LỜI MỞ ĐẦU
Ung thư là một trong những căn bệnh hiểm nghèo có tỉ lệ tử vong cao, đứng thứ hai sau bệnh tim mạch. Hằng năm, trên thế giới có hàng triệu người chết vì ung thư và dường như tỉ lệ mắc bệnh ung thư ngày một cao hơn. Vì rằng căn bệnh này có thể xảy ra với bất kỳ ai và ở bất kỳ cơ quan nào của cơ thể cũng như ở mọi lứa tuổi. Ung thư biểu hiện khi sự kiểm soát quá trình điều hoà sinh trưởng của tế bào bị sai lệch, dẫn đến sự tăng sinh tế bào một cách bất thường, tạo thành các khối u ác t
36 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2327 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Tách dòng và xác định trình tự gene kháng thể tái tổ hợp kháng tế bào lympho bệnh ung thư vú, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính.
Ung thư có thể xảy ra ở bất kỳ bào quan nào, bất kỳ mô nào trong cơ thể. Phụ thuộc vào vị trí xuất hiện của các khối u mà người ta gọi tên các bệnh ung thư khác nhau: ung thư máu xảy ra với các tế bào máu và tế bào mầm, ung thư vú là sự tăng sinh của các tế bào vú, ung thư phổi xảy ra với các tế bào phổi...Ung thư có thể do di truyền, do virus hoặc do các điều kiện ngoại cảnh gây nên như hoá chất, tia tử ngoại... nhưng cho dù bát cứ nguyên nhân nào thì ung thư đều có chung một hậu quả là sự phát triển vô tổ chức của một tế bào hoặc một nhóm tế bào ban đầu và cuối cùng tạo thành các khối u và di căn ở giai đoạn cuối.
Một trong những đặc điểm khác biệt của tế bào ung thư với các tế bào bình thường được các nhà khoa học quan tâm đó là các phân tử protein đặc hiệu của tế bào ung thư, chúng là sản phẩm của các gene “đặc biệt” trong tế bào ung thư. Các phân tử protein đặc hiệu của tế bào ung thư hoặc được gắn trên bề mặt màng tế bào hoặc được giải phóng vào hệ tuần hoàn dưới dạng các phân tử tự do. Sử dụng các protein này làm chỉ thị trong chẩn đoán sớm đối với các bệnh ung thư đang được các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm.
Trong số các bệnh ung thư thì một trong những bệnh ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ nhiều nước trên thế giới là ung thư vú. Tại Việt nam, theo ghi nhận của Hà nội năm 1998, tỷ lệ ung thư vú chuẩn theo tuổi là 20,3/100.000 dân, đứng đầu trong các ung thư của phụ nữ. Tại thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ này là 17,1/100.000 dân, đứng hàng thứ 2 sau ung thu cổ tử cung. Tỷ lệ mắc ung thư vú đang tăng không chỉ ở Việt Nam mà hầu hết các nước trên thế giới. Vì vậy, ung thư vú chiếm vị trí rất quan trọng trong việc chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
Để góp phần xây dựng bộ kit chẩn đoán sớm bệnh ung thư vú, chúng tôi tiến hành nghiên cứu tạo kháng thể kháng lại dòng tế bào ung thư vú. Tuy nhiên, trong khuôn khổ đồ án này, chúng tôi chỉ chú trọng nghiên cứu : “Tách dòng và xác định trình tự gene kháng thể tái tổ hợp kháng tế bào lympho bệnh ung thư vú”.
I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. SƠ LƯỢC VỀ BỆNH UNG THƯ
Ung thư là tên chung dùng để gọi một nhóm bệnh trên 200 loại khác nhau về nguồn gốc của tế bào, căn nguyên, tiên lượng và cách thức điều trị nhưng có những đặc điểm chung, đó là sự phân chia không kiểm soát được của tế bào, khả năng tồn tại và phát triển ở các cơ quan và tổ chức lạ.
Các ung thư thường phát triển từ một tế bào ban đầu và phải mất nhiều năm cho tới khi có một kích thước đủ lớn để có thể nhận thấy được. Quá trình phát triển từ một tế bào duy nhất thành một khối ung thư trải qua nhiều giai đoạn.
Thông thường, các tế bào lành có một tuổi thọ nhất định và tuân thủ theo một qui luật chung là phát triển – già - chết. Các tế bào chết đi lại được thay thế bằng các tế bào mới. Cơ thể có một cơ chế kiểm soát qui luật một cách chặt chẽ và duy trì số lượng tế bào ở mỗi cơ quan, tổ chức ở mức ổn định. Còn khối u, về cơ bản là do sự phát triển và phân chia tế bào bình thường trở nên quá mức, do đó các tế bào phân chia liên tục và mất kiểm soát. Phân chia tế bào bình thường là quá trình tích cực cần thiết, nó khiến tóc mọc, da tự đổi mới và hàng loạt những điều quan trọng cho sức khoẻ khác. Quá trình phân chia xảy ra theo nhu cầu. Đôi khi có điều gì khiến đó khiến các tế bào sinh sản nhanh hơn như tổn thương hoặc phẫu thuật mà quá trình liền vết thương đòi hỏi các tế bào phân chia nhiều hơn bình thường.
Vấn đề then chốt là sự phát triển tế bào để khoẻ mạnh hoặc để thay thế bất cứ là theo nhịp bình thường hay tăng tốc trong lúc khẩn cấp đều được kiểm soát. Ngoài ra, mọi tế bào già đi và sẽ chết ở một thời điểm ấn định. Trong ung thư, sự phát triển nói chung mất điều tiết và sự chết của tế bào bị chậm lại, hậu quả là các tế bào ung thư cứ tiếp tục phát triển. Ngoài sự phát triển mất kiểm soát, các tế bào ung thư còn có thể phát triển lan sang các cơ quan xa hơn trong cơ thể và quá trình này gọi là di căn và đây cũng là lý do chính mà ung thư gây ốm và cuối cùng là tử vong.
Khi các dòng tế bào ung thư phát triển khắp cơ thể chúng trở thành vật ký sinh sử dụng tất cả chất dinh dưỡng, glucose, và oxy của cơ thể để tiếp tục phát triển. Đó là những lý do giải thích tại sao ung thư giai đoạn cuối thì lại sụt cân và trông rất suy mòn: Tất cả các chất dinh dưỡng đều bị tế bào ung thư sử dụng. Tuỳ thuộc vào cơ quan nào bị ung thư mà chúng nhanh chóng cản trở một số cấu trúc hoặc chức năng sống cònvà dẫn đến tử vong.Bệnh ung thư bắt đầu khi có một tế bào vượt qua cơ chế kiểm soát này của cơ thể, bắt đầu phát triển và sinh sôi không ngừng nghỉ, hình thành một đám tế bào có chung một đặc điểm phát triển vô tổ chức, xâm lấn và chèn ép vào các cơ quan và tổ chức xung quanh. Các tế bào ung thư có liên kết lỏng lẻo, dễ dàng bứt ra khỏi khối u mẹ, theo mạch máu và mạch bạch huyết di cư đến các tổ chức và cơ quan mới, bám vào và tiếp tục sinh sôi nảy nở ( quá trình này gọi là “di căn”). Các ung thư chèn ép hoặc di căn vào các cơ quan giữ chức năng sống của cơ thể như não, phổi, gan, thận... bệnh nhân sẽ tử vong.
Chìa khoá để hiểu ung thư là chỉ ra gene kiểm soát sự phát triển, xâm nhập và di căn của tế bào. Cái gì khiến cho các tế bào phát triển? Cái gì khiến chúng ngừng phát triển? Cái gì khiến chúng xâm nhập và di căn? Môi trường ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển của các tế bào? Tất cả các điều này đều được định sẵn trong gene.
Ngày nay, người ta đã biết rằng sự phát triển không bình thường của tế bào trong cơ thể được kiểm soát bằng ba nhóm gene:
Nhóm gene sinh trưởng (oncogenes): chịu trách nhiệm về sự phát triển và biệt hoá của tế bào. Nếu nhóm gene này bị tổn thương (biến dị), nó hoạt động không theo đúng qui luật và sẽ khiến các tế bào phân chia liên tục và phát triển một cách không kiểm soát được.
Nhóm gene ức chế (oncogene supressors): chịu trách nhiệm ức chế gene sinh trưởng, không cho các tế bào tham gia tuỳ tiện vào chu kì sinh trưởng, Nếu gene này bị mất hoặc bị tổn thương, các gene sinh trưởng bị mất kiểm soát và hoạt động một cách bất thường khiến cho các tế bào sẽ sinh sản bất bình thường.
Nhóm gene sửa chữa: là nhóm gene chịu trách nhiệm điều chỉnh những sai sót trong hoạt động của hai loại gene trên. Nếu loại gene này bị tổn thương thì những biến dị của hai loại gene trên sẽ không được khắc phục và sẽ dẫn đến sự sinh trưởng bất bình thường của tế bào.
1.2.UNG THƯ VÚ
Ung thư vú được định nghĩa là bất cứ một u (bướu) ác tính nào có trong vú. Sự phát sinh của ung thư vú, cũng giống như các dạng ung thư khác, là hậu quả của sự rối loạn trong quá trình tái sản xuất tế bào. Tế bào trong cơ thể chúng ta sản xuất và tái sản xuất một cách liên tục. Thông thường, các tế bào “lành mạnh” phân chia và sao chép khi nhận một tín hiệu hoá học. Qui trình phân chia và sao chép này được tiến hành một cách chính xác, với một chu kì gần như bất biến. Nhưng một khi chu kì này bị làm cho rối loạn, cấu trúc DNA bị thay đổi, và các tế bào đột biến bắt đầu không tuân theo qui trình phân chia và sao chép như đã định, và sau cùng là hỗn loạn hệ thống tái sản xuất tế bào. Hậu quả của sự rối loạn sản xuất và sao chép dẫn đến ung thư. Dấu hiệu chính của ung thư vú là một chỗ lồi trong vú. Đôi khi dấu hiệu khác đáng chú ý là một chỗ lồi trong nách, do ung thư lan đến hạch máu trắng. U có thể lan đến xương, phổi, gan.
1.2.1. Nguyên nhân ung thư vú
Nguyên nhân của ung thư vú không thể được cắt nghĩa bởi một yếu tố bệnh căn đơn độc. Hơn nữa, tạo ung thư vú có thể coi là hậu quả của sự tích luỹ các tổn thương qua nhiều năm với các tế bào trong một vú. Nói một cách ngắn gọn, có hai loại chấn thương phân tử gây nên ung thư vú: đột biến của DNA và kích thích tăng sinh tế bào.
Các đột biến xảy ra trong các gene quan trọng chịu trách nhiệm điều hoà phát triển, chết, biệt hoá và phiên mã nhiễm sắc thể của tế bào. Các đột biến có thể được hoạt hoá hoặc làm mất hoạt hoá các gene bị ảnh hưởng. Mặt khác, tăng sinh làm tăng hiệu quả tạo thành u của các tế bào bằng cách khởi động sự bành trướng của một quần thể tế bào. Kích thích tăng sinh và hoạt động theo hai cơ chế. Các tác nhân sinh phân bào tác động trực tiếp đến sự phân chia và tăng sinh trong khi các tác nhân độc gây tăng sinh trên các tế bào sống để tạo lại quần thể tế bào trong một mô bị tổn thương.
1.2.2. Tiến triển của bệnh
Lúc đầu là sự phát triển mất kiểm soát của các tế bào giới hạn hoàn toàn ở ống dẫn hoặc các tiểu thuỳ của vú ( tổn thương tiền ung thư). Sau đó, có thể thêm đột biến hoặc những thay đổi di truyền học biểu sinh mà những tế bào này có thể phá vỡ ống hoặc tiểu thuỳ vú vào mô mỡ và mô xung quanh. Có thể chỉ là do một tế bào gây phá vỡ nhưng một khi nó bắt đầu phân chia và nhân lên thì nhanh chóng trở thành khối u xâm nhập.
Trong khi đang phát triển, khối u cần các chất dinh dưỡng, do đó no phát ra những thông điệp protein gọi là các yếu tố mạch khối u. Những protein này gây hình thành các mạch máu mới để mang chất dinh dưỡng tới cho khối u phát triển. Đó là cách tồn tại hợp lý nhất.
Nếu tất cả các bước này xảy ra, khối u sẽ xuất hiện ở vú và hình thành nguồn cấp máu mới. Và những thay đổi về sau khiến các tế bào có thể phá vỡ thaàn khối u vào mạch máu. Khi đó, tế bào có thể bị chết hoặc tồn tại trong dòng máu và bị hệ miễn dịch tiêu diệt. Cuối cùng, nó có thể có những thay đổi khác cho phép nó trốn tránh được hệ miễn dịch. Những tế bào này đi khắp cơ thể và xâm nhập, phát triển ở các cơ quan khác nhau. Tuy nhiên, chúng không xâm nhập vào bất kỳ cơ quan nào mà có những yếu tố ở nội mạc mạch máu, ở những cơ quan nhất định thu hút các tế bào (ung thư vú đặc biệt thu hút tới phổi, gan và xương). Một khi tế bào gắn vào mạch máu ở cơ quan (như phổi) và xuyên qua thành mạch vào cơ quan đó thì có thể hình thành nguồn cấp máu mới dẫn đến các tế bào phát triển nhiều hơn ở phổi và tiếp tục gửi thông điệp mới đến mô phổi xung quanh. Cuối cùng, ung thư vú đã di căn đến phổi. Trong thời gian nhất định, khối u chiếm gần hết không gian cần thiết của phổi và cuối cùng con người sẽ chết.
Do vậy, việc ung thư xâm nhập và gây tử vong thực sự không dễ vì phải qua các bước, mỗi bước lại mất một thời gian dài tương đối.
1.2.3. Phân loại ung thư vú
1.2.3.1. Phân loại dựa vào cấu trúc
Mỗi vú có khoảng 15 đến 20 “ khu vực”, gọi là “ thuỳ” ; mỗi thuỳ được chia thành nhiều vùng nhỏ, gọi là tiểu thuỳ. Thuỳ và tiểu thuỳ liên kết với nhau bằng những ống dẫn nhỏ. Dựa vào cấu trúc này, ung thư vú được phân thành nhiều loại khác nhau, chủ yếu là:
Ung thư ống dẫn sữa có giới hạn ( ductal carcinoma in situ hay còn gọi là DCIS). Như tên gọi, loại ung thư này chỉ giới hạn trong các ống dẫn sữa và không lan sang các mô chung quanh. Loại ung thư này rất khó phát hiện bằng mắt thường, mà chỉ có thể phát hiện qua quang tuyến X. Khoảng 20% các trường hợp ung thư vú là thuộc dạng “ ung thư hiền” này.
Ung thư ống dẫn sữa lan rộng ( invasive ductal cancer). Đây là loại ung thư vú thường thấy nhất. Khoảng 70% các trường hợp ung thư vú là thuộc dạng này. Nó thường được biểu hiện dưới hình thức một cục bướu cứng, và thường thấy trong tế bào của các ống dẫn sữa.
Ung thư miu – xin ( Mucinous carcinoma) cũng là một dạng bướu ác tính, nhưng ung thư này có chứa các tế bào sản xuất chất nhầy, và chất nhầy làm cho cục bướu có màu lóng lánh. Chỉ có khoảng 3% trường hợp ung thư vú thuộc dạng này.
Ung thư tiểu thuỳ lan rộng ( invasive lobular carcinoma). Đây là một dạng ung thư hiện diện trong hai đầu ống dẫn sữa hay trong các tiểu thuỳ. Loại ung thư này chiếm khoảng 5% trong các trường hợp ung thư vú.
1.2.3.2. Phân loại mô bệnh học.
Những cố gắng để có được một hệ thống phân loại mô bệnh học ung thư biểu mô tuyến vú vừa đơn giản, dễ áp dụng trong chẩn đoán vừa phản ánh bản chất của tổn thương, được thừa nhận rộng rãi luôn luôn là mục tiêu của các nhà giải phẫu bệnh học. Chính vì vậy mà phân loại ung thư biểu mô tuyến vú đã được đề nghị.
Từ năm 1968 đến nay, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa ra nhiều bảng phân loại khác nhau có bổ sung và sửa chữa chi tiết hơn và dễ áp dụng trong lâm sàng. Ở đây, tôi xin trích dẫn bảng phân loại ung thư biểu mô tuyến vú của Tổ chức Y tế Thế giới vào năm 1981. Bảng phân loại như sau:
Phân loại mô học các ung thư biểu mô vú theo TCYTTG năm 1981.
Ung thư biểu mô không xâm nhập.
Ung thư biểu mô nội ống.
Ung thư biểu mô tiểu thuỳ tại chỗ.
Ung thư biểu mô ống xâm nhập
Ung thư biểu mô ống xâm nhập
Ung thư biểu mô ống xâm nhập với thành phần nội ống trội
Ung thư biểu mô tiểu thuỳ xâm nhập
Ung thư biểu mô nhầy xâm nhập
Ung thư biểu mô tuỷ xâm nhập
Ung thư biểu mô nhú xâm nhập
Ung thư biểu mô ống nhỏ
Ung thư biểu mô tuyến nang
Ung thư biểu mô chế tiết ở thanh niên
2.10. Ung thư biểu mô chế tiết rụng đầu
2.11. Ung thư với thành phần dị sản
Loại vảy (dạng biểu bì)
Loại tế bào thoi
Loại dạng sụn và dạng xương
Loại hỗn hợp
2.12. Các loại khác
Bệnh Paget vú.
1.2.4. Điều trị bênh ung thư vú
Có rất nhiều tiến bộ trong việc xác định sớm và trị liệu ung thư vú thành công. Khi tìm thấy khối u trong vú, người phụ nữ có cơ hội lựa chọn về cách trị bệnh cho thích hợp với tình trạng của mình. Đối với mỗi người bệnh có những phương pháp trị liệu thích hợp.
Các phương pháp điều trị chính cho bệnh ung thư vú là:
Giải phẫu: tuỳ từng giai đoạn của bệnh mà bác sĩ có thể giải phẫu cắt bỏ một phần (lumpectomy , Partical Mastectomy, Segmental Mastectomy) hay phải giải phẫu cắt bỏ toàn thể vú ( Total or Simple Mastectomy, Modified Radical Mastetomy). Cũng có trường hợp phải giải phẫu hạch bạch huyết (lymph Node Dissection) để cắt bỏ các hạch bạch huyết ở dưới nách.
Quang tuyến trị liệu ( radiation therapy): sử dụng năng lực quang tuyến X cao độ để giết chết tế bào ung thư. Cách trị liệu này được dùng để ngăn chặn ung thư tăng trưởng trước khi giải phẫu, hay tiêu diệt tế bào ung thư còn sót lại sau cuộc giải phẫu. Quang tuyến trị liệu thường được sử dụng sau lumpectomy hay partical mastectomy, nhưng đôi khi cũng được dùng sau khi làm total masectomy hay modified radical mastectomy nếu ung thư quá lớn hay có nhiều hạch ở nách bị ung thư. Quang tuyến trị liệu được chia làm nhiều ngày, bệnh nhân ung thư vú thường được chiếu quang tuyến khoảng từ sáu đến bảy tuần.
Hoá chất trị liệu (chemotherapy): sử dụng các dược liệu đặc biệt để tiêu diệt những tế bào ung thư. Hoá chất trị liệu thường được dùng thêm với với việc giải phẫu, quang tuyến trị liệu hay dùng để chống ung thư khi nó tái phát hay lây lan.
Nhiều loại hoá chất được dùng trị ung thư vú, thông thường nhất là chất adriamycin, epirubucin, cytoxan, 5-FU, taxol. Taxotere, xeloda, navelbine... có thể dùng riêng rẽ hay tổng hợp.
Trị liệu qua kích thích tố (hormonal therapy): trị ung thư bằng cách ngăn chặn hay thêm kích thích tố vào cơ thể. Rất nhiều ung thư vú tăng trưởng dưới sự kích thích của các kích thích tố nữ. Nếu chế ngự được các kích thích này, các tế bào ung thư có thể ngưng phát triển hay bị tiêu huỷ.
Một phương pháp điều trị mới đối với bệnh nhân ung thư nói chung và bệnh ung thư vú nói riêng là sử dụng các kháng thể, đặc biệt là kháng thể đơn dòng và kháng thể tái tổ hợp. Kháng thể không chỉ được sử dụng để chẩn đoán sớm bệnh ung thư thông qua việc phát hiện kháng nguyên cuả tế bào ung thư mà còn được sử dụng để tạo ra các phân tử tái tổ hợp có tác dụng làm tan các khối u giúp điều trị hiệu quả bệnh ung thư.
1.3.KHÁNG NGUYÊN VÀ KHÁNG THỂ
1.3.1. Kháng nguyên
Thuật ngữ kháng nguyên (antigen – Ag) dùng để chỉ một chất có khả năng gây ra đáp ứng miễn dịch khi được đưa vào cơ thể của một động vật thích hợp hoặc một chất có khả năng phản ứng với một kháng thể hoặc một tế bào của hệ thống miễn dịch. Như vậy, tất ca những chất tự nhiên hoặc tổng hợp được hệ thống miễn dịch nhận biết đều được gọi là kháng nguyên.
Sự liên kết giữa kháng nguyên và kháng thể hay giữa kháng nguyên và tế bào lympho luôn mang tính đặc hiệu cao. Tuy nhiên, không phải toàn kháng nguyên tham gia vào kích thích hệ thống miễn dịch mà chỉ có một phần nhất định của kháng nguyên gọi là quyết định kháng nguyên hay epitop, mới liên kết với kháng thể hoặc tế bào lympho. Mỗi epitop khoảng 6-8 acid amin với trọng lượng phân tử khoảng 750 dalton. Phần tương ứng với quyết định kháng nguyên nằm trên mỗi kháng thể gọi là vị trí kết hợp kháng nguyên hay paratop, còn phần tương ứng trên tế bào lympho là thụ thể.
Sự nhận biết giữa kháng nguyên và kháng thể hoặc giữa kháng nguyên và các thụ thể của tế bào có thẩm quyền miễn dịch mang tính đặc hiệu cao. Điều đó có nghĩa là một kháng nguyên A chỉ có thể được nhận biết bởi một kháng nguyên anti – A hoặc chỉ có thể nhận biết bởi một loại tế bào lympho có thụ thể liên kết đặc hiệu với kháng nguyên A.
Kháng nguyên trong tự nhiên rất đa dạng, chủ yếu dựa vào cấu trúc hoá học ( kháng nguyên protein, lipid, acid nucleic), dựa theo nguồn gốc (kháng nguyên đồng loại, đa loài, tự kháng nguyên) và vi sinh vật (vi khuẩn, virus). Trong số các loại kháng nguyên đó thì kháng nguyên protein và polysaccharid là hai nhóm kháng nguyên lớn và quan trọng nhất.
1.3.2. Kháng thể
Định nghĩa: Kháng thể (antibody) là một loại protein có đặc tính chống lại các thể vi khuẩn gây bệnh. Ngày nay, nó được gọi là kháng thể miễn dịch (immunoglobulin, kí hiệu là Ig) hay kháng thể đặc hiệu.
Bản chất và tính chất của kháng thể: Như chúng ta đã biết thì bản chất của kháng thể là protein, nên các tác nhân hoá, lý như nhiệt độ, acid, kiềm làm biến tính protein thì cũng có thể phá huỷ kháng thể. Hoạt tính kháng thể phụ thuộc vào pH môi trường và nhiều yếu tố khác ( Amon sulfat, natri sulfat...) vì thế người ta đã sử dụng tính chất này để tinh khiết kháng thể.
Hai đặc tính quan trọng của kháng thể là khả năng phản ứng đặc hiệu với kháng nguyên và khả năng biểu hiện như một kháng nguyên, tức là kích thích kháng thể chống lại chính nó- kháng kháng thể. Có thể tạo kháng thể kháng từng loại Ig (IgA, IgG, IgM...) hoặc khán từng cấu trúc của phân tử Ig (mảnh Fab hoặc Fc).
Cấu trúc của kháng thể: Tất cả các kháng thể đều có cấu trúc giống nhau gồm một hay nhiều đơn vị (monomer) hợp thành. Mỗi đơn vị là một phân tử protein chứa 4 chuỗi polypeptid. Hai chuỗi nhẹ, ngắn, kí hiệu là L và hai chuỗi nặng, dài, ký hiệu là H được gắn với nhau bởi cầu disulfua (S-S). Trình tự acid amin ở kháng thể giống hệt nhau theo từng đôi chuỗi nặng và từng đôi chuỗi nhẹ. Cả phân tử có cấu tạo đối xứng. Cấu trúc phân tử Ig điển hình được trình bầy tại hình 1.
Cấu tạo của kháng thể
Chuỗi nhẹ: Có trọng lượng phân tử 25.000, chứa khoảng 211-221 acid amin. Ở tất cả các lớp globulin miễn dịch đều có hai loại chuỗi nhẹ, chuỗi nhẹ kappa và chuỗi nhẹ lambda. Mỗi phân tử Ig chỉ chứa hoặc hai chuỗi nhẹ lambda hoặc hai chuỗi nhẹ kappa mà không bao giờ chứa cả hai loại. Mỗi chuỗi nhẹ Ig chứa hai vùng acid amin. Một vùng có trình tự acid amin có thể thay đổi gọi là vùng biến đổi, ký hiệu là VL. Vùng còn lại có trình tự acid amin không thay đổi gọi là vùng cố định, hiệu là CL, vùng này nằm ở phía đầu cacboxyl (-COOH) của phân tử. Trình tự acid amin vùng cố định của chuỗi nhẹ luôn giống nhau ở tất cả các lớp kháng thể. Ngược lại, trình tự acid amin của vùng biến đổi luôn khác nhau kể cả ở các Ig do cùng một tế bào sinh ra.
Chuỗi nặng: có trọng lượng phân tử khoảng 50.000, chứa khoảng 450 acid amin. Có 5 loại chuỗi nặng là: mu, gamma, alpha, delta, epsilon ứng với 5 lớp kháng thể là IgG, IgM, IgA, IgD, IgE. Mỗi chuỗi nặng chứa 4 vùng acid amin, một vùng biến đổi và 3 vùng cố định. Cũng như chuỗi nhẹ, vùng biến đổi của chuỗi nặng nằm ở phần đầu amin, ký hiệu là VH. Vùng cố định nằm ở đầu cacboxyl và có trình tự acid amin giống nhau ở tất cả globulin miễn dịch thuộc cùng một lớp, ký hiệu là CH1, CH2, CH3.
Vùng nằm giữa CH1, CH2 của chuỗi nặng gọi là khớp nối làm cho phân tử có cấu tạo hình chữ Y, đây là nơi dễ bị tác động của enzyme phân giải protein (papain).
Nhìn chung, phân tử kháng thể được chia làm hai phần: Fab là phần dễ kết tinh phản ứng với các tế bào của hệ thống miễn dịch qua các thụ thể của các tế bào. Do đó, nếu kháng thể được cố định trên vi khuẩn bằng phần Fab thì nó sẽ liên kết với các tế bào thực bào bằng phần Fc.
1.3.2.1. Kháng thể đơn dòng.
Phương pháp tạo kháng thể đơn dòng do Kohler hoặc Milstein đề xuất năm 1975 đã cho phép ta tạo ra các tế bào lai có khả năng sản xuất các kháng thể đơn dòng có tính đặc hiệu loài cao, có khả năng chọn lọc các kháng nguyên đích đặc hiệu. Tuy nhiên, kỹ thuật lai tế bào này rất tốn kém về thời gian, tiền bạc và thiết bị chuyên dụng đắt tiền, phải sử dụng đến động vật thí nghiệm, đồng thời phải tạo ra một lượng lớn các tế bào dung hợp mới có thể chọn được những tế bào tốt nhất có khả năng sản xuất kháng thể đơn dòng. Lượng cơ chất có thể sử dụng để gây miễn dịch trên động vật là có hạn và sự đa dạng tối đa có thể có đối với phản ứng miễn dịch động vật là có hạn và sự đa dạng tối đa có thể có đối với phản ứng miễn dịch của động vật là 6.106 các kháng thể khác nhau. Quan trọng hơn, không thể thay đổi tính chất của kháng thể do các tế bào lai tạo ra. Mặt khác các kháng thể được tạo ra bằng kĩ thuật này có thời gian tồn tại ngắn trong điều kiện in vitro, và thường gây ra phản ứng dị ứng khi sử dụng cho người vì các kháng thể này đều có bản chất từ động vật.
Sự quan tâm tới việc tách và biểu hiện các gene kháng thể đã được chú trọng sau khi Kohler và Milstein tạo kháng thể đơn dòng bằng kĩ thuật dung hợp tế bào năm 1975. Kỹ thuật tạo kháng thể tái tổ hợp dựa trên những hiểu biết về cấu trúc và chức năng của kháng thể, đặc tính sinh học của quá trình nhân bản thực thể khuẩn, những kĩ thuật mới về DNA và tạo ra đột biến. Sau khi xác định được trình tự vùng hay biến đổi của chuỗi nặng và chuỗi nhẹ của nhiều kháng thể khác nhau, các mồi là các đoạn oligonucleotid bảo thủ được tổng hợp để nhân các gene của các kháng thể mới. Kỹ thuật PCR đã được sủ dụng để nhân bản các gene từ mARN.
Kháng thể đơn dòng được ứng dụng trong:
Chuẩn đoán và điều trị bệnh ung thư
Tạo chất ức chế miễn dịch trong điều trị các bệnh tự miễn dịch và đào thải các mảnh ghép.
Trong điều trị các bệnh nhiễm khuẩn và ức chế sự tích tụ neurotphil để giảm sự huỷ hoại mô trong bệnh viêm màng não do vi khuẩn.
Trong điều trị bệnh nhồi máu cơ tim cũng như việc ngộ độc thuốc...
Do những giá trị của việc sử dụng rộng rãi kháng thể đơn dòng mà sản xuất kháng thể đơn dòng đang trở thành một lĩnh vực mới đầy hứa hẹn.
1.3.2.2. Kháng thể tái tổ hợp và ứng dụng
Công nghệ kháng thể tái tổ hợp bao gồm việc thu nhận các gene kháng thể từ các tế bào nguồn, nhân bản và tách dòng các gene trong các vector thích hợp, biến nạp các vector vào tế bào chủ để biểu hiện một lượng kháng thể đủ lớn có hoạt tính kháng thể mong muốn. Các kỹ thuật bổ trợ như việc sàng lọc các dòng tế bào mang các kháng thể mong muốn từ một “thư viện” lớn các dòng đã tách được. Các kháng thể tái tổ hợp có thể tách dòng từ bất kì loài động vật tạo kháng thể nào nếu có được đoạn mồi hoặc các proble lai thích hợp. Khả năng thao tác với các gene kháng thể cho phép tạo ra kháng thể mới trong điều kiện in vitro. Điều này có thể thực hiện ở mức toàn bộ vị trí kết gắn bằng việc kết hợp chuỗi nặng và chuỗi nhẹ, hoặc cũng có thể thao tác trên các vùng CDR riêng biệt. Các vùng thay đổi cũng có thể nối kết với các trình tự có các đặc tính khác, đó là các phân tử kháng thể - độc tố sử dụng trong việc điều trị các tế bào khối u. Vì các đoạn Fab và Fc nhỏ hơn nhiều so với toàn bộ phân tử kháng thể nên chúng rất thích hợp trong y học và các ứng dụng khác. Một ưu thế khác là các kháng thể tái tổ hợp có thể biểu hiện trong cơ thể chủ mới. Một trong cơ thể chủ để tổng hợp kháng thể tái tổ hợp là E.coli. Do những ưu điểm nổi bật của nó: tế bào phát triển nhanh và rẻ. Nhiều vector có thể sử dụng để tách dòng và biểu hiện các gene đã tách dòng. DNA có thể đưa trực tiếp vào E.coli (biến nạp) và bằng việc nhiễm vào thực thể khuẩn (quá trình chuyển nhiễm). Cấu trúc gene của một đoạn kháng thể (Fab và ScFv) có thể được đánh giá nhanh và có nhiều phương pháp chọn lọc khác nhau. Đương nhiên, việc mở rộng qui mô để sản xuất một lượng lớn các kháng thể tái tổ hợp trong E.coli dễ dàng hơn nhiều so với việc tạo sinh khối các tế bào lai trong qui trình sản xuất kháng thể đơn dòng bằng việc dung hợp tế bào.
1.3.2.3. Các phương pháp tạo kháng thể
Kháng thể được tạo ra bằng các phương pháp khác nhau, ngoài các phương pháp thông thường, hiện nay nhà nghiên cứu còn tạo kháng thể bằng công nghệ gene. Có thể tóm tắt các phương pháp tạo kháng thể như sau:
Tách từ huyết thanh (serum)
Sản xuất kháng thể từ các tế bào lympho B trong điều kiện in vitro
Kỹ thuật dung hợp tế bào ( kháng thể đơn dòng, hybridoma method)
Kỹ thuật bộc lộc trên thực thể khuẩn (phage display)
Sản xuất kháng thể đơn dòng bằng động, thực vật chuyển gene.
1.4. VECTOR TÁCH DÒNG
1.4.1. Khái niệm vector tách dòng
Vector là một phân tử DNA có kích thước nhỏ, cho phép gắn các gene cần thiết, và có khả năng tự nhân lên không phụ thuộc vào sự phân chia của tế bào. Các vector thường có dạng vòng, chứa nhiều gene có nhiều đặc tính khác nhau, có khả năng xâm nhập vào tế bào vi khuẩn, mượn bộ máy của tế bào vi khuẩn để tạo ra nhiều bản sao giống hệt vector ban đầu. Vector còn được gọi là phương tiện vận chuyển gene.
Như vậy, phân tử DNA mạch kép có khả năng tự sao chép trong tế bào vật chủ, có thể gắn vào phân tử này một hoặc vài đoạn DNA khác nguồn gốc tạo nên phân tử DNA tái tổ hợp dùng để tạo dòng được gọi là vector tách dòng.
Sự tách dòng (cloning) là để thu nhận gene hay một trình tự DNA tinh sạch với hàm lượng lớn.
Có nhiều loại vector khác nhau như: plasmid, phage, cosmid, BAC,YAC...Tuỳ thuộc vào kích thước đoạn DNA cần tạo dòng để lựa chọn loại vector thích hợp. Các vector tách dòng có thể mang các đoạn DNA có kích thước từ vài trăm bp đến 1Mb.
Vector có 3 đặc tính cơ bản:
Có khả năng xâm nhập vào tế bào.
Có điểm mở đầu để tái bản tức là có khả năng tự tái bản tích cực, không phụ thuộc sự sao chép của bộ gene tế bào chủ
Các thể biến nạp phải dễ dàng được chọn lọc và sinh trưởng tốt trên môi trường đặc. Khả năng chọn lọc được mã hoá bởi các gene chọn lọc, thường là đặc tính kháng với chất kháng sinh.
Ngoài ra vector sẽ được xem là càng mạnh khi càng có thêm các ưu điểm sau đây:
Có kích thước nhỏ để có thể thu nhận được tối đa lượng DNA, dễ xâm nhập vào tế bào vi khuẩn và sao chép nhanh.
Tồn tại qua nhiều thế hệ trong tế bào vi khuẩn và ít xáo trộn đối với trao đổi chất của tế bào chủ.
Mang các vị trí nhận biết duy nhất của nhiều loại enzyme giới hạn và vị trí đó nằm trong các gene chọn lọc, khi đoạn DNA ngoại lai được chèn vào thì gene chọn lọc bị bất hoạt
Trong số các loại vector hiện có thì plasmid được sử dụng phổ biến do dễ dàng nhân lên trong tế bào vi khuẩn có kích thước nhỏ (1kb-200kb). Các thế hệ plasmid ngày càng được cải tiến và mang các đặc tính mới thuận lợi cho việc tách dòng.
1.4.2. Plasmid pCR 2.1
Để tách dòng gene mã hóa cho kháng thể kháng tế bào lympho bệnh ung thư vú, chúng tôi sử dụng plasmid pCR2.1.
Đây là một vector thế hệ mới đang được sử dụng phổ biến, có ưu điểm nổi bật là có thể gắn trực tiếp sản phẩm pCR vào vector đã được cắt mở vòng do có sẵn hai đầu dính, mỗi đầu có bazơ Timin.
Vector pCR 2.1 có kích thước 3,9kb, mang điểm khởi đầu tái bản của plasmid pUC nên có khả năng nhân lên với số lượng rất lớn trong tế bào E.coli.
Để có thể chọn lọc dễ dàng các tế bào có mang nó, vector được thiết kế mang hai gene kháng lại chất kháng sinh: kanamycin và ampicillin, nhờ vậy vi khuẩn chủ có thể sinh trưởng bình thường trên môi trường có chứa một trong hai hay cả hai loại kháng sinh trên, pCR 2.1 được gắn thêm operon- lac có tácdụng chuyển hoá đường lactoza, sau vị trí promoter là đoạn lacZa mã hoá cho146 acid amin đầu tiên của enzyme b- galactosidase, vùng cắt gắn đa vị được thiết kế trên đoạn này là 15 vị trí cắt duy nhất của enzyme giới hạn: Hind III, Kpn I, Sac I, BamH I, Spe I, Bst X I, Eco RV, Not I, Ava I, Pae R7I, Xho I, Nsi I, Xba I, Apa I và hai vị trí cắt giới hạn của EcoRI.
Khi đoạn DNA lạ được chèn vào một trong các vị trí trên sản phẩm của gene b- galactosidase tạo ra sẽ không có hoạt tính enzyme làm cho cơ chất X- gal có trong môi trường không được chuyển hoá, kết quả là xuất hiện các khuẩn lạc có màu trắng trên môi trường thạch. Dựa vào dấu chuẩn này có thể phát hiện các tế bào vi khuẩn mang vector tái tổ hợp với hiệu quả rất cao.
Một ưu điểm nữa của pCR2.1 là có mang promoter của thực khuẩn thể T7 và vị trí gắn mồi xuôi và ngược của thực khuẩn thể M13, nhờ đó có thể phiên mã được đoạn ARN antisense và đọc trình tự đoạn DNA ngoại lai.
\Vị trí và thành phần của vector pCR2.1 được thể hiện qua bảng sau.
Thành phần
Vị trí
Gen LacZ
1- 57
Sp6 promotor
239-255
Vị trí tạo dòng
269- 381
T7 promotor
388-407
F1 ori
572 – 986
Gene kháng Kanamycin
987-2114
Gene kháng Ampicillin
2133- 2992
ColEl ori
3182- 3765
Vị trí các thành phần chính của vector pCR2.1
II
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Tách lớp tế bào: Từ mẫu bệnh phẩm đã có (biết chính xác mắc bệnh ung thư vú), tiến hành tách lớp tế bào chỉ lấy những tế bào bạch cầu và tinh sạch.
Sử dụng kĩ thuật Phage Display để chọn lọc các dòng mang kháng thể tái tổ hợp đặc hiệu tế bào lympho từ bệnh ung thư vú
Tách dòng và xác định trình tự gene đoạn kháng thể đã chọn lọc.
2.2.VẬT LIỆU
2.2.1. Sinh phẩm
Mẫu dùng cho thí nghiệm: Là thư viện kháng thể phage có khoảng 1010 dòng tế bào mang các gene mã hoá các kháng thể tái tổ hợp. Thư viện này có thể kháng lại bất kì kháng nguyên nào.
Để thu nhận mẫu kháng thể kháng lại tế bào tách từ máu bệnh nhân ung thư vú, Phòng thí nghiệm Công nghệ Tế bào động vật đã sử dụng thư viện này để sàng lọc với các lympho bào tách từ máu bệnh nhân mắc bệnh ung thư vú. Vì vậy, ở đây chúng tôi chỉ trình bày phần tách dòng và xác định trình tự nucleotid của gene mã hoá kháng thể tái tổ hợp kháng lại lympho bào tách từ bệnh nhân ung thư vú.
Để tách dòng và xác định trình tự gene mã hóa kháng thể tái tổ hợp này, chúng tôi tiến hành nhân bản PCR với cặp mồi LABF/LABR.
Vector tách dòng TA- TOPO cloning Kit, Enzyme giới hạn EcoR I do hãng Invitrogen cung cấp.
2.2.2. Hoá chất
Các hoá chất được sử dụng ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24810.doc