng khoán đó. * Đặc điểm hoạt động đầu tư chứng khoán của các Ngân hàng thương mại Khác với hoạt động đầu tư của cá nhân nhỏ lẻ trên thị trường chứng khoán, hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại có những đặc điểm như: tính chuyên môn hoá cao, quy mô, phạm vi đầu tư lớn, danh mục đầu tư linh hoạt và đa dạng, yêu cầu an toàn vốn cao, hoạt động đầu tư bị chi phối bởi luật, quy định của các cơ quan quản lý. Tính chuyên môn hoá cao Với tư cách là một trung gian tài chính, chuyên hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, hoạt động kinh doanh chứng khoán của Ngân hàng thương mại được tổ chức và thực hiện một cách chuyên môn hoá, chuyên nghiệp hoá. Đó là trình độ nhân lực của ngân hàng, cơ sở vật chất, sự quản lý hoạt động đầu tư. Đặc biệt là hệ thống thông tin mà ngân hàng nắm giữ, các phân tích về khả năng tài chính của các doanh nghiệp niêm yết, đây là điều khó khăn và tốn nhiều chi phí nếu nhà đầu tư cá nhân muốn có được. Bởi vậy, hoạt động đầu tư chứng khoán của các NHTM là hoạt động có chất lượng đầu tư cao, độ rủi ro thấp… Quy mô, phạm vi đầu tư lớn, danh mục đầu tư linh hoạt và đa dạng Hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM ngày càng lớn do vai trò ngày càng quan trọng của nó trong hoạt động của NHTM, do sự tăng trưởng, phát triển của NHTM trên quy mô tài sản, nguồn vốn, do áp lực cạnh tranh ngày càng khốc liệt…Để đảm bảo được yêu cầu về việc đáp ứng khả năng thanh khoản khi cần thiết, khả năng sinh lợi…NHTM thực hiện đầu tư vào một danh mục chứng khoán linh hoạt và đa dạng. Sự linh hoạt và đa dạng thể hiện ở các loại chứng khoán khác nhau, thời gian đáo hạn khác nhau, mức độ rủi ro, sinh lời khác nhau, khả năng chuyển đổi thành tiền khác nhau… Hoạt động của các NHTM thường bao trùm lên hầu hết các ngành nghề, khu vực của nền kinh tế quốc dân, do đó các NHTM nắm được nhiều thông tin, cơ hội đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Tận dụng những cơ hội này trong hoạt động đầu tư chứng khoán, các NHTM có được phạm vi đầu tư lớn và đa dạng. Hoạt động đầu tư bị chi phối bởi luật, quy định của các cơ quan quản lý. Cũng giống như các hoạt động sử dụng vốn khác của NHTM, hoạt động đầu tư chứng khoán bị kiểm soát chặt chẽ bởi chính bản thân ngân hàng và của Nhà nước. Hoạt động đầu tư của NHTM thường được quy định chi tiết trong Luật các TCTD, Luật chứng khoán, các quy định của NHNN, và điều lệ của NHTM. Mục đích của việc kiểm soát đối với bản thân các ngân hàng là nhằm đáp ứng yêu cầu về tính an toàn trong hoạt động và đảm bảo lợi ích của người gửi tiền. * Phân loại hoạt động đầu tư a. Theo mục đích đầu tư Đầu tư ngân quỹ : Là việc NHTM đầu tư những khoản rất ngắn hạn vào các chứng khoán có tính thanh khoản cao với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả và nâng cao khả năng sinh lời của Ngân hàng. Các chứng khoán thanh khoản cao bao gồm tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng và một số loại thương phiếu. Đầu tư hưởng lợi : Bất kì một nhà đầu tư nào dù là cá nhân hay tổ chức khi đầu tư cũng nhằm mục đích này. Lợi nhuận mang lại bao gồm trái tức của trái phiếu, cổ tức của cổ phiếu và phần chênh lệch giá mua – bán (đầu tư chênh lệch giá) Đầu tư thực hiện hoạt động tạo lập thị trường: Hoạt động tạo lập thị trường của ngân hàng thương mại thường thực hiện qua ba hoạt động chính, đó là: môi giới, tự doanh và thực hiện lệnh để đáp ứng các yêu cầu từ phía nhà đầu tư. Hoạt động môi giới của nhà tạo lập thị trường không phải là hoạt động mua bán chứng khoán, chỉ đơn giản là sắp xếp các giao dịch giữa người mua và người bán. Trong hoạt động tự doanh, nhà tạo lập thị trường sẽ mua và bán chứng khoán bằng chính tài khoản của mình, nhà tạo lập thị trường không chỉ sắp xếp các giao dịch cho khách hàng mà thực chất là bán chứng khoán từ tồn kho của mình cho khách hàng. b. Theo phương thức đầu tư Đầu tư trực tiếp: là việc các NHTM trực tiếp bỏ vốn vào các tài sản thực và tài sản tài chính để hưởng lãi và thực hiện một số mục đích. Đầu tư gián tiếp: là việc các NHTM thực hiện hoạt động đầu tư thông qua một số tổ chức trung gian như Ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư... để hưởng lợi tức. Uỷ thác đầu tư: Đây là cách thức các NHTM uỷ thác cho công ty chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện hoạt động đầu tư chứng khoán hộ mình trên cơ sở các văn bản, hợp đồng ký kết giữa NHTM và đơn vị nhận uỷ thác. c. Theo sản phẩm đầu tư Đầu tư trái phiếu: là việc các NHTM thực hiện nắm giữ các trái phiếu. Do các trái phiếu có độ rủi ro thấp hơn cổ phiếu, lại là giấy xác nhận đòi nợ đối với trái chủ nên được thanh toán trước khi công ty phá sản. Ngân hàng thương mại thường đầu tư vào các loại trái phiếu: trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc… Đầu tư cổ phiếu : Đầu tư vào cổ phiếu là việc các NHTM thực hiện mua một loại cổ phiếu hay một danh mục cổ phiếu với nhiều mục đích khác nhau như hưởng lợi, nắm quyền kiểm soát… 1.2.._.2. Danh mục đầu tư chứng khoán. Danh mục đầu tư theo nghĩa chung nhất là một tập hợp tài sản thuộc sở hữu của một nhà đầu tư cá nhân hay tổ chức gồm nhiều hơn một cổ phiếu, trái phiếu, hàng hoá, bất động sản tài sản tương đương tiền hoặc tài sản khác (Từ điển thuật ngữ tài chính và đầu tư Barron’s). Như vậy, có thể hiểu rằng danh mục đầu tư chứng khoán là các khoản đầu tư của một cá nhân hoặc tổ chức vào nhiều hơn một loại chứng khoán (như cổ phiếu, trái phiếu, chứng khoán phái sinh...). Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là một quá trình bao gồm việc phân tích và ra các quyết định về việc xây dựng một danh mục các loại chứng khoán đáp ứng tốt nhất nhu cầu của chủ đầu tư và sau đó thực hiện theo dõi, điều chỉnh các danh mục này nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán về bản chất được thực hiện dựa trên cơ sở định lượng mối quan hệ giữa rủi ro và lợi tức thu được và nguyên tắc đa dạng hoá. * Đa dạng hoá danh mục đầu tư: Đây là kỹ thuật phân tán rủi ro thông qua việc đầu tư vào không chỉ một mà nhiều loại chứng khoán khác nhau. Nhờ vậy rủi ro của khoản đầu tư sẽ được giảm bớt và lợi nhuận thu được có khả năng ổn định hơn. Đa dạng hoá danh mục đầu tư bằng cách đa dạng hoá về loại chứng khoán, đầu tư vào nhiều loại công cụ - chứng khoán có mức độ rủi ro khác nhau như cổ phiếu, trái phiếu, tham gia các quỹ đầu tư…; trong từng loại chứng khoán đầu tư vào nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau qua đó giảm thiểu tác động từ những rủi ro cụ thể của các ngành nhất định. Đa dạng hoá danh mục đầu tư là biện pháp quan trọng nhất giúp cho việc đạt được các mục tiêu tài chính dài hạn trong khi giảm thiểu được rủi ro. Tuy nhiên đa dạng hoá không đảm bảo chắc chắn mọi rủi ro sẽ được loại bỏ hết và hoàn toàn không có khả năng thua lỗ, mà đa dạng hoá chỉ có thể loại bỏ một phần hoặc toàn bộ rủi ro phi hệ thống, còn không thể loại bỏ được rủi ro hệ thống. * Vai trò của danh mục đầu tư chứng khoán Việc nắm giữ các chứng khoán có vai trò quan trọng đối với danh mục tài sản của ngân hàng như đem lại thu nhập, nâng cao tính thanh khoản, tăng cường mức độ đa dạng hoá, hạn chế rủi ro và ít nhất một phần thu nhập của ngân hàng không phải chịu thuế. Khoản mục đầu tư cũng có vai trò ổn định thu nhập của ngân hàng, tạo ra thu nhập bổ sung khi các nguồn thu khác (đặc biệt là nguồn thu từ lãi cho vay) suy giảm. 1.2.3. Quy trình quản lý danh mục đầu tư chứng khoán của Ngân hàng thương mại Sơ đồ 1.1: Các bước quản lý danh mục đầu tư chứng khoán Thiết lập mục tiêu đầu tư Thiết lập chiến lược đầu tư Xây dựng danh mục Giám sát, đo lường và đánh giá kết quả hoạt động Thiết lập mục tiêu đầu tư: Đây là bước đầu tiên và cũng là bước có ý nghĩa quyết định đến các khâu tiếp theo. Thông thường, mục tiêu đầu tư bao gồm: Mức sinh lời kỳ vọng trong một thời kỳ nhất định; Mức rủi ro tối đa có thể chấp nhận được; Thời gian đầu tư làm cơ sở cho việc đánh giá kết quả của hoạt động đầu tư. Như vậy, 2 khía cạnh quan trọng nhất của mục tiêu đầu tư là lợi nhuận và rủi ro. Thiết lập chiến lược đầu tư: Việc thiết lập chiến lược đầu tư nhằm đáp ứng cao nhất những mục tiêu đầu tư đã đặt ra. Để làm được điều này nhà quản lý danh mục đầu tư phải tìm hiểu kỹ các điều kiện kinh tế, tài chính hiện tại và dự báo được những xu thế sẽ diễn ra trong tương lai, từ đó kết hợp những dự báo về thị trường với nhu cầu đầu tư để lập ra chiến lược thích hợp. Thông thường các nhà quản lý danh mục đầu tư sẽ lựa chọn giữa chiến lược quản lý danh mục chủ động và chiến lược quản lý danh mục thụ động hoặc là kết hợp giữa các chiến lược này. Xây dựng danh mục: Căn cứ vào lược đầu tư đã được thiết lập, người quản lý danh mục sẽ cụ thể hoá chiến lược đó, đưa ra quyết định về việc phân bổ cho các chứng khoán khác nhau, theo đó sẽ đưa ra quyết định cụ thể là sẽ đầu tư vào những loại chứng khoán nào, tỷ trọng của mỗi loại trong danh mục đầu tư. Giám sát, đo lường và đánh giá kết quả hoạt động đầu tư: Nhà quản lý danh mục đầu tư cần liên tục theo dõi những biến động của thị trường để có những điều chỉnh kịp thời và thích hợp về chiến lược đầu tư, mà cụ thể hơn là bản thân danh mục đầu tư. Việc đánh giá kết quả của danh mục đầu tư thường được đánh giá trên 2 khía cạnh: Người quản lý và bản thân danh mục. Người quản lý danh mục tốt đáp ứng được hai yêu cầu: có khả năng kiếm được mức lợi nhuận cao hơn trung bình ứng với một loại rủi ro nhất định; có khả năng đa dạng hoá danh mục hoàn toàn để loại bỏ tất cả các rủi ro không hệ thống so với chuẩn của danh mục. Kết quả của danh mục đầu tư hay mức sinh lời tổng thể của danh mục thường được đem so sánh với kết quả của một danh mục đầu tư chuẩn. 1.3. Điều kiện để NHTM tăng cường đầu tư trên TTCK. Để tham gia hoạt động cũng như đầu tư trên thị trường chứng khoán, các NHTM cũng phải thỏa mãn đầy đủ các điều kiện về cơ sở pháp lý, quy mô hoạt động, uy tín, trình độ công nghệ ngân hàng.... và tuân thủ nghiêm túc các quy định của thị trường. 1.3.1. Cơ sở pháp lý: Có ba quan điểm về sự tham gia của các ngân hàng trên trên thị trường chứng khoán bao gồm: các ngân hàng có thể tự do tham gia kinh doanh trên TTCK; các ngân hàng muốn kinh doanh trên thị trường chứng khoán thì phải thành lập công ty chứng khoán riêng; các ngân hàng thương mại không được hoặc chỉ tham gia một cách hạn chế vào hoạt động của thị trường chứng khoán, được thể hiện qua ba mô hình tổ chức ngân hàng thương mại như sau: Mô hình thứ nhất là mô hình ngân hàng đa năng toàn phần, hay còn gọi là mô hình ngân hàng kiểu Đức, được áp dụng tại Đức và một số nước Bắc Âu, Hà Lan, Thuỵ Sỹ, Áo. Mô hình này không tách biệt được hoạt động của Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh chứng khoán. Các ngân hàng thương mại ngoài việc kinh doanh tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng còn được phép thực hiện cung cấp đầy đủ các dịch vụ kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm với tư cách là một pháp nhân duy nhất. Điều này xuất phát từ mong muốn đa dạng hoá các dịch vụ tài chính nhằm đáp ứng một cách tốt nhất các nhu cầu của khách hàng. Các NHTM là thành viên chính thức tham gia giao dịch trên TTCK. Mô hình thứ hai là mô hình ngân hàng đa năng một phần-hạn chế kiểu Anh, được áp dụng tại Anh và một số nước như Canada, Úc, v.v. Các ngân hàng này không tham gia trên thị trường chứng khoán một cách trực tiếp mà thông qua các công ty chứng khoán do nó thành lập. Các công ty chứng khoán này sẽ thay mặt ngân hàng để thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán. Mô hình thứ ba là mô hình ngân hàng chuyên doanh. Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại không được phép tham gia vào việc môi giới, kinh doanh chứng khoán, chỉ được phép kinh doanh trong phạm vi các hoạt động ngân hàng thương mại, còn việc kinh doanh chứng khoán phải do các công ty chứng khoán độc lập thực hiện. Đây là mô hình được áp dụng tại Mỹ và Nhật. Đạo luật Glass Steagall (1933) của Mỹ quy định chỉ có ngân hàng đầu tư – ngân hàng thương mại đặc biệt kinh doanh đối với vốn trung và dài hạn, và sau năm 1987 có thêm các ngân hàng thương mại rất lớn mới được phép tham gia kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Còn ở Nhật ngay cả ngân hàng đầu tư cũng không được phép kinh doanh chứng khoán. Ở đây, các ngân hàng thương mại không được phép tham gia quá sâu hay cạnh tranh quá mức trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, dù có sự tách biệt về pháp lý giữa công nghiệp ngân hàng và công nghiệp chứng khoán theo đạo luật Glass – Steagall ở Mỹ và đạo luật về chứng khoán ở Nhật, các Ngân hàng thương mại ngày càng tham gia nhiều hơn vào hoạt động chứng khoán và có xu hướng tiến gần tới một kiểu ngân hàng đa năng phong cách Anh. Như vậy, tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước mà các ngân hàng thương mại có được tham gia vào thị trường chứng khoán hay không và nếu được tham gia thì sẽ phải tổ chức hoạt động như thế nào, ở mức độ nào. Với các nước phát triển, trên cơ sở các điều kiện thuận lợi về hạ tầng kỹ thuật, môi trường pháp lý, kinh nghiệm tổ chức quản lý, trình độ nhận thức cũng như thu nhập của công chúng ở mức cao, có thể áp dụng mô hình ngân hàng đa năng toàn phần . Song đối với các nước đang phát triển, mô hình đa năng hạn chế kiểu Anh sẽ đảm bảo sự an toàn cần thiết cho các hoạt động của các ngân hàng và của thị trường chứng khoán. Ngoài ra, để hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán có thể phát triển, đòi hỏi phải có một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động đầu tư chứng khoán. Khung pháp lý phải đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, tạo được các cơ sở pháp lý cơ bản cho hoạt động đầu tư chứng khoán. Đồng thời các quy định phải liên tục được hoàn thiện nhằm đáp ứng thực tiễn của hoạt động đầu tư chứng khoán. Hiện nay các NHTM sẽ không thể thực hiện được hoạt động tạo lập thị trường do các quy định của pháp luật hiện hành không cho phép các NHTM thực hiện chức năng môi giới chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán. Khung pháp lý quy định cụ thể quyền hạn của nhà đầu tư, đảm bảo công bằng và lợi ích cho nhà đầu tư, khuyến khích nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán 1.3.2. Tiềm lực tài chính của ngân hàng Trước hết ngân hàng phải có nguồn vốn đủ lớn và cơ cấu vốn thích hợp. - Vốn điều lệ: Quy mô của vốn điều lệ, quỹ dự trữ vốn điều lệ ảnh hưởng rất lớn đến quy mô của việc đầu tư cổ phiếu nói riêng và đầu tư chứng khoán của NHTM nói chung. Bên cạnh đó, quy mô vốn điều lệ ảnh hưởng tới việc tăng cường điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, hiện đại hoá ngân hàng, do đó ảnh hưởng tới khả năng thực hiện và quản lý hoạt động đầu tư. Quy mô vốn điều lệ là nhân tố quyết định các NHTM có thể tăng quy mô tài sản có, tài sản nợ, tăng cao khả năng huy động vốn cũng như tài trợ cho nền kinh tế hay không... - Vốn huy động: Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư chứng khoán, mà cụ thể là hoạt động đầu tư vào trái phiếu của NHTM không chỉ trên phương diện quy mô của nguồn vốn huy động mà cả cơ cấu của nguồn vốn huy động cũng ảnh hưởng rất lớn tới cơ cấu chứng khoán được đầu tư. Nguồn vốn của Ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân trong xã hội và Ngân hàng luôn phải dự trữ một lượng tiền nhất định để nhằm đáp ứng nhu cầu rút tiền của các khách hàng. Dự trữ của Ngân hàng bao gồm một phần là dự trữ dưới hình thức tiền mặt và một phần dưới hình thức các giấy tờ có giá có khả năng chuyển đổi nhanh thành tiền hoặc đầu tư ngắn ngày trên thị trường liên ngân hàng. Trên cơ sở quy mô nguồn vốn có thể đầu tư vào chứng khoán và cơ cấu thời hạn của nguồn vốn này, NHTM sẽ xây dựng một danh mục đầu tư chứng khoán với các kỳ hạn khác nhau. Như vậy, ngân hàng phải có vốn tự có lớn, các phương thức huy động đa dạng, phong phú hấp dẫn đối với khách hàng. Năng lực tài chính đủ lớn sẽ giúp ngân hàng có đủ điều kiện tham gia nhiều hoạt động và sẵn sàng chịu đựng các tình huống xảy ra ngoài ý muốn để đảm bảo uy tín. Uy tín, khả năng tài chính của ngân hàng còn được phản ánh bởi chất lượng hoạt động của ngân hàng thương mại. Nếu chất lượng hoạt động không tốt, tỷ lệ nợ quá hạn cũng như các khoản nợ xấu cao, hiệu suất hoạt động và khả năng thu hồi vốn thấp, sẽ rất dễ dẫn đến giảm uy tín của ngân hàng. Vì vậy các ngân hàng phải đảm bảo các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động mới có thể tham gia trên thị trường chứng khoán. Một trong những nguyên tắc hoạt động của TTCK là nguyên tắc trung gian, theo đó khách hàng không được thực hiện việc mua bán chứng khoán trực tiếp mà phải thông qua một tổ chức trung gian tài chính được phép hoạt động trên TTCK. Thứ nhất, chỉ có những ngân hàng có uy tín, đáp ứng đủ điều kiện mới được tham gia vào thị trường chứng khoán. Thứ hai, xét từ giác độ nhà đầu tư, những người muốn đầu tư nhưng lại thiếu kiến thức về đầu tư chứng khoán, đều muốn tìm cho mình một đại diện có uy tín để có thể thực hiện đầu tư theo ý muốn của mình. Còn đối với người phát hành chứng khoán, một ngân hàng có uy tín lớn là điều kiện hàng đầu để thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh và làm đại lý phát hành. Các loại chứng khoán được các ngân hàng có uy tín bảo lãnh phát hành sẽ dễ dàng được công chúng ưu tiên khi lựa chọn. 1.3.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật Ngân hàng Cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trò rất quan trọng, nó trợ giúp cho các NHTM trong quá trình thẩm định, quyết định, thực hiện hoạt động đầu tư. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến hiện đại giúp các NHTM tổ chức quản lý, giám sát hoạt động đầu tư chứng khoán một cách có hiệu quả, cho phép các NHTM đầu tư vào rất nhiều loại cổ phiếu, trái phiếu với các thời hạn khác nhau, phương thức trả lãi khác nhau, lãi suất khác nhau, từ đó theo dõi và quản lý được hiệu quả của việc đầu tư, thời gian đáo hạn của các trái phiếu, tín phiếu... 1.3.4. Năng lực đội ngũ cán bộ Đây luôn là yếu tố quyết định đến hiệu quả của hoạt động đầu tư, mặc dù đến nay, trong các NHTM thì cơ sở vật chất được trang bị tương đối đầy đủ và hiện đại, song để sử dụng một cách có hiệu quả các trang thiết bị này vẫn phải có một đội ngũ cán bộ có năng lực trong thẩm định, dự đoán xu hướng thị trường và có năng lực xây dựng, quản lý một danh mục đầu tư tốt. Nếu như cán bộ tác nghiệp là người trực tiếp thực hiện các công việc cụ thể liên quan đến hoạt động đầu tư thì cán bộ quản lý là người sắp xếp phân bổ cán bộ tác nghiệp vào những công việc cụ thể, phù hợp; là người bao quát, định hướng toàn bộ hoạt động đầu tư. Cũng như các hoạt động nghiệp vụ khác, hoạt động đầu tư đòi hỏi một đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, không những thế để phát huy sức mạnh và sự sáng tạo của đội ngũ này cũng đòi hỏi một chính sách đào tạo thường xuyên, liên tục kèm theo chính sách đãi ngộ hợp lý. 1.3.5. Sự phát triển và hỗ trợ từ các hoạt động khác của Ngân hàng Mức độ phát triển của các hoạt động khác của Ngân hàng một mặt tạo sự hỗ trợ cho hoạt động đầu tư chứng khoán, một mặt tạo sức ép phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán, tuy nhiên có hoạt động tạo cơ hội cho đầu tư chứng khoán. Hoạt động khai thác thông tin và hoạt động tín dụng của Ngân hàng phát triển sẽ hỗ trợ rất nhiều cho hoạt động đầu tư, đặc biệt trong việc đầu tư vào cổ phiếu của các doanh nghiệp, trong một số trường hợp tạo cơ hội cho hoạt động đầu tư, bởi vì trên cơ sở quan hệ tín dụng sẵn có giữa Ngân hàng và doanh nghiệp, Ngân hàng sẽ được mời mua cổ phiếu khi doanh nghiệp cổ phần hoá, tăng vốn điều lệ với tư cách là cổ đông chiến lược, cổ đông lớn...Trong những thời điểm hoạt động tín dụng tăng trưởng chậm trong khi nguồn vốn huy động tăng trưởng tốt sẽ tạo sức ép cho việc tăng trưởng hoạt động đầu chứng khoán nhằm tận dụng nguồn vốn dư thừa mà tín dụng không thể đầu tư cho các doanh nghiệp. 1.3.6. Sự phát triển của thị trường chứng khoán Sự phát triển của thị trường chứng khoán sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư nói chung và NHTM nói riêng. Trước hết, thị trường chứng khoán phát triển sẽ làm tăng tính thanh khoản của các chứng khoán, bao gồm cả cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ phái sinh, qua đó các NHTM sẽ dễ dàng chuyển đổi các chứng khoán của mình thành tiền nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán khi cần thiết, vì khả năng chuyển đổi thành tiền nhanh nên các NHTM có thể giảm bớt dự trữ dưới hình thức tiền mặt, thay vào đó các NHTM sẽ đầu tư vào các chứng khoán vừa đảm bảo được khả năng sinh lời tốt hơn là để tiền mặt và đồng thời vẫn đảm bảo được khả năng thanh khoản của Ngân hàng. Thứ hai, thị trường chứng khoán phát triển, sẽ làm tăng tính đa dạng của các hàng hoá được trao đổi, mua bán trên thị trường, các NHTM có cơ hội để lựa chọn các loại hàng hoá khác nhau đáp ứng các nhu cầu khác nhau tại mỗi thời điểm về tính lỏng, tính sinh lời... Thứ ba, từ khi có TTCK, đã có sự chuyển dịch đáng kể vốn từ ngân hàng thương mại sang đầu tư chứng khoán theo 2 hướng: (1) các nhà đầu tư cá nhân rút tiền gửi tiết kiệm để đầu tư chứng khoán (2) những người khác (bao gồm cả công ty chứng khoán của ngân hàng lại vay tiền của ngân hàng thương mại để kinh doanh chứng khoán. Qua đây cũng phần nào tác động đến hoạt động của ngân hàng thương mại và cả Ngân hàng Nhà nước với vai trò quản lý và điều hành chính sách tiền tệ. Tóm lại, ngân hàng thương mại muốn tồn tại, phát triển và tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán phải thoả mãn yêu cầu về sự phát triển công nghệ ngân hàng cho phép các ngân hàng kết hợp giữa việc sử dụng vốn tối ưu, vừa đảm bảo an toàn ở mức độ nhất định và vẫn thoả mãn những đòi hỏi về hiệu quả kinh doanh, đòi hỏi của thị trường chứng khoán. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 2.1. Khái quát về Ngân hàng Công thương Việt Nam 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển. NHCT VN được thành lập từ năm 1988, trên cơ sở tách ra từ Vụ Tín dụng công nghiệp và Vụ tín dụng nông nghiệp NHNN VN, theo Quyết định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc đổi mới tổ chức và hoạt động ngân hàng theo mô hình 2 cấp và thành lập các Ngân hàng chuyên doanh: NHNN làm chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng; Ngân hàng chuyên doanh trực tiếp kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Đây là bước ngoặt quan trọng, mang tính đột phá trong sự nghiệp đổi mới nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng VN nói riêng. Trong chặng đường phát triển NHCT VN đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách đi tiên phong trong cơ chế thị trường, phục vụ và góp phần tích cực thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước; không ngừng phấn đấu vươn lên, khẳng định được vị thế là một trong những NHTM hàng đầu ở VN, có bước phát triển và tăng trưởng nhanh, đạt được nhiều thành tựu to lớn trên mọi mặt hoạt động kinh doanh - dịch vụ ngân hàng, phát triển đồng đều cả kinh doanh đối nội và kinh doanh đối ngoại, công nghệ ngân hàng tiên tiến, có uy tín với khách hàng trong và ngoài nước. Hệ thống mạng lưới của NHCT VN gồm Trụ sở chính, 02 văn phòng đại diện, 02 Sở giao dịch lớn (tại Hà Nội và TP HCM), 140 Chi nhánh cấp 1 và cấp 2, 150 Phòng giao dịch, 425 điểm giao dịch và Quỹ tiết kiệm, 400 máy rút tiền tự động (ATM), Trung tâm công nghệ thông tin và Trường Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên cho đến nay, NHCT VN đã hoàn thành việc nâng cấp tất cả các chi nhánh cấp 2 trực thuộc chi nhánh cấp 1 thành chi nhánh cấp 1. NHCT VN cũng là chủ sở hữu của 03 Công ty con : Công ty Cho thuê tài chính NHCT, Công ty Chứng khoán NHCT, Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản NHCT. Ngoài ra, NHCT VN còn là cổ đông sáng lập và là cổ đông lớn trong các liên doanh : Ngân hàng INDOVINA, Công ty Cho thuê tài chính quốc tế, Công ty liên doanh Bảo hiểm Châu Á-NHCT, NHTM CP Sài Gòn Công thương, Công ty Cổ phần chuyển mạch tài chính quốc gia Việt Nam. Sơ đồ 2.1: Hệ thống tổ chức của Ngân hàng Công thương 31/12/2007 (Nguồn: Báo cáo tổng kết NHCT) 2.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Trong những năm qua NHCT VN đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong hoạt động kinh doanh, điều này thể hiện ở sự tăng trưởng của một loạt các chỉ tiêu như quy mô tổng tài sản, dư nợ cho vay nền kinh tế, dư đầu tư chứng khoán, tổng vốn huy động, vốn chủ sở hữu. Chi tiết như sau : Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của NHCT VN Đơn vị: triệu đồng STT Chỉ tiêu 31/12/2004 31/12/2005 31/12/2006 31/12/2007 1 Tổng tài sản 93 270 804 116 373 386 137 089 698 166 112 971 2 Dư nợ cho vay nền kinh tế 64 159 522 75 885 674 79 276 813 101 282 048 3 Dư đầu tư chứng khoán 10 230 410 12 522 039 15 139 069 37 404 891 4 Vốn huy động 81 596 865 100 571 938 103 524 307 149 296 374 5 Vốn chủ sở hữu 4 908 773 5 071 631 5 604 626 10 646 529 6 Lợi nhuận sau thuế 206 869 403 177 573 713 1 149 442 (Nguồn: Báo cáo tổng kết NHCT VN) Tổng tài sản đến cuối năm 2007 đạt 166.113 tỷ đồng, tăng 21,2% so với đầu năm, đạt mức cao nhất từ năm 2003 đến nay. Dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 101.282 tỷ đồng tại cuối năm 2007, tăng 27,76% so với đầu năm. Năm 2007 là năm NHCT VN có tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp. Dư đầu tư chứng khoán đạt 37.404 tỷ đồng vào 31/12/2007, tăng 147% so với đầu năm, chiếm tỷ trọng 22,51% trên tổng tài sản. Vốn huy động đến 31/12/2007 đạt 149.296 tỷ đồng, tăng 44,21% so với đầu năm. Vốn chủ sở hữu đạt 10.646 tỷ đồng vào cuối năm 2007, tăng 89,97% so với đầu năm. Lợi nhuận sau thuế năm 2007 đạt 1.149 tỷ đồng, tăng 100,27% so với năm 2006. 2.2. Thực trạng hoạt động đầu tư chứng khoán của NHCT VN 2.2.1 Cơ sở pháp lý về hoạt động đầu tư của NHTM trên TTCK tại Việt Nam Hiện nay ở Việt Nam, các NHTM thực hiện theo mô hình đa năng một phần, các NHTM không được trực tiếp kinh doanh chứng khoán. Để thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán hay bảo hiểm, cho thuê tài chính... các NHTM phải thành lập các Công ty dưới hình thức là TNHH 1 thành viên, công ty cổ phần, công ty liên doanh. Tuy nhiên hoạt động kinh doanh chứng khoán được đề cập ở đây bao gồm 2 nghiệp vụ, nghiệp vụ môi giới và bảo lãnh phát hành cổ phiếu. Các nghiệp vụ khác vẫn được cung cấp bởi cả NHTM và Công ty chứng khoán. Tùy theo quy mô về vốn và chiến lược phát triển của từng CTCK mà CTCK có thể thực hiện một vài loại hình nghiệp vụ hoặc tất cả các loại hình nghiệp vụ theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại điều 18, Nghị định số 14/2007/NĐ - CP ngày 19/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán, vốn pháp định tối thiểu để thực hiện tất cả các loại hình kinh doanh đối với một CTCK là 300 tỷ đồng. Các CTCK trực thuộc ngân hàng thương mại Nhà nước với ưu thế về vốn rất lớn thường được thành lập với đủ loại hình kinh doanh theo quy định. Một số CTCK cổ phần hoặc CTCK trực thuộc ngân hàng thương mại cổ phần do hạn chế về vốn nên khi thành lập chỉ thực hiện một vài loại hình kinh doanh như: CTCK Đại Việt, CTCK Mê Kông, CTCK Đệ Nhất... Tuỳ thuộc vào mô hình tổ chức của NHTM mà hoạt động đầu tư chứng khoán được tổ chức khác nhau, hoặc là trực tiếp hoặc là gián tiếp. Hoạt động đầu tư trực tiếp được thực hiện thông qua việc thành lập các tổ chức đầu tư chuyên biệt như: Phòng Đầu tư chứng khoán. Đầu tư gián tiếp thực hiện thông qua uỷ thác đầu tư qua các tổ chức đầu tư khác: Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty chứng khoán Hiện nay theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng thì: Điều 69: “Tổ chức tín dụng được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật’’. Điều 80: “Mức góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng trong một doanh nghiệp, tổng mức góp vốn, mua cổ phần trong tất cả các doanh nghiệp không được vượt quá mức tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định đối với từng loại hình tổ chức tín dụng’’. Điều 70: “Tổ chức tín dụng được tham gia thị trường tiền tệ do Ngân hàng nhà nước tổ chức, bao gồm thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc, thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường giấy tờ có giá khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước’’. Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua, bán ngắn hạn các giấy tờ có giá, bao gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác. Tại Quyết định 457/2005-NHNN ngày 19/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định: Mức đầu tư vào một khoản đầu tư thương mại của tổ chức tín dụng tối đa không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp, quỹ đầu tư hoặc 11% giá trị dự án đầu tư. Tổng mức đầu tư trong tất cả các khoản đầu tư thương mại của tổ chức tín dụng không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của tổ chức tín dụng. Trong kết cấu bảng cân đối tài sản của một ngân hàng thương mại, mục đầu tư bao gồm 2 khoản: Trái phiếu và giấy tờ có giá khác. Hùn vốn, mua cổ phần. Như vậy có thể thấy rõ rằng: Việc góp vốn, mua cổ phần là hình thức của hoạt động đầu tư, nhưng được giới hạn trong khuôn khổ vốn tham gia là vốn điều lệ và quỹ dự trữ, khi đã sử dụng nguồn vốn điều lệ và quỹ dự trữ thì phải tuân thủ về mức góp vốn, mua cổ phần theo quy định tại điều 80 của Luật các tổ chức tín dụng. Còn việc tham gia trên thị trường tiền tệ, tuy điều 70 của Luật không quy định rõ nguồn để tham gia thị trường tiền tệ, nhưng được hiểu là lấy nguồn từ quỹ kinh doanh, không phải từ vốn điều lệ và quỹ dự trữ của tổ chức tín dụng. Hiểu và quán triệt những nội dung trên sẽ giúp cho các nhà hoạch định chính sách có những bước đi vững vàng, chuẩn xác, vừa đảm bảo thực hiện đúng các quy định của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà nước, vừa tạo được thế chủ động trong hoạt động đầu tư chứng khoán, đảm bảo an toàn vốn, tài sản và hiệu quả. 2.2.2. Tổ chức hoạt động đầu tư chứng khoán của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Hiện nay, NHCT VN thực hiện đầu tư chứng khoán bằng cách trực tiếp qua Phòng đầu tư-Hội sở chính hoặc gián tiếp thông qua hoạt động uỷ thác đầu tư với Công ty chứng khoán NHCT. 2.2.2.1. Uỷ thác đầu tư với CTCK NHCT Bảng 2.2: Hoạt động uỷ thác đầu tư qua công ty chứng khoán NHCT Đơn vị: tỷ đồng (Nguồn: Báo cáo tổng kết công ty chứng khoán NHCT VN) Công ty Chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt nam (IBS) được thành lập theo Quyết định số 126/QĐ-HĐQT-NHCT1 ngày 01 tháng 9 năm 2000 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Công thương Việt Nam, hoạt động theo mô hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên vốn Nhà nước, kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán và cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính với số vốn điều lệ hiện nay là 300 tỷ đồng, đáp ứng nhu cầu vốn theo quy định để được thực hiện tất cả các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán. Bảng 2.2 cho thấy doanh số uỷ thác còn thấp. Năm 2006 là năm có doanh số uỷ thác cao nhất song cũng chỉ đạt 2.527 tỷ đồng, thực chất đây là số dư của các hợp đồng từ các năm trước để lại. Thời gian uỷ thác đầu tư rất đa dạng, tối thiểu là một tuần và tối đa tới 3 tháng, kỳ hạn uỷ thác thông thường là từ 1 đến 2 tháng. Lãi suất uỷ thác đầu tư nhìn chung cao hơn hoặc tương đương với lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng cùng thời kỳ. Các khoản uỷ thác đầu tư thường có kỳ hạn nằm trong cùng 1 năm, thông thường cuối năm dương lịch là thời điểm căng thẳng về vốn nên vào những tháng cuối năm hoạt động uỷ thác đầu tư thường thu hẹp lại, đến cuối năm số dư uỷ thác đầu tư thường bằng không. Năm 2007 NHCT không có món uỷ thác nào qua CTCK nên doanh số uỷ thác và số món uỷ thác năm 2007 bằng không. 2.2.2.2. Quy trình đầu tư chứng khoán tại hội sở chính NHCT VN: Bước1 : Xây dựng kế hoạch, chiến lược đầu tư Trong giai đoạn này, NHCT VN phải phân tích và xây dựng kế hoạch, chiến lược đầu tư trên cơ sở trên cơ sở nguồn vốn cũng như tiềm lực tài chính của mình. Bên cạnh đó, mục đích đầu tư được xác định là để hưởng cổ tức, trỏi tức, đảm bảo thanh khoản, hưởng chênh lệch giá hay thâu tóm sáp nhập doanh nghiệp... Bước 2 : Khai thác, tìm kiếm cơ hội đầu tư Trên cơ sở kế hoạch, chiến lược đầu tư, Phòng Đầu tư sẽ triển khai tìm kiếm các nguồn hàng, dựa vào các cơ hội đầu tư trên thị trường theo mục tiêu đã định. Bước 3: Phân tích, đánh giá chất lượng cơ hội đầu tư Phòng Đầu tư tiến hành thẩm định, đánh giá chất lượng của các khoản đầu tư. Kết quả của giai đoạn này sẽ là những kết luận cụ thể về việc có nên đầu tư hay không và đầu tư với số lượng, giá cả bao nhiêu là hợp lý. Đối với các khoản đầu tư trái phiếu, chỉ cần có sự phê duyệt của Phó Tổng Giám đốc phụ trách, nhưng đối với các khoản đầu tư vào cổ phiếu cần có sự phê duyệt của Tổng Giám đốc và HĐQT của NHCT VN, trong một số trường hợp cần có sự chấp thuận của NHNN. Bước 4 : Thực hiện đầu tư Sau khi đã đánh giá, phân tích các cơ hội đầu tư, Phòng Đầu tư sẽ triển khai thực hiện các hoạt động giao dịch mua, bán chứng khoán. Cơ chế giao dịch sẽ tuân theo các quy định của pháp luật và các chuẩn mực chung trong ngành. Việc chuyển tiền, thanh toán cho các giao dịch này được thực hiện bởi Phòng thanh quyết toán vốn kinh doanh. Bước 5 : Quản lý đầu tư và thu hồi vốn Phòng đầu tư có trách nhiệm theo dõi các khoản đầu tư, đánh giá tình hình và thực hiện những hoán đổi cần thiết, hợp lý. Sau khi thu hồi vốn, Phòng đầu tư sẽ tổng kết, đánh giá lại tình hình thực hiện và lại tiếp tục chu kỳ mới. Định kỳ sáu tháng hoặc một năm, Phòng Đầu tư thực hiện việc phân tích tình hình hoạt động và tài chính của các đơn vị mà NHCT VN có mua cổ phần, từ đó đề xuất giải pháp đối với các khoản đầu tư này. 2.2.3. Quy mô hoạt động đầu tư chứng khoán Số dư đầu tư chứng khoán qua các năm đã không ngừng tăng lên, đến 31/12/2007 số dư đầu tư chứng khoán của NHCT VN đạt 37.509 tỷ đồng. Biểu đồ 2.1: Số dư đầu tư chứng khoán từ năm 2004-2007 (Nguồn: Báo cáo tổng kết NHCT VN) Tốc độ tăng trưởng bình quân 3 năm từ 2004-2006 của đầu tư chứng khoán đạt 24,1%, trong đó năm 2006 đạt tốc độ tăng trưởng 26,57%/năm. Trong năm 2006, khi nguồn vốn huy động và dư nợ cho vay nền ninh tế tăng trưởng chậm lại rất nhiều so với năm 2005 thì dư đầu tư chứng khoán vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao. Năm 2007 dư đầu tư chứng khoán tăng vọt, hơn gấp 2 lần so với năm 2006, đạt số dư cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Bảng 2.3. Tốc độ tăng trưởng của một số chỉ tiêu Đơn vị: % STT Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006 31/12/2007 1 Tốc độ tăng trưởng tổng tài sản 24.77% 17.80% 21.20% 2 Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay nền kinh tế 18.28% 4.47% 27.76% 3 Tốc độ tăng trưởng dư đầu tư chứng khoán 16.92% 26.57% 147.00% 4 Tốc độ tăng trưởng huy động vốn 23.25% 2.94% 44.21% (Nguồn: Báo cáo tổng kết NHCT VN) Sự tăng trưởng của dư đầu tư chứng khoán nói chung là hợp lý, bởi lẽ khi dư nợ cho vay nền kinh tế không tăng trưởng được, trong khi nguồn vốn cho vay vẫn tăng trưởng tốt thì dư đầu tư chứng khoán phải tăng trưởng mạnh nhằm giảm bớt áp lực cho khối tín dụng, đồng thời vẫn đảm bảo được lợi nhuận nhất định từ việc đầu tư chứng khoán, mặc dù tỷ suất lợi nhuận nói chung khi đầu tư vào chứng khoán không thể cao bằng đầu tư vào hoạt động tín dụng. Tuy nhiên đầu tư vào chứng khoán, cụ thể là đầu tư vào trái phiếu sẽ có tính thanh khoản cao hơn đầu tư vào tín dụng. Số liệu qua các năm cho thấy hoạt động đầu tư chứng khoán đã có đựơc sự tăng trưởn._.ự hấp dẫn khuyến khích các khách hàng mở tài khoản và thực hiện mọi giao dịch qua NHCT. 3.2.2.2. Đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng. a. Quản lý rủi ro tín dụng. Cùng với sự phát triển của đất nước, nhu cầu vốn cho nền kinh tế ngày càng tăng, dẫn đến mức độ tăng trưởng tín dụng cũng tăng lên tương ứng. Sự tăng trưởng tín dụng của các NHTM phù hợp với sự tăng trưởng của nền kinh tế cả nước nói chung. Tuy nhiên sự tăng trưởng tín dụng cũng kéo theo sự gia tăng rủi ro tín dụng, điều này làm ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả sử dụng vốn và làm hạn chế việc mở rộng tín dụng của các NHTM. Những rủi ro tín dụng dù có xuất phát từ những nguyên nhân khách quan hay chủ quan đều phản ánh rõ nét những yếu kém trong công tác quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTM. Những biện pháp nhằm ngăn ngừa, quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng chưa được các ngân hàng đưa ra và thực hiện một cách đầy đủ, triệt để, đặc biệt là các biện pháp liên quan đến yếu tố con người.  Vì vậy các giải pháp tốt trong quản lý rủi ro tín dụng là vấn đề quan tâm hàng đầu của các ngân hàng nhằm tạo ra sự tăng trưởng tín dụng một cách ổn định, bền vững. Ngân hàng công thương Việt Nam phải đặt ra mục tiêu: tăng trưởng tín dụng với chất lượng cao và bền vững, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội. Do đó việc phát triển tín dụng phải đi đôi với chất lượng tín dụng.   Cần phải tập trung đưa ra những chiến lược kinh doanh phù hợp, đổi mới quy trình và bộ máy cho vay sao cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn và đảm bảo an toàn khi cho vay.   Ngoài ra, công tác tuyển chọn, đào tạo và đào tạo lại, nâng cao tư cách, phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng cũng được các ngân hàng đặc biệt quan tâm và mang tính thường xuyên hơn. Các hoạt động khác như công tác kiểm soát nội bộ ngày càng được chú trọng nhằm phát hiện sớm các dấu hiệu rủi ro cũng như các sai xót trong quá trình cho vay để có biện pháp xử lý kịp thời, tránh việc gây những hậu quả đáng tiếc xảy ra. Thành lập phòng xử lý rủi ro tín dụng hoặc công ty khai thác tài sản ... đã góp phần đưa hoạt động tín dụng của các NHCTVN phát triển ổn định, chất lượng tín dụng dần được nâng cao, đảm bảo tín dụng tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ hiện nay tại các NHTM trên địa bàn vẫn còn cao hơn mức quy định (5%). Nợ quá hạn còn cao chủ yếu là do hậu quả của các năm trước để lại, chưa giải quyết dứt điểm, song vẫn có tình trạng phát sinh mới về nợ quá hạn, cho thấy rủi ro tín dụng luôn tiềm tàng trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi NHCT VN phải chú trọng hơn nữa đến công tác phòng chống, quản lý rủi ro nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại xảy ra.  b. Xử lý nợ quá hạn tồn đọng: -Ngân hàng cùng khách hàng xác định các khoản nợ khó đòi, lên phương án xử lý trên nguyên tắc 2 bên đạt được thỏa thuận tối đa về việc điều chỉnh lại thời hạn nợ, giãn nợ, xóa nợ, giảm lãi, xóa lãi; xử lý tài sản đảm bảo tiền vay; chuyển nợ thành cổ phần của ngân hàng tại doanh nghiệp; các biện pháp cho vay tiếp để phục hồi sản xuất tạo nguồn trả nợ; sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp. Những vướng mắc vượt quá thẩm quyền của khách hàng được tập hợp về Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính để xử lý. - Đối với số nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan, phải áp dụng các biện pháp tận thu, quy trách nhiệm cụ thể cho cá nhân (kể cả lãnh đạo và cán bộ nhân viên), khởi tố trước pháp luật. - Đối với số nợ quá hạn do nguyên nhân khách quan: đối với doanh nghiệp cần thiết duy trì cho nền kinh tế được xem xét cho khóa nợ, khoanh nợ hoặc giãn nợ. Để làm việc này, Chính phủ sẽ tạo nguồn tương ứng cho ngân hàng như xóa, khoanh, giãn nợ tương ứng, chuyển vốn; không chuyển gánh nặng từ doanh nghiệp sang ngân hàng. Các doanh nghiệp khác phải giải thể, phá sản theo pháp luật để thu hồi nợ cho ngân hàng. - Cùng với các NHTM khác thực hiện hoạt động mua, bán nợ giữa các tổ chức tín dụng nhằm đa dạng hóa các hoạt động tín dụng. Các khoản nợ được mua bán có thể là nợ trong hạn, hoặc nợ quá hạn. - Giải tỏa số tài sản thế chấp hiện đang đóng băng trong ngân hàng: khai thác, xử lý số tài sản tồn đọng này nhằm khơi thông nguồn vốn. Việc xử lý chủ yếu tập trung vào tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, thủ tục pháp lý như: bổ xung, hoàn chỉnh thủ tục giấy tờ đối với những tài sản đảm bảo tiền vay để có thể bán, cho thuê, ngân hàng đưa vào sử dụng, đem liên doanh liên kết. - Củng cố hoạt động của công ty khai thác quản lý tài sản thế chấp tồn đọng. 3.2.2.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Bên cạnh các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động, tăng vốn điều lệ, đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng Công Thương Việt Nam cần xây dựng được đội ngũ cán bộ, chuyên gia có đủ năng lực, trình độ nghiệp vụ và kỹ năng quản lý, điều hành đáp ứng yêu cầu hoạt động của Ngân hàng. Để có thể mở rộng phạm vi kinh doanh theo hướng chuyên môn hóa sâu từng nghiệp vụ, bản thân nhân viên của NHCT VN cũng phải được đào tạo kỹ năng chuyên sâu thì mới có thể đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh. Ngoài sự hỗ trợ từ phía các cơ quan chức năng, NHCT VN cần phát huy vai trò chủ động của mình hơn nữa trong việc tuyển chọn và cử nhân viên kinh doanh đi học, đào tạo chuyên sâu. NHCT VN cần có chiến lược đào tạo cán bộ tác nghiệp và quản lý. Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự thắng lợi của mọi hoạt động kinh doanh ngân hàng và là khởi nguồn của sự sáng tạo nhằm nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng. Khi tuyển dụng cán bộ, NHCT VN đã có chủ định sử dụng họ vào lĩnh vực đầu tư chứng khoán, ưu tiên đối với các ứng viên đã có kinh nghiệm trong hoạt động đầu tư chứng khoán, đặc biệt là các chuyên gia trong lĩnh vực đầu tư tại các tổ chức trong nước cũng như nước ngoài. Ngoài các tiêu chuẩn về sức khỏe, bằng cấp, trình độ giao tiếp… NHCT VN cần phải chú ý ngay từ đầu tới năng lực thực sự của họ. Về công tác đào tạo, NHCT VN cần đào tạo được một đội ngũ cán bộ giỏi cả về chuyên môn lẫn ngoại ngữ, tin học để có thể tư vấn và thực hiện mọi yêu cầu của khách hàng về nghiệp vụ chứng khoán. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ này phải có phẩm chất tốt như năng nổ, nhiệt tình, luôn học tập để không ngừng đổi mới kiến thức và nâng cao kỹ năng nghề nghiệp. NHCT VN có thể phối hợp với UBCKNN, thông qua Trung tâm nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán, Quỹ đào tạo và phát triển TTCK ở Việt Nam để mở các lớp đào tạo, tập huấn trang bị kiến thức và kỹ năng kinh doanh cho cán bộ. Có như vậy mới có thể từng bước gây dựng đội ngũ nhân sự chất lượng cao cho ngành chứng khoán. 3.2.2.4. Đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng Đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng trên cơ sở tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng truyền thống, đồng thời đưa vào sử dụng rộng rãi các dịch vụ ngân hàng hiện đại, trong đó đặc biệt chú trọng các dịch vụ gắn kết giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn - thị trường chứng khoán nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng về dịch vụ ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh của thị trường vốn - thị trường chứng khoán. Trên cơ sở hiện đại hoá công nghệ và hệ thống công nghệ thông tin, cần đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Phát triển hệ thống giao dịch theo hướng tự động hóa, hệ thống giao dịch trực tuyến và giao dịch một cửa. Tích cực xúc tiến thương mại điện tử và phát triển dịch vụ ngân hàng mới dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, đặc biệt là các dịch vụ ngân hàng điện tử, ngân hàng ảo, internet banking, home banking, telephone banking, thanh toán. Các dịch vụ này sẽ đem lại nhiều tiện ích và gia tăng giá trị cho người sử dụng. Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và dân cư tiếp cận, sử dụng dịch ngân hàng một cách an toàn. 3.2.2.5. Mở rộng quan hệ với khách hàng, với các NHTM. Hiện nay, theo xu thế phát triển hội nhập và toàn cầu hoá, các ngân hàng thương mại đều theo đuổi mô hình ngân hàng thương mại đa năng và trở thành một tập đoàn tài chính. Do vậy, thị trường bị chia sẻ trên mọi lĩnh vực hoạt động, kể cả hoạt động đầu tư chứng khoán cũng không bị loại trừ. Để phát triển được hoạt động này viẹc phát triển, mở rộng các quan hệ với khách hàng, với các NHTM, các tổ chức khác cũng rất quan trọng. Sự quan hệ chặt chẽ, chia sẻ thông tin đôi khi giúp NHCT mở rộng hoạt động đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư và nâng cao tính thanh khoản. Phân loại khách hàng thành loại khách hàng truyền thống, khách hàng tiền năng, khác hàng vãng lai. Trong mỗi loại khách hàng trên lại được chia thành loại khách hàng VIP, khách hàng quan trọng, khách hàng thông thường. Chỉ tiêu để phân loại khách hàng được kết hợp bởi các yếu tố sau: thời gian khách hàng quan hệ với ngân hàng; khối lượng, giá trị giao dịch; cường độ giao dịch; vị trí xã hội của khách hàng,v.v… Mỗi một khách hàng có những chính sách riêng như đối với loại khách hàng truyền thống, khách hàng VIP, khách hàng quan trọng nên có những ưu đãi về phí, không gian giao dịch và được ngân hàng cung cấp các thông tin về thị trường thường xuyên,v.v... Đối với những khách hàng tiềm năng nên có những chương trình khuyết trương, Marketing nhằm thu hút sự chú ý của họ. Thiết lập một mối quan hệ mật thiết, thường xuyên có sự trao đổi, chia sẻ thông tin với các định chế tài chính. Bên cạnh đó cần thành lập các hiệp hội như hiệp hội đầu tư, kinh doanh trái phiếu... để thống nhất các mục tiêu phát triển và chương trình hoạt động tránh tình trạng hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, trồng chéo, lôi kéo khách hàng của nhau từ đó gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của thị trường. 3.2.2.6. Xây dựng chính sách khách hàng và chiến lược thị trường cho Công ty chứng khoán NHCT VN Khách hàng là nhân tố quyết định hàng đầu trong hoạt động hoạt động kinh doanh chứng khoán. Do vậy, NHCT VN cần phải xây dựng chính sách khách hàng toàn diện, vừa giữ nền tảng là các khách hàng truyền thống, vừa khai thác được các khách hàng tiềm năng và tập trung vào các khách hàng chiến lược.Chính sách khách hàng sẽ trở thành định hướng để công ty chứng khoán NHCT triển khai các hoạt động của mình. Việc xây dựng chính sách khách hàng dựa trên việc phân loại khách hàng. Trên thị trường chứng khoán nước ta, các khách hàng có thể được phân loại như sau: - Các tổ chức phát hành chứng khoán: Bao gồm các doanh nghiệp cổ phần hóa, các Công ty cổ phần, các Tổng công ty mạnh và Kho bạc. * Các công ty cổ phần và các doanh nghiệp cổ phân hóa: Đây là các khách hàng có tiềm năng rất lớn ở nước ta hiện nay. Đối với các doanh nghiệp này, CTCK có thể triển khai rất nhiều loại hình nghiệp vụ như bảo lãnh phát hành, lưu ký, tư vấn niêm yết và tư vấn đầu tư… Bên cạnh đó, các cổ đông của các công ty cổ phần cũng là những nhà đầu tư tiềm năng mà qua đó công ty có thể thực hiện hoạt động môi giới, quản lý danh mục đầu tư. Các công ty cổ phần và doanh nghiệp cổ phần hóa cần được phân chia làm hai loại để tiếp cận, đó là: + Các công ty có đủ điều kiện niêm yết và các công ty đã niêm yết: là các doanh nghiệp lớn, cổ phiếu của họ tập trung sự chú ý của các nhà đầu tư. Các cổ phiếu này có sự rủi ro tốt hơn vì thông tin được công bố công khai và minh bạch. Rủi ro chủ yếu xuất phát từ phía thị trường và các nhà đầu tư. + Các công ty chưa đủ điều kiện niêm yết: đây là các công ty nhỏ nhưng chiếm tỷ trọng khá lớn trong các công ty cổ phần ở nước ta. Cổ phiếu của các công ty này thường ít được giao dịch nhưng trong tương lai, khi thị trường ngoài OTC đã phát triển thì các công ty này sẽ trở thành khách hàng tiềm năng của CTCK. Đây là một thị trường có tiềm năng rất lớn trong tương lai. * Các Tổng công ty mạnh: Là các khách hàng lớn và có nhiều tiềm năng về phát hành Trái phiếu. Do vậy, thị trường Trái phiếu sẽ tập trung rất nhiều ở khu vực này. Đặc biệt, do đặc điểm về mô hình tổ chức, các Tổng công ty 91 ở nước ta đều có các công ty tài chính riêng. Nhiệm vụ của các công ty tài chính này là tập trung nguồn vốn chưa sử dụng của các đơn vị thành viên trực thuộc Tổng công ty để đầu tư và huy động vốn đầu tư cho các chương trình đầu tư của Tổng công ty. Do đó các công ty này vừa là các nhà đầu tư tiềm năng, vừa là các nhà phát hành trên thị trường chứng khoán. Để phát triển hoạt động, CTCK cần phải định hướng đây là những khách hàng truyền thống và có các chính sách cụ thể trong các dịch vụ của mình đối với những khách hàng - Các nhà đầu tư: Các nhà đầu tư là đối tượng khách hàng mà CTCK có thể triển khai hoạt động môi giới, lưu ký chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư,…Trong đó, hoạt động môi giới đang chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập của các công ty chứng khoán. Hơn nữa, các nhà đầu tư sẽ đem lại một phần thu nhập ổn định, thường xuyên cho công ty. Do đó, CTCK cần định hướng đối với các hoạt động của mình trong việc phục vụ các khách hàng này theo nguyên tắc: - Xây dựng quy trình nghiệp vụ đơn giản, nhanh chóng, tạo sự thuận tiện cho khách hàng. - Cung cấp thông tin nhanh chóng, kịp thời cho các nhà đầu tư. - Chú trọng hoạt động tư vấn giúp khách hàng quyết định đầu tư có hiệu quả, nâng cao uy tín của công ty - Trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, CTCK chỉ phát triển hoạt động khi thu hút được các nhu cầu đầu tư. Bên cạnh các nhà đầu tư nhỏ, thị trường cũng cần các nhà đầu tư có tổ chức. Đây là những khách hàng rất quan trọng do lượng vốn đầu tư lớn, có nhu cầu đầu tư thường xuyên. Hiện nay, trong điều kiện các quỹ đầu tư còn ít, CTCK có thể tiếp cận các Tổng công ty, các Công ty tài chính và hệ thống các Công ty bảo hiểm. Đây là một thị trường còn rất nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Tóm lại, chính sách khách hàng là nhân tố quyết định đến hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán. Do đó, CTCK cần phải xây dựng chính sách khách hàng một cách toàn diện để khai thác tối đa tiềm năng của thị trường. Đồng thời, đối với mỗi đối tượng khách hàng, công ty cần có chính sách cụ thể để đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất. Bên cạnh việc xây dựng chính sách khách hàng, cần thực hiện các biện pháp thu hút khách hàng để mở rộng và phát triển nghiệp vụ chứng khoán như: đẩy mạnh tiếp thị, quảng cáo, triển khai ứng dụng marketing để phát triển nghiệp vụ chứng khoán; đổi mới phong cách giao tiếp, phục vụ văn minh, lịch sự, tận tình và nhanh chóng. 3.2.2.7. Nâng cao khả năng thu thập và xử lý thông tin Thông tin luôn là yếu tố cấu thành cơ bản của mọi hoạt động kinh doanh, với hoạt động đầu tư chứng khoán tầm quan trọng của nó lại càng được coi trọng. Nếu như một ngân hàng có những kênh thông tin kịp thời và chính xác, sẽ giúp cho họ đánh giá được thực chất giá trị của trái phiếu, cổ phiếu dự đoán được xu thế của thị trường và đưa ra được những quyết định đúng đắn. Như vậy, đối với thông tin, ngân hàng phải thực hiện đồng thời hai việc: thu thập và phân tích thông tin. Ngân hàng không thể phân tích, đánh giá tốt được chứng khoán mà mình quan tâm nếu như thiếu thông tin, nhưng nếu trình độ phân tích thông tin không tốt thì dù thông tin có quý đến mấy cũng không có giá trị. Việc thu thập và phân tích thông tin này không chỉ gói gọn với thị trường trong nước mà phải trải rộng ra cả thị trường quốc tế. Khả năng thu thập, phân tích, ước lượng, dự báo và đánh giá tình hình thị trường của NHCT nói riêng và các NHTM nói chung là rất hạn chế. Điều này thể hiện qua các nguyên nhân: thứ nhất, Thị trường chứng khoán Việt Nam mới hình thành chưa có những công ty lớn hoạt động chuyên về việc cung cấp thông tin đã phân tích. Chưa có những thước đo tiêu chuẩn về rủi ro, lãi xuất, v.v...do đó rất khó để có một đánh giá thống nhất và chính xác về thị trường. Thứ hai, với khoảng thời gian 7 năm hoạt động của thị trường chứng khoán, ngay cả những công ty hoạt động ngay từ đầu cũng không thể khẳng định đã nắm bắt được xu thế của thị trường, hơn nữa cũng chưa thể tập trung đào tạo được một đội ngũ nhân viên giỏi về chuyên môn trong lĩnh vực này. Những nhân viên ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực thu thập và phân tích thông tin thị trường hầu hết đều không được đào tạo đúng chuyên ngành, kết quả là rất hiếm người có khả năng nhậy cảm với những thông tin như một chuyên gia. Mỗi một ngân hàng đều có những đánh giá và nhận định riêng về thị trường mà không thể so sánh để chỉ ra đâu là đúng, đúng được bao nhiêu và còn bao nhiêu chưa thể xác định được. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Tiếp tục cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô. Sự ổn định về chính trị tại Việt Nam là điều đó được khẳng định, song Chính phủ phải tiếp tục đảm bảo được yêu cầu ổn định môi trường kinh tế vĩ mô nhằm khuyến khích tiết kiệm, nâng cao khả năng huy động vốn trên thị trường tài chính. Một mức độ lạm phát được kiềm chế vừa đủ để duy trì nền kinh tế phát triển, mức thâm hụt ngân sách trong giới hạn an toàn, các chiến lược phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo và tạo công ăn việc làm sẽ là những tiền đề cơ bản để phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán bền vững. Trên cơ sở sự ổn định của kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế đều đặn, lãi suất, tỷ giá hối đoái được kiểm soát tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành trái phiếu của Chính phủ, các nhà đầu tư có cơ hội lựa chọn, điều chỉnh danh mục đầu tư của mình. 3.3.2. Hoàn thiện môi trường pháp lý. Xây dựng một hệ thống các quy định pháp luật thống nhất là điều kiện quan trọng nhằm phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán của các NHTM nói chung và NHCT VN nói riêng. Hoạt động đầu tư chứng khoán của các ngân hàng thương mại hiện đang bị chi phối bởi nhiều văn bản pháp lý khác nhau. Qua các hoạt động thực tiễn cho thấy, khung pháp lý cho hoạt động đầu tư chứng khoán của các ngân hàng thương mại còn chưa đầy đủ, thiếu tính đồng bộ và còn phức tạp. Hoạt động đầu tư chứng khoán của các NHTM bị điều chỉnh bởi các quy định của Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư và Luật chứng khoán. Nhưng do Luật chứng khoán mới ban hành nên các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành chưa có.Do đó, cần sớm xây dựng và ban hành các nghị định của Chính phủ hướng dẫn các chủ thể khi tham gia vào thị trường chứng khoán. Hoạt động kinh doanh trái phiếu của các NHTM có khối lượng giao dịch là rất lớn, các hoạt động này giúp cho trái phiếu luân chuyển thuận lợi, nâng cao tính thanh khoản của trái phiếu, nhưng hầu hết các giao dịch này được thực hiện trên trên thị trường OTC. Trong khi đó Luật chứng khoán mới ra đời thị trường này chưa được đề cập đến một cách rõ ràng. Trong luật mới đề cập đến các nhà kinh doanh trái phiếu chưa có điều luật về nhà tạo lập thị trường trái phiếu (tại điều 6, Chương 1, Luật chứng khoán). Tại mục 20 điều 6, Chương 1, Luật chứng khoán có viết: “môi giới chứng khoán là việc công ty chứng khoán làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng” vô hình chung Luật chứng khoán không qui định các ngân hàng thương mại được hoạt động môi giới, như vậy các ngân hàng thương mại không được hoạt động trên thị trường trái phiếu với tư cách là nhà tạo lập thị trường (vì hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu bao gồm hoạt động môi giới, tự doanh, thực hiện lệnh). Điều này mâu thuẫn với Quyết định số 163/2003/QĐ-TTg ngày 05/08/2003 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010 có viết: “- Khuyến khích ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm lớn thành lập công ty quản lý quỹ; đa dạng hoá các loại hình đầu tư tập thể. - Xây dựng và phát triển hệ thống các nhà tạo lập thị trường; hệ thống các nhà kinh doanh trái phiếu chuyên nghiệp.” Trong khi đó lại cho phép các ngân hàng thương mại được phép bảo lãnh phát hành trái phiếu tại mục 14, điều 6, Chương 1, Luật chứng khoán có viết: “ Tổ chức bảo lãnh phát hành là công ty chứng khoán được phép hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán và ngân hàng thương mại được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước chấp thuận bảo lãnh phát hành trái phiếu theo điều kiện do Bộ tài chính quy định” và được phép được phép đầu tư vào chứng khoán tại mục 11. điều 6, chương 1, Luật chứng khoán viết : “Nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, tổ chức kinh doanh bảo hiểm, tổ chức kinh doanh chứng khoán". Như vậy Luật chứng khoán cho phép các ngân hàng thương mại được phép bảo lãnh phát hành trái phiếu, được đầu tư vào trái phiếu không có lý gì lại cấm các ngân hàng thương mại hoạt động môi giới trái phiếu. Trong hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu tiềm lực về vốn, công nghệ, nhân lực,v.v...có quyết định rất lớn, với tình hình kinh doanh hiện nay chỉ có các ngân hàng thương mại mới đủ sức đáp ứng được các yêu cầu trên. Do vậy Chính phủ cần phải sớm trình Quốc hội bổ sung, điều chỉnh Luật chứng khoán có điều luật về nhà tạo lập thị trường, và cho phép các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh trái phiếu với vai trò là người tạo lập thị trường trái phiếu. Như vậy, việc ổn định môi trường kinh tế vĩ mô và hoàn thiện cơ sở pháp lý đối với hoạt động thị trường chứng khoán và đầu tư trên thị trường chứng khoán sẽ tạo niềm tin cho nhà đầu tư, khuyến khích các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ vào thị trường, góp phần tăng tính sôi động của thị trường chứng khoán, do đó thúc đẩy các NHTM tham gia đầu tư. 3.3.3. Đổi mới hoạt động phát hành chứng khoán Chính Phủ. Việc thực hiện chính sách Ngân sách Nhà Nước Việt Nam thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng kể. Các chính sách thu đã có những chuyển biến tích cực, tạo cơ sở cho việc kiểm soát bội chi Ngân Sách Nhà Nước. Hoạt động phát hành các chứng khoán Chính Phủ, bao gồm tín phiếu, trái phiếu Kho Bạc, Trái phiếu công trình đã tạo được lượng hàng hóa quan trọng cho thị trường trái phiếu, đồng thời thu hút mạnh nhiều đối tượng tham gia vào thị trường. Các hình thức huy động bằng phát hành trái phiếu của Chính Phủ ngày càng đa dạng và phong phú, lãi suất ngày càng hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, hình thức huy động này còn một số hạn chế như thời hạn của các trái phiếu còn ngắn, phương thức phát hành còn chưa phù hợp, thị trường trái phiếu Chính Phủ chưa sôi động, chưa có lịch trình phát hành đều đặn, lãi suất chưa phải là lãi suất của thị trường. Chính Phủ nên có những phương thức đấu giá với chu kỳ đều đặn hơn. Không nên sử dụng phương thức bán lẻ mà chỉ nên sử dụng phương thức đấu giá hoặc phát hành thông qua tổ hợp các ngân hàng thương mại Nhà Nước. Hai phương thức này tập trung được nguồn thu và tạo điều kiện hơn cho các giao dịch thứ cấp sau này. Các ngân hàng thương mại Nhà Nước sẽ là thành viên chính thức của thị trường trái phiếu Chính Phủ và các tổ chức này sẽ đóng vai trò tạo lập thị trường cho loại trái phiếu trên, một mặt sẽ tiết kiệm được chi phí phát hành, mặt khác sẽ tàm tăng tính sôi động của thị trường trái phiếu Chính phủ. 3.3.4.Kiểm soát và phát triển thị trường OTC Do còn nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ điều kiện niêm yết trên TTCK tập trung nên việc phát triển thị trường OTC theo đúng nghĩa cũng rất quan trọng trong giai đoạn TTCK VN chưa phát triển. Với một số lượng rất lớn chứng khoán lưu hành trên thị trường tự do đã cho thấy một tiềm năng và yêu cầu cấp thiết trong việc phát triển thị trường giao dịch OTC ở Việt Nam hiện nay. Khó khăn cơ bản cho việc phát triển thị trường OTC là các chứng khoán phần lớn dưới dạng vật chất và chưa được lưu ký ở các tổ chức lưu ký, việc mua bán chủ yếu thực hiện thanh toán trực tiếp mà không thực hiện thanh toán qua hệ thống ngân hàng, trình độ, ý thức của các nhà đầu tư chưa cao, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ và thiếu hoàn thiện. Để các ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường OTC có hiệu quả, phải có những biện pháp nhất đinh, cụ thể : - Có đội ngũ nhân viên đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ trong hoạt động kinh doanh chứng khoán, đặc biệt là trong việc thực hiện các giao dịch mua bán thay cho khách hàng trên thị trường chứng khoán - Có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật nối mạng viễn thông đối với các quầy giao dịch của thị trường OTC để có thể sử dụng nhằm cân bằng thị trường, đóng vai trò là người tạo thị trường. Việc hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện cấu trúc thị trường chứng khoán, trên cơ sở đó góp phần phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây cũng chính là điều kiện quan trọng cho việc thúc đẩy các ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường. 3.3.5. Thúc đẩy sự phát triển ổn định của thị trường chứng khoán Một là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, sớm triển khai hướng dẫn Luật Chứng khoán (đã có hiệu lực từ 1-1-2007) theo hướng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đồng bộ với các quy định khác của pháp luật Việt Nam, nhưng phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Nâng cao năng lực quản lý và kiểm soát của Nhà nước đối với thị trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng, trong đó chú trọng kiểm soát các hoạt động kinh doanh đối với thị trường OTC để bảo đảm sự ổn định của thị trường và cả đối với các nhà đầu tư nước ngoài để tránh sự thao túng thị trường của những nhà đầu tư này. Hai là, tiếp tục phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính (bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn), tạo điều kiện tốt và thông thoáng hơn theo các cam kết khi gia nhập WTO cho việc phát triển các nhà đầu tư là doanh nghiệp, các định chế tài chính trung gian và các tổ chức phụ trợ trên thị trường, song phải đảm bảo khả năng cạnh tranh trong điều kiện mới, có nghĩa là phải năng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành và kiểm tra kiểm soát nội bộ. Ba là, nâng cao năng lực hoạt động của TTCK trên cơ sở hiện đại hoá hệ thống công nghệ thông tin, trước hết là ở các trung tâm giao dịch chứng khoán và các nhà đầu tư là doanh nghiệp. Đồng thời với việc này là tăng cường tính công khai và minh bạch của TTCK từ việc công bố thông tin, cáo bạch, báo cáo hoạt động của các nhà đầu tư là doanh nghiệp và các định chế liên quan khác . Bốn là, chú trọng đào tạo cho đội ngũ những nhà quản lí, những người tham gia kinh doanh chứng khoán, và các nhà đầu tư. Đi đôi với việc này là tăng cường tuyên truyền để nhiều người cùng biết và định hướng đúng đắn cho việc đầu tư có hiệu quả, tránh hiện tượng đầu tư kiểu phong trào như vừa qua. Năm là, tăng cường hoạt động giám sát đối với TTCK nhằm giảm thiểu rủi ro, cảnh báo và ngăn chặn sớm sự đổ vỡ của các nhà đầu tư. Cần chú trọng tăng cờng thanh tra giám sát an toàn hoạt động của các ngân hàng thương mại để hạn chế tác động tiêu cực liên quan đến TTCK như: - Chấn chỉnh việc cho vay của ngân hàng thương mại đối với công ty chứng khoán để kinh doanh trên TTCK, đồng thời tăng cường giám sát hoạt động của các công ty này theo các quy định hiện hành về kinh doanh chứng khoán. - Chú trọng giám sát nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của TTCK, chống nhà đầu tư nước ngoài thao túng thị trường, đảm bảo tính công khai và minh bạch trong hoạt động của các công ty chứng khoán và các định chế trung gian. - Tiến tới thành lập cơ quan giám sát thị trường tài chính (sau năm 2010) để thực hiện chức năng giám sát và bảo đảm an toàn cho toàn bộ thị trường tài chính trên cơ sở phát triển của TTCK, hệ thống ngân hàng thương mại và các định chế tài chính khác. Ngoài ra, nhà nước cần tạo điều kiện cho các NHTM nhà nước phát hành và niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng khoán, phát triển các thị trường tiền tệ, đặc biệt là các công cụ phái sinh và giấy tờ có giá ngắn hạn. KẾT LUẬN Hoạt động đầu tư chứng khoán ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng. Thúc đẩy sự tham gia của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán là một xu thế khách quan và là nhu cầu cấp thiết. Bằng cách vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, luận văn đã giải quyết được các vấn đề sau : Thứ nhất, trình bày những vấn đề cơ bản về hoạt động của ngân hàng thương mại, làm nổi bật vai trò của hoạt động Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán. Thứ hai, đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư của Ngân hàng Công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán hiện nay, trong đó đi sâu phân tích những kết quả đạt được cũng như những hạn chế của hoạt động đầu tư , từ đó tìm ra nguyên nhân của những hạn chế. Thứ ba, thông qua các nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động đầu tư chứng khoán của Ngân hàng Công thương Việt Nam để đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường hoạt động đầu tư của Ngân hàng Công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán trong thời gian tới. Hoạt động đầu tư của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán là một lĩnh vực tương đối mới và hàm chứa nhiều rủi ro. Những kết quả nghiên cứu của luận văn chỉ là một số đóng góp nhỏ và chưa thể bao quát toàn bộ các khía cạnh, lĩnh vực. Do vậy, chắc chắn còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Tác giả xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các Thầy, Cô giáo Khoa Ngân hàng- tài chính, Trường đại học kinh tế quốc dân, đặc biệt là Thầy giáo, Tiến sỹ Đặng Ngọc Đức và các cán bộ tại Ngân hàng Công thương Việt Nam đã tận tình giúp đỡ trong việc hoàn thành luận văn này. Tác giả mong muốn nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các Thầy, Cô giáo và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bé tµi chÝnh (2002), ChiÕn l­îc Tµi chÝnh - tiÒn tÖ ViÖt Nam giai ®o¹n 2001 - 2010, Hµ néi. C«ng ty chøng kho¸n Ng©n hµng C«ng th­¬ng ViÖt nam, B¸o c¸o tæng kÕt (2004-2007), Hµ Néi PGS.TS L­u ThÞ H­¬ng – Chñ biªn (2005), Gi¸o tr×nh "Tµi chÝnh doanh nghiÖp", NXB Thèng kª. Th.S Lª ThÞ Mai Linh – Chñ biªn (2003), Gi¸o tr×nh "Ph©n tÝch vµ ®Çu t­ Chøng kho¸n", NXB ChÝnh trÞ quèc gia. PGS.TS. NguyÔn V¨n Nam, PGS.TS. V­¬ng Träng NghÜa (§ång chñ biªn), (2002), Gi¸o tr×nh "ThÞ tr­êng chøng kho¸n", NXB Tµi chÝnh. Ng©n hµng C«ng th­¬ng ViÖt nam , B¸o c¸o tæng kÕt (2004-2007), Hµ Néi Peter S. Rose (1996), Qu¶n trÞ ng©n hµng th­¬ng m¹i, Nhµ xuÊt b¶n Tµi chÝnh. Quèc héi N­íc Céng hßa X· héi Chñ nghÜa ViÖt Nam (1997), LuËt C¸c tæ chøc tÝn dông, Hµ Néi. Quèc héi N­íc Céng hßa X· héi Chñ nghÜa ViÖt Nam (2006), LuËt chøng kho¸n, Hµ Néi. TS. NguyÔn H÷u Tµi - Chñ biªn (2002), Gi¸o tr×nh "Lý thuyÕt Tµi chÝnh - TiÒn tÖ", NXB Thèng kª. Uû ban Chøng kho¸n nhµ n­íc (2005) – Tµi liÖu nghiÖp vô qu¶n lý danh môc ®Çu t­ chøng kho¸n Trang Web TTGDCK TP Hå ChÝ Minh, TTGDCK TP Hµ Néi. Trang Web Bé Tµi chÝnh. Trang Web LuËt ViÖt Nam. MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThS-4.doc
Tài liệu liên quan