GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
PVFC Invest: Công ty Cổ phần Đầu tư và tư vấn Tài chính Dầu khí Việt Nam;
PVFC: Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam;
UTĐT: Uỷ thác đầu tư;
HĐ UTĐT: Hợp đồng uỷ thác đầu tư;
Repo: Mua bán kỳ hạn cổ phiếu;
CBNV: Cán bộ nhân viên;
PTSC: Tổng Công ty dịch vụ kỹ thuật Dầu khí;
VIB: Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế;
HTĐT: Hợp tác đầu tư;
Ban QLV &TS: Ban Quản lý vốn và tài sản;
P. TCKT: Phòng Tài chính kế toán;
HĐ: Hợp đồng;
HĐQT: Hội đồng quả
48 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1279 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tăng cường đảm bảo nguồn vốn của Công ty Cổ phần đầu tư và tư vấn tài chính Dầu khí Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n trị;
CTCG: Chứng từ có giá.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách
Giáo trình Phân tích tài chính;
Giáo trình Ngân hàng Thương mại;
Luật các tổ chức tín dụng số 07/ 1997/ QH X ngày 12/12/1997.
2. Tài liệu thực tế:
Quy chế hoạt động Công ty Cổ phần Đầu tư và Tư vấn Tài chính Dầu khí Việt Nam;
Điều lệ Công ty Cổ phần Đầu tư và Tư vấn Tài chính Dầu khí Việt Nam;
Báo cáo tài chính năm 2007 đã được kiểm toán;
Các báo cáo nội bộ
3. Các trang tin điện tử
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 01: Kết quả kinh doanh năm 2007 và 9 tháng đầu năm 2008 24
Bảng 02: Kết quả đầu tư 6 tháng đầu năm 2008 26
Bảng 03: Danh mục uỷ thác đầu tư đến ngày 30/6/2008 27
Bảng 04: Cơ cấu vốn 30
Bảng 05: Báo cáo thực hiện 9 tháng đầu năm 33
Bảng 06: Kế hoạch đáo hạn 34
Bảng 07: Cân đối tài sản nguồn vốn của PVFC Invest 36
Sơ đồ 01: Cơ cấu tổ chức phối hợp huy động nguồn 28
MỞ ĐẦU
Năm 2007 là năm đánh dấu sự phát triển của ngành Ngân hàng tài chính Việt Nam với sự ra đời của hàng loạt các tổ chức tài chính và sự phát triển rộng rãi của hệ thống mạng lưới các ngân hàng thương mại. Thị trường chứng khoán, thị trường Bất động sản cuối năm khởi sắc, chỉ số VN Index đạt ngưỡng 1000 điểm, diễn biến thị trường sôi động là môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư. Không những vậy nền kinh tế Việt Nam cũng được đánh giá rất khả quan về tiềm năng tăng trưởng và hội nhập với tốc độ tăng trưởng dự đoán 8,5% vào năm 2008. Đó chính là thời điểm thuận lợi để Công ty cổ phần đầu tư và tư vấn tài chính dầu khí – PVFC Invest (nay là Công ty đầu tư và tư vấn tài chính dầu khí Việt Nam) đã được thành lập.
Bước sang năm 2008 đi ngược lại với những kỳ vọng về sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế, 9 tháng đầu năm kinh tế Việt Nam đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức lớn. Lĩnh vực tài chính ngân hàng, các công ty và quỹ đầu tư là đối tượng chịu tác động trực tiếp và đầu tiên bởi sự suy thoái đó cũng như dấu hiệu của cơn bão khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu ở Mỹ và đang tiếp tục lan rộng.
PVFC Invest – một công ty còn rất non trẻ mặc dù đã và đang nhận được sự hậu thuẫn vững chắc từ Công ty mẹ nhưng ở thời điểm hiện tại đang phải đối mặt với rất nhiều thử thách. Làm sao để hoàn thành kế hoạch to lớn đã được giao, gánh vác trọng trách là cánh tay nối dài trong hoạt động đầu tư của PVFC ? Và thời điểm hiện tại đối với PVFC Invest vấn đề đảm bảo nguồn vốn đang trở thành một bài toán khó, đó chính là điều kiện cần để Công ty vượt qua thời kỳ khó khăn, điều kiện đủ để Công ty tiếp tục phát triển. Vì vậy, em đã lựa chọn chuyên đề thực tập tốt nghiệp với đề tài: “Tăng cường đảm bảo nguồn vốn của Công ty Cổ phần đầu tư và tư vấn Tài chính Dầu khí Việt Nam”
Sau một thời gian thực tập, cọ sát thực tế và nghiên cứu tỉ mỉ tình hình kinh doanh của Công ty, em xin trình bày chuyên đề thực tập tốt nghiệp như sau:
Phần 1: Lý luận cơ bản về hoạt động đảm bảo nguồn vốn của Công ty đầu tư tài chính;
Phần 2: Thực trạng hoạt động đảm bảo nguồn vốn của Công ty cổ phần đầu tư và tư vấn Tài chính Dầu khí Việt Nam;
Phần 3: Giải pháp tăng cường đảm bảo nguồn vốn của Công ty Cổ phần Đầu tư và tư vấn Tài chính Dầu khí Việt Nam ./.
CHƯƠNG I.
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẢM BẢO NGUỒN VỐN CỦA CÔNG TY ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH
KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY ĐẤU TƯ TÀI CHÍNH
Khái niệm cơ bản về Công ty đầu tư tài chính
Công ty tài chính
Công ty Tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 01 năm.
Các nghiệp vụ chính của Công ty tài chính bao gồm:
Huy động vốn: Được thực hiện từ các nguồn sau:
Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Căn cứ theo điều 45 luật các tổ chức tín dụng số 02/1997/ QHX ngày 12/12/1997 và khoản 1 điều 1 Nghị định số 81/2008/ NĐ – CP ngày 4/10/2002 về các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật hiện hành.
Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước, ngoài nước và các tổ chức tài chính quốc tế.
Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước.
Hoạt động tín dụng: Bao gồm: Cho vay; Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá; bảo lãnh và các hình thức cấp tín dụng khác.
Dịch vụ ngân quỹ: là dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
Các hoạt động khác:
Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác;
Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng;
Tham gia thị trường tiền tệ;
Thực hiện các dịch vụ kiều hối, kinh doanh vàng;
Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá cho các doanh nghiệp;
Được quyền nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng;
Cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho khách hàng.
Cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác.
Công ty đầu tư tài chính
Công ty đầu tư tài chính là Công ty mà tài sản của nó chủ yếu là một danh mục chứng khoán có khả năng thanh khoản cao. Việc đầu tư được thực hiện nhờ một lượng tiền tập hợp lại của nhiều cá nhân, tổ chức khác dưới các hình thức huy động, uỷ thác vốn và tài sản.
Về cơ bản Công ty đầu tư tài chính được tách ra từ một mảng hoạt động của mô hình Công ty tài chính. Bản thân Công ty đầu tư tài chính không hoạt động với tư cách là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng; Doanh thu và lợi nhuận chủ yếu đều bắt nguồn từ chênh lệch giá và hưởng cố tức đầu tư. Việc đầu tư tài chính bao gồm cả đầu tư dự án, đầu tư cổ phần, góp vốn liên doanh cũng như đầu tư kinh doanh các chứng từ có giá khác. Uỷ thác đầu tư cũng là một mảng hoạt động đặc thù của Công ty đầu tư.
Đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu của Công ty đầu tư tài chính
Đặc điểm về sản phẩm dịch vụ
Mô tả khái quát về sản phẩm dịch vụ của Công ty đầu tư tài chính: Bao gồm sản phẩm đầu tư, dịch vụ kết nối đầu tư, dịch vụ uỷ thác đầu tư và đối với một số Công ty đầu tư tài chính trong khả năng nguồn lực cho phép còn phát triển các dịch vụ tư vấn tài chính chuyên nghiệp.
Đặc điểm sản phẩm dịch vụ:
Không có sản phẩm dịch vụ tồn kho,dự trữ. Chất lượng sản phẩm dịch vụ được khách hàng kiểm định trong chính quá trình tiêu thụ. Các sản phẩm đầu tư không được gọi là sản phẩm tồn kho vì đó chính là tài sản đầu tư của Công ty đầu tư;
Đối với các sản phẩm đầu tư giá thành sản phẩm lớn, chi phí tạo ra và duy trì sản phẩm ở mức cao. Đặc điểm này góp phần định hình rõ nét nhất hoạt động đảm bảo nguồn vốn của Công ty đầu tư tài chính sẽ trình bày chi tiết ở phần sau.
Sản phẩm dịch vụ hầu hết được xem xét và quản trị với tư cách là các sản phẩm vô hình. Riêng sản phẩm đầu tư cũng có thể được xem xét là nhóm sản phẩm hữu hình (đối với đầu tư dự án) mang hình thái vật chất. Mặc dù vậy trong quá trình chào bán sản phẩm cũng không thể áp dụng biện pháp Marketing trực tiếp, khách hàng khó có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm; khả năng di chuyển sản phẩm là không có.
Sản phẩm được kết tinh từ kết tinh tri thức, sự chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ chuyên viên, đội ngũ chuyên gia. Bởi vậy giá trị gia tăng trong sản phẩm dịch vụ lớn.
Sản phẩm dịch vụ chịu nhiều tác động của môi trường kinh doanh, môi trường tài chính tiền tệ trong nước và thế giới. Đặc biệt các diễn biến của thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản và thị trường vốn sẽ tác động trực tiếp đến giá trị sản phẩm; sự tác động diễn ra nhanh chóng và tuân theo quy luật chung.
Đặc điểm khách hàng
Khách hàng của các Công ty đầu tư tài chính bao gồm khách hàng là tổ chức và khách hàng là cá nhân. Đặc điểm khách hàng như sau:
Khách hàng đa dạng, nhu cầu về sản phẩm dịch vụ rất khác nhau;
Đại bộ phận khách hàng có thu nhập cao, có vốn nhàn rỗi và có nhu cầu đầu tư tạo giá trị gia tăng;
Khách hàng của các Công ty, tổ chức đầu tư đang được mở rộng theo hướng phát triển khách hàng nước ngoài thông qua các hình thức hợp tác, kết nối đầu tư, huy động vốn nước ngoài;
Đối với các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp thường xuyên duy trì được một lượng lớn khách hàng trung thành. Đây chính là một đặc điểm quan trọng xuất phát từ nhu cầu tìm kiếm nhà cung cấp uy tín và chuyên nghiệp của các tầng lớp khách hàng trong đó đặt ra các yêu cầu khắt khe về nội lực doanh nghiệp, kỹ năng phục vụ chuyên nghiệp của đội ngũ chuyên gia cũng như bề dày thành tích của Công ty trên thị trường đầu tư.
Đặc điểm nguồn nhân lực
Trong điều kiện thị trường hiện nay với các cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới; thị trường nguồn nhân lực đang có nhiều điều kiện để bộc lộ rõ sự phân cấp chất lượng nhân lực trong các ngành nghề. Lĩnh vực tài chính ngân hàng đã và đang được xem là một trong những lĩnh vực tập trung lực lượng nhân lực ưu tú, chất lượng cao. Đối với các Công ty đầu tư tài chính đặc điểm này cũng là đặc điểm then chốt nhất khi đề cập đến nguồn lực con người. Điều đó tạo thành sức mạnh, lợi thế làm nên những bứt phá và thành công cho các Công ty tài chính, Quỹ đầu tư, Ngân hàng thương mại trong thời gian vừa qua.
Không những vậy nguồn nhân lực trong khu vực này còn được đánh giá là một nguồn nhân lực trẻ. Dễ dàng nhận thấy trong hầu hết các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài chính lực lượng nhân sự cốt cán đều có độ tuổi chủ yếu từ 30 -35 tuổi. Điều này được giải thích vì yêu cầu nghề nghiệp đòi hỏi sự tìm tòi, khám phá, khả năng chấp nhận rủi ro và những đức tính đó đại đa số tập trung ở những người trẻ.
Đặc điểm nguồn vốn
Đặc điểm cơ bản về nguồn vốn
Với đặc thù hoạt động đầu tư tài chính dẫn đến một số đặc điểm khái quát về nguồn vốn như sau:
Nhu cầu nguồn vốn lớn: Không những đáp ứng được nhu cầu tự doanh còn phải đủ khả năng tài trợ cho các khoản trả chậm của khách hàng nhằm tìm kiếm, mở rộng, duy trì khách hàng sử dụng dịch vụ uỷ thác đầu tư kèm theo;
Nguồn vốn đa dạng: Với nhu cầu vốn lớn như vậy trong nhiều trường hợp các Công ty đầu tư tài chính phải sử dụng kết hợp các nguồn bên trong và nguồn bên ngoài;
Cân đối nguồn vốn hiệu quả góp phần lớn vào sự thông suốt trong hoạt động đảm bảo dòng tiền đều đáp ứng nhu cầu giải ngân đầu tư một cách kịp thời nhất;
Phân loại nguồn ngắn hạn và nguồn dài hạn đòi hỏi chính xác; duy trì tốt khả năng thanh thế nguồn trong trường hợp có rủi ro xảy ra.
Các đặc điểm này sẽ được phân tích cụ thể và chi tiết ở phần tiếp theo trong quá trình phân tích hoạt động đảm bảo nguồn của Công ty đầu tư tài chính.
Phân loại nguồn vốn của Công ty Đầu tư tài chính
Để tiến hành hoạt động đầu tư, Công ty đầu tư tài chính đòi hỏi luôn duy trì một lượng vốn an toàn nhất định. Dựa trên các tiêu thức nhất định, nguồn vốn của loại hình Công ty này được phân loại như sau:
Dựa theo hình thức sở hữu:
Vốn chủ sở hữu: Bao gồm: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, thặng dư vốn cổ phần. Trong đó:
Vốn góp ban đầu được hình thành từ nguồn đóng góp của các cổ đông. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của Công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị số cổ phần mà họ nắm giữ.
Vốn từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư, mở rộng hoạt động đầu tư kinh doanh của Công ty.
Thặng dư vốn cổ phần: nguồn vốn này xuất phát từ hoạt động phát hành thêm cổ phiếu của Công ty. Hình thức được sử dụng phổ biến là phát hành cổ phiếu thường, phát hành cổ phiếu ưu đãi ít được sử dụng vì giới hạn quy mô cổ đông nắm giữ phiếu ưu đãi.
Vốn vay: Bao gồm: nguồn vốn tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại, phát hành trái phiếu Công ty. Trong đó:
Vốn tín dụng Ngân hàng là nguồn vốn quan trọng và phổ biến nhất. Hầu như không một doanh nghiệp nào hoạt động mà không vay vốn ngân hàng.
Vốn tín dụng thương mại là khoản tín dụng của người cung cấp.Nguồn vốn này được hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp.
Phát hành trái phiếu Công ty: là chứng chỉ vay vốn do Công ty phát hành, thể hiện nghĩa vụ và sự cam kết của Công ty thanh toán số lợi tức và tiền vay vào những thời hạn đã xác định cho người nắm giữ.
Đặc biệt đối với các Công ty đầu tư tài chính còn có thể sử dụng một nguồn vốn khác khá hiệu quả là vốn uỷ thác đầu tư từ các tổ chức kinh tế khác.
Dựa theo thời gian: chia làm 2 loại nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn.
Vốn dài hạn: Là nguồn vốn thường xuyên ở trong Công ty trong thời hạn trên 1 năm. Vốn dài hạn = Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu. Nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ các khoản đầu tư dài hạn đảm bảo an toàn vốn Công ty và hạn chế rủi ro tín dụng.
Vốn ngắn hạn: là nguốn vốn không thường xuyên được duy trì trong Công ty và có thời hạn dưới 1 năm. Vốn ngắn hạn được sử dụng tài trợ các khoản đầu tư ngắn hạn và chi phí hoạt động của Công ty.
Vai trò của các Công ty đầu tư tài chính trong thị trường tài chính, thị trường đầu tư
Năm 2007 đánh dấu sự chuyển mình mạnh mẽ của thị trường tài chính Việt Nam nói riêng, thị trường tài chính khu vực Châu Á nói chung. Hội nhập WTO càng tạo ra những tiền đề và điều kiện thuận lợi nhất định làm nền tảng cơ bản phát triển thị trường cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Môi trường đầu tư có sức hấp dẫn đặc biệt với lượng vốn FDI ngày càng gia tăng. Thị trường Bất động sản có nhiều khởi sắc đang kể với sự phát triển nở rộ của các phân mảng thị trường nhỏ: chung cư cao cấp, văn phòng cho thuê, khu nghỉ dưỡng, biệt thự…
Trong bối cảnh đó các Công ty đầu tư tài chính giữ một vai trò đặc biệt quan trọng với tư cách là các nhà tạo lập thị trường, cầu nối đầu tư góp phần tạo sức nóng cho thị trường tài chính, thị trường đầu tư Việt Nam. Cụ thể:
Thu hút các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư thông qua hoạt động uỷ thác đầu tư;
Kết nối đầu tư giữa các vùng miền đặc biệt là kết nối đầu tư nước ngoài;
Là nhà đầu tư trực tiếp nên có tác động lớn đến cung cầu trên thị trường đầu tư.
HOẠT ĐỘNG ĐẢM BẢO NGUỒN VỐN CỦA CÔNG TY ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH
Khái niệm về đảm bảo nguồn vốn của Công ty đầu tư tài chính
Đảm bảo nguồn vốn của Công ty nói chung được hiểu đơn giản là đảm bảo đủ vốn để thực hiện các nghiệp vụ sản xuất kinh doanh của Công ty theo yêu cầu tại các thời điểm xác định hoặc xuyên suốt trong một thời kỳ.
Đối với Công ty đầu tư tài chính đảm bảo nguồn vốn được xác nhận khi nguồn vốn của Công ty đủ để thực hiện các hoạt động sau:
Thanh toán các khoản chi phí phục vụ hoạt động;
Thực hiện các nghĩa vụ tài chính với đối tác, khách hàng, hoàn trả các khoản nợ đến hạn;
Giải ngân đầu tư theo kế hoạch được duyệt và bao gồm các các khoản đầu tư mới phát sinh trong kỳ.
Hoạt động đảm bảo nguồn vốn của Công ty đầu tư tài chính
Xác định nhu cầu nguồn vốn
Để đảm bảo nguồn cho hoạt động ổn định của các doanh nghiệp đặc biệt là Công ty đầu tư tài chính trước hết phải xác định chính xác nhu cầu vốn của Công ty. Nhu cầu vốn chịu ảnh hưởng trực tiếp và cấu thành bởi các nhân tố sau đây:
Nhu cầu đầu tư: Theo tiến độ giải ngân các dự án đầu tư và hợp đồng đầu tư chứng từ có giá của Công ty. Việc lập kế hoạch đầu tư chính xác, bám sát nhu cầu và khả năng đầu tư thực tế của đơn vị sẽ góp phần rất lớn đảm bảo an toàn vốn cho toàn Công ty. Thông thường đơn vị sẽ bị động nếu kế hoạch đầu tư không thực tế, mơ hồ, các hạng mục đầu tư không được dự trù trước dẫn đến việc cân đối nguồn tiền gặp khó khăn.
Nhu cầu hoàn trả các khoản vốn tín dụng: Với các Công ty đầu tư tài chính hầu như việc sử dụng nguồn vốn bên ngoài: vốn uỷ thác, vốn vay ngân hàng chiếm một cơ cấu khá lớn trong nguồn vốn Công ty. Không phải là nguồn vốn sở hữu nên Công ty luôn phải đối mặt với các khoản vay đến hạn hoặc rút vốn trước hạn của đối tác. Việc này rất dễ dẫn đến tình trạng căng thẳng về nguồn, gây sức ép lớn đến bộ phận đảm bảo nguồn.
Tình hình hoạt động kinh doanh thực tế của Công ty: Có thể nói đây là một vấn đề khá nhạy cảm nhưng cũng chính là một thực tế. Trong điều kiện thị trường như hiện nay khi cơ cấu danh mục gặp nhiều khó khăn, việc chuyển nhượng các cơ hội khó thực hiện thì với các Công ty đầu tư việc tháo gỡ thực sự trở thành một bài toán khó. Dòng tiền không đều, các khoản thu theo dự kiến cơ hội thành công thấp tiềm ẩn những rủi ro hiện thực của Công ty. Trong bối cảnh với giả định kém thuận lợi đó nhu cầu vốn đáp ứng khả năng thanh toán hàng ngày: trả người bán, chi trả dịch vụ mua ngoài, chi trả lương nhân viên thì với một số Công ty cũng sẽ trở nên khó khăn hơn.
Các nhân tố ở trên chỉ là nhóm những nhân tố chủ yếu góp phần định hình nhu cầu vốn của Công ty, bên cạnh đó còn có một số các yếu tố ảnh hưởng khác. Thời điểm xuất hiện nhu cầu vốn cũng như khả năng đáp ứng nhu cầu đó tại từng thời điểm cụ thể được xem xét là một mắt xích trọng yếu để giải bài toán này.
Làm thế nào đảm bảo nhu cầu vốn của Công ty
Như đã phân tích ở trên sau khi xác định được nhu cầu vốn sẽ phát sinh 2 vấn đề lớn:
Tổng khối lượng vốn cần huy động để đáp ứng các nhu cầu hiện tại và nhu cầu theo kế hoạch;
Thời gian cần thiết phải cân đối nguồn đảm bảo khả năng thanh toán và nhu cầu đầu tư, giải ngân của Công ty.
Sau khi đã xác định được vấn đề đang gặp phải, làm thế nào đáp ứng nhu cầu đó được trả lời qua các bước thực hiện khái quát như sau:
Bước 1: Xác định số dư tiền hiện có kể cả số dư có khả năng hiện thực
Thực chất đây chỉ là một bài toán về cân đối dòng tiền thông thường. Xuất phát từ xác định nhu cầu vốn bắt buộc bước kế tiếp sẽ là xác định khả năng hiện có để đáp ứng nhu cầu nguồn. Đó là:
Số dư tiền hiện có trong tài khoản Công ty;
Danh mục chứng từ có giá thanh khoản cao;
Các khoản thu thường xuyên hoặc chắc chắn sẽ hiện thực trong kỳ;
Đôi khi trong một số trường hợp các nguồn tiền này được phân chia thành các nhóm nhỏ hơn: nhóm chắc chắn và nhóm không chắc chắn để dễ dàng xác định sự thiếu hụt một cách chính xác.
Bước 2: Xác định số vốn cần huy động trong kỳ
Số vốn cần huy động = Nhu cầu vốn - Số dư nguồn hiện có
Quy mô vốn cần huy động sẽ được phân loại cụ thể theo thời kỳ:
Quy mô vốn tổng thể;
Quy mô vốn tại từng thời điểm cụ thể: tháng, quý. Đối với các Công ty đầu tư tài chính còn được xác định chính xác đến hàng tuần và trong một số trường hợp cá biệt cũng sử dụng cân đối dòng tiền ngày.
Bước 3: Nhận định diễn biến trên thị trường vốn, phân tích tìm giải pháp
Diễn biến trên thị trường vốn ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng triển khai thành công các bước hành động cụ thể đảm bảo cân bằng nguồn. Trong điều kiện thuận lợi lãi suất tín dụng ở mức cạnh tranh việc tìm nguồn giá rẻ sẽ dễ dàng hơn rất nhiều so với thời kỳ lãi suất mức trần như hiện nay.
Những biến động hàng ngày của thị trường, chính sách quản lý điều tiết của Nhà nước tác động đến tâm lý của các tổ chức tín dụng, khả năng tiếp cận các nguồn vốn tốt của các nhà đầu tư. Tuỳ thuộc vào tình hình thực tế Công ty sẽ cân nhắc sử dụng nguồn với chi phí nào là hợp lý và sử dụng nguồn vốn ngoại có một số điểm ưu việt hơn nếu Công ty có quan hệ tốt với các tổ chức tài chính, kinh tế nước ngoài.
Nếu thị trường không có dấu hiệu tốt báo trước khả năng rủi ro về nguồn vốn tổng thể Công ty sẽ tập trung giải quyết các nguy cơ trước mắt: cân nguồn trong ngắn hạn đảm bảo an toàn trước khi đối phó với các nguồn dài hơi hơn.
Như vậy, việc phân tích thị trường sẽ trả lời các câu hỏi sau:
Công ty có thể huy động nguồn ở đâu? Nên tận dụng, khai thác thị trường trong nước hay mở rộng tìm kiếm thị trường nước ngoài?
Giá trung bình đối với các nguồn phổ biến hiện tại như thế nào?
Chi phí vốn trung bình bao nhiêu là hợp lý đối với tình hình của Công ty? Có cần thiết phải cắt giảm các khoản chi không cần thiết hay không?
Nên huy động từ ngân hàng hay sử dụng vốn uỷ thác đầu tư của các tổ chức kinh tế, tài chính khác? Nguồn vốn từ mua bán chứng khoán kỳ hạn có phù hợp với thời điểm hiện tại?...
Các dấu hiệu trên thị trường kết hợp với nguồn lực của Công ty, các vấn đề hiện tồn tại đòi hỏi Công ty giải quyết có thể sẽ dẫn đến một lựa chọn khác cho Ban lãnh đạo: phát hành thêm cổ phiếu sử dụng vốn thặng dư cổ phần. Thông thường điều này chỉ sử dụng được khi thị trường chứng khoán có khả năng tăng trưởng tốt, cổ phiếu Công ty có khả năng thanh khoản cao. Để phát hành thêm cổ phiếu tình hình kinh doanh đầu tư của Công ty, kế hoạch lợi nhuận và giá trị lợi nhuận trên vốn cổ phần, tổng tài sản sẽ là những điều kiện được cân nhắc, đánh giá kỹ lưỡng. Và thực chất đây không phải là giải pháp lúc nào cũng có thể thực hiện mặc dù chi phí sẽ thấp hơn rất nhiều so với sử dụng các nguồn vốn vay hoặc nguồn vốn từ mua bán chứng khoán kỳ hạn (còn gọi là Repo cổ phiếu).
Bước 4: Triển khai hành động
Căn cứ trên tình hình thực tế của thị trường nói chung và nhu cầu của Công ty nói riêng, bộ phận đảm bảo nguồn sẽ triển khai các bước hành động cụ thể:
Khoanh vùng, lựa chọn nguồn phù hợp;
Tiếp cận nguồn, đàm phán thương lượng ký kết hợp đồng. Lưu ý về các điều khoản trọng yếu: lãi suất, thời gian đáo hạn, đối tác có được rút vốn trước hạn không?
Riêng đối với nguồn vốn từ mua bán chứng khoán kỳ hạn các điều kiện về bổ sung tài sản đảm bảo trong trường hợp thị trường sụt giảm bắt buộc phải được cân nhắc kỹ lưỡng. Cũng là một giải pháp để huy động vốn hiệu quả nhưng nếu kỳ hạn không hợp lý so với diễn biến của thị trường chứng khoán có thể dẫn đến nhiều rủi ro cho Công ty trong quá trình cơ cấu danh mục.
Bước 5: Kế hoạch sử dụng nguồn chính xác và kế hoạch hoàn trả
Việc cân nguồn đã được xác định ở bước 2, tuy nhiên sau khi đã có được nguồn chắc chắn, việc cân nguồn sẽ đảm bảo có được một kế hoạch sử dụng nguồn chính xác, hiệu quả. Bài toán cân nguồn tiếp tục được tiến hành với mục đích trả lời các câu hỏi sau:
Nguồn được phân loại là nguồn dài hạn hay ngắn hạn? Nếu nguồn dài hạn sẽ được sử dụng để tài trợ các khoản đầu tư dài hạn bao gồm cả đầu tư tài sản cố định. Nếu nguồn ngắn hạn sẽ được sử dụng để tài trợ các khoản đầu tư ngắn hạn, thực hiện các nghĩa vụ tài chính. Công ty gặp khó khăn trong bối cảnh thị trường tụt dốc nói chung thì nguồn ngắn hạn có thể còn phải sử dụng chi trả các khoản chi phí thường ngày đảm bảo hoạt động của Công ty.
Nguồn được sử dụng để đầu tư đòi hỏi tỷ suất lợi nhuận từ khoản đầu tư đó mang lại sẽ cao hơn chi phí vốn huy động. Một số trường hợp Công ty huy động để thực hiện các nghĩa vụ tài chính và không có nhiều lựa chọn về chi phí nguồn mới trong tương quan với chi phí nguồn cũ, tỷ suất lợi nhuận của khoản đầu tư được tài trợ từ nguồn bị đáo hạn. Lúc đó Công ty phải chấp nhận rủi ro, chấp nhận sử dụng một nguồn có chi phí cao để tài trợ cho một nguồn có chi phí thấp hơn đến hạn; thậm chí chi phí đó còn cao hơn tỷ suất lợi nhuận dự kiến của khoản đầu tư;
Kế hoạch hoàn trả rõ ràng đặc biệt là nguồn để hoàn trả phải được Công ty xác định trước và sau khi huy động được nguồn. Việc tìm một nguồn mới để hoàn trả nguồn cũ chỉ là bất khả kháng khi vấn đề đảm bảo nguồn và khả năng thanh toán của Công ty gặp khó khăn. Để rủi ro ở mức thấp nhất, an toàn nguồn nói chung thì nguồn hoàn trả từ dòng tiền là cần thiết. Như vậy đi đôi với kế hoạch huy động, sử dụng vốn sẽ phải xây dựng kế hoạch hoạt động, kế hoạch cơ cấu danh mục, kế hoạch dòng tiền chân thực.
Các chỉ tiêu phản ánh khả năng đảm bảo nguồn vốn của Công ty đầu tư tài chính
Trên lý thuyết đến nay chưa có một hệ thống chỉ tiêu đặc thù phản ánh khả năng đảm bảo nguồn vốn của Công ty đầu tư tài chính. Nguyên nhân do đặc thù hoạt động của tổ chức đầu tư tài chính, không mang tính chất tổ chức tín dụng phi ngân hàng hoặc tổ chức ngân hàng. Tuy nhiên hệ thống các chỉ tiêu này lại đặc biệt quan trọng xuất phát từ vai trò của an toàn nguồn vốn đối với sự tồn tại và phát triển bền vững của tổ chức đầu tư tài chính chuyên nghiệp và đó chính là điểm khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp thông thường. Xem xét trên góc độ là doanh nghiệp thông thường nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng đảm bảo nguồn vốn bao gồm:
a) Các chỉ tiêu thanh toán
- Hệ số khả năng thanh toán nhanh =
(Tổng tài sản lưu động – Hàng tồn kho)
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này nói lên việc Công ty có nhiều khả năng đáp ứng việc thanh toán nợ ngắn hạn vì Công ty dễ dàng chuyển từ tài sản lưu động khác về tiền mặt. Thường được so sánh với hệ số trung bình của ngành, thông thường khả năng thanh toán của Công ty được đánh giá an toàn khi hệ số này > 0,5 khi đó Công ty có thể trang trải các khoản nợ ngắn hạn mà không cần đến các nguồn thu khác.
- Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn =
Tổng tài sản lưu động
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của Công ty, cho biết tỷ lệ các khoản nợ ngắn hạn của Công ty được trả bằng các tài sản tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó; cũng như trên trong tương quan so sánh hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn thường được so sánh với hệ số trung bình của ngành.
b) Các chỉ tiêu cơ cấu tài chính
- Hệ số nợ =
Nợ phải trả
Tổng tài sản
Cho biết phần trăm tổng tài sản của Công ty được tài trợ bằng các khoản nợ như thế nào. Hệ số nợ thấp có thể cho thấy việc sử dụng nợ không hiệu quả, hệ số nợ cao thể hiện gánh nặng về nợ lớn, hệ số hợp lý tùy thuộc vào khả năng và nhu cầu tự tài trợ của Công ty.
- Hệ số cơ cấu nguồn vốn =
Vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn
Phản ánh tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn của Công ty. Để xác định mức độ phù hợp về tỷ lệ vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn sẽ phụ thuộc rất lớn vào hoạt động và chính sách của từng Công ty cũng như của từng ngành.
Ngoài ra còn một số các chỉ tiêu khác phản ánh thực tế tình trạng nguồn vốn của Công ty như: Dư nợ đến hạn/ Tổng dư nợ; Dự nợ quá hạn/ Tổng dư nợ; Tỷ trọng nợ dài hạn (ngắn hạn)/ Tổng dư nợ…
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG ĐẢM BẢO NGUỒN VỐN CỦA CÔNG TY ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH
Nhân tố khách quan
Diễn biến của thị trường tài chính, thị trường vốn trong và ngoài nước:
Mọi diễn biến của thị trường đều có anh hưởng đến lãi suất, hạn mức tín dụng, tài sản đảm bảo, thời hạn vay đối với hoạt động tín dụng nói chung. Trong thời gian vừa qua thị trường tài chính thế giới tuột dốc rơi vào khủng hoảng; một số tổ chức tài chính Ngân hàng Mỹ phá sản đã tác động mạnh mẽ đến hầu hết các khu vực thị trường. Dấu hiệu khủng hoảng cho thấy việc lưu trữ tiền trong thị trường sẽ kém an toàn hơn so với các thời kỳ trước đó, lạm phát tăng cao, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng trưởng vượt mức so với cùng kỳ. Với lãi suất trần lên 21% sau đó giảm 18% và chính sách thắt chặt tín dụng của Ngân hàng Nhà nước thực sự gây ra rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp. Các đơn vị sản xuất việc tiêu thụ hạn chế do tâm lý cắt giảm tiêu dùng của một bộ phận lớn dân cư. Các tổ chức đầu tư khó hiện thực lợi nhuận với tỷ suất lợi nhuận 25% để bù đắp chi phí vốn và có lãi.
Nhân tố khách quan này nằm ngoài sự tự điều tiết của các đơn vị nhưng tác động của nó mạnh mẽ và lan truyền đến mức có giai đoạn đã làm tê liệt một phần hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội. Việc huy động, đảm bảo đủ nguồn vốn trở thành thách thức lớn.
Biến động của thị trường đầu tư:
Nếu môi trường đầu tư thuận lợi, chứng từ có giá có tính thanh khoản cao, việc cơ cấu danh mục dễ dàng thực hiện theo kế hoạch Công ty sẽ chủ động điều chỉnh dòng tiền thu cân đối với dòng tiền chi, tạo cơ sở cân đối nguồn. Nhân tố này gắn liền với nhân tố thứ nhất về diễn biến của thị trường tài chính nói chung và đây cũng chính là một nhân tố có tầm ảnh hưởng rộng lớn. Đặc biệt với các tổ chức đầu tư tài chính chuyên nghiệp, vấn đề tồn tại phụ thuộc nhiều vào sự lên xuống của thị trường. Thực tế trong điều kiện thị trường thấp điểm Công ty đầu tư vẫn có khả năng sinh lời nếu biến động thị trường xảy ra theo quy luật. Ở Việt Nam, thị trường đầu tư còn non trẻ, các hình thức thị trường còn ở mức độ sơ khai, diễn biến khó đoán định và thường không tuân theo quy luật chung của thị trường thế giới. Tự điều tiết đang xảy ra nhưng đòi hỏi quá trình thích ứng lâu dài của các nhà đầu tư, các nhà tạo lập thị trường. Thời điểm hiện tại các Công ty đầu tư tài chính vẫn đang xuôi theo dòng chảy của thị trường.
Chính sách của Nhà nước và các yêu cầu luật định:
Tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây ra những bất lợi đối với quá trình huy động vốn của các đơn vị kinh tế: cơ chế, thủ tục…
Nhân tố chủ quan
Nguồn lực và toàn cảnh bức tranh tài chính của Công ty:
Đây là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến hoạt động đảm bảo nguồn vốn của Công ty đầu tư tài chính. Nguồn lực nội tại của Công ty bao gồm: nguồn lực về vốn, tài sản đảm bảo (danh mục chứng từ có giá thanh khoản cao), danh mục dự án đầu tư có cơ hội chuyển nhượng thành công , nguồn lực con người, sức mạnh từ đội ngũ quản trị điều hành Công ty, uy tín thương hiệu... Một Công ty mạnh có thể sẽ gặp một số vấn đề trước mắt về nguồn vốn nhưng sẽ không tác động lớn đến cục diện và khả năng phát triển ổn định chung. Nguyên nhân: do nguồn lực mạnh nên dễ dàng tìm kiếm các hợp đồng huy động vốn dưới các hình thức phù hợp từ các đối tác, khách hàng có quan hệ bạn hàng bền vững; việc hiện thực hóa doanh thu có khả năng thành công cao; khả năng thanh toán nhanh được đảm bảo.
Bức tranh tài chính của Công ty thông qua các chỉ số tài chính sẽ phản ánh chân thực nhất hiện trạng của Công ty trong thời kỳ. Các chỉ tiêu này đã được trình bày ở mục 3 – phần II – chương I ở trên. Bằng cách tự bù đắp chi phí vốn bằng các nguồn có khả năng hiện thực trong kỳ với chi phí sử dụng bằng 0 Công ty sẽ giảm được quy mô huy động nếu không muốn thu hẹp quy mô đầu tư kinh doanh. Với việc đẩy mạnh hoạt động đầu tư kinh doanh, hiện thực hoá lợi nhuận, tăng cường dòng tiền về cũng như tiến hành đầu tư giải ngân mới theo đúng kế hoạch cân nguồn và kế hoạch dòng tiền góp phần lớn giảm sức ép về tài chính của Công ty. Quay vòng vốn tốt sẽ không đòi hỏi Công ty bắt buộc sử dụng một quy mô vốn lớn để tài trợ cho các khoản đầu tư trong dài hạn, đây chính là điểm khác biệt của Công ty đầu tư tài c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7899.doc