LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, những năm qua nước ta đã và đang có những bước chuyển mình đáng kể trên tất cả các lĩnh vực văn hóa – kinh tế của đời sống xã hội. Ngân hàng là một bộ phận chủ chốt của nền kinh tế, vì thế sự phát triển của ngân hàng là cơ sở thúc đẩy để cho các loại hình kinh doanh khác phát triển một cách nhanh chóng, theo kịp xu hướng toàn cầu hóa hiện nay.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, trong những năm gần đây Ngân hàn
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tăng cường công tác quản lý vốn tại Ngân hàng thương Mại Cổ phần Quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g Thương mại Cổ phần Quân đội không ngừng nỗ lực phát triển từ một ngân hàng nhỏ với điểm xuất phát thấp, qua hơn 10 năm phát triển trở thành một ngân hàng có vị thế nhất định trong hệ thống các Ngân hàng thương mại. Đến nay, Ngân hàng đã chiếm được lòng tin của nhiều đối tượng khách hàng và được đánh giá là một trong những Ngân hàng TMCP hoạt động an toàn và hiệu quả nhất.
Với những thách thức và cơ hội, thời cơ đang chờ đợi phía trước, Ngân hàng Quân đội đã và đang khẳng định vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam. Cùng với hệ thống ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội dần trở thành kênh chủ yếu huy động và cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Cùng với sự tăng trưởng nhanh nền kinh tế và quá trình hội nhập quốc tế, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội đang tiến hành hiện đại hóa ngân hàng, đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng với mạng lưới chi nhánh rộng khắp trong cả nước, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế, áp dụng nó vào hoạt động kinh doanh, nhất là công tác quản lý vốn để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và để đứng vững, phát triển trong môi trường cạnh tranh khá gay gắt hiện nay.
Vì thế, em đã chọn đề tài “Tăng cường công tác quản lý vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội “ để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Do còn nhiều hạn chế về kiến thức, thời gian và kinh nghiệm nên chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong có sự góp ý và chỉ bảo của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo – Th.S Nguyễn Thị Thùy Dương và các anh chị dang công tác tại Ngân hàng Quân đội đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1 : Tổng quan về quản lý vốn của Ngân hàng
Thương mại
1.1. Một số vấn đề về vốn của Ngân hàng Thương mại
1.1.1. Khái niệm nguồn vốn của NHTM
Khái niệm vốn trong kinh doanh Ngân hàng tương đối khác so với nhiều loại hình kinh doanh khác. Ngân hàng Thương mại là doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng – một tổ chức cung ứng vốn chủ yếu và hữu hiệu của nền kinh tế. Việc tạo lập, tổ chức và quản lý vốn của Ngân hàng Thương mại là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu không chỉ về lợi ích riêng của bản thân các NHTM mà còn vì sự phát triển chung của nền kinh tế.
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà ngân hàng tạo lập, huy động được để cho vay, đầu tư và thực thi các dịch vụ ngân hàng.
1.1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh NH.
Ngân hàng là tổ chức hoạt động kinh doanh đem lại lợi ích cho chính mình và những người gửi tiền, đồng thời góp phần quan trọng trong việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh cũng như thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động kinh tế khác.
Thứ nhất, vốn đóng vai trò quan trọng hàng đầu để cấp phép hoạt động cho một ngân hàng và đảm bảo khả năng tồn tại của ngân hàng đó. Vốn là điều kiện bắt buộc để Ngân hàng có được giấy phép tổ chức và hoạt động trước khi nó có thể huy động được những khoản tiền gửi đầu tiên. Một Ngân hàng mới luôn cần vốn ban đầu để mua đất, xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị những điều kiện làm việc, thuê nhân viên, thậm chí ngay cả trước ngày hoạt động chính thức. Trên cơ sở vốn tự có, Ngân hàng huy động một nguồn vốn dồi dào, ổn định và kết hợp hài hòa giữa các nguồn vốn với nhau tạo ra một kết cấu hợp lý. Điều đó sẽ giúp Ngân hàng đa dạng hóa danh mục hoạt động nhằm phân tán rủi ro, đồng thời chủ động trong kinh doanh nhằm đạt tới mục tiêu cuối cùng là an toàn và sinh lợi.
Thứ hai, vốn có ảnh hưởng đến quy mô cho vay, khả năng thanh toán và các hoạt động khác của ngân hàng. Quy mô cho vay phụ thuộc chủ yếu vào quy mô vốn. Trong từng giai đoạn cụ thể, tùy vào lượng vốn huy động được mà Ngân hàng có thể mở rộng hoặc thu hẹp hoạt động kinh doanh của mình. Nếu Ngân hàng có nguồn vốn dồi dào, ổn định tạo điều kiện cho Ngân hàng tăng khối lượng, phạm vi cho vay và đa dạng hóa các hình thức cho vay để giảm thiểu rủi ro, đồng thời thực hiện tốt khả năng thanh toán và các dịch vụ khác tạo thu nhập cho Ngân hàng. Ngược lại, nếu chỉ có nguồn vốn nhỏ thì Ngân hàng chỉ có thể cho vay trong phạm vi hẹp, không chủ động trong kinh doanh, bỏ lỡ cơ hội tạo ra lợi nhuận thêm cho mình.
Đồng thời, để duy trì sự tồn tại, nhà quản trị Ngân hàng cần bảo vệ Ngân hàng mình trước những rủi ro mất khả năng thanh toán (vỡ nợ); nghĩa là bảo vệ Ngân hàng trước khi buộc phải đi đến phá sản. Nó là phương tiện chính giúp NHTM phòng ngừa rủi ro mất khả năng thanh toán và không phải đi đến phá sản.
Thứ ba, vốn có chức năng chống đỡ hoặc bù đắp rủi ro. Các khoản thua lỗ của ngân hàng sẽ được bù đắp bằng vốn. Xét trên quan điểm của các chủ nợ (người sở hữu trái phiếu Ngân hàng dài hạn, những chủ nợ ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ…), thì vốn của Ngân hàng là yếu tố bảo vệ họ không bị mất vốn. Những Ngân hàng hoạt động với mức độ rủi ro cao (Ví dụ: Ngân hàng thực hiện một khoản cho vay mạnh dạn) thì cần nhiều vốn hơn những Ngân hàng có mức độ rủi ro thấp hơn. Nếu các chủ nợ không thích rủi ro thấy rằng Ngân hàng không đủ vốn tương ứng với mức độ rủi ro mà Ngân hàng đang chấp thuận thì họ sẽ không cho Ngân hàng vay nữa.
Vốn đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản vì vốn giúp trang trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi ban quản lý có thể tập trung giải quyết các vấn đề và đưa Ngân hàng trở lại trạng thái hoạt động sinh lời.
Thứ tư, tăng năng lực cạnh tranh và uy tín của ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, để tồn tại và phát triển, đòi hỏi mỗi Ngân hàng phải có đủ năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng được tạo nên từ nhiều yếu tố khác nhau, mà trước hết là quy mô và chất lượng nguồn vốn. Ngân hàng với quy mô và chất lượng nguồn vốn tốt mới có khả năng mở rộng quy mô kinh doanh, hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng, đầu tư cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ và trang thiết bị mới tăng sức cạnh tranh cho Ngân hàng trên thị trường. Khi một Ngân hàng phát triển, nó cần bổ sung để thúc đẩy tăng trưởng và chấp nhận rủi ro gắn với sự ra đời những dịch vụ mới và những trang thiết bị mới. Hầu hết các Ngân hàng đều mở rộng và phát triển cơ sở vật chất so với lúc đầu và sự bổ sung vốn sẽ cho phép Ngân hàng mở rộng trụ sở, xây dựng thêm những văn phòng, chi nhánh để theo kịp với sự phát triển của thị trường và tăng cường chất lượng phục vụ khách hàng.
Không những vậy, Ngân hàng cũng phải chú trọng đến uy tín của mình. Điều đó thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán khi khách hàng yêu cầu và khả năng sẵn sàng cung cấp dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng…Vốn tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ (bao gồm cả người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của Ngân hàng . Ngân hàng cần phải đủ mạnh để có thể đảm bảo với những người đi vay rằng Ngân hàng có thể đáp ứng các nhu cầu tín dụng của họ ngay cả trong điều kiện nền kinh tế đang gặp khó khăn.
Để thỏa mãn được những nhu cầu này, Ngân hàng cần phải nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung cũng như công tác huy động vốn nói riêng.
1.1.3. Cấu trúc nguồn vốn và nghiệp vụ về vốn.
Nguồn vốn của NHTM bao gồm: vốn chủ sở hữu và vốn nợ.
1.1.3.1. Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng, đó là nguồn tiền được đóng góp chủ yếu bởi những người chủ ngân hàng, có thể sử dụng lâu dài hình thành nên trang thiết bị nhà cửa cho Ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu ngân hàng bao gồm nhiều loại khác nhau và được phân thành vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Trong đó, vốn cấp 1 (vốn cơ bản) được xem là sức mạnh và tiềm lực thực sự của ngân hàng; vốn cấp 2 (vốn bổ sung) được giới hạn tối đa bằng 100% vốn cấp 1. Nó ảnh hưởng đến số vốn được phép huy động việc lập chi nhánh và hệ số an toàn của ngân hàng (nói chung, hệ số an toàn của các ngân hàng Việt Nam khoảng 40%).
Theo văn bản hiện hành của NHNN Việt Nam, vốn chủ sở hữu của NHTM được xác định cụ thể như sau:
a, Vốn cấp 1.
Vốn cấp 1 bao gồm: vốn điều lệ (vốn ban đầu), các quỹ dự trữ và lợi nhuận không chia.
* Nguồn vốn ban đầu (vốn điều lệ):
Là nguồn vốn ban đầu lúc Ngân hàng được hình thành và bắt đầu hoạt động.
Tùy theo tính chất của mỗi Ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Đối với Ngân hàng Nhà nước, vốn ban đầu do Ngân hàng Nhà nước cấp khi thành lập và được bổ sung thêm trong quá trình hoạt động. Ngân hàng Thương mại cổ phần do các cổ đông đóng góp. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh đóng góp. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, vốn điều lệ do ngân hàng mẹ ở nước ngoài cấp.
Vốn ban đầu nhiều hay ít phụ thuộc vào khả năng tài chính của các chủ sở hữu và ý đồ thành lập Ngân hàng với quy mô hoạt động khác nhau. Vốn điều lệ của mỗi ngân hàng luôn phải lớn, hoặc tối thiểu bằng vốn pháp định, là số vốn do Chính phủ quy định trong từng thời kỳ cho từng loại hình ngân hàng.
Trong quá trình hoạt động, các ngân hàng có thể tăng thêm vốn điều lệ nhưng phải được sự đồng ý của Ngân hàng Trung ương và phải công bố công khai vốn điều lệ mới.
* Lợi nhuận không chia.
Là nguồn vốn được bổ sung trong quá trình hoạt động. Đó là phần thu nhập của ngân hàng được giữ lại trong quá trình hoạt động kinh doanh thay vì dùng để chi trả cổ tức cho các cổ đông.
Các ngân hàng có lợi nhuận cao sẽ có khả năng bổ sung vốn tốt hơn.
* Các quỹ.
Ngân hàng có nhiều quỹ như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo tồn vốn, quỹ thặng dư, quỹ đầu tư, quỹ phúc lợi, khen thưởng và một số quỹ khác… Mỗi quỹ có mục đích riêng, tùy theo nhu cầu mà các ngân hàng lập các quỹ có quy mô khác nhau. Các quỹ này được hình thành trong quá trình hoạt động và được tích lũy theo thời gian để sử dụng cho các mục đích cụ thể của ngân hàng. Việc trích lập và sử dụng các quỹ dự trữ của ngân hàng được thực hiện theo quy định của pháp luật trong từng thời kỳ.
Các quỹ của Ngân hàng thuộc sở hữu của chủ Ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của Ngân hàng. Tuy nhiên một số quỹ Ngân hàng không thể sử dụng lâu dài.
Vốn cấp 1 được dùng làm căn cứ để xác định giới hạn mua cổ phiếu, đầu tư vào tài sản cố định của tổ chức tín dụng.
b, Vốn cấp 2.
* Giá trị tăng thêm của tài sản cố định và giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư được định giá lại theo quy định của pháp luật.
Do giá trị thị trường của tài sản có thể thay đổi theo thời gian nên vốn do đánh giá lại tài sản thường không ổn định, vì vậy các ngân hàng chỉ được tính vào vốn cấp 2 một phần giá trị tăng thêm của tài sản. Theo quy định hiện hành thì vốn cấp 2 gồm 50% giá trị tăng thêm của TSCĐ và 40% giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư được định giá lại theo quy định của pháp luật.
* Dự phòng chung.
Dự phòng chung là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa được xác định trong trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể và trong các trường hợp khó khăn về tài chính của ngân hàng khi chất lượng các khoản nợ suy giảm. Việc trích lập và sử dụng dự phòng chung được thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo quy định hiện hành thì mức dự phòng chung được tính vào vốn cấp 2 tối đa bằng 1,25% tổng tài sản có rủi ro.
* Vốn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Bao gồm các trái phiếu chuyển đổi và một số các công cụ nợ khác thỏa mãn điều kiện do NHNN quy định. Đây là khoản nợ vốn dài hạn do các nhà đầu tư bên ngoài đóng góp. Vì vậy, các nhà quản lý ngân hàng chỉ được tính vào vốn cấp 2 khi các công cụ này thỏa mãn các điều kiện do NHTƯ quy định về thời hạn, về đảm bảo của ngân hàng khi phát hành, về điều chỉnh tăng lãi suất, về thanh toán nợ gốc và lãi.
Một số Ngân hàng coi cổ phần ưu đãi có thời hạn, các khoản vay trung và dài hạn cũng thuộc vốn của chủ mặc dù chúng mang tính chất của một khoản nợ (phải hoàn trả).
Do tính chất đặc thù trong kinh doanh ngân hàng, nên vốn chủ sở hữu chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động của NHTM. Song vốn chủ sở hữu của ngân hàng lại đóng vai trò quan trọng và thực hiện một số chức năng không thể thay thế trong hoạt động ngân hàng như: cung cấp nguồn lực ban đầu để giúp ngân hàng mới thành lập hoạt động, cung cấp nền tảng cho sự tăng trưởng và mở rộng, giúp ngân hàng chống lại rủi ro và duy trì niềm tin cho công chúng vào khả năng quản lý và phát triển của ngân hàng. Để đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh, các ngân hàng phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% giữa vốn chủ sở hữu với tổng tài sản có rủi ro. Tuy nhiên khi xác định tổng số vốn chủ sở hữu để tính tỷ lệ an toàn tối thiểu, các ngân hàng phải khấu trừ khỏi vốn cấp 1 và vốn cấp 2 một số khoản mục như: lợi thế thương mại, toàn bộ phần giá trị giảm đi của tài sản cố định và các loại chứng khoán đầu tư do định giá lại theo quy định của pháp luật: tổng số vốn của tổ chức tín dụng đầu tư vào các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần: phần góp vốn, liên doanh, mua cổ phần của quỹ đầu tư, doanh nghiệp khác vượt mức dư nợ cho vay tối đa của ngân hàng với một khách hàng (tổng mức dư nợ cho vay tối đa của ngân hàng với một khách hàng theo quy định hiện hành là 15% VCSH của ngân hàng); các khoản lỗ kinh doanh, bao gồm cả lỗ lũy kế.
1.1.3.2. Vốn nợ.
Vốn nợ của các ngân hàng gồm có vốn huy động và vốn đi vay.
a, Vốn huy động.
Vốn huy động của NHTM dưới hình thức bằng tiền (nội tệ và ngoại tệ) và bằng vàng được hình thành từ hai bộ phận: vốn huy động từ tiền gửi và vốn huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá.
* Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi
Để huy động vốn, các ngân hàng đã cung cấp rất nhiều loại tiền gửi khác nhau cho khách hàng lựa chọn. Mỗi công cụ huy động tiền gửi mà các ngân hàng đưa ra đều có những đặc điểm riêng nhằm làm cho chúng phù hợp hơn với nhu cầu của khách hàng trong việc tiết kiệm và thực hiện thanh toán. Căn cứ vào nguồn hình thành, vốn tiền gửi của các NHTM bao gồm tiền gửi của tổ chức kinh tế, tiền gửi của dân cư và tiền gửi khác.
Tiền gửi của tổ chức kinh tế. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các tổ chức kinh tế thường có một bộ phận vốn nhàn rỗi tạm thời như: khách hàng đã trích nhưng chưa đến lúc sử dụng; tiền thu bán hàng chưa phải mua nguyên liệu, trả lương; các quỹ đầu tư phát triển, phúc lợi, khen thưởng đã trích nhưng chưa sử dụng đến… Để đảm bảo an toàn tài sản và đồng vốn vẫn sinh lời, các tổ chức kinh tế có thể gửi số vốn đó vào ngân hàng…hoặc để thuận tiện trong quá trình sử dụng vốn, đơn vị có thể thanh toán qua ngân hàng cũng như sử dụng các dịch vụ ngân hàng khác. Khi đó, họ cần phải gửi vốn vào ngân hàng. Tổ chức kinh tế có thể gửi vốn vào ngân hàng dưới hình thức: tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn với các kỳ hạn khác nhau. Đồng thời, ngân hàng sẽ mở cho đơn vị các tài khoản tương ứng để thuận tiện trong việc sử dụng.
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút tiền ra bất ký lúc nào và ngân hàng luôn có nghĩa vụ phải thỏa mãn các nhu cầu đó. Loại tiền gửi này có mục đích chính là để thanh toán.
Đối với tiền gửi không kỳ hạn, mặc dù việc gửi và rút tiền có thể thực hiện vào bất kỳ lúc nào, Ngân hàng khó xác định trước nhưng trên thực tế luôn có sự chênh lệch về thời gian và số lượng giữa việc gửi và rút tiền, cho nên tại mỗi ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi không kỳ hạn và ngân hàng có thể sử dụng để cho vay. Lãi suất của loại tiền gửi này rất thấp, thậm chí có những khoản tiền gửi Ngân hàng không phải trả lãi. Cho nên, nguồn vốn này giúp Ngân hàng hạ thấp giá mua vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh trong cho vay và đầu tư.
Tiền gửi có kỳ hạn có sự thỏa thuận về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc chỉ có thể rút tiền theo kỳ hạn đã thỏa thuận, nhưng trên thực tế để thu hút loại tiền gửi này với kỳ hạn dài, thường cho phép rút tiền trước thời hạn nhưng khách hàng chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn hoặc mức lãi suất tương ứng theo loại kỳ hạn nhất định do Ngân hàng quy định.
Nguồn vốn này có độ ổn định cao, giúp Ngân hàng chủ động trong quá trình sử dụng. Vì vậy, để thu hút nhiều hơn loại tiền gửi này, các Ngân hàng thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau phù hợp với thời gian vốn nhàn rỗi ở các đơn vị, mỗi kỳ hạn có một mức lãi suất tương ứng theo nguyên tắc kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao.
Tiền gửi của dân cư. Đây là một bộ phận thu nhập bằng tiền của các tầng lớp dân cư trong xã hội gửi vào Ngân hàng nhằm mục đích tiết kiệm, kiếm lời và để thanh toán. Tiền gửi của dân cư bao gồm: tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động vốn truyền thống của Ngân hàng. Với loại tiền gửi này, người gửi được Ngân hàng giao cho một sổ tiết kiệm, trong thời gian gửi tiền, sổ tiết kiệm có thể dùng làm vật cầm cố hoặc được chiết khầu để vay vốn Ngân hàng.
Tiền gửi tiết kiệm gồm: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn với các kỳ hạn khác nhau.
Tiền gửi thanh toán. Các cá nhân trong xã hội cũng có nhu cầu và được pháp luật cho phép thực hiện thanh toán qua Ngân hàng. Khi đó, họ cũng mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng và gửi tiền vào đó để đáp ứng các nhu cầu thanh toán cũng như để sử dụng các tiện ích khác nhau có liên quan của Ngân hàng.
Giống như tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm (kể cả không kỳ hạn và có kỳ hạn) và tiền gửi thanh toán của dân cư tạo nên nguồn vốn hoạt động của NHTM.
Trên thực tế, tiền gửi của dân cư luôn chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn huy động của Ngân hàng. Để khai thác nguồn vốn này, các Ngân hàng luôn chú trọng đến việc đa dạng hóa các hình thức huy động như: huy động bằng vàng, huy động tiền gửi có đảm bảo bằng vàng, tiết kiệm xây nhà ở, tiết kiệm gửi một nơi nhưng lĩnh nhiều nơi…với lãi suất hợp lý.
Tiền gửi khác. Ngoài hai loại tiền gửi trên, tại Ngân hàng còn có thêm các khoản tiền gửi khác như: tiền gửi của tổ chức tín dụng khác, tiền gửi của kho bạc Nhà nước, tiền gửi của các tổ chức đoàn thể xã hội.
* Vốn huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá (vay trên thị trường vốn).
Đây là nguồn vốn mà các NHTM có được thông qua việc phát hành các giấy tờ có giá như kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi …
Đối tượng mua kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng và chứng chỉ tiền gửi là các tổ chức, cá nhân. Ngoài việc dùng số vốn nhàn rỗi hoặc phần thu nhập tạm thời chưa sử dụng đến để mua, trên thực tế đây còn là một kênh đầu tư của người có vốn trong xã hội khi họ không có khả năng và cơ hội đầu tư trực tiếp. Các kỳ phiếu, trái phiếu này có khả năng chuyển đổi dễ dàng ra tiền khi cần thiết bằng cách bán, chuyển nhượng trên thị trường vốn hoặc chiết khấu tại Ngân hàng.
Với việc phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn, Ngân hàng có khả năng tập trung một khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn và hoàn toàn chủ động trong sử dụng. Hình thức này thường được thực hiện khi Ngân hàng đã tiếp nhận được những dự án vay vốn lớn với thời hạn giải ngân nhanh của khách hàng, hay sau khi đã cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn trong toàn hệ thống mà vẫn còn thiếu và được sự đồng ý của Thống đốc NHTƯ.
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn (trên 80%) trong toàn bộ vốn kinh doanh của NHTM. Đây là nguồn vốn có ảnh hưởng rất lớn đến chi phí và khả năng mở rộng kinh doanh của Ngân hàng. Nguồn vốn này có xu hướng ngày càng gia tăng, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế, trong điều kiện tái cơ cấu và nâng cao chất lượng dịch vụ của Ngân hàng.
b, Vốn đi vay.
Là tiền ngân hàng đi vay khi cần nó. Trong quá trình kinh doanh của các NHTM luôn có tình trạng tạm thời thừa và thiếu vốn, đó là khi huy động vốn nhưng chưa cho vay hết, hoặc khi khách hàng có nhu cầu vay lớn nhưng nguồn vốn lại không đủ, hoặc người gửi rút tiền trước thời hạn trong khi đó vốn cho vay chưa đến lúc thu hồi. Khi đó các NHTM có thể gửi vào các tổ chức tín dụng khác để hưởng lãi, hoặc đi vay vốn để tận dụng cơ hội kinh doanh hoặc đảm bảo khả năng thanh toán.
NHTM có thể vay vốn ở các tổ chức tín dụng khác hoặc vay vốn ở NHTƯ.
* Vay của NHNN.
NHTƯ là Ngân hàng của các Ngân hàng và là Ngân hàng cho vay cuối cùng trong nền kinh tế. Vì vậy, các NHTM có thể được NHTƯ cho vay vốn khi cần thiết.Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu (tái cấp vốn), thông thường là các thương phiếu có chất lượng và đúng mục tiêu của NHNN trong từng thời kỳ. Ở Việt Nam hiện nay, NHNN cho các NHTM vay vốn ngắn hạn dưới hình thức:
- Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
- Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Ngoài ra, NHTƯ còn cho NHTM vay bổ sung vốn thiếu hụt trong thanh toán bù trừ trong trường hợp đặc biệt, khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, NHNN còn cho vay đối với các NHTM tạm thời mất khả năng chi trả có nguy cơ gây mất an toàn cho toàn hệ thống.
* Vay của các tổ chức tín dụng khác.
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Hầu hết các NHTM được tổ chức thành hệ thống gồm nhiều chi nhánh và hạch toán kinh doanh toàn ngành, tiến hành điều chuyển vốn giữa các chi nhánh qua hội sở chính, khi thừa vốn các chi nhánh điều chuyển về hội sở chính. Khi thiếu vốn các chi nhánh được nhận vốn điều chuyển từ hội sở chính. Vì vậy, việc vay vốn của các tổ chức tín dụng khác trong và ngoài nước thường chỉ thực hiện ở Hội Sở Chính của từng hệ thống.
Vốn vay của tổ chức tín dụng khác và vay của NHNN thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn kinh doanh của NHTM, cho nên ngoài tín dụng góp phần gia tăng nguồn vốn, mở rộng kinh doanh của Ngân hàng, nó còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên và nâng cao hiệu suất sử dụng vốn của NHTM.
c, Vốn nợ khác
Bên cạnh các nguồn vốn trên, trong quá trình hoạt động các NHTM còn có thể tạo lập vốn cho mình từ nhiều nguồn khác.
* Vốn trong thanh toán
Là số vốn có được do ngân hàng làm trung gian thanh toán trong nền kinh tế. Cụ thể:
- Số vốn trong thời gian đã trích khỏi tài khoản của người trả nhưng chưa chuyển vào tài khoản của người hưởng do phải luân chuyển, xử lý chứng từ thanh toán.
- Số vốn trong thời gian khách hàng lưu ký tại Ngân hàng nhưng chưa thanh toán trong một số hình thức thanh toán như séc bảo chi, thư tín dụng, thẻ thanh toán ký quỹ…
Khi công nghệ thanh toán của Ngân hàng ngày càng hiện đại, quy trình, thủ tục thanh toán được cải tiến thì thời gian của mỗi khoản thanh toán được giảm đi đáng kể, do đó vốn mà Ngân hàng có được trong mỗi khoản thanh toán cũng giảm. Nhưng do ngày càng nhiều khách hàng mở tài khoản và thanh toán được thực hiện qua Ngân hàng ngày càng tăng, làm cho số vốn này có điều kiện gia tăng.
* Vốn ủy thác đầu tư, tài trợ của Chính Phủ hoặc các tổ chức trong và ngoài nước cho các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Đây là nguồn vốn mà Ngân hàng có được do làm đại lý nhận ủy thác của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện đầu tư cho những chương trình, dự án. Trong thời gian vốn đã được ngân hàng tiếp nhận nhưng chưa giải ngân hết theo kỳ hạn, hoặc vốn cho vay đã thu hồi về nhưng chưa đến hạn chuyển lại cho chủ đầu tư, Ngân hàng có được một số vốn để kinh doanh. Mặt khác, khi thực hiện nghiệp vụ này Ngân hàng sẽ được hưởng hoa hồng phí.
Ngoài ra, Ngân hàng còn làm đại lý bán cổ phiếu, trái phiếu cho các doanh nghiệp cũng như thu hộ lợi tức từ chứng khoán cho khách hàng…Những nghiệp vụ này cũng tạo thêm được nguồn vốn cho Ngân hàng.
Các nguồn vốn khác của Ngân hàng có thể không nhiều, thời gian sử dụng đôi khi rất ngắn nhưng điều đáng quan tâm là nguồn vốn này Ngân hàng không phải tốn kém chi phí huy động, nhưng lại có điều kiện phát triển các nghiệp vụ và dịch vụ Ngân hàng khác, phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới nguồn vốn của NH.
Vốn của ngân hàng gồm vốn tự có và vốn nợ, có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu và chất lượng của nguồn vốn.
1.1.4.1 Các nhân tố khách quan.
Đầu tiên phải kể đến là môi trường kinh tế, tình hình chính trị, xã hội, nó tác động mạnh mẽ, chi phối đến lượng vốn của Ngân hàng, vừa tạo cơ hội kinh doanh cho Ngân hàng cũng mang đến những thách thức đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Khi nền kinh tế trong nước suy thoái cũng như tình hình chính trị - xã hội không ổn định, thu nhập giảm sút, lạm phát và thất nghiệp tăng, tiền gửi tại Ngân hàng sẽ không đảm bảo, người dân không an tâm khi gửi tiền vào Ngân hàng mà có xu hường tích lũy bằng tài sản khác đảm bảo được giá trị của đồng tiền như vàng, ngoại tệ mạnh. Ngược lại, khi nền kinh tế trong giai đoạn tăng trưởng, tình hình chính trị - xã hội ổn định, khi đó hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển là cơ hội tốt để thu hút nguồn tiền gửi.
Tình hình kinh tế thế giới cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động vốn của Ngân hàng, nhất là hiện nay khi xu thế toàn cầu hóa với sự phát triển của thương mại quốc tế và sự di chuyển tự do hơn của các dòng vốn quốc tế làm cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động quản lý vốn nói riêng của Ngân hàng cũng có những thay đổi mạnh mẽ.
Tình hình lạm phát cũng ảnh hưởng rất lớn, lạm phát tăng cao làm cho lãi suất thực giảm xuống nhanh chóng sẽ khó huy động được vốn (không khuyến khích được tiết kiệm). Lãi suất tăng cao làm cho giá trị thực của nguồn vốn Ngân hàng tụt giảm nhanh chóng vì đồng tiền bị mất giá.
Sự biến động của thu nhập bình quân, sự ổn định về kinh tế, chính trị - xã hội; tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc dân…là những yếu tố tác động nhạy cảm đến quy mô và thay đổi kỳ hạn của nguồn tiền mà Ngân hàng cần phải xem xét khi nghiên cứu thị trường để có biện pháp quản lý và sử dụng thích hợp.
Thứ hai, cơ chế chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng ảnh hưởng mạnh đến nguồn vốn của Ngân hàng. NHTM cũng là một tổ chức kinh doanh, chịu sự tác động trực tiếp bởi các chính sách, các quy định, điều chỉnh của Chính phủ và NHNN như: chính sách tiền tệ, chính sách thuế, chính sách tỷ giá…
Cơ chế chính sách, pháp luật ổn định là nền tảng cơ sở cho hoạt động Ngân hàng ổn định, đồng thời tạo niềm tin cho công chúng khi gửi tiền đến Ngân hàng. Ngược lại, khi cơ chế chính sách, pháp luật thay đổi thường xuyên làm ảnh hưởng đến tâm lý khách hàng và gây khó khăn trong quá trình huy động và quản lý nguồn vốn của Ngân hàng.
Thứ ba, tập quán dân cư, thời vụ chi tiêu ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu, chất lượng và tính ổn định của nguồn tiền. Tập quán dân cư rất khác nhau giữa các vùng, địa phương, quốc gia. Đó là thói quen chi tiêu, tiêu dùng bằng tiền mặt, thói quen sử dụng các dịch vụ thanh toán, mức độ tiếp cận các dịch vụ Ngân hàng … sẽ tác động đến mức độ tiết kiệm của dân cư.
Ở nước ta, điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến, người dân vẫn còn thói quen để tiền trong túi hoặc trong két hoặc mua vàng, ngoại tệ để dự trữ, họ chưa có thói quen gửi tiền vào Ngân hàng để sử dụng các dịch vụ Ngân hàng vì họ sợ phiền hà trong thanh toán, giao dịch.
Vào dịp tết, nguồn tiền tiết kiệm của dân cư cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng giảm sút, đặc biệt trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến, ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của Ngân hàng. Do đó, Ngân hàng cần phải chủ động hơn với khách hàng, cần cung cấp thông tin, tuyên truyền lợi ích, tiện lợi của các sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng cho khách hàng khi đến với Ngân hàng.
1.1.4.2 Các nhân tố chủ quan.
Ngoài các nhân tố khách quan trên còn có các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu và chất lượng nguồn vốn.
Thứ nhất phải kể đến là lãi suất và hình thức huy động vốn. Lãi suất huy động vốn tác động trực tiếp đến hoạt động huy động vốn làm ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu và chất lượng của nguồn tiền. Một lãi suất huy động hấp dẫn sẽ có tác động kích thích được nguồn tiền gửi làm thay đổi cơ cấu và tác động đến chất lượng nguồn tiền: đa dạng hóa được nguồn tiền, giảm rủi ro.
Việc duy trì lãi suất cạnh tranh giữa các Ngân hàng với nhau càng trở nên gay gắt trong việc thu hút và duy trì các khoản tiền gửi hiện có khi mà sự cạnh tranh đã diễn ra hết sức đa dạng, Ngân hàng không chỉ cạnh tranh với các Ngân hàng mà còn cạnh tranh với các tổ chức tài chính, tín dụng khác như các tổ chức tiết kiệm, tổ chức bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân…Việc xây dựng chính sách lãi suất trong điều kiện cạnh tranh là yếu tố ảnh hưởng lớn đến quy mô nguồn vốn thu hút vào Ngân hàng. Lãi suất cao sẽ kích thích doanh nghiệp và dân cư gửi tiền. Để duy trì và thu hút nguồn vốn thì Ngân hàng cần ổn định mức lãi suất cạnh tranh, có chính sách lãi suất ưu đãi và hợp lý để thu hút những khách hàng lớn, những khách hàng gửi tiền thường xuyên vào Ngân hàng. Tuy nhiên phải chú ý để không làm ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng, vì tăng lãi suất huy động thì đồng thời cũng phải tăng lãi suất cho vay.
Hình thức huy động đa dạng ví dụ như tiền gửi với các kỳ hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ, bằng vàng…cũng là nhân tố ảnh hưởng tới cơ cấu và chất lượng nguồn vốn.
Thứ hai, vị trí và uy tín của ngân hàng. Vị trí của Ngân hàng là một nhân tố hết sức quan trọng. Ngân hàng có trụ sở bề thế, cơ sơ vật chất hiện đại và có vị thế thuận lợi như gần nhà, gần nơi làm việc của người gửi tiền, nhất là đối với khách hàng cá nhân sẽ tạo cho họ tâm lý thích gửi tiền ở Ngân hàng đó hơn.
Khi được sự tin tưởng từ phía khách hàng là một lợi thế mà các Ngân hàng và tổ chức tài chính khác khó có thể có được. Từ đó thu hút nguồn tiền gửi một cách dễ dàng, nhất là đối với những Ngân hàng lớn, lâu năm thì uy tín càng cao vì họ tin tưởng vào Ngân hàng, cảm thấy an tâm với các khoản tiền gửi của mình.
Thứ ba, tình hình hoạt động kinh doanh và tính chất của mỗi ngân hàng. Một Ngân hàng hoạt động kinh doanh an toàn, khả năng sinh lời cao, luôn đảm bảo khả năng thanh toán sẽ tạo cho khách hàng niềm tin khi gửi tiền vào, Ngân hàng sẽ có khả năng mở rộng nguồn vốn. Ngược lại, với những Ngân hàng nhỏ, khả năng sinh lời thấp thì khả năng mở rộng vốn bị hạn chế. Tính chất mỗi Ngân hàng cũng ảnh hưởng đến cơ cấu và chất lượng nguồn vốn. Một Ngân hàng Nhà nước sẽ khác với một Ngân hàng cổ phần. Ngân hàng sở hữu Nhà nước do Nhà nước cấp vốn sở hữu, thường được Nhà nước hỗ trợ về tài ._.chính và bảo lãnh phát hành giấy nợ nên rất ít khi bị phá sản. Còn Ngân hàng cổ phần được thành lập do phát hành cổ phiếu, thường là các Ngân hàng lớn, có phạm vi hoạt động rộng, đa năng nên nguồn vốn rất đa dạng.
Thứ tư, trình độ kĩ thuật công nghệ và trình độ cán bộ, công nhân viên ảnh hưởng không ít tới nguồn vốn Ngân hàng. Về trình độ kĩ thuật công nghệ, Ngân hàng là một trong những ngành rất quan tâm tới ứng dụng những tiến bộ công nghệ mới trong hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt là công nghệ thông tin. Trong hoạt động huy động vốn, công nghệ mới cho phép Ngân hàng đổi mới quy trình nghiệp vụ, cách thức phân phối và phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới nhằm tạo sự thuận lợi, thu hút nguồn vốn từ khách hàng. Quá trình tự động hóa sẽ giúp Ngân hàng mở rộng giới hạn về không gian, thời gian và các dịch vụ Ngân hàng mới đem lại lợi ích và tiện ích cho khách hàng. Đây là điều kiện tốt để gia tăng nguồn vốn cho Ngân hàng.
Về trình độ cán bộ quản lý và đội ngũ nhân viên. Một Ngân hàng nếu biết tổ chức quản lý các hoạt động của mình và có đội ngũ nhân viên có trình độ, được đào tạo căn bản về kiến thức và nghiệp vụ cần thiết của nền kinh tế thị trường và Ngân hàng hiện đại, đồng thời có thái độ phục vụ tốt, thân thiện và lịch sự với khách hàng, tạo được hình ảnh tốt cho Ngân hàng sẽ thu hút nhiều khách hàng hơn và tất yếu sẽ thu hút nhiều nguồn vốn hơn.
Thứ năm, các yếu tố khác như địa điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh…đều ảnh hưởng đến quy mô và cấu trúc nguồn tiền. Tại các thành phố lớn, nơi tập trung đông tầng lớp dân cư có thu nhập cao thì sẽ hình thành người gửi tiền lớn, tăng nguồn tiền cho Ngân hàng. Do đó, Ngân hàng phải phân bổ mạng lưới chi nhánh, các quỹ tiết kiệm ở nhiều nơi hơn, đặc biệt là thành phố và đô thị lớn.
Ngoài ra, các nhân tố về chính sách, cơ chế chăm sóc khách hàng, xúc tiến thị trường; cơ cấu, hoạt động của bộ máy tổ chức Ngân hàng…cũng ảnh hưởng lớn đến quy mô, cơ cấu và chất lượng nguồn vốn của Ngân hàng.
Tóm lại, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu và chất lượng nguồn vốn của một Ngân hàng, chúng thường xuyên thay đổi và cần được nghiên cứu kỹ lưỡng. Đây là cơ sở đưa ra các quyết định của Ngân hàng giúp cho các Ngân hàng quản lý vốn một cách có hiệu quả nâng cao chất lượng và lập ra cơ cấu nguồn vốn một cách hợp lý nhằm đem lại lợi nhuận cao và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của các Ngân hàng.
1.2. Quản lý vốn của NHTM
1.2.1. Mục tiêu quản lý vốn của NHTM
Quản lý vốn cần thiết với bất kỳ đơn vị kinh doanh nào. Quản lý vốn không nằm ngoài mục tiêu quản lý chung của Ngân hàng đó là an toàn và sinh lợi. Quản lý vốn nhằm mục đích cụ thể sau:
- Khai thác tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội từ các tổ chức kinh tế và mọi tầng lớp dân cư nhằm đáp ứng yêu cầu về quy mô cho vay và đầu tư.
- Đa dạng hóa các nguồn nhằm tìm kiếm nguồn có chi phí thấp nhất và phù hợp với nhu cầu sử dụng.
- Đảm bảo sự tăng trưởng nguồn vốn ổn định, bền vững làm tiền đề cho việc nâng cao thị phần, thỏa mãn tốt nhất nhu cầu vốn cho khách hàng cả về số lượng, thời hạn và lãi suất.
- Đảm bảo khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
1.2.2. Nội dung quản lý vốn của NHTM
Nguồn vốn của Ngân hàng bao gồm 2 loại chính nếu phân chia theo hình thức sở hữu: vốn của chủ Ngân hàng và vốn nợ. Khác với nhiều loại hình doanh nghiệp, vốn của chủ Ngân hàng thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn, vốn nợ là nguồn chủ yếu của Ngân hàng. Quản lý vốn của NHTM gồm quản lý vốn của chủ và quản lý vốn nợ.
1.2.2.1 Quản lý vốn của chủ
a, Quy mô vốn của chủ
Xác định quy mô:
VCSH = Tổng tài sản – Các khoản nợ
Cách tính trên dựa theo quan niệm những giá trị nào không phải hoàn trả theo cam kết đều thuộc sở hữu của chủ Ngân hàng.
Nhằm làm cho các Ngân hàng trở nên an toàn hơn về mặt hình thức, một số cơ quan quản lý Ngân hàng đã đưa ra định nghĩa về vốn của Ngân hàng như sau:
VCSH (1) = Cổ phần thường
+ Cổ phần ưu đãi vĩnh viễn
+ Lợi nhuận bổ sung
+ Quỹ thặng dư (giá bán cổ phiếu – mệnh giá)
+ Các quỹ dự phòng, quỹ khác …
Tuy nhiên, một số khoản nợ là lưỡng tính như giấy nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần, cổ phần ưu đãi có thời hạn,…Ngân hàng vẫn phải trả cả gốc và lãi nhưng có thời hạn dài và thứ tự thanh toán sau mọi chủ nợ khác và lãi chỉ trả khi Ngân hàng không bị lỗ…
VCSH (2) = VCSH (1) + Tỷ lệ phần trăm các khoản nợ lưỡng tính
Do tài sản và nợ của Ngân hàng thường xuyên biến động theo giá trị thị trường nên VCSH có thể được tính theo giá trị sổ sách như trên hoặc theo giá trị thị trường:
VCSH (3) tính theo GTTT = Tổng tài sản theo GTTT – Tổng nợ theo GTTT
= VCSH (1) + Quỹ hình thành do đánh giá lại tài sản và nợ theo GTTT
Trong trường hợp những khoản mục không có căn cứ tính theo giá trị thị trường thì nhà quản lý sẽ tính theo giá trị sổ sách.
Theo quan điểm của các cổ đông, VCSH có thể được xác định thông qua cổ phiếu thường, đó là số vốn mà chủ các Ngân hàng bỏ ra để kinh doanh.
VCSH (4) = Cổ phiếu thường * Giá trị thị trường của cổ phiếu
Những Ngân hàng mà cổ phiếu được giao dịch trên thị trường thì giá trị thị trường của cổ phiếu là thước đo VCSH đối với cổ đông. Lợi nhuận tích lũy càng lớn chứng tỏ Ngân hàng đó kinh doanh có hiệu quả và bền vững, thị giá cổ phiếu càng tăng.
Giá cả thị trường của vốn Ngân hàng phản ánh khả năng tự vệ thực sự của mỗi Ngân hàng. Nếu như giá trị tài sản và các khoản nợ của Ngân hàng được xác định đúng theo giá trị thị trường, những người gửi tiền có thể đánh giá chính xác hơn về trạng thái tài chính và do đó có thể lựa chọn gửi tiền vào tổ chức Ngân hàng an toàn nhất.
b, Xác định quy mô vốn của chủ phù hợp với yêu cầu an toàn trong kinh doanh.
* Xác định vốn của chủ trong quan hệ với tiền gửi
Quy mô tiền gửi phản ánh trách nhiệm chi trả nên nếu tiền gửi càng lớn, yêu cầu chi trả càng cao. Nếu trong trường hợp yêu cầu chi trả liên tục với quy mô lớn, Ngân hàng có thể bị phá sản. Do đó, để đảm bảo an toàn cho hoạt động của Ngân hàng, cơ quan quản lý Ngân hàng ở nhiều nước có quy định tỷ lệ tối đa (VCSH/Tiền gửi), coi đây là tiêu thức xác định an toàn trong thanh toán kiên quan với quy mô VCSH.
Ở Việt Nam, NHNN Việt Nam quy định tỷ lệ này là 1/20 đối với các NHTM.
Ưu điểm: đơn giản, dễ áp dụng và kiểm soát.
Nhược điểm: ràng buộc khả năng mở rộng tiền gửi để cho vay vào VCSH một cách không hợp lý.
* Xác định vốn của chủ trong quan hệ với tổng tài sản
Nhiều Ngân hàng có VCSH nhỏ, muốn mở rộng quy mô Ngân hàng (mở rộng cho vay và đầu tư) phải gia tăng các khoản vay mượn. Tiền đi vay vẫn là khoản nợ đối với Ngân hàng, mặc dù có điểm khác với nguồn tiền gửi song Ngân hàng vẫn phải hoàn trả. Khi Ngân hàng mất khả năng thanh toán, các khoản vay không được hoàn trả cũng gây ra tổn thất lớn cho cả doanh ghiệp và người dân. Do vậy, các cơ quan quản lý Ngân hàng thường quan tâm và kiểm soát việc phát hành giấy nợ của NHTM. Tỷ lệ VCSH trên tổng tài sản thay thế tỷ lệ VCSH trên tiền gửi, xác định mối quan hệ giữa VCSH với tất cả các khoản nợ, phản ánh khả năng bù đắp tổn thất của VCSH đối với mọi cam kết hoàn trả của Ngân hàng. Tuy nhiên, quy định tỷ lệ này có thể hạn chế việc mở rộng quy mô của Ngân hàng. Mở rộng tổng tài sản sẽ làm tăng lợi nhuận, song cũng làm tăng yêu cầu về VCSH. Do vậy, buộc các Ngân hàng phải để lại toàn bộ hoặc phần lớn lợi nhuận sau thuế hoặc tìm kiếm thêm VCSH từ bên ngoài.
* Xác định vốn của chủ trong quan hệ với tài sản rủi ro.
Tổn thất do khủng hoảng thanh khoản – người gửi rút tiền hàng loạt – do các nguyên nhân vĩ mô, thường vượt quá sức chịu đựng của VCSH của các Ngân hàng. Tổn thất đó thường là từ các tài sản rủi ro như các khoản cho vay không thu hồi được, chứng khoán bị giảm giá…làm giảm quy mô tổng tài sản và trực tiếp làm giảm VCSH. Do vậy, một số cơ quan quản lý Ngân hàng tìm kiếm mối liên hệ giữa VCSH với tài sản rủi ro nhằm xác định quy mô của VCSH.
Tài sản của Ngân hàng được phân loại theo mức độ rủi ro dựa trên kinh nghiệm. Thông qua các hệ số chuyển đổi tính cho từng loại tài sản rủi ro, tính được tổng tài sản rủi ro đã chuyển đổi. Các nhà chức trách tiền tệ tìm kiếm tỷ lệ giữa tổng tài sản đã chuyển đổi và VCSH sao cho thỏa mãn nhu cầu an toàn và sinh lợi. Tỷ lệ này được áp dụng cho tất cả các Ngân hàng.
Ưu điểm: đây là phương pháp xác định VCSH cần thiết có căn cứ khoa học, một Ngân hàng có thể tăng quy mô tài sản bằng cách tăng các khoản nợ mà không cần tăng VCSH nếu thay đổi cấu trúc danh mục đầu tư.
Hạn chế:
+ Việc quy định chi tiết tỷ lệ rủi ro cho các danh mục tài sản của Ngân hàng là không dễ dàng, cần có các cuộc khảo sát trên quy mô rộng và trong thời gian dài. Việc xác định tỷ lệ (VCSH/Tổng tài sản rủi ro) phải dựa trên nghiên cứu thực tế rủi ro trong nhiều năm của hệ thống Ngân hàng.
+ Có thể cùng cho vay không có đảm bảo, cùng hệ số chuyển đổi nhưng rủi ro của mỗi Ngân hàng cũng khác nhau do môi trường kinh doanh khác nhau.
* Xác định vốn của chủ trong quan hệ với các nhân tố khác
Phương pháp xác định VCSH với các tài sản rủi ro đã có những hạn chế nhất định. Đặc biệt khi Ngân hàng làm ăn thua lỗ, khả năng chi trả giảm sút rõ rệt thì VCSH/Tài sản chuyển đổi theo hệ số rủi ro không có tác dụng tăng tính an toàn cho Ngân hàng. Do đó, cần phải tìm mối liên hệ giữa VCSH với nhiều nhân tố, đặc biệt là chất lượng kinh doanh của Ngân hàng. Các nhân tố bao gồm:
- Chất lượng quản lý
- Thanh khoản của tài sản
- Lợi nhuận các năm trước và tỷ lệ lợi nhuận giữ lại
- Chất lượng và đặc điểm quyền sở hữu
- Khả năng thay đổi kết cấu tiền gửi và khả năng vay mượn
- Chất lượng các nghiệp vụ
- Khả năng bù đắp các chi phí
Theo phương pháp này, mỗi Ngân hàng cần có mức VCSH khác nhau, thậm chí một Ngân hàng cũng có thể có yêu cầu VCSH khác nhau trong từng trường hợp cụ thể. Những Ngân hàng hoạt động yếu kém cần có mức VCSH lớn hơn để đảm bảo an toàn.
c, Hiệu quả sử dụng vốn của chủ
VCSH đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng. Mặc dù phần lớn VCSH không trực tiếp sinh lời nhưng chúng được ưu tiên tài trợ cho xây dựng nhà cửa, mua sắm trang thiết bị, công nghệ, thành lập công ty mới… cho Ngân hàng. Một phần khác được đầu tư vào chứng khoán công ty hoặc cho vay dài hạn.
Các Ngân hàng thường xuyên mở rộng VCSH thông qua phát hành thêm cổ phiếu mới (hoặc xin cấp thêm), hoặc tự tích lũy…để mở rộng quy mô hoặc nâng cao chất lượng hoạt động. Thông thường, VCSH mở rộng gắn liền với sự gia tăng chi nhánh, thành lập công ty con hoặc liên doanh. Các hoạt động này yêu cầu phải xây dựng mới các trụ sở, phương tiện làm việc…Đồng thời với nhà cửa là trang thiết bị và công nghệ với các chi phí ban đầu là rất đắt. Các loại đầu tư này thường được tài trợ bằng VCSH.
* Chi phí vốn của chủ
Để có VCSH cần có chi phí nhất định. Các bộ phận cấu thành VCSH có chi phí khác nhau. Một số loại có chi phí được tính vào chi phí của Ngân hàng (thuế sử dụng vốn tính đối với phần vốn ngân sách cấp, lãi trả trái phiếu dài hạn, chi phí bảo lãnh phát hành, chi phí phát hành)…Một số chi phí gắn với VCSH được tính trừ vào lợi nhuận sau thuế trước khi chia với tỷ lệ xác định như cổ phiếu ưu đãi có lãi suất cố định hoặc thả nổi (không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh).
Phần lớn VCSH phải trả cổ tức (lợi nhuận sau thuế đem chia cho cổ phần thường).
Tính toán chi phí VCSH để:
- Tìm hiểu tác động về mặt chi phí của các bộ phận VCSH khác nhau đối với lợi nhuận của Ngân hàng.
- Tìm hiểu khả năng mở rộng quy mô VCSH trên nguyên tắc tối đa hóa tỷ suất lợi nhuận.
* Quản lý tài sản cố định của ngân hàng
Tài sản cố định của Ngân hàng chiếm giá trị không lớn trong tổng tài sản, hình thức chủ yếu là nhà cửa (tòa nhà Ngân hàng ), các thiết bị văn phòng (máy tính, máy in, máy photo…), một số phương tiện vận tải, máy rút tiền, máy đếm tiền, két…Nếu Ngân hàng hoạt động trên lĩnh vực đầu tư vào bất động sản và cho thuê, thì tài sản cố định ngoài phần dùng để phục vụ cho hoạt động, còn bao gồm các tài sản cho thuê và kinh doanh khác. Ngoài ra, các Ngân hàng còn phải chịu các chi phí rất đắt để nối mạng, lắp đặt các phần mềm…
Quản lý tài sản cố định phải chú ý một số nội dung sau:
- Khấu hao đầy đủ nhằm tái sản xuất TSCĐ.
- Bảo dưỡng thường xuyên nhằm duy trì hiệu suất sử dụng.
- Mua bảo hiểm tài sản để phòng các trường hợp rủi ro.
- Có chính sách mua sắm và trang bị TSCĐ hợp lý, tập trung, tránh mua sắm tràn lan, lãng phí. Cần đầu tư vào các loại hình công nghệ Ngân hàng tiên tiến, chú trọng tranh bị cho các chi nhánh lớn.
- Định kỳ đánh giá lại TSĐ.
- Có quy định cụ thể đối với cán bộ Ngân hàng và khách hàng trong việc sử dụng TSCĐ của Ngân hàng.
- Thường xuyên theo dõi và kiểm tra việc sử dụng các tài sản cho thuê, đi thuê.
* Đo lường hiệu quả vốn của chủ.
Có nhiều chỉ tiêu phản ánh hiệu quả VCSH như thu lãi/VCSH, chênh lệch thu chi từ lãi/VCSH,…trong đó chỉ tiêu quan trọng nhất là lợi nhuận sau thuế/VCSH.
Đo lường VCC.
Với các Ngân hàng cổ phần, VCSH được đo lường dưới các chỉ tiêu sau:
+ Tổng vốn của chủ: gồm vốn cổ phần thường, cổ phần ưu đãi vĩnh viễn,…
+ Giá trị VCC = Tổng tài sản – Tổng nợ
Tổng tài sản có thể được tính theo giá trị sổ sách hoặc giá trị thị trường. Giá trị thị trường được xem là chỉ tiêu phản ánh chính xác giá trị tài sản do chúng được đánh giá lại thường xuyên theo giá trị thị trường. Với cách lựa chọn Tổng tài sản khác nhau sẽ cho giá trị VCC khác nhau.
+ Giá trị thị trường cổ phần thường. Cổ phiếu của Ngân hàng trên thị trường chứng khoán được mua và bán theo giá thị trường tùy thuộc vào quan hệ cung – cầu. Các nhà quản lý Ngân hàng thường xuyên xem xét giá trị thị trường của cổ phiếu thường, như một chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động của Ngân hàng. Khi giá cổ phiếu tăng/giảm sẽ tác động tỷ lệ thuận tới giá trị của Ngân hàng trên thị trường.
Đối với các Ngân hàng quốc doanh hoặc tư nhân: Do không có cổ phiếu phát hành trên thị trường vốn, nên đo lường VCC theo các tiêu thức khác nhau là rất khó. “Giá trị thị trường” cảu các Ngân hàng quốc doanh thường ít được nhìn nhận theo giác độ VCSH nhiều hay ít. Bộ phận chủ yếu là vốn ngân sách (bao gồm ngân sách cấp và lợi nhuận bổ sung). Một số Ngân hàng do cơ chế bù đắp tổn thất chưa rõ ràng hoặc tổn thất quá lớn chưa giải quyết được. Quỹ dự phòng tổn thất vẫn tồn tại trong VCC trong khi các tài sản đã bị đóng băng hoặc không thể thu hồi vẫn nằm trên bảng cân đối của Ngân hàng. Ngoài ra, các NHTM Nhà nước còn có các quỹ như quỹ khuyến khích, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi trích từ lợi nhuận theo chế độ trích hiện hành. Theo cơ chế tài chính hiện nay, sau khi trích các quỹ, phần lợi nhuận còn lại NHTM quốc doanh phải nộp hết cho Bộ Tài Chính.
Các tỷ lệ liên quan VCC.
+ Các tỷ lệ an toàn: Tiền gửi/VCC, Dư nợ/VCC, Dư nợ tối đa/VCC, VCC/Tổng tài sản chuyển đổi theo hệ số rủi ro…
Tỷ lệ VCC/Tổng tài sản chuyển đổi được coi như tỷ lệ phản ánh yêu cầu về quy mô VCC nhằm đảm bảo an toàn đối với các tài sản bị rủi ro. Tỷ lệ vốn loại 1 phản ánh chính xác hơn do loại trừ các giấy nợ dài hạn trong VCC.
+ Các tỷ lệ sinh lời:
Hiệu quả VCC = Lợi nhuận sau thuế/VCC
= (Thu lãi - Chi trả lãi + Thu khác – Chi khác)*(1 - Thuế suất)/VCC
Trong đó, VCC được tính dựa trên số liệu bình quân năm trước cộng với các khoản gia tăng VCC trong năm nay như được cấp thêm hoặc phát hành thêm.
1.2.2.2. Quản lý vốn nợ
a, Quản lý quy mô, cơ cấu các khoản nợ
Mục tiêu: đưa ra và thực hiện các biện pháp để gia tăng quy mô và thay đổi cơ cấu một cách có hiệu quả nhất.
Ý nghĩa: gia tăng nguồn theo một chuẩn mực nào đó là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động của Ngân hàng, là điều kiện để Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao tính thanh khoản và tính ổn định của nguồn vốn. Cơ cấu nợ ảnh hưởng tới cơ cấu và quyết định chi phí của Ngân hàng.
Nội dung quản lý:
- Thống kê đầy đủ, kịp thời các thay đổi về các loại nguồn, tốc độ quay vòng của mỗi loại, căn cứ vào đó các nhà quản lý sẽ thấy được mối liên hệ giữa số lượng, cấu trúc nguồn với các nhân tố ảnh hưởng và đặc tính thị trường nguồn của Ngân hàng.
- Phân tích kỹ lưỡng các nhân tố gắn liền với thay đổi đó (các nhân tố ảnh hưởng và bị ảnh hưởng), đây là cơ sở để Ngân hàng đưa ra các quyết định phù hợp để thay đổi quy mô và kết cấu nguồn tiền cũng như phân chia các loại khách hàng gắn với quy mô và tốc độ gia tăng của mỗi nguồn.
- Lập kế hoạch nguồn cho từng giai đoạn phù hợp với yêu cầu sử dụng, bao gồm kế hoạch gia tăng quy mô của mỗi nguồn nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư hoặc nhu cầu chi trả cho các doanh nghiệp và dân chúng, khả năng thay đổi cơ cấu nguồn hoặc tìm kiếm nguồn mới. Do đó, kế hoạch nguồn cần được đặt trong kế hoạch sử dụng và lợi nhuận kỳ vọng, bao gồm kế hoạch về lãi suất, mở chi nhánh hoặc điểm huy động, loại nguồn, tiếp thị…
b, Quản lý lãi suất chi trả
Quản lý lãi suất của các khoản nợ là xác định các loại và cơ cấu lãi suất trả cho các nguồn tiền khác nhau nhằm đảm bảo duy trì quy mô và kết cấu nguồn phù hợp với yêu cầu sinh lợi của Ngân hàng.
Quản lý lãi suất của nguồn vốn có liên quan chặt chẽ với quản lý lãi suất cho vay và đầu tư của Ngân hàng.
Nội dung quản lý lãi suất:
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất huy động.
- Đa đạng hóa lãi suất.
Lãi suất huy động gắn liền với mỗi loại sản phẩm của Ngân hàng và với mỗi Ngân hàng, đồng thời nó cũng chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác ngoài Ngân hàng. Lãi suất huy động tại mỗi Ngân hàng được phân biệt theo nhiều hình thức khác nhau như theo thời gian, theo loại tiền, theo mục đích gửi, mục đích huy động, theo rủi ro của Ngân hàng, theo các dịch vụ đi kèm, theo quy mô,…
Có nhiều mức lãi suất danh nghĩa khác nhau tùy theo tính chất của từng khoản nợ, đó là các mức lãi suất cá biệt, đồng thời, Ngân hàng cũng thường tạo ưu thế cạnh tranh bằng lãi suất như đưa ra lãi suất danh nghĩa cao hơn các Ngân hàng khác hay trả lãi nhiều lần trong kỳ, trả trước,…Do vậy, để phục vụ cho việc quản lý chi phí trả lãi và hoạch định các mức lãi suất cạnh tranh các Ngân hàng thường tính toán lãi suất bình quân bao gồm:
- Lãi suất bình quân của một nguồn hay một nhóm nguồn trong kỳ.
- Lãi suất bình quân của các nguồn phải trả lãi tại một thời điểm trong kỳ.
Lãi suất bình quân cho thấy xu hướng thay đổi lãi suất của nguồn, mức độ thay đổi lãi suất của mỗi nguồn, sự kết hợp giữa lãi suất cá biệt và tỷ trọng mỗi nguồn, nó cũng cho thấy những nguồn đắt tương đối và những nguồn rẻ tương đối, do đó nó có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc hoạch định chiến lược nguồn vốn.
c, Quản lý kỳ hạn
Mục tiêu: xác định kỳ hạn của nguồn phù hợp với yêu cầu về kỳ hạn sử dụng, đồng thời tạo sự ổn định của nguồn.
Nội dung:
- Xác định kỳ hạn danh nghĩa của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng.
- Xác định kỳ hạn thực của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng.
- Xem xét khả năng chuyển hoán kỳ hạn của nguồn.
Có hai loại kỳ hạn:
- Kỳ hạn danh nghĩa là kỳ hạn nhất định của nguồn huy động và thường gắn với một mức lãi suất nhất định, kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Kỳ hạn danh nghĩa là một chỉ tiêu phản ánh tính ổn định của nguồn vốn. Việc xác định kỳ hạn danh nghĩa có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của Ngân hàng vì kỳ hạn liên quan đến tính ổn định và liên quan tới kỳ hạn sử dụng. Để cho vay và đầu tư dài hạn Ngân hàng cần có khả năng duy trì tính ổn định của nguồn tiền. Mặt khác, kỳ hạn liên quan đến chi phí, các nguồn có tính ổn định cao thường phải có chi phí duy trì cao. Quản lý kỳ hạn vì vậy là một nội dung đảm bảo an toàn và sinh lợi cho Ngân hàng. Các nhân tố ảnh hưởng đến kỳ hạn danh nghĩa: thu nhập, ổn định vĩ mô, khả năng chuyển đổi của giấy nợ, kỳ hạn cho vay và đầu tư.
- Kỳ hạn thực tế của khoản tiền gửi là thời gian mà khoản tiền tồn tại liên tục tại một đơn vị Ngân hàng. Kỳ hạn thực tế mới là mối quan tâm chủ yếu của Ngân hàng vì nó liên quan chặt chẽ đến kỳ hạn các khoản cho vay và đầu tư. Các nhân tố ảnh hưởng đến kỳ hạn danh nghĩa đều tác động đến kỳ hạn thực tế, ngoài ra còn có nhu cầu chi tiêu đột xuất, lãi suất cạnh tranh giữa các Ngân hàng và lãi suất của các nguồn tiền khác. Sự thay đổi về lãi suất sẽ gây ra sự dịch chuyển từ Ngân hàng này sang Ngân hàng khác, từ kỳ hạn này sang kỳ hạn khác, từ loại tiền này sang loại tiền khác, làm giảm kỳ hạn thực tế của khoản tiền gửi.
Phương pháp cơ bản để phân tích thời hạn thực tế là dựa trên số liệu thống kê để thấy biến động của số dư của mỗi nguồn vốn, của nhóm nguồn, tìm số dư thấp nhất trong quý, trong năm, trong nhiều năm và các nhân tố ảnh hưởng đến sự thay đổi, từ đó, người quản lý do được kỳ hạn thực tế gắn liền với các số dư.
Quản lý kỳ hạn luôn gắn liền với quản lý lãi suất. Lựa chọn cơ cấu lãi suất sao cho vừa đảm bảo gia tăng tổng nguồn, tiết kiệm chi phí lại vừa tăng tính ổn định của nguồn là nội dung quản lý nguồn vốn của Ngân hàng.
Ngoài ra, các nhà quản lý cần có các biện pháp để cải tiến sự ổn định của khoản nợ như: tăng tiền gửi, xây dựng mối liên hệ với những người gửi lớn, đa dạng hóa các nguồn huy động, phát triển quản lý tài sản bên cạnh quản lý các khoản nợ.
d, Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn
Tính thanh khoản của nguồn vốn được đo bằng khả năng tìm kiếm nguồn vốn mới với chi phí và thời gian nhỏ nhất.
Tính thanh khoản của nguồn phụ thuộc rất lớn vào thị trường của mỗi Ngân hàng và chính sách tiền tệ đang được vận hành. Các Ngân hàng lớn có nhiều chi nhánh và gần các trung tâm tiền tệ có khả năng tìm kiếm các nguồn nhanh chóng hơn là các Ngân hàng nhỏ, ít chi nhánh và ở xa.
Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn bắt đầu từ việc phân tích thị trường nguồn vốn của mỗi Ngân hàng để thấy đặc điểm của mỗi nguồn (quy mô, tốc độ tăng trưởng, vòng quay, lãi suất,…).
Việc phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn đang trở thành trọng tâm quản lý nguồn vốn, đặc biệt tại các Ngân hàng lớn do thực hiện chuyển hoán kỳ hạn của nguồn và duy trì tỷ lệ dự trữ thấp rất quan tâm tới khả năng tìm kiếm nguồn vốn mới để đáp ứng nhu cầu thanh khoản, nhất là các nguồn trong ngắn hạn.
1.2.2.3. Phát triển các công cụ nợ mới
Bên cạnh vay ngân hàng Nhà nước và vay trên thị trường liên ngân hàng trong nước, các ngân hàng đang vươn tay tới thị trường liên ngân hàng quốc tế. Do sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các Ngân hàng và các tổ chức tài chính phi Ngân hàng, cách mạng công nghệ Ngân hàng đang làm cho thị trường tài chính liên tục phát triển và tạo ra các công cụ nợ mới như chứng chỉ tiền gửi, các hợp đồng mua bán lại, các giấy nợ ngân hàng…buộc các Ngân hàng phải đưa việc phát triển các công cụ nợ mới vào một trong những hoạt động quản lý nguồn vốn quan trọng, như vậy các Ngân hàng mới có thể tồn tại được trong cạnh tranh.
Các NHTM Việt Nam cũng đang trong quá trình phát triển và hội nhập với thị trường liên Ngân hàng thế giới, do đó cần có ngững cải cách trong việc cung cấp các công cụ nợ, tiến hành đồng thời việc mở rộng các công cụ nợ truyền thống và phát triển các công cụ nợ mới làm phong phú thị trường nguồn vốn của Ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng quản lý vốn tại Ngân hàng TMCP
Quân đội
2.1. Khái quát chung về Ngân hàng TMCP Quân đội
2.1.1. Sự hình thành và phát triển
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội, có tên Tiếng Anh là Military Commercial Joint-Stock Bank (MB) được thành lập vào năm 1994, tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, theo Quyết định số 00374/GP-UB của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội và hoạt động theo Giấy phép số 0054/NH-GP, ngày 14 tháng 9 năm 1994 do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp và có thời hạn 50 năm kể từ ngày cấp. Trong suốt hơn 10 năm hoạt động, Ngân hàng Quân đội đã liên tục kinh doanh có hiệu quả và được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đánh giá là một trong những Ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu của Việt Nam.
Mục tiêu ban đầu của Ngân hàng là đáp ứng nhu cầu về vốn và các dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp quân đội làm kinh tế. Cùng với quá trình phát triển kinh tế của đất nước, với đường lối đúng đắn, Ngân hàng Quân đội đã gặt hái được nhiều thành công, không chỉ đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp quân đội mà còn phục vụ hiệu quả tất cả các thành phần kinh tế, đóng góp một phần quan trọng vào sự phát triển của khách hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Hiện nay, Ngân hàng Quân đội phục vụ các đối tượng khách hàng đa dạng bao gồm các doanh nghiệp và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong đó có doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các cá nhân. Với phương châm hoạt động an toàn, hiệu quả và luôn đặt lợi ích của khách hàng gắn liền với lợi ích của Ngân hàng, những năm qua, Ngân hàng Quân đội luôn là người đồng hành tin cậy của khách hàng và uy tín của Ngân hàng ngày càng được củng cố và phát triển.
Sự tăng trưởng về vốn và quy mô hoạt động của Ngân hàng luôn ổn định và liên tục trong suốt quá trình hoạt động. Tổng tài sản tăng từ 32 tỷ đồng năm 1994 lên đến hơn 8.214 tỷ đồng vào cuối năm 2005. Lợi nhuận trước thuế tăng từ 4,8 tỷ đồng năm 1995 lên 148,7 tỷ đồng năm 2005, góp phần đưa Ngân hàng Quân đội trở thành một trong những ngân hàng có mức lợi nhuận trước thuế cao nhất trong hệ thống các Ngân hàng TMCP trên địa bàn Hà Nội.
Để phục vụ yêu cầu phát triển, đầu tư năng lực kinh doanh, Ngân hàng Quân đội từng bước chuyển dịch theo mô hình quản lý tập trung, hình thành hội sở, sở giao dịch đi đôi với việc liên tục mở rộng mạng lưới kinh doanh, đầu tư phương tiện, tăng cường an ninh. Đến nay, Ngân hàng Quân đội đã có 37 chi nhánh và phòng giao dịch tại các trung tâm kinh tế lớn của cả nước như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Việt Trì, Bình Định. Trong năm 2005, Hội sở chính được chuyển về Tòa nhà Ngân hàng Quân đội tại số 3 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội.
Cùng với việc mở rộng mạng lưới chi nhánh trong nước, Ngân hàng cũng rất chú trọng đến việc mở rộng quan hệ hợp tác và mạng lưới giao dịch với các ngân hàng trên thế giới, mà đến nay, mạng lưới các ngân hàng đại lý của Ngân hàng Quân đội đã mở rộng tới hơn 350 ngân hàng ở trên 70 quốc gia, đảm bảo thanh toán và giao dịch với tất cả các châu lục trên thế giới.
Bên cạnh đó, các công ty trực thuộc cũng là một bộ phận không thể tách rời và đóng góp cho sự phát triển đa dạng và ổn định của ngân hàng. Đến nay, Ngân hàng đã có Công ty Chứng khoán Thăng Long, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Trong suốt chặng đường hơn 10 năm hình thành và phát triển, song song với việc mở rộng mạng lưới hoạt động, Ngân hàng Quân đội luôn chú trọng công tác đầu tư phát triển nguồn lực và ứng dụng công nghệ mới. Chính vì vậy, chất lượng dịch vụ của Ngân hàng liên tục được cải thiện, mang lại cho khách hàng sự yên tâm, thuận tiện và hiệu quả khi sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng Quân đội.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức
Trong những năm qua, Ngân hàng không ngừng xây dựng, đổi mới mô hình tổ chức theo hướng tích cực, điển hình có sự phân tách rõ ràng giữa hoạt động quản lý và hoạt động kinh doanh của Hội sở và chi nhánh theo mô hình tổ chức hiện đại của các Ngân hàng Thế giới.
Sơ đồ: MÔ HÌNH TỔ CHỨC CỦA NGÂN HÀNG QUÂN ĐỘI
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh những năm gần đây của Ngân hàng Quân đội
Chặng đường 12 năm vừa qua đã chứng kiến cả những lúc khó khăn và cả thời ký phát triển mạnh mẽ của Ngân hàng Quân đội. Tuy chưa phải là một ngân hàng lớn nhất về quy mô nhưng Ngân hàng Quân đội đã chứng tỏ được hoạt động hiệu quả, an toàn và đang có những bước phát triển hợp lý để khẳng định vị thế của mình trong thị trường ngân hàng tài chính Việt Nam, đặc biệt khi nền kinh tế thực sự hội nhập một cách toàn diện vào khu vực và thế giới.
2.1.3.1 Về công tác huy động vốn
Huy động vốn của Ngân hàng Quân đội được NHNN đánh giá cao trên thị trường liên ngân hàng. Nguồn vốn huy động của Ngân hàng Quân đội vẫn tiếp tục tăng trưởng một cách bền vững trong các năm vừa qua.
Tính đến 30/11/2006 tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng Quân đội đạt khoảng 11.000 tỷ đồng, tăng trên 56% so với đầu năm và tăng khoảng 1100 lần so với năm 1994. Cơ cấu huy động vốn tiếp tục được đảm bảo theo chiều hướng tốt. Trong đó, vốn huy động từ dân cư ngày càng tăng, đạt khoảng 4.000 tỷ đồng, tăng hơn 70% so với đầu năm.
Huy động vốn của ngân hàng tăng đã góp phần giúp tổng nguồn vốn của ngân hàng không ngừng tăng lên, từ 33 tỷ đồng năm 1994 lên trên 8.000 tỷ năm 2005 và trên 12.000 tỷ tính đến ngày 30/11/2006, tăng gần 400 lần so với năm 1994.
2.1.3.2 Về hoạt động tín dụng
Từ chỗ chỉ đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp quân đội với tổng dư nợ là 15 tỷ đồng vào thời gian đầu, đến nay Ngân hàng Quân đội đã mở rộng cho vay mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là chú trọng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay kinh tế tư nhân.
Đến 30/11/2006, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng là gần 5.500 tỷ đồng, tăng khoảng 23,1% so với đầu năm và tăng gần 370 lần so với năm 1994, phù hợp với mục tiêu tập trung nâng cao chất lượng tín dụng kết hợp tái cơ cấu các khoản nợ. Cơ cấu và loại hình cho vay của ngân hàng cũng ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Việc phân loại, lựa chọn khách hàng được tiến hành dựa trên cơ sở nghiên cứu thị trường, phân tích ngành nghề kinh doanh và định hướng của ngân hàng; công tác kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay được ngân hàng đặc biệt quan tâm. Ngân hàng Quân đội đã làm đầu mối thành công trong nhiều dự án đồng tài trợ với các ngân hàng, đẩy mạnh cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ và tăng nhanh tỷ trọng tín dụng bán lẻ.
Đồng thời, ngân hàng cũng thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của NHNN về đảm bảo an toàn tín dụng. Tỷ lệ nợ quá hạn bằng 3,8% tổng dư nợ phản ánh trung thực việc phân loại nợ theo quy định 493 của NHNN, tích cực thu hồi nợ đọng. Tuy nhiên, dự phòng rủi ro của ngân hàng cuối tháng 11/2006 là trên 145 tỷ đồng, bằng 82% nợ nhóm 3-5, đảm bảo tốt cho hoạt động của ngân hàng không bị ảnh hưởng bởi các khoản nợ xấu.
2.1.3.3 Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế
Năm 2005, với việc đưa khối Treasury vào hoạt động, việc quản lý vốn và kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng Quân đội đã có những kết quả rất đáng ghi nhận. Nhìn chung, khối Treasury đã đảm trách khá tốt việc điều hòa vốn giữa các chi nhánh, quản lý chặt chẽ dự trữ bắt buộc, cơ cấu lại tài khoản Nostro và kinh doanh ngoại tệ p._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0159.doc