Lời mở đầu
Trong hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế đất nước, vai trò chủ đạo, dẫn dắt, điều tiết nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của kinh tế Nhà nước luôn được Đảng quan tâm, coi trọng và đã đạt được những thành tựu bước đầu rất khả quan cả trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, cả đường lối đối nội và đối ngoại của đất nước. Chính vì vậy tại Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng ta là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế kinh d
12 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1586 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tại sao kinh tế nhà nước lại giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh theo pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân và một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ “Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo nền kinh tế”.
Để phát huy hơn nữa vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi kinh tế Nhà nước phải đổi mới để giữ vững vai trò chủ đạo, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Vì vậy việc nghiên cứu những giải pháp để phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam hiện nay là hết sức quan trọng. Do đó tôi đã chọn đề tài “Tại sao kinh tế nhà nước lại giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam.”
I.Kinh tế nhà nước là gì ?
Kinh tế nhà nước không phải là thành phần riêng có của chủ nghiã xã hội, nó có mặt ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, được tổ chức dưới dạng doanh nghiệp công nông thương nghiệp nhà nước, hoặc công ty cổ phần mà tỷ lệ vốn của nhà nước chiếm từ 51% trở nên ; Nắm giữ những mạch máu kinh tế và công nghiệp then chốt ; Với phương thức kinh doanh tiên tiến và cơ chế quản lý khoa học.
Mặc dù tỷ trọng và nguồn gốc hình thành doanh nghiệp nhà nước ở mỗi quốc gia có sự khác biệt song ở đâu kinh tế nhà nước cũng là một bộ phân các cơ sở kinh tế - doanh nghiệp do nhà nước thành lập. Chúng được coi là các tổ chức kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, tự chủ ; Mục tiêu và nhiệm vụ là kinh doanh do nhà nước quản lý .
Đối với những nước đang phát triển như nước ta thì kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ nền kinh tế. Nó bao gồm những đơn vị kinh tế mà toàn bộ số vốn thuộc về nhà nước hoặc phần của nhà nước chiếm tỷ trọng khống chế .
Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các sở hữu nhà nước như đất đai, ngân sách, lực lượng dự trữ, kể cả một phần vốn của nhà nước đưa vào các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác.
II . Tại sao kinh tế nhà nước lại giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước Ta ?
Để trả lời câu hỏi trên chúng ta xem xét một số điều kiện sau:
1.Tính tất yếu tồn tại nền kinh tế nhà nước.
2. Vai trò chủ đạo là tất yếu và khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam.
3.Những điều kiện đảm bảo tính chủ đạo của kinh tế nhà nước.
1.Tính tất yếu tồn tại nền kinh tế nhà nước
Mỗi chế độ xã hội phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, với chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất và do đó có một cơ cấu thành phân kinh tế thích hợp về lí luận Lê -Nin khẳng định: Trong thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế bao gồm nhiều đặc điểm và kết cấu của nền kinh tế xã hội cũ đồng thời lại xuất hiện đặc điểm kết cấu của nền kinh tế xã hội mới, chúng tồn tại xoắn xuýt lấn nhau. Từ đó Lê - Nin rút ra đặc điểm kinh tế mang tính phổ biến trong thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần kinh tế mặc dù ở mỗi nước, mỗi thời kỳ số lượng thành phần kinh tế có thể nhiều hay ít là khác nhau.
Vậy sự tồn tại khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng của nền kinh tế nước ta, trong thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội. Nhưng, sự tồn tại khách quan đó nhất thiết phải có kinh tế nhà nước nhất là trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Từ những chấn động về kinh tế, khủng hoảng thất nghiệp diễn ra ở nhiếu nước ở đầu thế kỷ XX, sự phân tích thực tiễn đã đưa các nhà kinh tế đến kết luận: Nhà nước phải nắm lấy kinh tế, phải tác động mạnh mẽ vào các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp để đảm bảo tăng trưởng và phát triển kinh tế ổn định. Mặt khác, kinh tế nhà nước còn có chức năng điều tiết vĩ mô, thông qua đó định hướng các thành phần phát triển theo quỹ đạo chung của chủ nghĩa xã hội. Chức năng này không thể có ở các thành phần kinh tế khác. Trong nền kinh tế thị trường các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển nếu không có thành phần kinh tế nhà nước thì tư nhân rễ làm lũng đoạn thị trường, gây ra sự khủng hoảng kinh tế. Chính vì vậy mà sự có mặt của doanh nghiệp nhà nước trong các cân, cân bằng thị trường là tất yếu.
2.Vai trò chủ đạo là tất yếu và khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam.
Trước đây nhiều nhà kinh tế xuất phát từ những quan niệm giáo điều về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã coi các doanh nghiệp nhà nước như những trụ cột của nền kinh tế quốc dân, là pháo đài của chủ nghĩa xã hội, thậm trí coi đó là một tiêu chuẩn đánh giá tính chất xã hội của một nước. Thực tiễn cải cách kinh tế gần đây ở một số nước xã hội chủ nghĩa bị thất bại đã bác bỏ quan niệm này.
Trong những năm 90, khi hàng loạt mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ thì nhiều người lại cho rằng: Kinh tế của nhà nước là phi hiệu qủa. Vì vậy muốn phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường thì việc trước hết là phải giải thể càng nhanh càng tốt khu vực kinh tế nhà nước và thay vào đó là các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế khác, cả hai quan niệm trên đều mang tính phiến diện, chưa đi vào thực chất của kinh tế nhà nứơc.
Đối với nước ta và một số nước đang phát triển vào loại nghèo của thế giới, lại trải qua chặng đường lịch sử hết sức khó khăn phức tạp nên việc đánh giá vai trò của kinh tế nhà nước không phải chỉ từ những nhìn nhận có tính chất cảm tính mà phải đánh giá chúng trong mối liên hệ logic giữa kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế khác, giữa kinh tế nhà nước với chính trị – kinh tế – xã hội.
Trong bất cứ một nền kinh tế thị trường nào cũng sẽ xuất hiện những tổ chức độc quyền. Những doanh nghiệp này có những ưu thề về vốn, kỹ thuật công nghệ, quy mô sản xuất ... Luôn luôn có xu hướng tối đa hóa các lợi nhuận độc quyền, do đó các doanh nghiệp này bất chấp những nguyên tắc của thị trường cạnh tranh hoàn hảo làm lũng đoạn thị trường. Từ đó làm giảm hiệu quả kinh tế xã hội của nền kinh tế đất nước. Mặt khác, qua cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 – 1932 đã chứng minh tác hại ghê gớm của hoạt đông cạnh tranh theo cơ chế thị trường có sự tham gia của tổ chức độc quyền. Để giải quyết tình trạng này đã có nhiều phương thức áp dụng ở nhiều nước nhưng phương pháp tốt nhất là hình thành một khu vực kinh tế độc quyền nhất định do nhà nước trực tiếp quản lý, đó là thành phần kinh tế nhà nước. Qua đó nhà nước có thể trưc tiếp quản lý, đó là thành phần kinh tế nhà nước. Qua đó nhà nước có thể trực tiếp kiểm soát được những cơ sở độc quyền, điều tiết chi phối nền kinh tế theo những mục tiêu đã định mà vẫn có thể tối đa hóa lợi nhuận.
Trong việc phát triển kinh tế đòi hỏi phát phát triển những ngành sản xuất với chi phí lớn, mức đọ rủi do cao mà không một thành phần kinh tế ngoài quốc doanh giám đầu tư vào. Trường hợp này chỉ có kinh tế nhà nước với quy mô lớn, có sự trợ giúp trực tiếp của chính phủ mới đảm đương được. Vì vậy sự tồn tại của kinh tế nhà nước là không thể thiếu. Nếu chỉ có kinh tế nhà nước thì cũng không có sự phát triển cho nền kinh tế thị trường nước ta gắn liền với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để gắn chặt các thành phần kinh tế tạo thành một khối thống nhất làm sức bật cho nền kinh tế. Kinh tế nhà nước đã đảm nhận việc đó. Với quy mô và mạng lưới doanh nghiệp rộng khắp, kinh tế nhà nước có ở một nơi, nó hoạt động như ngón tay cái trong bàn tay kinh tế. Qua đó kinh tế nhà nước không chỉ đưa các đường lối, chính sách của Đảng thâm nhập vào cơ sở kinh tế khác mà còn giám sát chặt chẽ hoạt động của các thành phần kinh tế khác.
Ngoài ra nếu chúng ta phân tích vai trò của nền kinh tế quốc doanh trên hai khía cạnh ta thấy: Trên khía cạnh chính trị – xã hội, nó là lực lượng đảm bảo ổn định chính trị, giải quyết chính sách. Trên kía cạnh kinh doanh, nó là lực lượng dự phòng sẵn sàng bổ sung tạo thế cân đối cho sự phát triển. Sự có mặt của kinh tế quốc doanh nướcta đã đóng góp 40% tổng sản phẩm quốc nội. Bởi vậy đối với nước ta vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước là tất yếu khách quan.
3. Những điều kiên đảm bảo tính chủ đạo của kinh tế nhà nước:
Để tạo ra sự tăng trưởng và phát triển kinh tế thì trên thị trường các thành phần kinh tế tạo ra một hệ thống đan xen
nhau, hoà hợp hiệp tác với nhau nhưng không hoà tan nhau tính thống nhất của hệ thống kinh tế đòi hỏi kinh tế nhà nước tuy có sức mạnh về vốn, nắm giữ các ngành quan trọng song cũng phải hoạt động theo nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật. Để đảm bảo tính chủ đạo của nền kinh tế nhà nước cần phải có những điều kiện sau:
a. Điều kiện pháp lý
Các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh trên các ngành hàng, ngành kinh tế mũi nhọn liên quan đến an ninh chính trị, chính sách xã hội tức là kinh doanh trên ngành hàng ít lợi nhuận thì nhà nươc cần ban hành luật doanh nghiệp nhà nước và cơ chế chuyên biệt về lý luận và pháp lý phải làm rõ quyền sử dụng, quyền sở hữu về tư liệu sản xuất để phân rõ quyền hạn, trách nhiên của nhà nước của doanh nghiệp.
b. Về tổ chức
Các đơn vị kinh doanh của nền kinh tế nhà nước phải áp dụng cơ chế quản trị theo mô hình hội đồng quản trị trong đó hội đồng quản trị do chính phủ chỉ định.
c. Điều kiện về cơ chế quản lý
Đối với các doanh ngiệp nhà nước đối với kinh tế nhằm đảm bảo an ninh chính trị và chính sách xã hội thì chính phủ phải can thiệp trực tiếp về các bộ quản lý chủ chốt, kiểm soát chặt chẽ về giá cả. Đối với các doanh nghiệp nhà nước bình thường thì áp dụng phương pháp thương mại hoá.
d. Điều kiên về đội ngũ cán bộ
Phải đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý nhất là cán bộ quản lý cấp trưởng có đủ năng lực, bản lĩnh đảm đương nhiệm vụ cụ thể và phải đảm bảo ba tiêu chuẩn:
- Thứ nhất, trí tuệ nếu biết chuyên môn, có khả năng quản lý, có kinh nghiệm tập hợp mọi người.
- Thứ hai, tâm huyết với nghề nghiệp, với mọi người, với nhà nước.
- Thứ ba, dũng cảm quyết tâm, giám chịu trách nhiệm.
e. Xác định cụ thể những ngành hàng thuộc phạm vi nhà nước cần phải nắm để đảm bảo tính định hướng cho sự phát triển kinh tế xã hội.
III Muốn cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước cần phải thực hiện những biện pháp sau:
Để nhận thức bản chất kinh tế nhà nước chúng ta không nên đồng nhất giản đơn kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận cấu thành quan trọng cfủa kinh tế nhà nước. Sức mạnh của kinh tế nhà nước là tổng hoà các sức mạnh hoạt động có hiệu quả các bộ phận cấu thành (ngân sách nhà nước, kết cấu hạ tầng, tài nguyên ... các doanh nghiệp) và chúng ta không thể nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước chỉ chuyển đổi hình thức sở hữu nhà nước sang các dạng khác. Để thành phần kinh tế nhà nước có thể thực sự giữ vai trò chủ đạo, xứng đáng là phương thức sản xuất chi phối cần áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ trong đó có một số biện pháp chủ yếu sau :
- Giải pháp hàng đầu là chuyển dịch cơ cấu kinh tế đồng thời đẩy mạnh cải cách hành chính.
- Hiện đại hoá doanh nghiệp nhà nước :
Tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực trọng yếu mà các thành phần kinh tế khác không có đủ điều kiện hoặc không muốn đầu tư kinh doanh như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm cơ sở sản xuất và thương mại ... Nhà nước chỉ nên một số không nhiều “Những pháo đài chỉ huy “ trong nền kinh tế tức là những vị trí then chốt, yết hầu thông qua đó mà điều tiết chi phối, hướng dẫn hoạt động các thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định.
- Đổi mới cơ cấu quản lí
Tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh. Phương pháp chủ yếu hiện nay là thành lập một số tổng công ty, liên hiệp xí nghiệp, tập đoàn kinh doanh lớn có uy tín quốc gia tạo lực để phát triển, đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
Với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hoặc không cần thiết thì chuyển đổi sang hình thức sở hữu khác, cho thuê hoặc giải thể
Với doanh nghiệp do nhà nước đầu tư 100% vốn phải nhanh chóng ra luật doanh nghiệp và có chính sách riêng nhằm nâng cao trách nhiệm giữa nhà nước và doanh nghiệp.
Với doanh nghiệp nhà nước cần nắm tỉ lệ cổ phiếu khống chế thì phải đầu tư cho doanh nghiệp đó hoạt động hiệu quả sau đó mới cổ phần hoá một phần
Tách biệt các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích nhằm thực hiện các chính sách quản lí khác nhau đối với hai loại doanh nghiệp này.
- Thực hiện vững chắc cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước để nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp khác quan trọng hơn . Để thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước có thể bán cổ phần cho cán bộ, công nhân viên chức trong doanh nghiệp, có thể vừa bán cho lao động trong doanh nghiệp vừa bán cho cá nhân, tổ chức ngoài doanh nghiệp, có thể giữ nguyên tài sản nhà nước chỉ nphát hành một số cổ phiếu, hoặc có thể gọi cổ phần ngay từ khi thành lập.
- Đổi mới dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại và phát huy ưu thế về kĩ thuật tiến bộ nhất, liên kết liên doanh với các thành phần kinh tế khác.
- Đổi mới dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại và phát huy ưu thế về kĩ thuật tiến bộ nhất, liên kết liên doanh với các thành phần kinh tế khác .
- Nhà nước phải đầu tư đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lí và kỹ thuật công nghệ ,có chính sách sử dụng và tuyển chọn lao động có nằg lực, đúng ngành nghề
- Các doanh nghiệp nhà nước phải nâng cao tính hạch toán, tính chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của eoanh nghiệp, của giám đốc và tập thể người lao động .
Tóm lại để nâng cao vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước đưa khu vực kinh tế nhà nước ngày càng mở rộng và tiến tới vị trí thống trị đòi hỏi phải có hệ thống chính sách mang tích chất vĩ mô (trong đó liên quan đến các chính sách tài chính , thuế, tín dụng, đầu tư, xuất nhập khẩu) và áp dụng triệt để các biện pháp trên .Từ đó kinh tế quốc doanh mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, thúc đẩy, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển .
Kết Luận
Qua thực tiễn hơn 10 năm đổi mới với nhữngđóng góp đáng kể vào sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân, kinh tế Nhà nước đã đang và sẽ là thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam. Khẳng định phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay ở Việt nam.
Nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nền kinh tế hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần đang trong quá trình chuyển đổi. Các thành phần kinh tế tồn tại, hoạt động đan xen lẫn nhau, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau, luôn vận động và có sự chuyển hoá trong quá trình phát triển. Thành phần kinh tế Nhà nước có vai trò mở đường dẫn dắt cho nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế, cần phải tạo điều kiện cho thành phần kinh tế Nhà nước lên nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và lâu bền
tài liệu tham khảo
1. Giáo trình “Kinh tế chính trị Mac-Lênin “ tập 2
Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội -Năm 1998.
2. C-Mac tư bản . Quyển 2 , tập 2 , NXB Sự thật Hà Nội ,năm 1963.
3. Vũ Hồng Tiến - Chủ nghĩa Mac Lênin và một số vấn đề thực tiễn ở
Việt Nam hiện nay . NXB ĐạI học Quốc Gia, năm1997.
Mục lục
I.Kinh tế nhà nước là gì ?
Trang
II . Tại sao kinh tế nhà nước lại giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước Ta ?
1. Tính tất yếu tồn tại nền kinh tế nhà nước.
2. Vai trò chủ đạo là tất yếu và khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam.
3.Những điều kiện đảm bảo tính chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Điều kiện pháp lý
Điều kiện tổ chức
c. Điều kiện về cơ chế quản lý
Điều kiên về đội ngũ cán bộ
e. Xác định cụ thể những ngành hàng thuộc phạm vi nhà nước
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28873.doc