LỜI MỞ ĐẦU
Với số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) chiếm hơn 97% tổng số các doanh nghiệp hiện có ở Việt Nam,nhu cầu vay vốn của loại hình doanh nghiệp này rất lớn.Tuy nhiên khó khăn lớn nhất của các DNN&V hiện nay đó là nguồn tài chính eo hẹp mà nhu cầu đổi mới công nghệ,máy móc,thiết bị ngày càng trở nên hết sức cấp bách,bởi khi một doanh nghiệp muốn cạnh tranh trên thị trường thì phải có sản phẩm có tính cạnh tranh cao,chất lượng tốt đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng.Các DNN&
69 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1307 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tăng cường công tác bảo đảm tiền vay bằng tại sản đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Sở giao dịch I-Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
V hiện nay đang đứng trước những khó khăn khi mà những ưu đãi về thuế và những chính sách khác đang bị cắt giảm.Bên cạnh đó thì sức ép đầu vào,giá cả nguyên vật liệu…tăng cao trong khi giá sản phẩm đầu ra chưa được điều chỉnh tăng theo tỷ lệ.
Việc huy động vốn để phát triển hoạt động đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay cũng rất hạn chế vì thị trường tài chính của Việt Nam chưa thực sự hoàn thiện,nơi cấp vốn hiệu quả nhất vẫn là các ngân hàng thương mại.Nhìn từ phía ngân hàng thì rủi ro do các doanh nghiệp này mang lại là khá lớn,vì đây là khách hàng mà ngân hàng không thể nắm bắt,đánh giá đúng đắn về tình hình tài chính,khả năng trả nợ như các doanh nghiệp lớn,khách hàng truyền thống của ngân hàng.Các ngân hàng thường hạn chế rủi ro bằng việc thực hiện bảo đảm tiền vay bằng tài sản.Vì vậy mà tăng cường công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản là mối quan tâm hàng đầu của ngân hàng thương mại nói chung và của Sở giao dịch I nói riêng.
Trong thời gian thực tập tại Sở giao dịch I ngân hàng công thương việt Nam,được sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy giáo-Thạc sỹ Phan Hữu Nghị cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú,anh chị phòng khách hàng 2 tại SGDI,em đã chọn đề tài : "Tăng cường công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Sở giao dịch I-Ngân hàng Công thương Việt Nam”
Kết cấu của chuyên đề gồm những nội dung chính sau:
Chương 1:Lý luận chung về bảo đảm tiền vay bằng tài sản của ngân hàng thương mại.
Chương 2:Thực trạng công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Sở giao dịch I-Ngân hàng công thương Việt Nam.
Chương 3:Giải pháp tăng cường công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Do thời gian thực tập còn hạn chế,kiến thức thực tế còn ít ỏi nên bài viết khó có thể tránh khỏi những thiếu sót.Em rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Chương I
Lý luận chung về bảo đảm tiền vay bằng tài sản
của Ngân hàng thương mại (NHTM)
Hoạt động cho vay của NHTM
Tổng quan về NHTM
Khái niệm về NHTM
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế,ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế đặc biệt là chính sách tiền tệ,vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế.
Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng,trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản,thị phần và số lượng các ngân hàng.
Có nhiều cách để định nghĩa ngân hàng thương mại thông qua chức năng,vai trò dịch vụ mà chúng cung cấp trong nền kinh tế.Thực tế cho thấy không chỉ ngân hàng mà còn có các tổ chức tài chính gồm công ty kinh doanh chứng khoán,công ty môi giới chứng khoán,quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân hàng.Và ngược lại ngân hàng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán,tham gia hoạt động bảo hiểm,đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.Có thể định nghĩa ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp:Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất,đặc biệt là tín dụng,tiết kiệm,dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.Cũng có thể định nghĩa ngân hàng thương mại dựa trên các hoạt động chủ yếu,theo luật cúa các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi:Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Các hoạt động chủ yếu của NHTM
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp.Ngày nay hoạt động ngân hàng đang không ngừng phát triển,sự phát triển đó có thể thấy trên tất cả các phương diện,từ sự ra đời của các sản phẩm dịch vụ mới cho tới sự xuất hiện của các tập đoàn ngân hàng có qui mô toàn cầu được tạo ra từ làn sóng sáp nhập,hợp nhất.Để có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu xã hội nhiều ngân hàng hiện đã thực hiện nhiều vai trò mới như:Vai trò thanh toán,vai trò người bảo lãnh,vai trò đại lý và vai trò thực hiện chính sách,với mỗi vai trò đó ngân hàng cung cấp các dich vụ khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của công chúng và doanh nghiệp.Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu,thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả.
Hoạt động của ngân hàng có thể chia thành ba hoạt động chủ yếu đó là hoạt động nhận tiền gửi,hoạt động cung cấp tín dụng và hoạt động trung gian thanh toán.
Hoạt động nhận tiền gửi
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao,vì vậy mà các ngân hàng đã tìm cách để huy động được tiền.Ngân hàng có thể huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế bằng cách nhận tiền gửi tiết kiệm của dân cư,tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp,các tổ chức xã hội,tiền gửi thanh toán của cá nhân,doanh nghiệp…phát hành cổ phiếu,trái phiếu,vay các tổ chức tín dụng khác…Trong đó,hoạt động nhận tiền gửi là quan trọng nhất.
Đó là các khoản tiền gửi của khách hàng,một quỹ sinh lợi được gửi tại ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần,nhiều tháng,nhiều năm,đôi khi được hưởng mức lãi suất tương đối cao.Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành các khoản tiền gửi,các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng nhất,chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng,các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau.
-Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán).Là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ.Các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện trong phạm vi số dư cho phép,và có thể được rút ra lúc nào khi khách hàng cần.Loại tiền gửi này mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng bởi vì một mặt chúng không phải trả lãi hoặc chỉ phải trả một mức lãi suất thấp và mặt khác những tài khoản này thường tạo ra khoản thu về phí cho ngân hàng.Hiện nay các ngân hàng sử dụng nhiều hình thức biến tướng của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác.
-Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp,của tổ chức xã hội.Loại tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức xã hội,các doanh nghiệp vào ngân hàng và sẽ được chi trả sau một thời gian xác định.Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này.Nếu cần chi tiêu người gửi phải đến ngân hàng rút tiền ra,hình thức này ra đời nhằm tăng thu cho người gửi tiền do tiền gửi thanh toán tuy thuận lợi nhưng lãi suất thấp,loại tiền gửi này được hưởng lãi suất tuỳ theo độ dài của kỳ hạn.
-Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.Dân cư gửi tiền vào ngân hàng nhằm thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm,đặc biệt nhu cầu bảo toàn.Để thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới hoạt động đưa ra các hình thức huy động và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn.Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều chương mục tiết kiệm cho mỗi kỳ hạn,mỗi lần gửi khác nhau.Sổ tiết kiệm này có thể được thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép.
-Tiền gửi của các ngân hàng khác.Là tiền của ngân hàng khác gửi vào ngân hàng nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác và ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác,tuy nhiên quy mô nguồn này thường không lớn.
Hoạt động cung cấp tín dụng
Luật các tổ chức tín dụng qui định:Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có,nguồn vốn huy động được để cấp tín dụng,trong đó cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay,chiết khấu,cho thuê tài chính,bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng thương mại,phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng.Tín dụng được chia thành nhiều tiêu thức khác nhau.
-Theo thời gian:tín dụng ngắn hạn (thời hạn từ 12 tháng trở xuống),trung hạn (trên 1 năm đến 5 năm),dài hạn (trên 5 năm).Tuy nhiên việc xác định thời hạn trên chỉ mang tính chất tương đối vì có những khoản vay không xác định trước được thời hạn.Phân chia tín dụng theo tiêu thức này có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của ngân hàng.Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các NHTM thường cao hơn tín dụng trung và dài hạn,các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng.
- Theo hình thức tài trợ tín dụng được chia thành cho vay,bảo lãnh,cho thuê,chiết khấu,bảo lãnh và một số hoạt động khác do NHNN qui định
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng sử dụng với cam kết hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu:Doanh số cho vay trong kì và dư nợ cuối kì.Doanh số cho vay trong kì là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay trong kì,dư nợ cuối kì là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kì.Đối với hầu hết các ngân hàng,khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ ½ đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng,đồng thời hoạt động này mang lại nhiều rủi ro.
Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định.Sau thời gian nhất định khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng .
Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình.Mặc dù không phải xuất tiền ra song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng tiền trước cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn.
- Phân loại theo tài sản bảo đảm có tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp,cầm cố,bảo lãnh bằng tài sản bên thứ ba,tài sản hình thành từ vốn vay và tín dụng không có bảo đảm.Để bảo đảm hoạt động ngân hàng an toàn và sinh lợi thì các ngân hàng thường yêu cầu có tài sản bảo đảm cho khoản vay,tuy nhiên trong một số trường hợp ngân hàng có thể cấp các khoản tín dụng cho các khách hàng mà không cần tài sản bảo đảm ,đó là các khách hàng có uy tín, khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi,tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa…Các khoản cho vay theo chỉ thị của chính phủ mà Chính phủ yêu cầu không cần tài sản bảo đảm ,các khoản cho vay các tổ chức tài chính lớn,các công ty lớn…
- Phân loại theo rủi ro:
Tín dụng lành mạnh là các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
Tín dụng có vấn đề:Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ,tiến độ thực hiện kế hoạch chậm,khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi:Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt,tài sản bảo đảm có giá trị lớn…
Nợ quá hạn khó đòi:Nợ quá hạn quá lâu,khả năng trả nợ rất kém,tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá.
Hoạt động trung gian thanh toán
Trung gian thanh toán gồm rất nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng khác nhau,phần lớn là các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt.
-Dịch vụ chuyển khoản:Tức là chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác trong cùng một hệ thống ngân hàng,hoặc giữa các hệ thống ngân hàng khác nhau …thông qua các công cụ như séc,lệnh chi,lệnh thu…
- Dịch vụ thu hộ,chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng trong các giao dịch mua bán bằng uỷ nhiệm chi,uỷ nhiệm thu,séc,L/C..
- Dịch vụ trả lương qua tài khoản.
-Dịch vụ chuyển tiền theo yêu cầu của khách hàng dưới các hình thức:chuyển tiền nhanh,chuyển tiền bằng thư,chuyển tiền bằng điện.
-Các dịch vụ bảo quản các giấy tờ có giá như vàng,bạo,đá quý,giấy tờ có giá
-Mua bán chứng khoán hộ khách hàng.
Hoạt động cho vay của NHTM
1.1.2.1 khái niệm hoạt động cho vay của NHTM
Cho vay là một nghiệp vụ quan trọng của NHTM,là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Nhằm bảo đảm tính an toàn và khả năng sinh lợi hoạt động cho vay cũng dựa trên một số nguyên tắc nhất định:
-Khách hàng phải cam kết hoàn trả gốc và lãi với thời gian xác định,khả năng hoàn trả của các khoản vay ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng,đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển.Vì các khoản cho vay của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn.Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi như đã cam kết,do vậy ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng thực hiện đúng cam kết này.
-Khách hàng cam kết sử dụng vốn vay theo mục đích được thoả thuận với ngân hàng,không trái với qui định của pháp luật và của các ngân hàng cấp trên,việc tài trợ đúng cương lĩnh hoạt động của ngân hàng.
-Ngân hàng cho vay khi xét thấy phương án,dự án kinh doanh có hiệu quả.Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất
Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu.Phần lớn nguồn thu của ngân hàng có được từ hoạt động cho vay,tuy nhiên hoạt động này cũng mang lại rủi ro cho ngân hàng.Vì vậy trước khi cho vay,ngân hàng cần phải kiểm tra,xem xét,đánh giá khách hàng có đủ điều kiện vay vốn không.
Cho vay có vai trò rất quan trọng không chỉ đối với bản thân ngân hàng, thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp,mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.Vói ngân hàng,qua hoạt động cho vay ngân hàng sẽ kiếm được lợi nhuận từ phần chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động. Đó là cơ sở để ngân hàng tồn tại và phát triển.Với khách hàng vay vốn giúp cho việc mở rộng sản xuất,đổi mới công nghệ,nâng cao năng lực cạnh tranh…tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển.Sự phát triển của các ngân hàng và doanh nghiệp sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo.
1.1.2.2 Phân loại cho vay
Có nhiều cách thức phân loại cho vay,tương ứng với mỗi tiêu thức có các hình thức cho vay khác nhau:
Theo thời gian:
- Cho vay ngắn hạn: cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở xuống
- Cho vay trung hạn: cho vay có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm
- Cho vay dài hạn: cho vay trên 5 năm
Theo thành phần kinh tế:
- Cho vay thành phần kinh tế quốc doanh
- Cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
- Cho vay cá nhân,hộ gia đình
Theo đối tượng khách hàng:
- Cho vay đối với các doanh nghiệp lớn
- Cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa
- Cho vay với khách hàng là cá nhân
- Cho vay các tổ chức tín dụng
Theo mục đích sử dụng vốn:
- Cho vay công nghiệp và thương mại
- Cho vay nông nghiệp
- Cho vay bất động sản
- Cho vay tiêu dùng
Theo mức độ tín nhiệm với khách hàng:
- Cho vay không bảo đảm
- Cho vay có bảo đảm
1.2. Các hình thức bảo đảm tiền vay
Nghị định 178/1999 NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng xác định:Bảo đảm tiền vay là việc ngân hàng áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro,tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã cho khách hàng vay.Vì vậy bảo đảm tiền vay là việc dùng tài sản hoặc uy tín của khách hàng để bảo đảm cho một khoản vay.
Thông thường có hai biện pháp bảo đảm tiền vay mà ngân hàng áp dụng đối với khách hàng khi vay vốn ngân hàng là cho vay có bảo đảm bằng tài sản và cho vay không có bảo đảm bằng tài sản.Tuỳ từng khách hàng mà ngân hàng sẽ áp dụng biện pháp nào cho phù hợp bảo đảm an toàn và sinh lợi cho ngân hàng.
1.2.1 Bảo đảm tiền vay bằng tài sản
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ.Do khách hàng luôn phải đối đầu với những rủi ro trong kinh doanh,có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng do thu nhập từ hoạt động giảm sút mạnh.Vì vậy trừ những khách hàng có uy tín cao ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải có tài sản bảo đảm khi vay vốn ngân hàng nhằm hạn chế bớt các thiệt hại cho ngân hàng khi khách hàng có khó khăn không trả được nợ.
Có các hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản:
-Cầm cố bằng tài sản của khách hàng vay vốn
-Thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay vốn
-Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
-Tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay.
1.2.2 Bảo đảm tiền vay trong trường hợp không có bảo đảm bằng tài sản
Cho vay không có tài sản bảo đảm có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín,thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi,tình hình tài chính vững mạnh it xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa,hoặc món vay quá nhỏ so với vốn của người vay,các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn,các công ty lớn,hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng ...Các món cho vay theo chỉ thị của Chính Phủ để thực hiện các dự án đầu tư thuộc các chương trình kinh tế trọng điểm,đặc biệt của Nhà nước các chương trình kinh tế-xã hội và đối với một số khách hàng thuộc đối tượng được hưởng các chính sách tín dụng ưu đãi về điều kiện vay vốn theo qui định tại các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ,hay cho các cá nhân,hộ gia đình nghèo vay vốn có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể,chính trị.
Cho vay theo hình thức này tiềm ẩn rủi ro khá cao đối với ngân hàng,vì vậy mà ngân hàng phải rất thận trọng khi cho vay,để bảo đảm an toàn thì khi cho vay ngân hàng nên đưa ra một số qui định đối với khách hàng vay hoặc bên thứ ba nếu xét thấy khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích,hoặc có dấu hiệu kinh doanh không hiệu quả.
1.2.3 Nguyên tắc bảo đảm tiền vay
Điều 4 số 178/1999 NĐ-CP qui định nguyên tắc bảo đảm tiền vay
-Ngân hàng được quyền lựa chọn khách hàng vay,lựa chọn bên bảo lãnh và lựa chọn tài sản bảo đảm tiền vay đủ điều kiện theo qui định,các qui định của pháp luật có liên quan và phù hợp với chính sách tín dụng của ngân hàng theo từng thời kỳ.
-Khách hàng vay đang được cho vay không có tài sản bảo đảm bằng tài sản,nếu trong quá trình sử dụng vốn vay ngân hàng phát hiện khách hàng vi phạm cam kết trong hợp đồng tín dụng,ngân hàng có quyền yêu cầu khách hàng vay thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trước hạn.
-Ngân hàng có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay theo qui định trong hợp đồng tín dụng và qui định của pháp luật có liên quan để thu hồi nợ khi khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
-Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay,nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh vẫn chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ thì khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
1.2.4 Điều kiện đối với tài sản bảo đảm tiền vay
Tài sản mà khách hàng vay,bên bảo lãnh dùng để cầm cố,thế chấp,bảo lãnh vay vốn tại các tổ chức tín dụng phải đủ các điều kiện sau:
Tài sản phải thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền sử dụng,quản lý của khách hàng vay,bên bảo lãnh theo các quy định sau đây:
- Đối với giá trị quyền sử dụng đất,phải thuộc quyền sử dụng của khách hàng vay và được thế chấp,bảo lãnh theo qui định của pháp luật về đất đai.
- Đối với tài sản của doanh nghiệp Nhà nước,tài sản đó phải được Nhà nước giao cho doanh nghiệp đó quản lý,sử dụng và được dùng để bảo đảm tiền vay theo qui định của pháp luật về doanh nghiệp Nhà nước.
- Đối với tài sản khác thuộc quyền sở hữu của khách hàng vay,bên bảo lãnh.Trường hợp tài sản mà pháp luật qui định phải đăng ký quyền sở hữu thì bên bảo đảm phải có chứng nhận quyền sở hữu tài sản.
Tài sản được phép giao dịch,có tính thanh khoản cao.Đó là những tài sản mà pháp luật cho phép,không cấm mua bán,tặng,cho,chuyển đổi,chuyển nhượng,cầm cố,thế chấp và các giao dịch khác.
Tài sản không có tranh chấp về quyền sở hữu,quyền sử dụng,quản lý của bên bảo đảm tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm.Trong hợp đồng bảo đảm,bên bảo đảm phải cam kết với ngân hàng về việc tài sản cầm cố,thế chấp không có tranh chấp và chịu trách nhiệm về cam kết của mình.
Tài sản mà pháp luật qui định phải mua bảo hiểm thì bên bảo đảm phải mua bảo hiểm tài sản trong thời gian bảo đảm tiền vay.
1.3 Bảo đảm tiền vay bằng tài sản
1.3.1 Khái niệm, vai trò của bảo đảm tiền vay bằng tài sản
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là việc cho vay vốn của ngân hàng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố,thế chấp,tài sản hình thành từ vốn vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
Ngân hàng đóng vai trò là chủ nợ được thừa hưởng một số quyền hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng làm căn cứ để thu hồi nợ trong trường hợp khách hàng không trả hoặc không có khả năng trả nợ.Ngân hàng áp dụng biện pháp này đối với những khoản vay có độ rủi ro cao và được coi như nguồn trả nợ tiềm năng thứ hai.Bảo đảm tiền vay bằng tài sản chỉ là biện pháp phòng ngừa rủi ro,ngân hàng không coi đó là nguồn trả nợ chính của khoản vay.Vì vậy mà ngân hàng phải lựa chọn hình thức hoặc loại bảo đảm nào mà bản thân khách hàng vay vốn cũng không muốn dùng nó như một nguồn trả nợ.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản đóng vai trò rất quan trọng không chỉ đối với ngân hàng,khách hàng mà còn đối với cả nền kinh tế.
Thứ nhất,đối với ngân hàng.Bảo đảm tiền vay giúp cho ngân hàng có đủ cơ sở pháp lý để có nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thứ nhất không thực hiện được.Trong trường hợp khách hàng kinh doanh không hiệu quả,làm ăn thua lỗ… nên không có khả năng trả nợ,hay trong trường hợp do ý chí của khách hàng không muốn trả nợ cho ngân hàng khi đến hạn trả nợ,thì ngân hàng sẽ bán các tài sản bảo đảm đó đi để thu hồi toàn bộ hoặc một phần khoản nợ (gốc và lãi).Vì đây là một trong những điều kiện ngân hàng xem xét cho vay nên bảo đảm tiền vay giúp ngân hàng tạo lập và mở rộng việc tạo lập tín dụng đối với khách hàng.
Thứ hai,đối với khách hàng.Bảo đảm tiền vay là một trong những điều kiện để tổ chức,cá nhân được cấp tín dụng,là bước khởi đầu trong quan hệ tạo lập tín dụng với NHTM,từ đó tạo điều kiện cho khách hàng vay vốn sản xuất kinh doanh,tiêu dùng,mở rộng qui mô,đổi mới công nghệ…nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm,thoã mãn đáp ứng nhu cầu của dân cư.
Thực tế cho thấy không một doanh nghiệp nào hoạt động sản xuất kinh doanh mà không vay vốn từ các NHTM hay các tổ chức tài chính.Bảo đảm tiền vay là cơ sở chứng minh tài sản có của khách hàng để khách hàng có thể tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng.Ngoài ra nó cũng ràng buộc trách nhiệm vật chất,buộc khách hàng phải thận trọng trong việc sử dụng vốn vay một cách có hiệu quả và hợp pháp,trả nợ cho ngân hàng đúng hạn để thu hồi tài sản bảo đảm thuộc sở hữu của mình,nâng cao uy tín và tạo điều kiện thiết lập mối quan hệ lâu dài với ngân hàng .
Thứ ba,bảo đảm tiền vay thúc đẩy việc tạo lập quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng.Khách hàng được hỗ trợ về vốn,từ đó có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh,mở rộng qui mô,mở rộng thị trường,mua sắm máy móc thiết bị,đổi mới công nghệ từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh,còn ngân hàng có thêm khách hàng,có thêm thu nhập.Như vậy bảo đảm tiền vay thiết lập mối liên hệ khách hàng và ngân hàng,bảo đảm phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của cả hai bộ phận này,đem lại hiệu quả kinh tế,xã hội thiết thực.
1.3.2 Các hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản
1.3.2.1 Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố
Cầm cố là hình thức mà người nhận tài trợ của ngân hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản bảo đảm sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết (thường là thời gian nhận tài trợ).
Tài sản dùng để cầm cố là những tài sản tách biệt trong quá trình sản xuất kinh doanh có nghĩa là việc ngân hàng nắm giữ tài sản đó không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của bên nhận tài trợ,là những động sản mà ngân hàng có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn,như:chứng khoán,hợp đồng,sổ tiết kiệm,ngoại tệ mạnh,kim loại quý…
Không phải tài sản nào cũng có thể cầm cố cho ngân hàng để vay vốn,để có thể vay vốn ngân hàng thì các tài sản bảo đảm phải thoã mãn các điều kiện như tài sản phải thuộc sở hữu hợp pháp của bên đi vay,tài sản có tính thanh khoản và có giá trị thị trường.Ngân hàng chỉ nhận những tài sản gọn nhẹ,dễ quản lý,không chịu ảnh hưởng của môi trường tự nhiên,với hàng hoá ngân hàng thường chấp nhận các loại ít chịu tác động của môi trường trong thời gian cầm cố.Ngân hàng yêu cầu cầm cố khi xét thấy việc nắm giữ tài sản bảo đảm là không an toàn cho ngân hàng thường là các tài sản dễ bán,dễ chuyển nhượng.
Theo thông tư 07/2003 TT-NHNN danh mục các tài sản cầm cố gồm:
-Máy móc,thiết bị,phương tiện vận tải,nguyên liệu,nhiên liệu,vật liệu,hàng tiêu dùng,kim khí quý,đá quý và các vật có giá trị khác.
-Ngoại tệ bằng tiền mặt,số dư trên tài khoản tiền gửi tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán bằng tiền Việt Nam và ngoại tệ.
-Trái phiếu,cổ phiếu,tín phiếu,kỳ phiếu,chứng chỉ tiền gửi,sổ tiết kiệm,thương phiếu,các giấy tờ khác trị giá được bằng tiền.Riêng đối với cổ phiếu của các tổ chức tín dụng phát hành,khách hàng vay không được cầm cố tại chính tổ chức tín dụng đó.
-Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả,quyền sở hữu công nghiệp,quyền đòi nợ,quyền được nhận số tiền bảo hiểm,các quyền tài sản khác phát sinh từ hợp đồng hoặc từ các căn cứ pháp lý khác.
-Quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp,kể cả trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
-Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên theo quy định của pháp luật.
-Tàu biển theo qui định của Bộ Luật hàng hải Việt Nam,Tàu bay theo qui định của Luật hàng không dân dụng Việt Nam trong trường hợp được cầm cố.
-Tài sản hình thành trong tương lai là động sản hình thành sau thời điểm ký kết giao dịch cầm cố và sẽ thuộc quyền sở hữu của bên cầm cố như hoa lợi,lợi tức,tài sản hình thành từ vốn vay,các động sản khác mà bên cầm cố có quyền nhận.
-Các tài sản khác theo qui định của pháp luật.
Lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản cầm cố cũng thuộc tài sản cầm cố,nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật qui định,trường hợp tài sản cầm cố được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản cầm cố.
1.3.2.2 Bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp
Là hình thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy chứng nhận sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản bảo đảm sang cho ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết.Như vậy bên thế chấp chỉ giao giấy tờ sở hữu sang cho ngân hàng nắm giữ chứ không giao tài sản như cầm cố.
Ngân hàng không thể cầm cố nếu tài sản của khách hàng vẫn tham gia vào quá trình sản xuất như:máy móc,thiết bị,nhà đất đang trong quá trình sử dụng,hàng hoá đang trong quá trình luân chuyển do các tài sản này cồng kềnh,dễ phân tán,việc bán,chuyển nhượng khó khăn.Do vậy bảo đảm bằng thế chấp rất phổ biến.Tài sản thế chấp phải đạt được các điều kiện như đối với tài sản cầm cố đó là tài sản thuộc quyền sở hữu của khách hàng vay vốn,có thể chuyển nhượng theo qui định của pháp luật,phải dễ tiêu thụ khi cần xử lý.
Bảo đảm bằng thế chấp cho phép người nhận tài trợ sử dụng tài sản bảo đảm phục vụ cho hoạt động kinh doanh,đó là một thuận lợi song cũng là rủi ro cho ngân hàng vì trong quá trình sử dụng sẽ làm biến dạng tài sản,hơn nữa do khả năng kiểm soát tài sản bảo đảm của ngân hàng bị hạn chế khách hàng có thể lợi dụng phân tán,làm giảm giá trị của tài sản gây thiệt hại cho ngân hàng.Vì vậy ngân hàng phải xem xét kỹ vật thế chấp,cần có các nhà chuyên môn đủ để có khả năng đánh giá bảo đảm và có những thoã thuận hợp lý về nội qui sử dụng bảo đảm ,quyền giám sát bảo đảm của ngân hàng,phát mại bảo đảm khi khách hàng vi phạm hợp đồng tài trợ với bên đi vay… để bảo đảm chất lượng bảo đảm tiền vay đối với tài sản thế chấp.
Các loại tài sản dùng để thế chấp theo thông tư 07/2003/TT-NHNN ngày 15/05/2003 NHNN bao gồm:
-Nhà ở,công trình xây dựng gắn liền với đất,kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở,công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất.
-Giá trị quyền sử dụng đất mà pháp luật về đất đai qui định được thế chấp.
-Tàu biển theo qui định của Bộ Luật hàng hải Việt Nam,tàu bay theo qui định của Luật hàng không dân dụng trong trường hợp được thế chấp.
-Tài sản hình thành trong tương lai là bất động sản hình thành sau thời điểm ký kết giao dịch thế chấp và sẽ thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp như hoa lợi,lợi tức,tài sản hình thành từ vốn vay,công trình xây dựng,các bất động sản khác mà bên thế chấp có quyền nhận.
-Các tài sản khác theo qui định của pháp luật.
Hoa lợi,lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản thế chấp cũng thuộc tài sản thế chấp,nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định;trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản thế chấp.
1.3.2.3 Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
Bên thứ ba dùng tài sản của mình cam kết với ngân hàng cho vay về việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên đi vay,khi bên đi vay không trả được nợ theo thoả thuận ghi trong hợp đồng tín dụng.Bên thứ ba gọi là bên bảo lãnh,và chỉ được phép bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của chính mình hoặc bằng giá trị quyền sử dụng đất,đối với doanh nghiệp Nhà nước thì tài sản thuộc quyền quản lý,sử dụng của doanh nghiệp đó.
Ngân hàng và bên bảo lãnh sẽ thoả thuận theo hình thức thế chấp hay cầm cố để bảo đảm tiền vay.Theo phương thức này khi khách hàng vay vốn không trả được nợ (gốc,lãi và chi phí khác nếu có) khi đến hạn thanh toán thì bên thứ ba sẽ đứng ra thanh toán thay.Trong trường hợp nếu bên thứ ba từ chối không thực hiện cam kết như trong hợp đồng bảo đảm thì ngân hàng được phép bán tài sản của bên thứ ba để thu hồi nợ theo qui định của pháp luật,bên bảo lãnh có quyền được nhận lại giấy tờ,tài sản đã đem thế chấp hay ._.cầm cố khi hợp đồng bảo lãnh chấm dứt,có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh trả khoản nợ mà mình đã trả nợ thay.
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba được thực hiện dưới hình thức thế chấp hay cầm cố nên ngân hàng áp dụng mức cho vay như trong trường hợp bảo đảm tiền vay bằng cầm cố hay thế chấp tài sản của chính khách hàng vay.Khi cho vay theo hình thức này ngân hàng gặp nhiều rủi ro,vì vậy ngân hàng phải tiến hành thẩm định một cách chặt chẽ về bên thứ ba,xem xét kỹ khả năng tài chính,tình trạng tài sản và uy tín của bên bảo lãnh.Mỗi lần bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải phát hành thư bảo lãnh của mình.
Đối với các tài sản của bên thứ ba thì phải có đủ các điều kiện bảo đảm tiền vay,còn bên thứ ba thì phải đủ các điều kiện:
-Đối với pháp nhân,cá nhân Việt Nam:Bên bảo lãnh phải có năng lực pháp luật dân sự,năng lực hành vi dân sự theo qui định của pháp luật việt Nam.
-Đối với bên bảo lãnh là pháp nhân,cá nhân nước ngoài:Có năng lực pháp luật dân sự,năng lực hành vi dân sự theo qui định pháp luật của nước mà bên bảo lãnh là pháp nhân nước ngoài có quốc tịch hoặc cá nhân nước ngoài là công dân,nếu pháp luật nước ngoài đó được Bộ luật dân sự của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,các văn bản pháp luật khác của Việt Nam qui định hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia qui định,trong trường hợp pháp nhân,cá nhân nước ngoài xác lập,thực hiện việc bảo lãnh tại Việt Nam,thì phải có năng lực pháp luật dân sự,năng lực hành vi dân sự theo qui định của pháp luật Việt Nam.
1.3.2.4 Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay
Tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của khách hàng vay mà giá trị tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của ngân hàng.
Khách hàng vay cam kết với ngân hàng về việc sẽ dùng chính tài sản hình thành từ nguồn tài trợ của ngân hàng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó,khách hàng có thể cầm cố hay thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay đó.Hình thức này mang lại nhiều rủi ro hơn các hình thức bảo đảm khác vì tài sản dùng làm bảo đảm chưa có khi ký hợp đồng bảo đảm,được hình thành trong quá trình sử dụng vốn vay.Do đó khi cho vay khách hàng phải đáp ứng các điều kiện :
-Có khả năng tài chính và các nguồn thu nhập hợp pháp để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
-Dự án đầu tư,phương án sản xuất kinh doanh khả thi,có hiệu quả hoặc có dự án đầu tư,phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với qui định của pháp luật.
-Có mức vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp cầm cố,thế chấp tối thiểu bằng 15% vốn đầu tư của dự án hoặc phương án đó.
Các tài sản này phải đáp ứng được về quyền sở hữu,sử dụng,được phép giao dịch,phải xác định được giá trị,số lượng,dễ bán,dễ chuyển nhượng,ít bị mất giá,ngân hàng phải quản lý,giám sát được tài sản bảo đảm trong quá trình hình thành và sau khi hình thành.Đối với tài sản mà pháp luật qui định phải mua bảo hiểm,thì khách hàng vay phải cam kết mua bảo hiểm trong suốt thời hạn vay vốn khi tài sản đã được hình thành đưa vào sử dụng.
Hình thức này hạn chế được người vay bán tài sản được hình thành từ vốn vay,tuy nhiên cũng mang lại cho ngân hàng rủi ro khi người vay không trả được nợ,thì phần lớn tài sản này khi khách hàng sử dụng cho sản xuất kinh doanh một phần bị hao mòn,giảm giá,không bảo đảm cho ngân hàng thu đủ cả gốc và lãi.
1.3.3 Quy trình cho vay có bảo đảm bằng tài sản
Quy trình cho vay có bảo đảm bằng tài sản có các bước sau:
Bước 1:Nhận và kiểm tra hồ sơ tài sản bảo đảm
Cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm hướng dẫn,giải thích cụ thể để khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh có thể hiểu đầy đủ các trách nhiệm và nghĩa vụ cơ bản của bên vay đối với TSBĐ.Kiểm tra kỹ lưỡng nhằm bảo đảm giấy tờ đầy đủ,hợp lý hợp lệ.
Bước 2:Thẩm định và xác định giá trị TSBĐ
Thẩm định TSBĐ nhằm làm rõ các điều kiện của TSBĐ gồm tính pháp lý của các giấy chứng nhận quyền sở hữu và các giấy tờ liên quan đến TSBĐ,nguồn gốc và đặc điểm của TSBĐ,quyền sở hữu,quyền sử dụng đất của bên bảo đảm,cán bộ tổ thẩm định phải kiểm tra xem bên bảo đảm có xuất trình đủ các loại giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản,hoặc quyền sử dụng đất dùng làm bảo đảm hay không.Kiểm tra xem tài sản hiện có nằm trong diện có tranh chấp,có được phép giao dịch,có dễ bán,dễ chuyển nhượng hay không.Các tài sản mà pháp luật quy định đóng bảo hiểm thì ngân hàng cần kiểm tra xem khách hàng đã đóng bảo hiểm hay chưa…Việc thẩm định các điều kiện liên quan đến TSBĐ được tiến hành trên cơ sở các nguồn thông tin như:hồ sơ tài liệu và thông tin do khách hàng cung cấp,khảo sát thực tế từ cơ sở,nguồn tin tư các cơ quan có thẩm quyền cấp các giấy tờ liên quan đến TSBĐ,hoặc thu thập thông tin từ các nguồn Chính quyền địa phương,công an,toà án,cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm,các ngân hàng khác…
Sau khi khẳng định tài sản có đủ điều kiện để bảo đảm cho khách hàng có thể vay vốn thì các cán bộ thẩm định tiến hành việc xác định giá tri TSBĐ nhằm làm cơ sở mức cho vay tố đa và tính toán khả năng thu hồi nợ vay trong trường hợp xử lý TSBĐ.
Việc định giá TSBĐ phải do tổ thẩm định của ngân hàng hoặc thuê cơ quan chức năng chuyên môn thực hiện và phải định giá theo các nguyên tắc sau:
-Tài sản bảo đảm tiền vay phải được xác định giá trị tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm,việc xác định giá trị tài sản tại thời điểm này chỉ làm cơ sở mức cho vay của ngân hàng,không áp dụng khi xử lý tài sản để thu hồi nợ.Việc xác định giá trị tài sản bảo đảm tiền vay phải được thành lập văn bản riêng,hoặc ghi vào hợp đồng bảo đảm,hợp đồng tín dụng.
-Việc định giá tài sản bảo đảm phải căn cứ vào giá thực tế có thể mua bán,chuyển nhượng tại thời điểm định giá,không được định giá tài sản bảo đảm cao hơn mức giá có thể mua bán,chuyển nhượng tại thời điểm định giá.
-Giá trị tài sản bảo đảm được xác định bao gồm cả hoa lợi,lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản đó.Trường hợp tài sản thế chấp là toàn bộ bất động sản có vật phụ thì giá trị vật phụ cũng thuộc tài sản thế chấp
Việc định giá phải căn cứ vào các cơ sở pháp lý hoặc cơ sở thực tế, bảo đảm tính khách quan,minh bạch,cán bộ thẩm định không được đánh giá TSĐB trái với qui định của pháp luật và của NHCT.
Bước 3:Quyết định mức cho vay
Cán bộ thẩm định xem xét mối tương quan giữa giá trị khoản vay với giá trị của TSBĐ sẽ đưa ra mức cho vay phù hợp.Các ngân hàng thương mại thường cho vay ít hơn giá trị TSBĐ,thường 50%-70%,tuy nhiên để xác định được mức cho vay an toàn ngân hàng còn căn cứ vào đặc điểm,tính chất của TSBĐ,ngoài ra mức cho vay còn phụ thuộc vào chủ trương,chính sách của mỗi ngân hàng trong từng thời kỳ.
Bước 4:Ký hợp đồng và quản lý tài sản bảo đảm
Các điều khoản về bảo đảm tiền vay của khách hàng chỉ có giá trị pháp lý khi được thể hiện bằng một hợp đồng bảo đảm,thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng.Do đó hợp đồng bảo đảm phải được soạn thảo kỹ càng,tuân thủ nghiêm nghặt các quy định của pháp luật và của NHCT.
Quản lý tài sản bảo đảm bao gồm việc theo dõi,kiểm tra,đánh giá nhằm bảo đảm tài sản bảo đảm,và các giấy tờ vẫn đang trong tình trạng bình thường hoặc kịp thời phát hiện các sự cố liên quan làm giảm giá trị của TSBĐ và các giấy tờ liên quan.Nếu phát hiện khách hàng hay bên thứ ba vi phạm hợp đồng ngân hàng cần thực thi các biện pháp thích hợp.
Trường hợp TSBĐ do khách hàng vay,bên thứ ba quản lý và sử dụng thì ít nhất 06 tháng/lần cán bộ tín dụng cần kiểm tra theo các nội dung:tình trạng hiện tại của tài sản như thế nào,kiểm tra những thay đổi về số lượng và chất lượng so với hiện trạng khi nhận tài sản,tình hình sử dụng và bảo quản,các trường hợp vi phạm hợp đồng bảo đảm của khách hàng,bên thứ ba.
Trường hợp tài sản bảo đảm do chính ngân hàng quản lý.Đối với giấy tờ có giá thì sau khi nhận bàn giao giấy tờ có giá từ khách hàng thì cán bộ thẩm định tiến hành thủ tục bàn giao và bảo quản giấy tờ có giá tại phòng ngân quỹ của chi nhánh.Cán bộ tín dụng nên giữ bản sao toàn bộ các giấy tờ có giá gửi lưu giữ tại phòng ngân quỹ để tiện cho quá trình làm việc,tránh tình trạng cán bộ tín dụng lấy lại,xem lại giấy tờ có giá nhiều lần.Còn đối với các tài sản bảo đảm khác như là nhà cửa,Ô tô,hàng hoá…ngân hàng buộc phải trực tiếp quản lý và bảo quản,trong trường hợp này ngân hàng nên thuê bên thứ ba bảo quản hộ nếu ngân hàng không có kho riêng hoặc không có nhân sự có chuyên môn.
Bước 5:Thanh lý hợp đồng
Khi đến hạn thanh toán,nếu khách hàng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán của mình thì ngân hàng sẽ tiến hành giải chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm được thanh lý hoàn toàn,còn nếu trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ thì ngân hàng sẽ xử lý TSBĐ của khách hàng để thu hồi nợ.
TSBĐ tiền vay được xử lý theo phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo đảm tiền vay giữa bên bảo đảm và ngân hàng.Nếu không xử lý được theo phương thức thoả thuận thì ngân hàng có quyền:bán,chuyển nhượng tài sản bảo đảm để thu hồi nợ,yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh,nếu bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì xử lý tài sản của bên bảo lãnh để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Ngân hàng cũng có quyền chuyển giao quyền thu hồi nợ hoặc uỷ quyền cho bên thứ ba xử lý TSBĐ,trong trường hợp này bên thứ ba cũng có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ như ngân hàng.
Trường hợp một tài sản bảo đảm tiền vay cho nhiều nghĩa vụ trả nợ,nếu phải xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thực hiện một nghĩa vụ trả nợ đến hạn,thì các nghĩa vụ trả nợ khác tuy chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn và được xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ.
Ngân hàng phải thực hiện việc xử lý TSBĐ một cách công khai,thủ tục đơn giản,thuận tiện,nhanh chóng,bảo đảm quyền lợi,lợi ích của ngân hàng và khách hàng,tiết kiệm chi phí.
Các chi phí phát sinh trong xử lý tài sản bảo đảm tiền vay do khách hàng vay,bên bảo lãnh chịu.Tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm tiền vay sau khi trừ chi phí xử lý,thì ngân hàng thu nợ theo thứ tự:nợ gốc,lãi vay,lãi quá hạn,các khoản chi phí khác (nếu có).Tài sản bảo đảm tiền vay sau khi được xử lý nếu không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ,thì khách hàng vay,bên bảo lãnh phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
Về cơ bản trình tự thủ tục nhận tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay cũng giống như trình tự thủ tục nhận tài sản cầm cố,thế chấp thông thường,nhưng cần phải lưu ý thêm một số vấn đề.
Trường hợp bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay theo quyết định của Chính phủ thì ngân hàng phải lưu giữ các công văn,giấy tờ có liên quan và thực hiện theo điều kiện,trình tự thủ tục phù hợp với quyết định đó.
Việc xác định giá trị tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay cần chú ý đến thời gian từ khi tài sản chưa hình thành đến khi đã hình thành.Khi tài sản chưa hình thành thì giá mua tài sản,chi phí phải trả để hình thành là cơ sở để xác định giá trị tài sản,giá trị này không được vượt dự toán được duyệt và giá trị tài sản thoả thuận ghi trên hợp đồng mua bán đã ký.Khi tài sản đã hình thành thì việc xác định giá trị tài sản được thực hiện như việc xác định giá trị tài sản trong trường hợp thế chấp,cầm cố hay bảo lãnh của bên thứ ba nhưng không được vượt giá trị được quyết toán.
Định kỳ,ngân hàng phải tiến hành đánh giá lại giá trị tài sản bảo đảm nhằm tránh những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra.Việc đánh giá được tiến hành trong những trường hợp như:Khi hết thời hạn 06 tháng đối với động sản và 01 năm đối với động sản kể từ lần định giá gần nhất,giá trị tài sản bị giảm hư hỏng,lạc hậu,mất mát,thực hiện gia hạn nợ,điều chỉnh kỳ hạn nợ,xử lý để thu hồi nợ,giá trị thị trường của tài sản có biến động giảm so với lần định giá gần nhất…Cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm thường xuyên theo dõi để xác định và đề nghị thời điểm cần đánh giá lại giá trị tài sản bảo đảm.
1.3.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản
1.3.4.1 Yếu tố thuộc về khách hàng
Để bảo đảm hoạt động an toàn và sinh lợi ngân hàng thường cho vay khi xét thấy khách hàng vay có hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả,có tài sản bảo đảm đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng.Tuy nhiên có những nguyên nhân chủ quan thuộc về khách hàng vay vốn,ngân hàng là nơi đứng ra cấp vốn nhưng khách hàng lại là người trực tiếp sử dụng vốn,do vậy ngân hàng không thể kiểm soát được khách hàng một cách toàn diện.
Trình độ yếu kém của khách hàng vay vốn trong dự đoán các vấn đề kinh doanh,yếu kém trong công tác quản lý,công tác marketing,tiếp thị sản phẩm.Hay có nhiều khách hàng thiếu vốn hoặc tỷ trọng vốn vay quá lớn trong tổng nguồn vốn hoạt động,khả năng tự chủ về tài chính thấp,bị động trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên đến hạn nợ không thể xử lý kịp thời thanh toán cho ngân hàng,công nghệ sản xuất lạc hậu,chất lượng sản phẩm thấp chưa đáp ứng nhu cầu của thị trường ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.Dẫn đến kinh doanh không hiệu quả,khả năng trả nợ kém khiến hiệu quả của công tác bảo đảm tiền vay bị giảm sút.
Tư cách đạo đức của khách hàng vay cũng ảnh hưởng đến công tác bảo đảm tiền vay cho ngân hàng.Có rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao.Để đạt được mục đích của mình,họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để ứng phó với ngân hàng.Có nhiều trường hợp,khách hàng vay vốn đã lập các báo cáo tài chính,báo cáo kết quả kinh doanh không trung thực,không đúng với thực tế hoạt động kinh doanh của mình,hay sự thiếu trung thực trong những chứng từ,tài liệu liên quan đến mục đích vay vốn và sử dụng vốn như thế nào.Điều này khiến cho ngân hàng khó khăn trong việc nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh,khó khăn trong việc theo dõi,giám sát,quản lý vay vốn của khách hàng để đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn cũng như đưa ra các biện pháp kịp thời.Có trường hợp dựa vào những khe hở, mâu thuẫn giữa các qui định về bảo đảm tiền vay,các khách hàng cố tình chây ỳ,gây khó khăn cho ngân hàng trong việc xử lý tài sản bảo đảm khiến việc thu nợ của ngân hàng bị kéo dài,khách hàng dùng những thủ đoạn để lừa đảo ngân hàng như cầm cố giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu là giả mạo,thế chấp đất nằm trong diện giải toả…ngân hàng không có đủ căn cứ để xử lý TSBĐ,khiến cho ngân hàng rơi vào tình trạng có tài sản bảo đảm mà như không.Vì vậy mà để đạt được hiệu quả của công tác bảo đảm tiền vay thì ngân hàng cần phải lựa chọn những khách hàng có tư cách đạo đức,có năng lực tài chính,có hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao.
1.3.4.2 Yếu tố thuộc về ngân hàng
-Chất lượng nhân sự của ngân hàng.
Cán bộ tín dụng là người trực tiếp thẩm định,đánh giá khách hàng,đánh giá tài sản bảo đảm để đề xuất các biện pháp bảo đảm tiền vay có thể áp dụng đối với khách hàng.Vì vậy chất lượng cán bộ tín dụng là yếu tố đầu tiên,quan trọng nhất.
Khi nhân viên tín dụng cho khách hàng vay vốn mà họ không đủ trình độ đánh giá khách hàng,đánh giá tài sản bảo đảm không sát thực,không có khả năng dự đoán các vấn đề liên quan đến người vay cũng như tài sản bảo đảm…thì rủi ro luôn rình rập họ.
Một ngân hàng có đội ngũ cán bộ có trình độ,có kinh nghiệm và kiến thức thực tiễn giúp cho việc thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng đó được tốt hơn.Hay có một đội ngũ am hiểu luật pháp,có khả năng phân tích tình hình biến động của thị trường giúp ngân hàng giám định tính chất pháp lý của TSBĐ được dễ dàng hơn và việc đánh giá,định giá giá trị TSBĐ một cách sát thực hơn.Bên cạnh đó thì đạo đức tư cách,tinh thần trách nhiệm,sự cống hiến của của cán bộ ngân hàng cũng là yếu tố góp phần vào sự phát triển ngân hàng một cách an toàn,lành mạnh và hiệu quả hơn.Vì vậy ngân hàng phải đào tạo một đội ngũ cán bộ tín dụng không những có chuyên môn mà còn phải có đạo đức nghề nghiệp để có thể đưa ra những quyết định mang lại hiệu quả kinh tế cao đối với ngân hàng.
-Công tác thẩm định tài sản bảo đảm
Tài sản bảo đảm là cở sở để ngân hàng quyết định cho vay với thời gian,số tiền vay,và hình thức bảo đảm tiền vay hợp lý.Vì vậy công tác thẩm định tài sản rất quan trọng.Mục đích của công tác thẩm định giúp ngân hàng biết được tính khả thi,hiệu quả kinh tế,khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra để đưa ra quyết định cho vay phù hợp.Đánh giá tài sản bảo đảm quá cao hoặc quá thấp so với giá trị thị trường đều ảnh hưởng không tốt đến cả ngân hàng và khách hàng.Tuy nhiên để có thể làm tốt công tác bảo đảm tiền vay thì ngân hàng cần phải có quy trình thẩm định tài sản bảo đảm phù hợp và khoa học.Ngoài ra ngân hàng cũng cần phải thu thập những thông tin từ nhiều nguồn khác về tài sản bảo đảm để đánh giá chính xác hơn về tài sản.Bên cạnh đó ngân hàng nên thuê những chuyên gia thích hợp để thẩm định những tài sản thuộc lĩnh vực chuyên môn khó mà cán bộ ngân hàng không am hiểu nhiều,để có thể đánh giá được giá trị đích thực của tài sản bảo đảm nhằm đạt được hiệu quả cao nhất có thể.
-Công tác tổ chức hoạt động,quản lý và điều hành xử lý tài sản bảo đảm
Nếu quản lý không tốt tài sản bị giảm giá trị gây mất lòng tin đối với khách hàng khi họ đem tài sản cầm cố,thế chấp đồng thời còn làm giảm doanh thu của ngân hàng khi thanh lý tài sản.
1.3.4.3 Yếu tố thuộc về môi trường
-Môi trường pháp lý:
Cơ sở pháp lý tạo hành lang an toàn cho hoạt động cho vay có bảo đảm,qui định các chủ thể tham gia quan hệ này phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ.Nếu các văn bản pháp luật ban hành ra không đồng bộ,mâu thuẫn,chồng chéo nhau,lại thiếu các văn bản hướng dẫn…Điều đó vô tình đã tạo cho khách hàng có thể lợi dụng khe hở luật pháp lừa đảo ngân hàng,ảnh hưởng đến chất lượng,công tác bảo đảm tiền vay của ngân hàng.
Trong cho vay có tài sản bảo đảm,vấn đề không chỉ đóng khung trong các văn bản qui định của các tổ chức tín dụng mà còn liên quan tới nhiều luật khác của Bộ Tư pháp,Bộ công an,Bộ tài chính,Tổng cục địa chính.Chính sự phức tạp đó mà các văn bản liên quan đến công chứng,giao dịch bảo đảm,quản lý và xử lý tài sản bảo đảm cần được qui định cụ thể,rõ ràng và đồng bộ để làm cơ sở,góp phần giúp ngân hàng bảo đảm được quyền lợi của mình,khuyến khích cho vay có tài sản bảo đảm ,nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay.
-Môi trường kinh tế:
Chủ trương,đường lối,chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước là nhân tố định hướng,quyết định mục tiêu kinh doanh của cả ngân hàng và khách hàng.Các chính sách này thường xuyên thay đổi,điều chỉnh cho phù hợp với từng thời kỳ,tác động liên tục tới người vay lẫn người cho vay.Nhiều người vay với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo,thích ứng,hoặc khắc phục những khó khăn.Trong những trường hợp khác người vay có thể bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn, đủ gốc và lãi.Tuy nhiên khi tác động của những nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề,khả năng trả nợ của họ bị suy giảm,bản thân ngân hàng sẽ gặp rủi ro trong việc xử lý,phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.
-Môi trường chính trị:
Một môi trường chính trị ổn định sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động của xã hội nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng.
Chương II:
Thực trạng công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Sở giao dịch I-Ngân hàng công thương Việt Nam (SGD I-NHCT VN)
2.1 Tổng quan về Sở giao dịch I-Ngân hàng công thương Việt Nam
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của SGDI-NHCT VN
Ngân hàng Công thương Việt Nam (NHCT VN) được thành lập tháng 7/1988 trên cơ sở sát nhập vụ tín dụng công nghiệp và tín dụng thương nghiệp của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam,có tổng tài sản chiếm hơn 20% thị phần trong toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam.Cùng với sự phát triển của đất nước,của nghành ngân hàng,NHCT đã phát triển ngày càng lớn mạnh và là 1 trong 5 ngân hàng thương mại Nhà Nước lớn của Việt Nam.Trong quá trình đổi mới và phát triển NHCT đã góp phần đắc lực vào sự phát triển kinh tế của đất nước,thực thi chính sách tiền tệ,kiềm chế và đẩy lùi lạm phát.
Do yêu cầu của việc mở rộng hoạt động kinh doanh,cung ứng dịch vụ trong nền kinh tế thị trường để đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế,ngày 30/12/1998,Chủ tịch Hội đồng quản trị NHCT VN ký quyết định số 134/QĐ-HĐQT với nội dung sắp xếp về mặt tổ chức nhằm chuẩn bị cho việc thành lập Sở Giao dịch I-Ngân hàng Công thương Việt Nam (SGD I-NHCT VN) theo điều lệ tổ chức và hoạt động của NHCT VN.Đến ngày 1/1/1999 Sở giao dịch I chính thức được thành lập hoạt động theo uỷ quyền của NHCT VN,là một đơn vị lớn của NHCT VN,trụ sở chính tại số 10-Lê Lai thành phố Hà Nội.
Sở giao dịch I NHCT VN có chức năng như một chi nhánh của NHCT VN thực hiện đầy đủ các hoạt động của một ngân hàng thương mại và còn thể hiện là một ngân hàng trung tâm của NHCT VN,nơi nhận các quyết định,chỉ thị đầu tiên,thực hiện thí điểm các chủ trương,chính sách chính của NHCT VN,đồng thời điều vốn cho các chi nhánh khác trong hệ thống NHCT VN.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của SGD I-NHCT VN
Ngày 20/10/2003,chủ tịch Hội đồng quản trị NHCT VN ban hành quyết định số 153/QĐ-HĐQT-NHCT về mô hình tổ chức mới của SGD I theo dự án hiện đại hoá ngân hàng và công nghệ thanh toán do Ngân hàng thế giới (WB) tài trợ.
Thực hiện dự án này SGDI-NHCT VN đã được tổ chức lại thành 12 phòng ban và ban giám đốc gồm 5 người (1 giám đốc và 4 phó giám đốc).
Phòng khách hàng cá nhân
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
Phòng Khách hàng số 1
Phòng Tài trợ thương mại
Phòng Thông tin điện toán
Phòng tổng hợp tiếp thị
Phòng tiền tệ kho quỹ
Phòng kế toán tài chính
Phòng Tổ chức hành chính
Phòng Kiểm soát nội bộ
Phòng Khách hàng số 2
Phòng Thẻ
Phòng Kế toán giao dịch
Mô hình : CƠ CẤU TỔ CHỨC SỞ GIAO DỊCH I – NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
Hiện nay Sở giao dịch I có trên 80% cán bộ có trình độ đại học,16 thạc sỹ kinh tế, 9 đồng chí có trình độ cao cấp chính trị,70% cán bộ có trình độ ngoại ngữ, 90% cán bộ sử dụng thành thạo máy vi tính,100% cán bộ lãnh đạo từ cấp phòng trở lên được đào tạo kinh tế thị trường,quản trị kinh doanh.Số cán bộ 280 người,trong đó trình độ trên đại học 16 người,đại học 213 người,cao đẳng 20 người
2.1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh
2.1.3.1 Hoạt động huy động vốn
Biểu 1:Tình hình huy động vốn tại SGDI-NHCT VIỆT NAM
Đơn vị:tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Tổng số
Tỷ trọng (%)
Tổng số
Tỷ trọng (%)
Tổng số
Tỷ trọng (%)
Tổng nguồn huy động
16.071
100
17.448
100
16.718
100
I.Phân theo đối tượng
1.Tiền gửi doanh nghiệp
10.399
64,7
9.859
56,5
9.050
54,1
2.Tiền gửi dân cư
3.908
24,3
3.370
19,3
3.257
19,5
3.Tiền gửi khác
1.764
11
4.219
24,2
4.411
26,4
II.Phân theo loại tiền
1.VND
13.709
85,3
14.953
85,3
14.140
84,6
2.Ngoại tệ quy VND
2.362
14,7
2.495
14,7
2.578
15,4
III.Phân theo kỳ hạn
1.Không kỳ hạn
9.232
57,4
3.369
19,3
3.681
22
2.Có kỳ hạn
6.839
42,6
14.079
80,7
13.037
78
(Nguồn: báo cáo tổng tình hình huy động vốn của SGDI-NHCT VN)
Qua báo cáo về tình hình huy động vốn của Sở giao dịch I trong thời gian qua cho thấy nguồn vốn huy động hàng năm có sự tăng trưởng khá đồng đều.Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2005 là 16.071 tỷ đồng,vượt 15% so với năm 2004 và vượt 4% kế hoạch được.Đến 31/12/2006 nguồn vốn huy động đạt 17.448 tỷ đồng,tăng 1.377 tỷ đồng so với năm 2005,tốc độ tăng 8.5% xấp xĩ đạt kế hoạch được giao năm 2006.Đến cuối năm 2007 tổng nguồn vốn huy động đạt 16.718 tỷ đồng.
Công tác huy động vốn trên địa bàn trụ sở của SGD I diễn biến phức tạp do có nhiều ngân hàng và các tổ chức phi ngân hàng cùng hoạt động,cạnh tranh quyết liệt,nhưng SGD I căn cứ vào đặc điểm tình hình,vào kế hoạch huy động vốn của NHCT VN và hướng mục tiêu tăng trưởng kinh tế để đề ra kế hoạch biện pháp huy động vốn phù hợp và đạt hiệu quả cao.
2.1.3.2 Hoạt động tín dụng
Biểu 2:Tình hình hoạt động tín dụng tại SGDI-NHCT VN
Đơn vị :tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Tống số
tỷ trọng (%)
Tổng số
Tỷ trọng (%)
Tổng số
Tỷ trọng
(%)
Tổng dư nợ cho vay và đầu tư
3.940
4.499
4.359
Tổng dư nợ cho vay
2.788
100
2.776
100
3.101
100
I.Phân theo thời Hạn
-Ngắn hạn
987
35,4
895
32,2
1.008
32,5
-Trung và dài hạn
1.801
64,4
1.881
67,8
2.093
67,5
II.Phân theo TPKTế
-Kinh tế quốc doanh
2.066
74,1
2.081
75
2.341
75,5
-Ngoài quốc doanh
722
25,9
695
25
760
24.5
III.Chất lượng tín dụng
-Dư nợ trong hạn
2.780,8
99,7
2.774,5
99,95
3.101
100
-Dư nợ quá hạn
7,2
0,3
1,5
0,05
0
0
IV.Phân theo đvị tiền tệ
-VNĐ
1.889
67,8
1.907
68,7
1.957
63,1
-Ngoại tệ quy VNĐ
899
32,2
870
31..3
1.143
36,9
(Nguồn:Báo cáo về tình hình hoạt động tín dụng của SGDI-NHCT VN)
Hoạt động đầu tư và cho vay tăng từ năm 2005 đến 2006 nhưng lại giảm đến năm 2007.Cụ thể năm 2006,dư nợ đầu tư và cho vay đạt 4.499 tỷ đồng,tăng 560 tỷ đồng,đạt tỷ lệ tăng 14 % so với năm 2005.Trong đó ,dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 2.777 tỷ đồng,giảm 11 tỷ đồng so với năm 2005,đạt 90 % kế hoạch NHCT VN giao.Năm 2007 dư nợ đầu tư và cho vay đạt 4.360 tỷ đồng,giảm 139 tỷ đồng so với năm 2006.
Chất lượng tín dụng nhìn chung khá tốt trong giai đoạn 2005-2007,dư nợ trong hạn không ngừng tăng với tốc độ khá đáng kể.Năm 2005 dư nợ trong hạn chiếm 99,7%,còn dư nợ quá hạn là 0,3%.Năm 2006 dư nợ quá hạn còn 0,05% và đến năm 2007 không còn nợ quá hạn.Điều này cho thấy hoạt động tín dụng của Sở đang có hiệu quả.
2.1.3.3 Hoạt động dịch vụ và các hoạt động khác
Đến nay ngoài những sản phẩm dịch vụ truyền thống,SGD I đã triển khai đa dạng các sản phẩm như:Dịch vụ cho thuê két sắt,kiều hối,Eden,dịch vụ du học trọn gói,dịch vụ điện tử qua mạng (Internet banking),dịch vụ thẻ ATM,thẻ tín dụng quốc tế.
Doanh số hoạt động thanh toán năm 2007 đạt 716 ngàn tỷ đồng,tăng 126 ngàn tỷ đồng so với năm 2006.Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu năm 2007 đạt 297 triệu USD,tăng 99 triệu USD.
Hoạt động kinh doanh thẻ (thẻ E-partner) đạt tốc độ tăng lớn và liên tục được gia tăng thêm nhiều tiện ích như:chuyển lương,thanh toán tiền hang,tiền điện thoại,chi trả kiều hối,nộp phí bảo hiểm và gửi tiết kiệm có kỳ hạn qua thẻ.Đến nay,SGD I đã phát hành được gần 30 ngàn thẻ E-partner và thẻ tín dụng quốc tế,có 41 doanh nghiệp thực hiện trả lương qua thẻ E-partner,có 17 đơn vị chấp nhận thẻ,quản lý 12 máy ATM.
2.1.3.4 Hiệu quả kinh doanh
Biểu 3:Tình hình thu nhập của SGDI-NHCT VN
Đơn vị :tỷ đồng
Năm
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Lợi nhuận ròng
347,5
343,055
331,499
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2005,2006,2007 của SGD I-NHCT VN)
Lợi nhuận qua ba năm gần đây nhất đã giảm,cụ thể lợi nhuận hạch toán nội bộ năm 2006 đạt 343,055 tỷ đồng,giảm 4,5 tỷ đồng so với năm 2005,xấp xĩ đạt kế hoạch NHCT VN giao.Kết quả lợi nhuận giảm so với năm 2005 là do lãi suất bình quân đầu vào tăng cao hơn nhiều so với những năm trước đây.Năm 2007 lợi nhuận giảm 11,556 tỷ đồng so với năm 2006,nguyên nhân là do nền kinh tế trong nước nói chung và Hà Nội nói riêng gặp khó khăn như:thiên tai,dịch bệnh,giá cả của một số vật tư hàng hoá thế giới tăng tạo sức ép nhiều mặt hàng trong nước tăng giá như:lương thực,thực phẩm,xăng dầu…lạm phát ở mức cao làm cho ngân hàng khó khăn trong việc huy động và tạo sức ép tăng lãi suất của các ngân hàng trong nước.
2.2 Doanh nghiệp nhỏ và vừa,sự cần thiết bảo đảm tiền vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa
2.2.1 Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân,kinh doanh vì mục đích lợi nhuận,có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn,lao động,doanh thu,giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ theo qui định của từng quốc gia.
Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ mang tính tương đối,nó thay đổi theo từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nhất định,và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng nước,được qui định trong những điều kiện cụ thể và có sự thay đổi theo thời gian cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế-xã hội của từng giai đoạn,giới hạn chỉ tiêu độ lớn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa khác nhau theo những nghành nghề khác nhau.
Ở nước ta theo qui định số 90/2001/ND-CP ngày 23/11/2001 thì doanh nghiệp nhỏ và vừa là những cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập,đã đăng ký kinh doanh theo luật hiện hành có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lượng lao động trung bình hàngm năm không quá 300 người.
Dù doanh nghiệp nhỏ và vừa được hiểu như thế nào thì các doanh nghiệp này có những đặc điểm chung.Đó là:
-Quy mô nhỏ bé,vốn hạn chế,số lượng lao động ít nên các DNN&V gặp khó khăn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh,trình độ quản lý yếu kém,công nghệ lạc hậu.
-Tính linh hoạt cao thể hiện ở tổ chức quản lý sản xuất,các quan hệ nội bộ dễ điều chỉnh,dễ thích ứng với biến động của nền kinh tế.Công tác điều hành mang tính trực tiếp và quan hệ giữa người quản lý và người lao động rất chặt chẽ.
- Sản phẩm đa dạng:Các DNN&V hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực nên các sản phẩm tạo ra ở các doanh nghiệp này cũng rất đa dạng và phong phú.
-Sức cạnh tranh của sản phẩm còn thấp do công nghệ lạc hậu,thủ công, tốc độ đổi mới rất chậm.Công nghệ tốt giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động, sản xuất ra được các sản phẩm với chất lượng phù hợp,đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng và giảm bớt chi phí sản xuất,nhờ đó tăng năng lực cạnh tranh.Ngược lại công nghệ lạc hậu và chậm đổi mới làm hạn chế năng suất và số lượng,chất lượng sản phẩm,làm tăng chi phí sản xuất thậm chí ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường,từ đó làm hạn chế năng lực cạnh tranh của các DN N&V.
- Rủi ro kinh doanh cao do nguồn tài chính eo hẹp,gặp khó khăn trong việc vay vốn từ các định chế tài chính,bởi họ không thể đáp ứng được những điều kiện cho vay thông thường do các ngân hàng thương mại đòi hỏi.Thiếu vốn là một trong những khó khăn tài chính mà các nhà kinh doanh nhỏ và vừa phải đương đầu,tình trạng rất nguy hiểm đặc biệt khi họ tiến hành đầu tư chiều sâu,mua thiết bị mới hay dự tính mở rộng sản xuất.Bên cạnh đó,các DNN&V thiếu kinh nghiệm,thiếu các kỹ năng quản trụ và marketing,nguồn nhân lực trình độ thấp,công nghệ lạc hậu.Vì vậy mà các DNN&V phải rất cẩn thận trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.2.2 Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong quá trình đổi mới,các DNN&V đóng vai trò quan trọng góp phần gìn giữ và phát._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7634.doc