MỤC LỤC
Danh mục bảng biểu
Bảng 1 - Tổng hợp kết quả đánh giá trữ lượng và khả năng khai thác cá biển Việt Nam 13
Bảng2 – Giá trị xuất khẩu (triệu USD) 18
Bảng 3 - Mức thuế cam kết bình quân theo nhóm ngành hàng chính 34
Bảng 4 - Thay đổi mức bảo hộ thực tế đối với một số ngành và sản phẩm 36
Bảng 5 - Diện tích mặt nước nuôi trồng và sản lượng thuỷ sản 37
Bảng 6 - Xuất khẩu thuỷ sản chính ngạch sang các thị trường năm 2005 39
Bảng 7 - Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản VN qua các thời kỳ 41
115 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tác động hội nhập WTO đối với xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bảng 8 - Các thị trường xuất khẩu thuỷ sản chính của Việt Nam 44
Bảng 9 - Sản lượng thuỷ sản năm 2007 54
Bảng 10 - Xuất khẩu thuỷ sản chính ngạch 8 tháng đầu năm 2007 phân theo thị trường 55
Bảng 11 - Xuất khẩu thuỷ sản chính ngạch 8 tháng đầu năm 2007 phân theo mặt hàng 58
Bảng 12 - Đầu tư nước ngoài trong một số ngành cơ bản 70
Bảng 13 - Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam qua các năm 2000 – 2008 71
Bảng 14 - Sản lượng thuỷ sản năm 2007 và 2008 73
Bảng 15 - Trị giá xuất khẩu thuỷ sản phân theo thị trường tính sơ bộ 11 tháng năm 2008 78
Biểu đồ 1 - Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam từ năm 1997 – 2005 42
Danh mục từ viết tắt
Từ viết tắt
Nghĩa tiếng Anh
Nghĩa tiếng Việt
ATTP
An toàn thực phẩm
ATVS
An toàn vệ sinh
BTA
Hiệp định thương mại song phương Việt Mỹ
DN
Doanh nghiệp
GT
Giá trị
HACCP
Hazard Analysis and Critical Control Point System
Hệ thống phân tích, xác định và tổ chức kiểm soát các mối nguy trọng yếu trong quá trình sản xuất và chế biến thực phẩm
KL
Khối lượng
NK
Nhập khẩu
NTTS
Nuôi trồng thuỷ sản
SPS
Sanitary and Phytosanitary Measure
quy định về vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật
TBT
Agreement on Technical Barriers to Trade
hàng rào kỹ thuật thương mại
VASEP
Hiệp hội chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
VN
Việt Nam
WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
XK
Xuất khẩu
XKTS
Xuất khẩu thuỷ sản
Giới thiệu chung
Lý do chọn đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của các nền kinh tế trên thế giới. WTO được coi là kênh hội nhập quan trọng nhất, chứng tỏ sự gia nhập gần như hoàn toàn của một nền kinh tế. Gia nhập WTO sẽ mở nhiều cơ hội phát triển cho các nền kinh tế, song cũng mang lại không ít những thách thức mà một nền kinh tế phải đương đầu khi hội nhập. Sau hai năm gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam có nhiều thay đổi sâu sắc và toàn diện. Việc gia nhập WTO đem lại rất nhiều cơ hội cho nhiều ngành kinh tế của Việt Nam. Một trong số các ngành chịu tác động lớn nhất phải kể đến ngành thủy sản. Năm 2007, sản lượng thủy sản cả nước ước đạt 3,9 triệu tấn, trong đó, khai thác đạt 1,95 triệu tấn, nuôi trồng 1,95 triệu tấn, với kim ngạch xuất khẩu 3,75 tỷ USD. Năm 2008 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 4,5 tỷ USD. Con số này giúp thủy sản tiếp tục duy trì ngôi vị thứ 4 trong những mặt hàng xuất khẩu hàng đầu Việt Nam, đồng thời khẳng định, thủy sản là ngành kinh tế hiệu quả và mang lại nhiều lợi ích xã hội. Những con số này đã cho thấy việc gia nhập WTO có ảnh hưởng tích cực đến kinh tế Việt Nam nói chung và ngành Thủy sản nói riêng. Tuy nhiên bên cạnh những cơ hội là những khó khăn: bị kiện bán phá giá, đương đầu với những quy định chặt chẽ về vệ sinh an toàn thực phẩm, quy định về vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS), hàng rào kỹ thuật thương mại (TBT), các quy định về dư lượng kháng sinh trong chế biến, nuôi trồng... Trong bối cảnh đó, phân tích đánh giá những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và gia nhập WTO nói riêng đối với thuỷ sản là hết sức cần thiết để tìm ra những giải pháp hiệu quả, phù hợp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững. Đây là một vấn đề cần được quan tâm và đề cập khá nhiều. Mặt khác, vấn đề này cũng là mối quan tâm của bản thân tác giả. Chính vì lý do trên, sau một thời gian tìm hiểu tác giả quyết định chọn đề tài “Tác động gia nhập WTO đối với xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản”
Câu hỏi nghiên cứu:
Trả lời câu hỏi tổng quát: Việc Việt Nam gia nhập WTO có tác động như thế nào tới hoạt động xuất khẩu thuỷ sản
Để trả lời câu hỏi tổng quát đó, đề tài xin đi vào giải quyết từng câu hỏi cụ thể
Xuất khẩu là gì? Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu thuỷ sản? Vai trò xuất khẩu thuỷ sản đối với nền kinh tế?
WTO là gì? Chức năng nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động, những cam kết nào của Việt Nam với WTO có ảnh hưởng tới thuỷ sản?
Thực trạng tình hình xuất khẩu thuỷ sản trước gia nhập WTO?
Thực trạng tình hình xuất khẩu thuỷ sản sau gia nhập WTO?
Gia nhập WTO tác động như thế nào tới thuỷ sản: những cơ hội và những khó khăn thách thức gì?
Giải pháp nào nhằm giải quyết những khó khăn và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản?
Phương pháp nghiên cứu: kết hợp một số các phương pháp như nghiên cứu tại chỗ, tổng hợp, phân tích và hệ thống
Đối tượng nghiên cứu: tập trung nghiên cứu một số vấn đề về xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam và những giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: nghiên cứu hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam và những cam kết WTO liên quan đến thuỷ sản; Đề tài đưa ra đánh giá tác động và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thuỷ sản, song sẽ tập trung vào các giải pháp đẩy mạnh khẩu thuỷ sản trên một số thị trường xuất khẩu chính
Về thời gian: số liệu thu thập và nghiên cứu chủ yếu qua các năm 2000 – 2008
Kết quả dự kiến:
Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về xuất khẩu thuỷ sản
Làm rõ những yêu cầu cam kết của WTO đối với các thành viên khi gia nhập và những cam kết đối của Việt Nam với WTO có ảnh hưởng đến xuất khẩu thuỷ sản
Phân tích thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trước và sau khi gia nhập
Phân tích, đánh giá những tác động của gia nhập WTO đối với thuỷ sản
Đưa ra một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thuỷ sản
Kết cấu của đề tài: Ngoài phần giới thiệu chung, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng biểu, kết luận, nội dung đề tài gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung
Chương 2: Tác động gia nhập WTO đối với xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
Khái niệm “Xuất khẩu” và các yếu tố ảnh hưởng đến Xuất khẩu thuỷ sản
Khái niệm “Xuất khẩu”
Xuất khẩu sản phẩm là việc bán và cung cấp sản phẩm là hàng hóa và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một trong hai quốc gia hoặc là ngoại tệ đối với cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động xuất khẩu sản phẩm là khai thác lợi thế so sánh của mỗi quốc gia trong phân công lao động quốc tế.
Có thể nói rằng xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương. Hình thức này đã ra đời từ rất lâu và ngày càng phát triển bởi vai trò và những lợi ích thiết thực quan trọng mà nó mang lại. Hình thức đầu tiên của xuất khẩu là buôn bán hàng đổi hàng thật đơn giản. Còn ngày nay các hình thức của xuất khẩu đã phát triển thật phong phú và đa dạng.
Như chúng ta thấy hoạt động diễn ra trên rất nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống, trong mọi điều kiện kinh tế, từ việc xuất khẩu những hàng hóa tiêu dùng thiết yếu đến những tư liệu dùng để sản xuất, máy móc thiết bị, công nghệ kĩ thuật cao. Những hoạt động trao đổi này đều nhằm mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp nói riêng, nền kinh tế quốc gia nói chung và rộng hơn là nền kinh tế thế giới.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi phạm vi bất kể rộng hay hẹp về cả không gian và thời gian. Thời gian diễn ra hoạt động xuất khẩu có thể rất ngắn nhưng cũng có thể rất dài. Về không gian xuất khẩu diễn ra trên lãnh thổ của hai hay nhiều quốc gia nhưng đòi hỏi có sự tham gia của các chủ thể mang quốc tịch khác nhau.
Đi đôi với hoạt động xuất khẩu là việc đẩy mạnh xuất khẩu là những việc làm có vai trò rất quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng cường tiềm lực quân sự. Đẩy mạnh xuất khẩu là những biện pháp nhằm thúc đẩy việc cung cấp, bán hàng hóa và dịch vụ cho các quốc gia trên thế giới trên cơ sở trao đổi ngang giá hay thu được ngoại tệ. Ngày nay dù là cường quốc hay các nước nhỏ đều coi việc đẩy mạnh xuất khẩu là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách để làm giàu cho mỗi quốc gia trên thế giới.
Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Ngành thuỷ sản Việt Nam
Nội dung hoạt động xuất khẩu thuỷ sản: hoạt động xuất khẩu thuỷ sản cũng như các hoạt động xuất khẩu hàng hoá khác, phải tiến hành hàng loạt các việc từ nghiên cứu thị trường xuất khẩu thuỷ sản, chuẩn bị hàng thuỷ sản xuất khẩu, xây dựng kế hoạch lập phương án giao dịch, đàm phán trước khi ký kết, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng và đánh giá hiệu quả thực hiện.
1.2.1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường.
Nghiên cứu thị trường là việc làm cần thiết đầu tiên với bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tham ra vào thị trường thế giới. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, nghiên cứu thị trường thế giới phải trả lời được câu hỏi: xuất khẩu cái gì? dung lượng thị trường đó là bao nhiêu? người trong giao dịch là ai? sử dụng phương thức nào? và chiến lượng kinh doanh trong từng giai đoạn ?
* Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu
Để lựa chọn mặt hàng xuất khẩu trước tiên cần dựa vào nhu cầu sản xuất, tiêu dùng về quy cách, chất lượng, chủng loại, giá cả, thời vụ và thị hiếu cũng như tập quán của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó tiến hành xem xét các khía cạnh của hàng hoá thế giới.
Ngoài ra để lựa chọn mặt hàng xuất khẩu cũng cần phải nắm vững tỷ suất ngoại tệ của các mặt hàng xuất khẩu. Tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu là số lượng ngoại tệ bỏ ra để thu được một đơn vị ngoại tệ. Nếu tỷ suất ngoại tệ tính ra thấp hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì việc xuất khẩu có hiệu quả.
Việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu không những chỉ dựa vào tính toán hay ước tính mà còn phải dựa vào kinh nghiệm của những người nghiên cứu thị trường để dự đoán xu hướng biến động của giá cả thị trường trong nước cũng như ngoài nước, dự đoán được các khả năng có thể xảy ra .
* Nghiên cứu dung lượng thị trường.
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên pham vi một thị trường nhất định trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm) .Nghiên cứu dung lượng thị trường thì cần xác định nhu cầu thực của khách hàng, kể cả dự trữ, xu hướng biến động biến động của nhu cầu trong từng thời điểm. Cộng với việc nắm bắt nhu cầu là nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường.
Một vấn đề nữa là tính chất thời vụ của sản xuất và tiêu dùng hàng hoá trên thị trường để có biện pháp thích hợp trong từng giai đoạn.
* Lựa chọn đối tác kinh doanh.
Việc lựa chọn đối tượng giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện quan trọng để thực hiện thắng lợi các hoạt động xuất khẩu. Người ta thường dựa trên cơ sở nghiên cứu sau:
Một là, tình hình sản xuất kinh doanh của đối tác.
Hai là, khả năng về vốn cơ sở vật chất kỹ thuật của bên đối tác.
Ba là, thái độ và quan điểm kinh doanh của đối tác.
Tóm lại, công tác nghiên cứu tiếp cận thị trường là nhằm thực hiện phương châm hành động: chỉ bán cái thị trường cần chứ không bán cái mình có sẵn.
1.2.2. Xây dựng kế hoạch và lập phương án giao dịch.
Sau khi đã thu thập được những thông tin cần thiết về những nhân tố ảnh hưởng đến giao dịch. Doanh nghiệp phải lập phương án giao dịch, trong đó có các điểm sau:
Lựa chọn mặt hàng kinh doanh.
Xác định số lượng xuất khẩu.
Lựa chọn thị trường, khách hàng, phương thức giao dịch.
Lựa chọn thời điểm, thời gian giao dịch…
Các biện pháp để đạt được mục tiêu như: Mời khách, quàng cáo…
1.2.3. Giao dịch đàm phán trước ký kết.
* Các hình thức đàm phán.
- Đàm phán bằng thư, điện tín, điện thoại, fax…
- Đàm phán bằng trực tiếp gặp gỡ: Hình thức này thường được áp dụng khi có hợp đồng lớn, cần trao đổi cặn kẽ, chi phí nhiều nhưng hiệu quả công việc cao hơn.
* Các bước đàm phán.
- Chào hàng:
Là đề nghị của một bên (người bán hoặc người mua) gửi cho bên kia, biểu thị muốn bán hoặc mua một hoặc một số hàng nhất định theo những điều kiện nhất định về giá cả, thời gian giao hàng, phương tiện thanh toán…
Hoàn giá (mặc cả):
Trong trường hợp người nhận được thư chào hàng không chấp nhận hoàn toàn với các điều kiện trong chào hàng đó mà đưa ra đề nghị mới thì đề nghị mới gọi là hoàn giá.
Chấp nhận: Là sự đồng ý tất cả các điều kiện của chào hàng hoặc tất cả các điều kiện khi đã hoàn giá, do hai phía cùng chấp nhận.
Xác nhận: Là sự khẳng định sự thoả thuận mua bán bằng văn bản xác nhận của bên mua hoặc bên bán hoặc của cả hai bên.
1.2.4. Ký kết hợp đồng.
Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn đến việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương. Nội dung hợp đồng phải thể hiện đầy đủ quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia ký kết. Hình thức văn bản của hợp đồng là bắt buộc đối với các đơn vị xuất nhập khẩu của ta trong quan hệ với nước ngoài. Hợp đồng mua bán quốc tế còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu hoặc hợp đồng mua bán ngoại thương là sự thoả thuận giữa các đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau, theo đó một bên gọi là bên xuất khẩu (bên bán) có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của bên khác gọi là bên nhập khẩu (bên mua) một tài sản nhất định, gọi là hàng hoá ; bên mua có nghĩa vụ phải nhận hàng và trả tiền hàng .
1.2.5. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu với tư cách là một bên ký kết phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu là một công việc rất phức tạp. Nó đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và quốc tế, đồng thời đảm bảo được quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của đơn vị. Về mặt kinh doanh, trong quá trình thực hiện các khâu công việc, để thực hiện hợp đồng, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu phải cố gắng tiết kiệm chi phí lưu thông, phải nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ nghiệp vụ giao dịch.
* Kiểm nghiệm hàng hoá:
Đây là công việc cần thiết đảm bảo quyền lợi cho khách hàng, ngăn chặn kịp thời những hậu quả xấu.
Công tác kiểm tra hàng xuất khẩu được tiến hành ngay sau khi hàng chuẩn bị đóng gói xuất khẩu tại cơ sở sản xuất, về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, chất lượng, bao bì hàng hoá việc kiểm tra, kiểm dịch phải được tiến hành ở hai cấp : tại cơ sở do bộ phận kiểm tra chất lượng hàng hoá KCS kiểm tra và tại cửa khẩu do công ty giám định hàng hoá xuất nhập khẩu, cục thú y, cục bảo vệ thực vật tiến hành trước khi xuất hàng và cấp giấy chứng nhận phẩm chất hàng hoá.
* Làm thủ tục hải quan.
Đây là quy định bắt buộc đối với bát cứ một loại hàng hoá nào, công tác này được tiến hành qua 3 bước.
- Khai báo hải quan: Người xuất khẩu phải có trách nhiệm kê khai ( khai viết hoặc khai báo điện tử ) các đối tượng làm thủ tục hải quan theo mẫu tờ khai do Tổng cục trưởng tổng cục hải quan quy định.
- Xuất trình hàng hoá và nộp thuế.
- Thực hiện các quyết định của hải quan.
* Thanh toán hợp đồng.
Có thể nói thanh toán là khâu trọng tâm và kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch trong kinh doanh quốc tế. Thông thường có hai phương thức thanh toán chủ yếu thanh toán bằng thư tín dụng và thanh toán bằng phương thức nhờ thu (bên xuất khẩu ủy thác cho ngân hàng thu hộ).
* Giải quyết tranh chấp.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng , khi hàng hoá có tổn thất hoặc mất mát …dẫn đến tranh chấp về kinh tế thi hai bên căn cứ vào điều khoản tranh chấp trong hợp đồng để đưa ra cánh giaỉ quyết hợp lý, đỡ tốn kém.
1.2.6. Đánh giá hiệu quả thực hiện.
Kết quả kinh doanh xuất khẩu được xác định bằng lợi nhuận đem lại. Lợi nhuận được tính toán trên cơ sở chi phí và doanh thu. Doanh thu của doanh nghiệp là số tiền mà nó thu được qua việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Chi phí của một doanh nghiệp là những phí tổn cần thiết phải bỏ ra trong qúa trình sản xuất kinh doanh hàng hoá hoặc dịch vụ trong thời kỳ đó. Lợi nhuận là phần dôi ra của doanh thu so với chi phí, hay còn gọi là lãi, chi phí càng thấp thì lợi nhuận càng cao.
Lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí
Tuy nhiên, nếu chỉ tính chỉ tiêu lợi nhuận không thì chưa phản ánh hết được kết quả của họat đông kinh doanh. Trong thực tế người ta còn phải xác định chi tiêu tỷ suất doanh lợi ngoại thương. Tỷ suất doanh lợi ngoại thương phản ánh kết quả tài chính của hoạt động ngoại thương thông qua việc đánh giá kết quả thu được từ một đồng chi phí thực tế bỏ ra.
Cụ thể:
LX
Dx=--------- x 100 %
CX
Dx: là tỷ suất doanh lợi.
Lx: là lợi nhuận về bán hàng xuất khẩu tính thao ngoại tệ được chuyển đổi ra tiền Việt Nam theo giá được công bố của ngân hàng Nhà nước.
Cx: là tổng chi phí thực hiện hoạt động xuất khẩu.
* So sánh tỷ suất xuất khẩu và tỷ giá hối đoái.
+Tỷ suất xuất khẩu > tỷ giá hối đoái: tức là chi nhiều hơn thu, điều đó cho thấy hoạt động kinh doanh xuất khẩu không có hiệu quả.
+Tỷ suất xuất khẩu < tỷ giá hối đoái: tức là chi ít hơn thu, cho thấy hoạt động kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả.
Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu thuỷ sản
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
Bờ biển Việt Nam có hình chữ S với chiều dài 3.260km với 112 cửa lạch lớn nhỏ với độ nông sâu khác nhau, 41% cửa có độ sâu từ 1,6-3m, tình trung bình cứ 100km2 diện tích tự nhiên có 1km bờ biển và gần 30km bờ biển có một cửa sông lạch. Lợi dụng nước triều dâng, tàu cá có thể ra vào dễ dàng, ở nhiều cửa sông có thể xây dựng các bến cảng bến cá. Đây cũng là nơi cư dân tập trung tạo nên các cộng đồng đông đúc có điều kiện phát triển kinh tế hải sản, góp phần kinh tế biển cũng như kinh tế xã hội nói chung. Vùng biển nội thuỷ và lãnh hải rộng 226.000km, vùng biển đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km2 gấp 3 lần diện tích đất liền. Việt Nam thuộc khu vực Châu Á Thái Bình Dương, nằm trong điểm giao lưu giữa Đông Bắc Á với Đông Nam Á, giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương tạo nên điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế biển nói chung và kinh tế thuỷ sản nói riêng.
Do nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của gió mùa nhiệt đới và gió tây khô nóng nên Việt Nam có nhiều tiểu vùng khí hậu, mà sự phân cách rõ rệt nhất là hai vùng Nam và Bắc đèo Hải Vân tạo nên sự đa dạng của vùng sinh thái ven biển, tác động sâu sắc đến sản xuất nghề cá.
Đặc điểm tự nhiên với điều kiện thuận lợi và phức tạp như vậy sẽ là lợi thế rất lớn của ngành thuỷ sản cũng như xuất khẩu thuỷ sản.
1.2.2. Tiềm năng nguồn lợi thuỷ sản
Điều kiện địa lý vùng biển và các mặt nước nội địa của Việt Nam đã tạo nên những vùng sinh thái khác nhau đối với các loài thuỷ sinh vật. Có thể chia thành 4 dạng môi trường sống cơ bản đối với các loài thuỷ sinh vật: vùng nước mặn xa bờ, vùng nước mặn gần bờ, vùng nước lợ và vùng nước nội địa (vùng nước ngọt).
Theo các nghiên cứu khoa học, nguồn lợi hải sản Việt Nam có: 75 loài tôm, 25 loài mực, 7 loài bạch tuộc, 653 loài rong biển, trong đó rong kinh tế chiếm 14% (90 loài), san hô (loài san hô cứng) tạo rạn có 298 loài, thuộc 76 giống, 16 họ và trên 10 loài san hô sừng. cá có trên 2100 loài, trong đó hơn 100 loài có giá trị kinh tế.
Môi trường nước mặn
Môi trường nước mặn xa bờ
Đây là vùng nước ngoài khơi thuộc vùng biển đặc quyền kinh tế. Mặc dù khu vực này chưa có nhiều nghiên cứu về nguồn lợi, nhưng những năm gần đây, hoạt động khai thác thuỷ sản đã diễn ra rất mạnh ở nhiều khu vực thuộc cả 5 vùng biển khơi: vịnh Bắc Bộ, duyên hải Trung Bộ, Đông Nam Bộ và vịnh Thái Lan.
Trên cơ sở các tài liệu đã có kết hợp với phân tích thực tiễn khai thác các vùng khơi những năm gần đây có thể thấy rằng, nguồn lợi hải sản vùng xa bờ của Việt Nam nhìn chung không giàu, mức phong phú trung bình, độ sâu càng lớn, mật độ càng giảm và nguồn lợi hải sản cũng ít phong phú. Nguồn lợi mang tính phân tán, quần đàn nhỏ, nên khi tiến hành khai thác ở quy mô công nghiệp rất khó đạt hiệu quả kinh tế cao. Hơn nữa, điều kiện khí hậu thuỷ văn của vùng biển này rất khắc nghiệt, nhiều dông, bão, làm cho quá trình khai thác chịu nhiều rủi ro và tăng thêm chi phí sản xuất.
Môi trường nước mặn gần bờ
Là vùng sinh thái quan trọng nhất đối với các loài thuỷ sinh vật. Vùng này có nguồn thức ăn dồi dào do phù sa và các loại chất vô cơ cũng như hữu cơ hoà tan từ các cửa sông lạch đổ ra. Đó là nguồn thức ăn rất tốt cho tôm, cá. Vì vậy, vùng này là bãi sinh sản, cư trú, phát triển của nhiều loài thuỷ sản.
+ Vùng Đông Nam Bộ và vùng Tây Nam Bộ là vùng sinh thái có sản lượng khai thác cao nhất, có thể chiếm tới 67% tổng lượng hải sản khai thác của Việt Nam.
+ Vinh Bắc Bộ với hàng nghìn hòn đảo tạo nên nhiều bãi triều quanh đảo, có thể nuôi các loài nhuyễn thể có giá trị như trai ngọc, vẹm xanh, vẹm nâu, hàu sông, hàu biển, bào ngư, sò huyết, sò lông, ngao dầu, ngao mật…
Nhiều nhà khoa học cho rằng, lượng hải sản vùng ven bờ đã bị khai thác quá mức, sản phẩm khai thác có cả các cá thể chưa trưởng thành hay cả những đàn đi đẻ. Tỷ lệ cá con ở vịnh Bắc Bộ hàng năm chiếm tới hơn 20-25%, thậm chí tới 40% tổng sản lượng khai thác.
Bảng 1 - Tổng hợp kết quả đánh giá trữ lượng và khả năng khai thác cá biển Việt Nam
Vùng
biển
Loài cá
Độ
sâu
Trữ lượng
Khả năng khai thác
Tỷ lệ
(%)
Tấn
Tỷ lệ (%)
Tấn
Tỷ lệ (%)
Vịnh
Bắc Bộ
Cá nổi nhỏ
390.000
57,3
156.000
57,3
Cá đáy
<50m
39.204
5,7
15.682
5,7
>50m
251.962
37,0
100.785
37,0
16,3
Cộng
291.166
42,7
116.467
42,7
Cộng
681.166
100,0
272.467
100,0
Miền
Trung
Cá nổi nhỏ
500.000
82,5
200.000
82,5
Cá đáy
<50m
18.494
3,0
7.398
3,0
>50m
87.905
14,5
35.162
14,5
14,5
Cộng
106.399
17,5
42.560
17,5
Cộng
606.399
100,0
242.560
100,0
Đông
Nam Bộ
Cá nổi nhỏ
524.000
25,2
209.600
25,2
Cá đáy
<50m
349.154
16,8
139.762
16,8
>50m
1.202.735
58,0
481.094
58,0
49,7
Cộng
1.551.889
74,8
620.856
74,8
Cộng
2.075.889
100,0
830.456
100,0
Tây
Nam Bộ
Cá nổi nhỏ
316.000
62,0
126.000
62,0
Cá đáy
190.670
38,0
76.272
38,0
12,1
Cộng
506.679
100,0
202.272
100,0
Gò nổi
Cá nổi nhỏ
10.000
100,0
2.500
100,0
0,2
Toàn vùng
biển
Cá nổi đại
dương
300.000
120.000
7,2
Tổng
cộng
Cá nổi nhỏ
1.740.000
694.100
Cá đáy
2.140.133
855.885
Cá nổi đại
dương
300.000
120.000
Toàn bộ
4.180.133
1.669.985
100,0
Nguồn : Viện Nghiên cứu Hải sản Hải Phòng
Theo đánh giá của Viện Hải Sản, có thể nói, nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam đã bị khai thác với cường lực quá cao, thậm chí ở một số vùng gần bờ đã quá giới hạn cho phép. Những kết quả điều tra nguồn lợi hải sản gần đây nhất cho thấy, nguồn lợi hải sản gần bờ và xa bờ đều giảm nhiều so với 10 năm trước. Vì vậy, cần phải hạn chế và giảm dần cường lực khai thác, đồng thời cũng nên thận trọng khi phát triển đội tàu đánh cá. Khai thác hải sản của Việt Nam nên dừng lại ở mức tổng sản lượng hải sản không vượt quá 1,7 triệu tấn/năm. Việc phát triển nghề cá xa bờ nhằm giảm áp lực khai thác vùng ven bờ cần phải có kế hoạch đồng bộ bao gồm đội tàu, kỹ thuật khai thác, cơ sở hạ tầng, dịch vụ, dự báo ngư trường… nhằm đảm bảo nâng cao hiệu quả khai thác gắn với bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản.
Môi trường nước lợ
Đây là vùng giàu chất dinh dưỡng cho động, thực vật thủy sinh có khả năng thích nghi với điều kiện nồng độ muối luôn thay đổi, là nơi cư trú, sinh sản, sinh trưởng của tôm he, tôm nương, tôm rảo, tôm vàng, cá đối, cá vược, cá tráp, cá trai, cá bớp, cua biển, ...
Tổng diện tích mặt nước mặn lợ có khả năng đưa vào nuôi trồng thuỷ sản khoảng 965.000 ha bao gồm vùng triều 873.000 ha, eo vịnh 92.000 ha. Đây là vùng môi trường sống cho nhiều loài thủy đặc sản có giá trị như tôm, rong câu, các loài cua, cá mặn lợ. Đặc biệt, rừng ngập mặn là bộ phận quan trọng của vùng sinh thái nước lợ, nơi hình thành nguồn thức ăn quan trọng từ thảm thực vật cho các loài động vật thủy sinh và nơi nuôi dưỡng chính cho ấu trùng giống hải sản. Vùng nuôi lợ vừa có ý nghĩa sản xuất, vừa có ý nghĩa không thay thế được trong việc bảo vệ và tái tạo nguồn lợi. Ở Đông Nam Á, trong vùng rừng ngập mặn đã thống kê được có 230 loài giáp xác, 211 loài thân mềm, hàng trăm loài cá và động vật không xương sống khác. Diện tích rừng ngập mặn ven biển Việt Nam giảm từ 400.000 ha xuống 250.000 ha. Những năm gần đây, việc phá rừng ngập mặn làm ao tôm và lấy củi đun đã làm mất đi hàng trăm hecta. Hiện diện tích rừng ngập mặn trong cả nước chỉ còn trên dưới 100.000 ha.
Các vùng nước lợ đang được huy động vào mục đích phát triển nuôi trồng thuỷ hải sản nhất là nuôi tôm và các loại cá có giá trị cao phục vụ xuất khẩu.
Môi trường nước ngọt
Nước ta có những thuỷ vực tự nhiên rất rộng lớn thuộc hệ thống sông ngòi và các kênh rạch chằng chịt, hệ thống hồ chứa tự nhiên và hồ chứa nhân tạo, hệ thống ao đầm nhỏ và ruộng trũng. Khí hậu nhiệt đới mưa nhiều luôn bổ sung nguồn nước cho các thuỷ vực. Khí hậu ấm áp làm cho các giống loài sinh vật có thể phát triển quanh năm. Tuy nhiên, cho tới nay mới chỉ có 80% diện tích các ao, hồ nhỏ đã phát triển nuôi theo mô hình VAC, còn các mặt nước lớn như các dòng sông, các hồ chứa nước tự nhiên và nhân tạo, các vùng đất ngập nước, ruộng trũng chưa được sử dụng nhiều. Một số nơi đã bắt đầu khai thác những mặt nước này rất hiệu quả như hồ Trị An, vùng sông Tiền và sông Hậu của An Giang để nuôi những loài cá có giá trị cao cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa như cá basa, bống tượng.... Điều đó cho thấy, tiềm năng phát triển nuôi trồng thuỷ sản trong các thuỷ vực nước ngọt còn rất lớn.
Tóm lại, Việt Nam có nhiều loài thủy sản quý hiếm, nhiều loài có giá trị kinh tế cao. Mặt khác, lợi thế địa lý gần những thị trường tiêu thụ thủy sản lớn, có khả năng giao lưu hàng hóa bằng đường bộ, đường thủy, đường không rất thuận lợi đã tạo cho ngành thủy sản Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển. Tuy nhiên, đặc điểm nhiều gió bão (hàng năm có tới 4 - 5 cơn bão), lũ, lụt, gió mùa, thời tiết thay đổi thất thường đã gây ra những khó khăn, thiệt hại không nhỏ cho phát triển nuôi trồng thủy sản vùng cửa sông, ven biển và khai thác hải sản. Nguồn lợi thủy sản tuy đa dạng, nhưng trữ lượng mỗi loài không nhiều, không tập trung thành những quần đàn lớn. Đây cũng là một yếu tố không thuận lợi cho hoạt động khai thác và chế biến thủy sản. Vấn đề bồi, lắng, xói lở vùng cửa sông, ven biển xảy ra thất thường cũng gây ra những khó khăn cho công tác xây dựng các cơ sở hạ tầng nghề cá.
Nguồn lợi mặt nước tiềm năng như trên là điều kiện để phát triển nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu nước ta.
1.2.3. Ảnh hưởng của công cụ và các chính sách kinh tế vĩ mô
Trong lĩnh vực xuất khẩu những công cụ, chính sách chủ yếu thường được sử dụng để điều tiết hoạt động này.
Thuế quan: thuế quan là loại thuế đánh vào hàng hoá nhập khẩu và xuất khẩu (thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu). Thuế xuất khẩu là một công cụ mà các nước đang phát triển thường sử dụng để đánh vào một số mặt hàng nhằm tăng lợi ích quốc gia.
Giấy phép xuất khẩu: mục đích của Chính phủ khi sử dụng giấy phép xuất khẩu là nhằm quản lý hoạt động xuất khẩu có hiệu quả hơn và thông qua đó điều chỉnh các loại hàng hoá xuất khẩu đồng thời bảo vệ tài nguyên môi trường cũng như cải thiện cán cân thanh toán.
Tỷ giá và đòn bẩy có liên quan khuyến khích xuất khẩu: Chính sách tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu là chính sách duy trì tỷ giá tương đối ổn định và ở mức thấp. Kinh nghiệm thực tế cho thấy các chính sách hướng về xuất khẩu là điều chỉnh tỷ giá hối đoái sao cho phù hợp với mức tỷ giá cân bằng trên thị trường và duy trì mức giá tương quan với chi phí và giá trong nước.
1.2.4. Yếu tố chính trị và luật pháp
Các yếu tố chính trị và luật pháp có ảnh hưởng tới trực tiếp tới hoạt động mua bán quốc tế. Vì vậy, khi xuất khẩu sang thị trường nước ngoài cần phải tuân thủ các quy định của Chính phủ, các tập quán kinh tế và các luật pháp Quốc tế như:
- Các quy định của Chính phủ Việt Nam đối với hoạt động xuất khẩu.
- Các hiệp ước, hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia.
- Các quy định nhập khẩu của các quốc gia mà Việt Nam có quan hệ thương mại.
- Các vấn đề pháp lý và tập quán Quốc tế có liên quan tới việc xuất khẩu.
1.2.5. Ảnh hưởng của yếu tố khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ là nhân tố có tác động rất lớn, trực tiếp đối với sự thành công của ngành thủy sản, qua đó góp phần tác động tới việc đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản. Để thuỷ sản Việt Nam có thể xuất khẩu sang các thị trường lớn và khó tính thì yếu tố khoa học công nghệ là rất cần thiết trong việc trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, phương pháp công nghệ, trang bị điều kiện cho công nghiệp chế biến. Do đó, khoa học công nghệ là yếu tố quyết định thành công đến chất lượng sản phẩm xuất khẩu cũng như khả năng cạnh tranh của thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Vị trí vai trò của xuất khẩu thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân
2.1. Xuất khẩu thuỷ sản có vai trò trong dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, hoá hiện đại hoá.
Sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu không chỉ là sản phẩm xuất khẩu thô mà phần lớn là sản phẩm chế biến mang lại doanh thu cao. Phát triển xuất khẩu thuỷ sản thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp chế biên, từ đó góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý và hiệu quả, phù hợp với xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ.Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản tương đương với các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Điều đó chứng tỏ ngành thuỷ sản đang dần chuyển từ sản xuất mang nặng tính nông nghiệp sang sản xuất kinh doanh theo hướng công nghiệp hoá.
Bảng2 – Giá trị xuất khẩu (triệu USD)
Năm
Toàn quốc
Công nghiệp - Xây dựng - Dịch vụ
Nông - Lâm - Thuỷ sản
Tổng số
Riêng Thuỷ sản
1996
7.255,9
4.214,1
3.041,8
670,0
1997
9.185,0
5.952,0
3.233,0
776,5
1998
9.360,3
6.036,0
3.324,3
858,6
1999
11.540,0
8.627,8
2.912,2
976,1
2000
14.308,0
10.186,8
4.121,2
1.478,5
2001
15.100,0
10.090,4
5.009,6
1.816,4
Tốc độ tăng trưởng bình quân
13,0
14,9
9,5
14,6
Nguồn: Niên giám Thống kê Nông - Lâm - Thuỷ sản
2.2. Xuất khẩu thuỷ sản góp phần mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại Việt Nam
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Đẩy mạnh xuất khẩu nói chung và đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản nói riêng có vai trò tăng cường hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đến nay, thuỷ sản có mặt trên 160 quốc gia và vùng lãnh thổ đứng vững chắc trên thị trường truyền thống và dần trở nên quen thuộc với thị trường mới. Năm 2000, thuỷ sản Việt Nam đứng thứ 11 về giá trị xuất khẩu thì năm 2007 đã vươn lên vị trí thứ 6. Có thể nói, vị thế của thuỷ sản Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được c._.ủng cố và mở rộng.
Đối với các nước và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại, ngành thuỷ sản đã tạo dựng được uy tín lớn. Những nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật và các nước trong khối EU đã chấp nhận làm bạn hàng lớn và thường xuyên của ngành. Năm 2005, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào bốn thị trường chính là Mỹ, Nhật Bản, EU và Trung Quốc chiếm trên 75% tổng giá trị kim ngạch.
Có thể thấy rằng sự mở rộng mối quan hệ thương mại quốc tế của ngành thuỷ sản đã góp phần mở ra những còn đường mới và mang lại nhiều bài học kinh nghiệm để nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào khu vực và thế giới.
2.3. Xuất khẩu thuỷ sản mang lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
Trong những năm qua, sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu đã chiếm tỷ trọng lớn và trở thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Năm 2000 giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt gần 1,48 tỷ USD, con số này lên tới 3,36 tỷ USD năm 2006, năm 2007 là 3,75 tỷ USD tăng gần 12 % so với năm 2006, năm 2008 là 4,5 tỷ USD tăng 20% so với năm 2007, đưa nước ta nằm trong top 10 nước xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới. Nguồn thu ngoại tệ lớn từ xuất khẩu thuỷ sản sẽ góp phần thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá một cách có hiệu quả vững chắc, đạt mục tiêu biến nước ta thành nước công nghiệp vào năm 2020.
Với vai trò quan trọng như vậy, xuất khẩu thuỷ sản của nước ta đang được Đảng và Nhà nước quan tâm và càng khẳng định hơn nữa tầm quan trọng của mặt hàng này trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực như hiện nay.
3. Giới thiệu tổng quan về tổ chức WTO
3.1. Thông tin chung
WTO là tổ chức thương mại quy mô toàn cầu, được thành lập vào ngày 01 tháng 01 năm 1995, hiện có 151 Thành viên (Việt Nam là thành viên thứ 150). Tiền thân của WTO là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), được 23 quốc gia ký kết vào năm 1947 nhằm tăng cường giao lưu thương mại giữa các quốc gia thông qua việc cắt giảm các hàng rào bảo hộ ở mỗi nước thành viên. Trong lịch sử gần 50 năm của mình, GATT đã tổ chức được 8 vòng đàm phán đa phương về thương mại. Vòng thứ 8 diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994 tại Marrakesh thủ đô của Marocco (còn gọi là Vòng đàm phán Uruguay và Hiệp định thành lập WTO còn gọi là Hiệp định Marrakesh) nội dung là cải tổ GATT để lập ra một định chế thương mại toàn cầu mới có tên là Tổ chức Thương mại thế giới, viết tắt là WTO.
3.2. Mục tiêu, chức năng, nguyên tắc cơ bản
3.2.1. Mục tiêu
WTO thừa nhận các mục tiêu của GATT, tức là quan hệ giữa các thành viên trong thương mại và kinh tế sẽ được tiến hành nhằm:
- Nâng cao mức sống;
- Bảo đảm tạo đầy đủ việc làm, tăng thu nhập và nhu cầu thực tế một cách bền vững;
- Phát triển việc sử dụng các nguồn lực của thế giới;
- Mở rộng sản xuất và trao đổi hàng hoá.
3.2.2. Chức năng
WTO có năm chức năng cơ bản như sau:
- Tạo thuận lợi cho việc thực thi, quản lý, vận hành và thúc đẩy mục tiêu của các Hiệp định của WTO.
- Tạo ra diễn đàn đàm phán giữa các thành viên về quan hệ thương mại giữa các nước này về các vấn đề được đề cập đến trong các Hiệp định WTO cũng như các vấn đề mới thuộc thẩm quyền của mình, và tạo khuôn khổ để thực thi kết quả của các cuộc đàm phán đó.
- Giải quyết tranh chấp giữa các thành viên trên cơ sở Quy định và Thủ tục Giải quyết Tranh chấp.
- Thực hiện rà soát chính sách thương mại thông qua Cơ chế Rà soát Chính sách Thương mại.
- Nhằm đạt được một sự nhất quán hơn nữa trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, WTO sẽ hợp tác phối hợp với các tổ chức kinh tế quốc tế như IMF, WB...
3.2.3. Nguyên tắc cơ bản
WTO hoạt động dựa trên một hệ thống Hiệp định tương đối dài và phức tạp do chúng là những văn bản pháp lý điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực thương mại quốc tế. Tuy vậy, tất cả các văn bản đó đều được xây dựng trên cơ sở năm nguyên tắc cơ bản của WTO.
a. Thương mại không phân biệt đối xử
Nguyên tắc này thể hiện ở hai nguyên tắc: đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia.
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN):
Nội dung của nguyên tắc này thực chất là việc WTO quy định rằng, các quốc gia không thể phân biệt đối xử với các đối tác thương mại của mình.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: mỗi thành viên của WTO phải đối xử với các thành viên khác của WTO một cách công bằng như những đối tác "ưu tiên nhất". Nếu một nước dành cho một đối tác thương mại của mình một hay một số ưu đãi nào đó thì nước này cũng phải đối xử tương tự như vậy đối với tất cả các thành viên còn lại của WTO để tất cả các quốc gia thành viên đều được "ưu tiên nhất". Và như vậy, kết quả là không phân biệt đối xử với bất kỳ đối tác thương mại nào.
Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT):
Nội dung của nguyên tắc này là hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản xuất trong nước phải được đối xử công bằng, bình đẳng như nhau.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới, trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu, bắt đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự đối xử ngang bằng (không kém ưu đãi hơn) với sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước.
b. Thương mại ngày càng tự do hơn (từng bước và bằng con đường đàm phán)
Ðể thực thi được mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư, mở cửa thị trường, thúc đẩy trao đổi, giao lưu, buôn bán hàng hoá, việc tất nhiên là phải cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan (cấm, hạn chế, hạn ngạch, giấy phép...).
Trong quá trình đàm phán, mở cửa thị trường, do trình độ phát triển của mỗi nền kinh tế của mỗi nước khác nhau, "sức chịu đựng" của mỗi nền kinh tế trước sức ép của hàng hoá nước ngoài tràn vào do mở cửa thị trường là khác nhau, nói cách khác, đối với nhiều nước, khi mở cửa thị trường không chỉ có thuận lợi mà cũng đưa lại những khó khăn, đòi hỏi phải điều chỉnh từng bước nền sản xuất trong nước.
Vì thế, các hiệp định của WTO đã được thông qua với quy định cho phép các nước thành viên từng bước thay đổi chính sách thông qua lộ trình tự do hoá từng bước. Sự nhượng bộ trong cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan được thực hiện thông qua đàm phán, rồi trở thành các cam kết để thực hiện.
c. Dễ dự đoán nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch
Ðây là nguyên tắc quan trọng của WTO. Mục tiêu của nguyên tắc này là các nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định và có thể dự báo trước được về các cơ chế, chính sách, quy định thương mại của mình nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài có thể hiểu, nắm bắt được lộ trình thay đổi chính sách, nội dung các cam kết về thuế, phi thuế của nước chủ nhà để từ đó doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạch định kế hoạch kinh doanh, đầu tư của mình mà không bị đột ngột thay đổi chính sách làm tổn hại tới kế hoạch kinh doanh của họ. Nói cách khác, các doanh nghiệp nước ngoài tin chắc rằng hàng rào thuế quan, phi thuế quan của một nước sẽ không bị tăng hay thay đổi một cách tuỳ tiện. Ðây là nỗ lực của hệ thống thương mại đa biên nhằm yêu cầu các thành viên của WTO tạo ra một môi trường thương mại ổn định, minh bạch và dễ dự đoán.
Nội dung của nguyên tắc này bao gồm các công việc như sau:
Về các thoả thuận cắt giảm thuế quan:
Bản chất của thương mại thời WTO là các thành viên dành ưu đãi, nhân nhượng thuế quan cho nhau. Song để chắc chắn là các mức thuế quan đã đàm phán phải được cam kết và không thay đổi theo hướng tăng thuế suất, gây bất lợi cho đối tác của mình, sau khi đàm phán, mức thuế suất đã thoả thuận sẽ được ghi vào một bản danh mục thuế quan. Ðây gọi là các mức thuế suất ràng buộc.
Về các biện pháp phi thuế quan:
Biện pháp phi thuế quan là biện pháp sử dụng hạn ngạch hoặc hạn chế định lượng khác như quản lý hạn ngạch. Các biện pháp này dễ làm nảy sinh tệ nhũng nhiễu, tham nhũng, lạm dụng quyền hạn, bóp méo thương mại, gây khó khăn cho doanh nghiệp, làm cho thương mại thiếu lành mạnh, thiếu minh bạch, cản trở tự do thương mại. Do đó, WTO chủ trương các biện pháp này sẽ bị buộc phải loại bỏ hoặc chấm dứt.
Ðể có thể thực hiện được mục tiêu này, các hiệp định của WTO yêu cầu chính phủ các nước thành viên phải công bố thật rõ ràng, công khai ("minh bạch") các cơ chế, chính sách, biện pháp quản lý thương mại của mình. Ðồng thời, WTO có cơ chế giám sát chính sách thương mại của các nước thành viên thông qua Cơ chế rà soát chính sách thương mại.
d. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng hơn
Trên thực tế, WTO tập trung vào thúc đẩy mục tiêu tự do hoá thương mại song trong rất nhiều trường hợp, WTO cũng cho phép duy trì những quy định về bảo hộ. Do vậy, WTO đưa ra nguyên tắc này nhằm hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp...hoặc các biện pháp bảo hộ khác.
Ðể thực hiện được nguyên tắc này, WTO quy định trường hợp nào là cạnh tranh bình đẳng, trường hợp nào là không bình đẳng từ đó được phép hay không được phép áp dụng các biện pháp như trả đũa, tự vệ, chống bán phá giá...
e. Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế bằng cách dành ưu đãi hơn cho các nước kém phát triển
WTO đã đưa ra nguyên tắc này nhằm khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi bằng cách dành cho những nước này những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt để đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của các nước này vào hệ thống thương mại đa biên.
Ðể thực hiện nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển, các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi những linh hoạt và ưu đãi nhất định trong việc thực hiện các hiệp định của WTO.
Chẳng hạn, WTO cho phép các nước này một số quyền và không phải thực hiện một số quyền cũng như một số nghĩa vụ hoặc cho phép các nước này một thời gian linh động hơn trong việc thực hiện các hiệp định của WTO, cụ thể là thời gian quá độ thực hiện dài hơn để các nước này điều chỉnh chính sách của mình. Ngoài ra, WTO cũng quyết định các nước kém phát triển được hưởng những hỗ trợ kỹ thuật ngày một nhiều hơn.
4. Những hiệp định và cam kết gia nhập WTO có ảnh hưởng đến xuất khẩu thuỷ sản
4.1. Hiệp đinh về việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật SPS
Trong WTO, biện pháp kiểm dịch động thực vật (Sanitary and Phytosanitary Measure – sau đây viết tắt là biện pháp SPS) được hiểu là tất cả các quy định, điều kiện, yêu cầu bắt buộc có tác động đến thương mại quốc tế nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ của con người, vật nuôi, động thực vật thông qua việc bảo đảm an toàn thực phẩm và/hoặc ngăn chặn sự xâm nhập của các dịch bệnh có nguồn gốc từ động thực vật.
Hình thức của các biện pháp SPS có thể rất đa dạng (ví dụ, đó có thể là yêu cầu về chất lượng, về bao bì, về quy trình đóng gói, phương tiện và cách thức vận chuyển động thực vật, kiểm dịch, phương pháp lấy mẫu, thống kê…).
Hiệp định SPS quy định các nước thành viên khi ban hành và áp dụng các biện pháp SPS phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Chỉ được áp dụng ở mức cần thiết để bảo vệ cuộc sống hoặc sức khoẻ con người, động vật, thực vật và phải căn cứ vào các nguyên tắc khoa học (trừ một số ngoại lệ, ví dụ dịch bệnh khẩn cấp);
Không tạo ra sự phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện hoặc không có căn cứ hoặc gây ra cản trở trá hình đối với thương mại;
Phải dựa vào các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế, nếu có;
Khuyến khích việc hài hoà hoá các biện pháp SPS giữa các nước.
Một biện pháp SPS không tuân thủ một trong các nguyên tắc trên có thể là vi phạm WTO và có thể bị buộc phải huỷ bỏ. Vì vậy, doanh nghiệp cần đặc biệt
lưu ý đến các nguyên tắc này để nhận biết và kịp thời phát hiện các trường hợp biện pháp SPS vi phạm WTO để có hình thức tự khiếu nại, khiếu kiện hoặc thông báo cho Chính phủ, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
4.2. Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại
Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Agreement on Technical Barriers to Trade - viết tắt là TBT ) là một trong những hiệp định của WTO điều chỉnh các vấn đề liên quan đến thương mại hàng hóa. Đối tượng của hiệp định TBT là các biện pháp kỹ thuật. Trong phạm vi điều chỉnh của hiệp định, các biện pháp kỹ thuật được chia thnàh 3 nhóm
Các quy định kỹ thuật. Đó là những quy định mang tính bắt buộc đối với các bên tham gia. Điều đó có nghĩa nếu các sản phẩm nhập khẩu không đáp ứng được các quy định kỹ thuật sẽ không được phép bán trên thị trường.
Các tiêu chuẩn kỹ thuật. Ngược lại với các quy định kỹ thuật, các tiêu chuẩn kỹ thuật được đưa ra chủ yếu mang tính khuyến nghị, tức là các sản phẩm nhập khẩu được phép bán trên thị trường ngay cá khi sản phẩm đó không đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật.
Các thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn. Các thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn là các thủ tục kỹ thuật như: Kiểm tra, thẩm tra, thanh tra và chứng nhận về sự phù hợp của sản phẩm với các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật.
Hiệp định TBT hoạt động nhằm mục đích: bảo vệ sức khỏe và an toàn cho người tiêu dùng, bảo vệ đời sống của động thực vật. bảo vệ môi trường ngăn chặn các thông tin không chính xác và các mục đích khác liên quan đến các quy định về chất lượng, hài hòa hóa...
Hiệp định TBT có 6 nguyên tắc cơ bản:
Nguyên tắc 1: Không đưa ra những cản trở không cần thiết đến hoạt động thương mại.
Theo đó, trước hết các cản trở khi đưa ra phải phục vụ cho một mục đích chính đáng. Mục đích chính đáng đó có thể là nhằm bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ an ninh quốc gia hay bảo vệ môi trường. Về phía Chính phủ, tránh các cản trở không cần thiết đến hoạt động thương mại, có nghĩa là: khi Chính phủ đưa ra một quy định kỹ thuật liên quan đến các sản phẩm như về thiết kế sản phẩm hay các tính năng, công dụng của sản phẩm phải tránh những cản trở không cần thiết đến hoạt động thương mại quốc tế.
Nguyên tắc 2: Không phân biệt đối xử.
Giống như các hiệp định khác của WTO, nguyên tắc không phân biệt đối xử của hiệp định TBT được thể hiện qua hai nguyên tắc là nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) và nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT). MFN và NT được áp dụng cho cả các quy định kỹ thuật và các thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn.
Nguyên tắc 3: Hài hòa hóa.
Hiệp định TBT khuyến khích các nước thành viên sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong xuất khẩu, các tiêu chuẩn quốc gia (toàn bộ hoặc một phần) trừ khi việc sử dụng đó không phù hợp, làm mất tính hiệu quả trong thực hiện một mục đích nào đó; khuyến khích các nước thành viên tham gia vào các Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế như OIE, FAO, WHO, IPPC…. Là những tổ chức đã thiết lập những bộ tiêu chuẩn kỹ thuật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi hoạt động của các tổ chức này.
Hiệp định TBT còn đề cập đến vấn đề đối xử đặc biệt và khác biệt với các thành viên WTO là các nước đang và chậm phát triển. Về những đối xử đặc biệt và khác biệt đối với các thành viên đang phát triển.
Nguyên tắc 4: Bình đẳng.
WTO khuyến khích các nước thành viên hợp tác để công nhận các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn của nhau.
Khi các nước công nhận các biện pháp kỹ thuật của nhau sẽ giúp làm giảm chi phí điều chỉnh các tính năng của sản phẩm để phù hợp với tiêu chuẩn của các nước khác. Hơn nữa, do khoảng cách về thời gian giữa thời điểm ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế với thời điểm tiến hành áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế đó vào hoạt động sản xuất của một quốc gia có thể diễn ra trong một khoảng thời gian khá dài sẽ tạo điều kiện cho nước áp dụng có cơ hội từ chối không áp dụng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế. Việc tuân thủ nguyên tắc bình đẳng sẽ góp phần làm cho các nhà sản xuất phải tuân thủ các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật chăth chẽ hơn.
Nguyên tắc 5: Công nhận lẫn nhau.
Để chứng minh được sản phẩm của mình đáp ứng được các quy định kỹ thuật của nước nhập khẩu, nhà xuất khẩu sẽ phải tiến hành các thủ tục khác nhau đòi hỏi một chi phí nhất định. Những chi phí này sẽ nhân lên nhiều lần khi nhà xuất khẩu phải tiến hành các thủ tục này tại các nước nhập khẩu khác nhau.
Tuy nhiên, khi các nước công nhận các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn của nhau thì nhà xuất khẩu, nhà sản xuất sẽ chỉ phải tiến hành kiểm tra, chứng nhận tiêu chuẩn kỹ thuật ở một nước; kết quả kiểm tra và chứng nhận tại quốc gia đó sẽ được các nước khác công nhận.
Ngoài ra, hiệp định TBT còn quy định khi kết quả của các tổ chức đánh giá sự hợp chuẩn tương thích với những chỉ dẫn liên quan do các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế ban hành thì kết quả đó được xem là bằng chứng về một trình độ kỹ thuật hoàn chỉnh.
Nguyên tắc 6: Minh bạch.
Theo hiệp định TBT, nguyên tắc minh bạch được thể hiện trên các mặt sau:
- Bản thảo các quy định kỹ thuật của các nước thành viên WTO phải được gửi đến Ban thư ký WTO trước khi gửi bản chính thức 60 ngày. Thời gian 60 ngày là để WTO xin ý kiến các nước thành viên WTO khác.
- Ngay khi hiệp định TBT có hiệu lực, các nước tham gia phải thông báo cho các nước thành viên khác về các biện pháp thực hiện và quản lý các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật của nước mình, cũng như cá thay đổi sau này cảu các biên pháp đó.
- Khi các nước thành viên WTO tham gia kỹ kết các hiệp định song phương và đa phương với các quốc gia khác có lên quan đến các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn; nếu các hiệp định này có ảnh hưởng về thương mại đến các nước thành viên khác thì phải thông qua Ban thư kỹ WTO thông báo về các sản phẩm thuộc phạm vi điều chỉnh của hiệp định, kèm theo 1 bản mô tả vắn tắt hiệp định.
Cuối cùng, để tăng thêm sự đảm bảo tính minh bạch trong thực thi hiệp định TBT, WTO cũng đã thành lập một cơ quan chuyên trách đó là Ủy Ban TBT. Ủy ban này sẽ cung cấp cho các thành viên WTO các thông tin liên quan đến hoạt động của hiệp định và việc xúc tiến thực hiện các mục đích của hiệp định.
Theo hiệp định TBT, các quy định về hỗ trợ kỹ thuật được thể hiện trên các mặt sau:
- Hỗ trợ kỹ thuật được tiến hành từ khâu chuẩn bị ban hành các quy đinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và thành lập Hội đồng tiêu chuẩn quốc gia cho đến khi tham gia vào Hội đồng tiêu chuẩn hóa quốc tế và các bước tiếp theo để các nước đang phát triển thâm nhập vào các hệ thống đánh giá sự hợp chuẩn của khu vực và trên thế giới.
- Chương trình hỗ trợ kỹ thuật thuộc hiệp định TBT bao gồm 2 hoạt động chủ yếu là cung cấp dịch vụ tư vấn kinh tế, luật và đào tạo trong quá trình thực thi hiệp định.
- Hỗ trợ kỹ thuật trong các lĩnh vực thuộc TBT được Ban thư kỹ WTO tiến hành. Nội dung của các hoạt đọng hỗ trợ kỹ thuật thường được đưa ra trong các hội thảo hỗ trợ kỹ thuật cấp khu vực. Gần đây, các hội thảo hỗ trợ kỹ thuật của WTO được phối hợp tổ chức với các tổ chức quốc tế và khu vực.
- Hỗ trợ kỹ thuật được thực hiện trực tiếp giữa nước phát triển với nước đang và chậm phát triển, hoặc được thực hiện thông qua chương trình hợp tác kỹ thuật của Ban thư ký WTO.
- Các yêu cầu về hỗ trợ kỹ thuật của các nước chậm phát triển luôn được ưu tiên hơn so với các yêu cầu của các nước đang phát triển.
4.3. Hiệp định về chống bán phá giá
Bán phá giá trong thương mại quốc tế có thể hiểu là hiện tượng xảy ra khi một loại hàng hoá được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với mức giá thấp hơn giá bán của hàng hoá đó tại thị trường nội địa nước xuất khẩu.
Thuế chống bán phá giá là biện pháp chống bán phá giá được sử dụng phổ biến nhất, được áp dụng đối với sản phẩm bị điều tra và bị kết luận là bán phá giá vào nước nhập khẩu gây thiệt hại cho ngành sản xuất nước đó.Về bản chất, đây là khoản thuế bổ sung (ngoài thuế nhập khẩu thông thường) đánh vào sản phẩm nước ngoài nhập khẩu là đối tượng của quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá.
Hiệp định về chống bán phá giá (Agreement on Antidumping Practices - ADA) chi tiết hoá Điều VI GATT (các quy tắc, điều kiện, trình tự thủ tục kiện - điều tra và áp dụng biện pháp chống bán phá giá cụ thể). Mỗi nước lại có quy định riêng về vấn đề chống bán phá giá (xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc chung liên quan của WTO). Các vụ kiện chống bán phá giá và việc áp thuế chống bán phá giá thực tế ở các nước tuân thủ các quy định nội địa này.
Bán phá giá được xác định dựa vào 2 yếu tố cơ bản là: 1- biên độ phá giá từ 2% trở lên; 2- số lượng, trị giá hàng hóa bán phá giá từ một nước vượt quá 3% tổng khối lượng hàng nhập khẩu (ngoại trừ trường hợp số lượng nhập khẩu của các hàng hóa tương tự từ mỗi nước có khối lượng dưới 3%, nhưng tổng số các hàng hóa tương tự của các nước khác nhau được xuất khẩu vào nước bị bán phá giá chiếm trên 7%).
Theo quy định của WTO, biên độ phá giá được xác định thông qua việc so sánh với mức giá có thể so sánh được của hàng hóa tương tự được xuất khẩu sang một nước thứ ba thích hợp, với điều kiện là mức giá có thể so sánh được này mang tính đại diện, hoặc được xác định thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hóa cộng thêm một khoản chi phí hợp lý cho quản trị, bán hàng, các chi phí chung khác và một khoản lợi nhuận. Như vậy, có thể hiểu rằng biên độ phá giá là mức chênh lệch giá thông thường của hàng hóa tương tự với mức giá xuất khẩu hiện tại. Việc xác định giá thông thường được tính toán rất phức tạp dựa trên cơ sở sổ sách và ghi chép của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất là đối tượng đang được điều tra với điều kiện là sổ sách này phù hợp với các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi và phản ánh được một cách hợp lý các chi phí.
Theo quy định trong Hiệp định về chống bán phá giá của WTO thì việc điều tra chỉ được tiến hành khi có đơn yêu cầu bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc của người nhân danh cho ngành sản xuất trong nước. Đơn yêu cầu sẽ được coi là đủ tư cách đại diện cho ngành sản xuất trong nước nếu như đơn này nhận được sự ủng hộ bởi các nhà sản xuất chiếm tối thiểu 50% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được làm ra. Tuy nhiên, việc điều tra sẽ không được bắt đầu nếu như các nhà sản xuất bày tỏ ý kiến tán thành điều tra chiếm ít hơn 25% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được ngành sản xuất trong nước làm ra.
Trong thương mại quốc tế, khi hàng hóa bị xem là bán phá giá thì chúng có thể bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá (anti-dumping) như thuế chống phá giá, đặt cọc hoặc thế chấp, cam kết hạn chế định lượng hoặc điều chỉnh mức giá của nhà xuất khẩu nhằm triệt tiêu nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước nhập khẩu, trong đó thuế chống bán phá giá là biện pháp phổ biến nhất hiện nay.
Thuế chống bán phá giá đánh vào các nhà sản xuất riêng lẻ chứ không phải là thuế áp đặt chung cho hàng hóa của một quốc gia. Nguyên tắc chung nêu ra trong Hiệp định của WTO là không được phân biệt đối xử khi áp dụng thuế chống phá giá, tức là nếu hàng hóa bị bán phá giá được xuất khẩu từ những quốc gia khác nhau với cùng biên độ phá giá như nhau thì sẽ áp đặt mức thuế chống phá giá ngang nhau. Mức thuế chống phá giá sẽ phụ thuộc vào biên độ phá giá của từng nhà xuất khẩu chứ không phải áp dụng bình quân (ngay cả khi các nhà xuất khẩu từ cùng một quốc gia) và không được phép vượt quá biên độ phá giá đã được xác định.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ trường hợp bán phá giá nào cũng bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá. Theo quy định của WTO cũng như luật pháp của rất nhiều nước thì thuế chống bán phá giá chỉ được áp đặt khi hàng hóa được bán phá giá gây thiệt hại đáng kể hay đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất ở nước nhập khẩu. Như vậy, nếu một hàng hóa được xác định là có hiện tượng bán phá giá nhưng không gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất mặt hàng đó ở nước nhập khẩu thì sẽ không bị áp đặt thuế chống bán phá giá và các biện pháp chống phá giá khác. Thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước được hiểu là tình trạng suy giảm đáng kể về sản lượng, mức tiêu thụ trong nước, lợi nhuận sản xuất, tốc độ phát triển sản xuất, việc làm cho người lao động, đầu tư tới các chỉ tiêu khác của ngành sản xuất trong nước hoặc dẫn đến khó khăn cho việc hình thành một ngành sản xuất trong nước. Chính vì những lý do trên mà các nước, nhất là những nước phát triển đã và đang sử dụng lý do chống bán phá giá để chèn ép một cách bất bình đẳng các nước đang phát triển. Điển hình của vụ việc này là các vụ kiện tôm và cá ba sa của Mỹ đối với các nhà sản xuất các mặt hàng này của Việt Nam và một số nước khác. Để đảm bảo tính công bằng trong thương mại quốc tế, tất cả các nước liên quan cần nghiên cứu và thực hiện đúng những quy định của Hiệp định chống bán phá giá của GATT/ WTO.
4.4. Cam kết về thuế xuất nhập khẩu
Về thuế xuất khẩu, ta chỉ cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu theo lộ trình, không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác. Về thuế nhập khẩu, ta đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình trong 5-7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong 5-7 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5-7 năm. Có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô - xe máy... vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Ta đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất là phương tiện vận tải. Ta cũng cam kết cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp. Đây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 – 5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng. Về hạn ngạch thuế quan, ta bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối.
Bảng 3 - Mức thuế cam kết bình quân theo nhóm ngành hàng chính
Nhóm mặt hàng
Thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập WTO (%)
Thuế suất cam kết cắt giảm cuối cùng cho WTO (%)
1. Nông sản
25,2
21,0
2. Cá, sản phẩm cá
29,1
18,0
3. Dầu khí
36,8
36,6
4. Gỗ, giấy
14,6
10,5
5. Dệt may
13,7
13,7
6. Da, cao su
19,1
14,6
7. Kim loại
14,8
11,4
8. Hóa chất
11,1
6,9
9. Thiết bị vận tải
46,9
37,4
10. Máy móc thiết bị cơ khí
9,2
7,3
11. Máy móc thiết bị điện
13,9
9,5
12. Khoáng sản
16,1
14,1
13. Hàng chế tạo khác
12,9
10,2
Nguồn Mutrap II
4.5. Cam kết của Việt Nam về trợ cấp
Thông thường, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, các nước có thể đàm phán để điều chỉnh một số nội dung so với quy định chung về trợ cấp tại Hiệp định SCM.
Đối với Việt Nam, những điều chỉnh này bao gồm:
Trợ cấp đèn đỏ:
Việt Nam cam kết bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp này (bao gồm trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp khuyến khích thay thế hàng nhập khẩu) từ thời điểm gia nhập.
Riêng đối với các ưu đãi đầu tư (ưu đãi về thuế) dựa trên tiêu chí thành tích xuất khẩu và tỷ lệ nội địa hoá mà cơ quan Nhà nước đã cho phép doanh nghiệp được hưởng từ trước ngày gia nhập WTO thì sẽ được tiếp tục thực hiện cho đến hết 5 năm kể từ ngày gia nhập.
Các loại trợ cấp khác và các hình thức xử lý vi phạm hoặc biện pháp đối kháng: Tuân thủ Hiệp định SCM. (Hiệp định SCM: Bao gồm các nguyên tắc chung có liên quan đến trợ cấp và biện pháp đối kháng mà tất cả các thành viên WTO phải tuân thủ);
Trợ cấp phi nông nghiệp: Ta đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành cho hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, ta được bảo lưu thời gian quá độ là 5 năm( trừ ngành dệt may).
Bảng 4 - Thay đổi mức bảo hộ thực tế đối với một số ngành và sản phẩm
Ngành (sản phẩm)
Mức độ bảo hộ thực tế (ERP) theo thuế MFN 2006 (%)
Mức đọ bảo hộ thực tế theo (ERP) theo mức cuối cùng
Thịt và thịt đã chế biến
42
2.6
Bánh kẹo
56
24
Sữa và các sản phẩm từ sữa
43
20
Rau quả chế biến
53
32
Cá và các sản phẩm cá
45
3.1
Gỗ và sản phẩm gỗ
9.9
3.8
Giấy, bột giấy
24.5
11.7
Nguồn: Mutrap II
4.6. Cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ
Về diện cam kết, BTA với Mỹ, Việt Nam đã cam kết 8 ngành dịch vụ với 65 phân ngành. Trong thoả thuận WTO, Việt Nam cam kết đủ 11 ngành dịch vụ theo tính chất phân ngành khoảng 110 phân ngành. Thoả thuận WTO đã đi xa hơn BTA nhưng không nhiều. Với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó những ngành nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch... ta giữu được mức độ cam kết gần như trong BTA. Riêng viễn thông, ngân hàng và chứng khoán, để sớm kết thúc đàm phám, ta đã có một số bước tiến nhưng nhìn chung không quá xa so với hiện trạng và đều phù hợp với định hướng phát triển đã được phê duyệt cho các ngành này
CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG GIA NHẬP WTO ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU THUỶ SẢN
1. Thực trạng tình hình xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
1.1. Thực trạng sản xuất, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản
Việt Nam là nước có tiềm năng lớn về NTTS với diện tích mặt nước nội địa khoảng 1 triệu ha, vùng triều khoảng 0,7 triệu ha và hệ thống đầm phá ven biển có thể phát triển NTTS. Trong khi diện tích có khả năng NTTS của cả nước ước tính khoảng gần 2 triệu ha thì mới chỉ sử dụng 902.900 ha (năm 2004).
Từ giữa thập kỷ 90 trở lại đây, NTTS của Việt Nam phát triển rất nhanh. Qua bảng dưới ta cũng có thể thấy tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản của nước ta trong mấy năm qua tăng rất nhanh, tăng từ 641,9 nghìn ha năm 2000 lên đến 959,9 nghìn ha năm 2005.
Bảng 5 - Diện tích mặt nước nuôi trồng và sản lượng thuỷ sản
giai đoạn 2000 – 2006
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006 (ước tính)
A.Tổng số diện tích nuôi trồng (nghìn ha)
641,9
755,2
797,7
867,6
920,1
959,9
1.Diện tích nước mặn, lợ
397,1
502,2
556,1
612,8
642,3
677,2
Nuôi cá
50,0
24,7
14,3
13,1
11,2
16,5
Nuôi tôm
324,1
454,9
509,6
574,9
598,0
616,9
Nuôi hỗn hợp và thuỷ sản khác
22,5
22,4
31,9
24,5
32,7
43,4
Ươm, nuôi giống thuỷ sản
0,5
0,2
0,3
0,3
0,4
0,4
2. Diện tích nước ngọt
244,8
253,0
241,6
254,8
277,8._.ệp cần chú trọng đầu tư nâng cấp điều kiện sản xuất kinh doanh. Bên cạnh việc đào tạo huấn luyện con người có trình độ, kỹ năng, có ý thức trách nhiệm, tác phong làm việc tốt, cần chú ý cân đối việc đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, nhà xưởng, quy trình công nghệ một cách tương xứng. Con người được giáo dục và đào tạo cần phải được tạo điều kiện, cần có môi trường làm việc tốt để họ có thể phát huy phẩm chất và năng lực của mình. Vì vậy, song song với việc đào tạo huấn luyện con người, doanh nghiệp cần từng bước nâng cấp, đảm bảo đầy đủ điều kiện vật chất, kỹ thuật sản xuất từ kho tàng, nhà xưởng, bến bãi, dụng cụ, thiết bị đến công nghệ, kỹ thuật hiện đại để con người phát huy tốt nhất năng lực của mình để đảm bảo và cải tiến chất lượng. Đặc biệt, doanh nghiệp cần chú trọng các điều kiện đảm bảo vệ sinh, an toàn trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh thực phẩm, các điều kiện kiểm tra, kiểm soát, tranh được sự lây nhiễm bẩn, lây bệnh làm ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính mạng của người tiêu dùng.
Tăng cường việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng và hệ thống kiểm soát vệ sinh an toàn trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuỷ sản. Một trong những giải pháp phát triển bền vững đối với các doanh nghiệp là áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng và tiêu chuẩn quốc tế trong quá trình sản xuất chế biến thực phẩm như HACCP, SQF1000, SQF2000, ISO - 14000 về quản lý môi trường và các giải pháp khác. Với việc áp dụng các mô hình quản lý chất lượng này, doanh nghiệp có điều kiện kiểm soát toàn diện quá trình hình thành chất lượng và các yếu tố vệ sinh an toàn thực phẩm, phát hiện và điều quan trọng là ngăn ngừa các mối nguy hại tiềm ẩn đối với sức khoẻ của người tiêu dùng. Bảo vệ người tiêu dùng và đời sống dân sinh của cộng đồng bằng chính sản phẩm chất lượng và an toàn.
Chú trọng kiểm soát nguyên liệu đầu vào. Doanh nghiệp thực phẩm nên chủ động kiểm soát chất lượng nguyên liệu đầu vào thông qua việc hỗ trợ, giúp đỡ những người nuôi trồng thuỷ sản về chọn giống, thuốc chữa bệnh và thức ăn cho nuôi trồng. Chủ động tăng cường hoạt động đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm trong sản xuất của đơn vị, đặc biệt là kiểm soát dư lượng hoá chất kháng sinh trong từng lô nguyên liệu thuỷ sản nhận vào nhà máy. Thực hiện nghiêm việc kiểm tra tra dư lượng, hóa chất kháng sinh đối với 100% số lô hàng thủy sản nhập khẩu để chế biến: chấp hành nghiêm túc các quy định về ghi mã số lô hàng, thực hiện kiểm tra đủ các chỉ tiêu chất lượng bắt buộc phải kiểm tra theo yêu cầu của từng thị trường. Mặt khác, doanh nghiệp có thể hỗ trợ một phần vốn sản xuất, kinh doanh để các cơ sở cung ứng có điều kiện tốt hơn trong việc phối hợp cùng doanh nghiệp đảm bảo chất lượng nguyên liệu đầu vào và đảm bảo chất lượng, vệ sinh, an toàn thực phẩm.
Tăng cường hoạt động giới thiệu, hướng dẫn, giáo dục khách hàng và người tiêu dùng giữ gìn vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngoài các giải pháp thực hiện trong khuôn khổ của tổ chức mình, doanh nghiêp cần tăng cường các mối quan hệ với khách hàng và mở rộng liên kết với các bên có liên quan để hỗ trợ việc đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Doanh nghiệp có thể phối hợp cùng các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức xã hội trong việc tổ chức các chương trình, các hoạt động phong phú nhằm hướng dẫn, giáo dục người tiêu dùng có thêm những hiểu biết và khả năng phòng tránh việc sử dụng thực phẩm kém an toàn. Thông qua các chương trình quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, hội nghị khách hàng, doanh nghiệp có thể cung cấp những thông tin và kiến thức cần thiết để nâng cao hiểu biết, ý thức và trách nhiệm giữ gìn vệ sinh an toàn thực phẩm từ phía người tiêu dùng. Đồng thời qua đó doanh nghiệp hình thành và phát triển các kênh thông tin nhiều chiều về mức độ thoả mãn khách hàng cũng như đảm bảo các yêu cầu vệ sinh, an toàn của thực phẩm để không ngừng đảm bảo chất lượng và phát triển kinh doanh.
Một số giải pháp trên đây cần được tiến hành đồng bộ cả từ phía nhà nước và từ các doanh nghiệp nhằm đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ người tiêu dùng và phát triển kinh doanh một cách bền vững.
3.1.2. Giải pháp tiết kiệm năng lượng:
Tiết kiệm điện, nước và các yếu tố khác liên quan đến giảm giá thành sản xuất để nâng cao năng lực cạnh tranh hàng thuỷ sản xuất khẩu. Bộ KH&CN, chương trình UNDP và Quỹ môi trường toàn cầu (GEF) đang phối hợp triển khai áp dụng các giải pháp công nghệ tiết kiệm năng lượng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngành chế biến thuỷ sản. Bằng các giải pháp điều chỉnh tối ưu lưu lượng nước cấp của hệ thống bơm, điều chỉnh lưu lượng hệ thống giải nhiệt giàn ngưng, cải tạo hệ thống chiếu sáng và đầu tư dây chuyền công nghệ sản xuất đá nhu cầu đá dùng trong sản xuất của các đơn vị sản xuất, chế biến thuỷ sản là rất lớn. Hầu hết các nhà máy chế biến thuỷ sản không thể thiếu một chiếc máy nghiền đá cây thành nhỏ. Chấp nhận sử dụng nó trong sản xuất, đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp thuỷ sản chấp nhận tiêu tốn nhân công, nguồn năng lượng và chịu đựng ô nhiễm tiếng ồn công xưởng. Để khắc phục điều này, các doanh nghiệp thuỷ sản nên đầu tư mua một chiếc máy sản xuất đá vảy. Hệ thống sản xuất đá vảy tiện nghi hơn so với hệ thống sản xuất đá cây, chỉ với thời gian khoảng 1 giờ có thể có đá sử dụng chủ động sản xuất, bảo đảm vệ sinh, giải mức tiêu hao năng lượng . Một thực tế đang đặt ra với các doanh nghiệp Việt Nam mà nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là sức cạnh tranh thương trường để tồn tại và phát triển. Muốn nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, một trong những yếu tố quan trọng nhất là doanh nghiệp phải giảm được giá thành sản phẩm. Và một trong những phương pháp giảm giá thành sản phẩm chính là giảm chi phí tiêu hao năng lượng. Không chỉ nâng cao sức cạnh tranh, thu lợi mà các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp còn góp phần thực hiện chiến lược quốc gia về sử dụng hiệu quả và hết kiệm năng lượng. Với phương pháp cải tiến công nghệ thiết bị giản đơn, để triển khai thực hiện mà đầu tư ban đầu không quá cao, chỉ khoảng vài chục triệu đồng với thời gian thu hồi vốn nhanh, giải pháp công nghệ tiết kiệm năng lượng chắc chắn mang lại hiệu quả cao rõ rệt cho các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản.
3.1.3. Xây dựng chiến lược đa dạng hóa thị trường và đa dạng hoá sản phẩm.
Bài học từ hai vụ kiện cá tra, ba sa và tôm là cần đa dạng hóa sản phẩm và thị trường, giảm bớt lệ thuộc vào một thị trường, một sản phẩm, giảm rủi ro; nếu sản phẩm tốt, giá phải chăng, thì dù ở nơi nào, lúc nào, hàng thủy sản nước ta vẫn chiếm ưu thế. Bên cạnh việc tập trung vào các thị trường và sản phẩm chủ lực cần đa dạng hóa thị trường và mặt hàng để có thể chủ động phòng ngừa các biến động thường xuyên của thị trường không “dàn hàng ngang” đối với tất cả các sản phẩm thủy sản mà phải lựa chọn sản phẩm có tính cạnh tranh cao, đặc trưng cho thương hiệu thủy sản Việt Nam tăng cường năng lực chế biến nhằm đa dạng hóa các mặt hàng thủy sản xuất khẩu đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm; Phương hướng của Việt Nam là giữ vững thị trường truyền thống, tăng nhanh tỷ trọng thị trường Châu Âu, Bắc Mỹ và các thị tường thu nhập cao khác, mở rộng thêm các thị trường mới như Ucraina, Ai cập, Braxin… tập trung vào các sản phẩm đặc trưng cho thương hiệu thuỷ sản Việt Nam như tôm đông lạnh, cá tra cá basa…
Vì vậy để đa dạng hoá thị trường và đa dạng hoá sản phẩm trong thời gian tới cần phải:
- Đẩy mạnh phát triển theo chiều sâu gắn chặt với nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định bằng cách giải quyết sự mất cân đối giữa khu vực sản xuất nguyên liệu (đánh bắt, nuôi trồng...) và khu vực chế biến xuất khẩu thủy. Phát triển các loại hình sản xuất thủy sản sạch từ khâu con giống đến chế biến xuất khẩu, từ ao nuôi đến bàn ăn. Bảo đảm nguồn cung cấp nguyên liệu thủy sản sạch từ nuôi trồng và khai thác; chú trọng phát triển các vùng sản xuất nguyên liệu thủy sản ổn định, có khả năng cung cấp kịp thời nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu.
- Phối hợp chặt chẽ hoạt động mở rộng thị trường với hoạt động ngoại giao.
- Thực hiện linh hoạt chính sách khuyến khích mở rộng thị trường phù hợp với những thay đổi của thị trường và pháp luật các nước nhập khẩu.
- Đổi mới công tác thông tin tiếp thị, áp dụng công nghệ thông tin, khuyến khích đa dạng hoá hoạt động thông tin ở cấp nhà nước và cấp doanh nghiệp, theo một tổ chức đồng bộ, thống nhất. với định hướng chiến lược chung và sách lược rõ ràng.
- Phát triển mạnh xuất khẩu tại chỗ phục vụ phát triển du lịch và thị trường tiêu thụ trong nước song song với thị trường nước ngoài.
- Phát triển xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản tươi sống, cá đông lạnh, đồ hộp, các mặt hàng giá trị gia tăng, các sản phẩm ăn liền đóng gói nhỏ.
- Phát triển xuất khẩu các sản phẩm từ cá và các đặc sản nước ngọt, phát triển sản xuất và xuất khẩu cá cảnh, tiến tới xuất khẩu các loại giống thuỷ sản và các chế phẩm sinh học có giá trị cao trong sinh học.
- Thành lập ngân hàng cổ phần thương mại thuỷ sản Việt Nam, nhằm huy đôngj vốn đóng góp của mọi thành phần kinh tế để thức đẩy và hỗ trợ cho phát triển sản xuất kinh doanh chế biến xuất khẩu thuỷ sản
- Thu hút và khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực thuỷ sản để có được nguồn vốn lớn và ổn định để xây dựng chiến lược đa dạng hoá thị trường và đa dạng hoá sản phẩm.
3.1.4. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất
Thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản làm nguồn chính cung cấp nguyên liệu sạch cho chế biến xuất khẩu và tiêu dùng nội địa; đẩy mạnh cải tiến nghề nghiệp, công nghệ khai thác và bảo quản sau đánh bắt, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ xuất khẩu. Ngành chủ trương nuôi thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa là một hướng đi quan trọng nhằm giảm dần khai thác vùng biển gần bờ và chủ động nguồn nguyên liệu chế biến xuất khẩu. Theo đó, một số vùng sản xuất hàng hóa theo các nhóm sản phẩm chủ lực phục vụ xuất khẩu như tôm sú, cá tra, cá ba sa, tôm càng xanh với công nghệ nuôi mới, nuôi công nghiệp tuần hoàn khép kín không thay nước, sử dụng thức ăn công nghiệp, dần sử dụng các chế phẩm sinh học thay thế cho các hóa chất và thuốc phòng, chữa bệnh cho thủy sản dùng trong nuôi trồng có ảnh hưởng đến môi trường. Ngành thủy sản đang nỗ lực thực hiện nuôi sạch theo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh quốc tế (GAP, HACCP); áp dụng các công nghệ và phương pháp quản lý để loại bỏ việc dùng các hóa chất, thuốc kháng sinh bị cấm trong quá trình nuôi trồng thủy sản. Ðây được coi là một bước chuyển lớn của ngành thủy sản để bảo đảm yêu cầu vệ sinh thủy sản ngay từ khâu nguyên liệu.
3.2. Giải pháp đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm
Để tăng cường khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu chất lượng của hàng thủy sản xuất khẩu trong thời gian tới chúng ta cần thực hiện tốt các vấn đề sau:
Tạo đột phá trong nghiên cứu ứng dụng công nghệ sản xuất giống chất lượng cao, kháng bệnh. Ưu tiên nhập công nghệ sản xuất giống và chế biến thuỷ sản các loại có giá trị cao để trang bị cho các xí nghiệp chế biến, tăng đối tượng phục vụ cho xuất khẩu. Tăng cường nghiên cứu và hướng dẫn để ứng dụng công nghệ mới trong chế biến thuỷ sản.
Thông qua các hình thức khuyến ngư, đa dạng hoá các hình thức chuyển tải thông tin, tuyên truyền và phổ biến kiến thức về công nghệ nuôi, khai thác, bảo quản và chế biến thuỷ sản, các kỹ thuật cơ bản về xử lý, bảo quản thuỷ sản cho các chủ tàu, ngư dân trực tiếp khai thác trên biển và các chủ nậu vừa thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
Tăng cường các hình thức đào tạo trong và ngoài nước cho cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu và cán bộ về marketing, giỏi về nghiệp vụ và am hiểu về luật lệ và các chính sách kinh tế, thương mại của các nước và quốc tế để tăng cường và bổ sung đội ngũ các nhà doanh nghiệp kinh doanh thuỷ sản giổi trên thương trường quốc tế. Đồng thời chủ ý đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật, hướng dẫn nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu ngày càng phát tiển của ngành. Phát triển hệ thống các trường đại học hiện có, nâng cao trình độ đào tạo và cơ sở vật chất của các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề thuỷ sản, đáp ứng yêu cầu đào tạo lao đọng theo những ngành nghề cần chú trọng. Tổ chức đào tạo và nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân ở các doanh nghiệp chế biến thủy sản. Đào tạo nghề phải hướng đến tạo lập được một đội ngũ cán bộ quản lý đầu ngành và công nhân lành nghề có khả năng tiếp thu nhanh khoa học công nghệ tiên tiến. Tổ chức các lớp về pháp luật và đào tạo hướng nghiệp.
Đổi mới kỹ thuật công nghệ và áp dụng các chương trình quản lý chất lượng quốc tế trong các khâu sản xuất thuỷ sản xuất khẩu nhằm nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu. Đầu tư cho đổi mới và cải tiến công nghệ trong các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản hiện có: cải tiến hệ thống thiết bị cấp đông block hiện có nhằm rút ngắn thời gian cấp đông trong chế biến hàng xuất khẩu sang các thị trường tái chế; đầu tư lắp đặt dây chuyền đông rời IQF để chế biến sản phẩm có giá trị gia tăng, đáp ứng yêu cầu của các thị trường xuất khẩu cao cấp như Mỹ, EU, Nhật Bản… Xây dựng mới các trung tâm chế biến thủ sản lớn với công nghệ hiện đại, điều kiện sản xuất tiên tiến, gắn với các vùng nguyên liệu tập trung. Từng bước áp dụng các chương trình quản lý chất lượng theo HACCP trong các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu sang các thị trường lớn
3.3. Xây dựng thương hiệu, đẩy mạnh xúc tiến thương mại và phát triển thị trường.
Xây dựng, phát triển thương hiệu trên thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thuỷ sản:
Trên thị trường quốc tế, các DN Việt Nam xuất khẩu mạnh các mặt hàng nông sản, thực phẩm chế biến, giày dép, quần áo, thủ công mỹ nghệ, thủy hải sản... với chất lượng ngày càng được nâng cao không hề thua kém các sản phẩm của các nước xuất khẩu lớn khác. Thế nhưng có một thực tế là 90% hàng Việt Nam do không thiết lập được thương hiệu độc quyền nên vẫn còn phải vào thị trường thế giới thông qua trung gian dưới dạng thô hoặc gia công cho các thương hiệu nổi tiếng của nước ngoài. Do đó, DN bị gánh chịu nhiều thua thiệt lớn và người tiêu dùng nước ngoài vẫn còn chưa có nhiều khái niệm về hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam.
Ngoài ra, các DN xuất khẩu lớn của Việt Nam cũng đang phải đối mặt với vấn đề bị các công ty nước ngoài ăn cắp hoặc nhái nhãn hiệu trên thị trường quốc tế. Trong những năm qua, các vụ tranh chấp thương hiệu đã liên tiếp xảy ra giữa các DN Việt Nam và các công ty của nước ngoài. Hàng loạt các thương hiệu lớn của Việt Nam đã lao đao vì bị mất cắp thương hiệu: Trung Nguyên ở thị trường Mỹ, Nhật; Petro Việt Nam, Vifon, Saigon Export, Việt Tiến.... ở thị trường Mỹ; Vinataba ở thị trường 12 nước Châu Á; Sa Giang ở thị trường Pháp, Biti’s ở Trung Quốc ... Cuộc chiến thương hiệu luôn đi kèm với những rắc rối về kiện tụng, mất mát nhiều thời gian và tiền bạc, dù được hay thua cũng đều gây ra những tổn thất rất lớn cho DN
Để giải quyết bài toán thương hiệu một cách hiệu quả, DN cần phải có chiến lược xây dựng và phát triển thương hiệu theo mô hình riêng phù hợp với DN mình. Những vấn đề cần làm chủ yếu là:
- Cần có nhận thức đúng và đầy đủ về thương hiệu trong toàn thể cán bộ lãnh đạo và nhân viên trong DN để có thể đề ra và thực thi được một chiến lược thương hiệu trên các mặt: xây dựng, bảo vệ, quảng bá và phát triển thương hiệu. Chiến lược thương hiệu này phải xuất phát từ việc nghiên cứu thị trường, xác định đối tượng khách hàng mục tiêu, từ đó thiết kế và định vị thương hiệu cho sản phẩm trong một chiến lược marketing tổng thể nhằm tác động tích cực tới nhận thức của đối tượng tiêu dùng trong và ngoài nước, tạo dựng một phong cách đặc biệt và vượt trội so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
- Doanh nghiệp phải thực hiện đăng ký bảo hộ nhãn hiệu sản phẩm trong nước và trên thị trường quốc tế kết hợp với việc quản lý chặt chẽ thương hiệu, đảm bảo uy tín và hình ảnh của thương hiệu không ngừng được nâng cao.
- Vấn đề cốt lõi trong việc giữ gìn và phát triển thương hiệu bền vững là phải kết hợp hoàn hảo giữa chiến lược thương hiệu với chiến lược sản phẩm và phân phối sản phẩm của DN. Thương hiệu là hình ảnh của sản phẩm và chất lượng của hình ảnh này chính là phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm của DN. DN phải xây dựng được uy tín và hình ảnh thương hiệu bằng cách không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ chăm sóc khách hàng, xây dựng mạng lưới phân phối, đưa thương hiệu đến với người tiêu dùng. Đồng thời quảng bá thương hiệu, thông tin sản phẩm, thuyết phục người tiêu dùng một cách có hiệu quả và không ngừng đầu tư vào nghiên cứu phát triển, tạo sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
- Xây dựng và phát triển thương hiệu cũng không chỉ là vấn đề của riêng DN, các chính sách và hỗ trợ của Nhà nước về phát triển thương hiệu cũng giữ vai trò hết sức quan trọng. Chính phủ và các bộ, ngành, hiệp hội, DN, các nhà tư vấn chuyên nghiệp... đẩy mạnh phổ biến kiến thức về thương hiệu trong cộng đồng DN và phát động phong trào xây dựng thương hiệu trong cộng đồng DN cả nước. Nhà nước đang xây dựng các chính sách hỗ trợ DN về phát triển thương hiệu và từng bước tiến hành quảng bá một số thương hiệu quốc gia ra thị trường nước ngoài. DN cần tranh thủ sự trợ giúp từ phía Nhà nước thông qua các cơ chế chính sách phục vụ cho việc phát triển thương hiệu, các chương trình tuyên truyền, nâng cao nhận thức về thương hiệu, sự giúp đỡ của các cơ quan Nhà nước trong việc tăng cường năng lực kinh doanh, năng lực quản lý và xây dựng thương hiệu, tăng cường cơ chế thực thi bảo hộ thương hiệu, các biện pháp chống hàng giả, hàng nhái…
Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại và phát triển thị trường: để đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại và phát triển thị trường, cần tiến hành thực hiện các vấn đề sau:
Xây dựng hệ thống thông tin một cách có hiệu quả từ nhiều kênh khác nhau như: thu thập tại bàn, từ Internet, từ các thương vụ, cử đại diện ra nước ngoài… làm tốt công tác dự báo về cung, cầu, giá cả phục vụ cho các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường quốc tế. Đa dạng hoá thị trường tránh việc lệ thuộc quá nhiều vào một thị trường, phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra. Đẩy mạnh công tác quảng cáo, tiếp thị hướng dẫn tiêu dùng, tích cực tham gia vào các hội chợ quốc tế nhằm quảng bá sản phẩm ký kết được nhiều hợp đồng kinh doanh.
Các doanh nghiệp phải xây dựng bộ phận marketing bao gồm các cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm trong nghiên cứu tình hình từng thị trường cụ thể trên cơ sở đó hoạch định được chiến lược kinh doanh từ khâu đảm bảo nguyên liệu sản xuất đến đầu tư chế biến nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường, của khách hàng.
Đầu tư nghiên cứu tiếp tục mở rộng các thị trường trọng điểm EU, Nhật Bản, Mỹ… khi thuỷ sản của Việt Nam đã có vị trí vững chắc tại các thị trường này thì việc mở rộng và phát triển thương mại thuỷ sản tại các thị trường khác sẽ không quá khó khăn.
Xây dựng cơ cấu thị trường theo hướng đa dạng hoá, giảm dần tỷ trọng các thị trường trung gian và tăng tỷ trọng các thị trường tiêu thụ trực tiếp sản phẩm xuất khảu của Việt Nam, tăng tính chủ động trong phát triển thị trường tiêu thụ nội địa. Khuyến khích thành lập các cơ quan hỗ trợ phát triển thị trường cho các doanh nghiệp thuỷ sản.
3.4. Các biện pháp đảm bảo phát triển thuỷ sản bền vững
Để đảm bảo nguồn nguyên liệu lâu dài cho xuất khẩu thuỷ sản thì vấn đề cấn thiết là phải hướng tới phát triển bền vững nguồn lợi thuỷ sản và tài nguyên thiên nhiên ven bờ. Nguồn tài nguyên có phong phú đến đâu nhưng nếu cứ khai thác tràn lan, không có biện pháp bảo vệ và tái tạo thì cuối cùng cũng cạn kiệt. Muốn vậy, cần thực hiện một số nguyên tắc sau: Bảo đảm cân bằng, sử dụng hợp lý và bảo vệ các hệ sinh thái quan trọng đối với phát triển hệ ngành kinh tế thuỷ sản. Coi trọng phục hồi và bảo tồn các nguồn lợi thuỷ sản; ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong tất cả các khâu của quá trình phát tỉển và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, mở rộng nuôi thâm canh, năng suất cao; nâng cao nhận thức của cộng đồng, lôi cuốn cộng đồng tham gia vào sử dụng và quản lý hiệu quả nguồn lợi thuỷ sản; tăng cường thể chế và chính sách quản lý hiệu quả và bền vững ngành. Lồng ghép các cân nhắc môi trường vào trong các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của ngành; bảo đảm vệ sinh môi trường trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất thuỷ sản.
Bên cạnh việc thực hiện một số nguyên tắc nêu trên, chúng ta còn phải thực hiện tốt các vấn đề sau:
- Thực hiện tốt chương trình đánh bắt xa bờ: đánh bắt cá xa bờ làm một hình thức kiểm soát khai thác nguồn lợi thuỷ sản hợp lý. Vì vậy cần phải thực hiện tốt các vấn đề sau:
Chú trọng phát triển và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản của khu vực và cả nước. Đồng thời, tăng cường điều tra nguồn lợi ở các vùng xa bờ và với các loại cá di cư nhằm nắm vững trữ lượng cho phép khai thác, điều kiện môi trường, của vụ khai thác của các ngư trường… trên cơ sở đó quy định hạn mức cường lực khai thác cho mỗi địa phương, xác định rõ chủng loại, cơ cấu đội tàu và công nghệ khai thác thích hợp cho nghề khởi để tránh hiện tượng đầu tư, khai thác quá mức nguồn lợi thuỷ sản. Tiến hành đánh bắt thuỷ sản theo mùa vụ, địa điểm, loại ngư cụ được quy định cụ thể của từng địa phương, nghiêm cấm sử dụng các hình thức khai thác có tính huỷ diệt như xung điện, đánh mình, hoá chất độc… Hỗ trợ xây dựng các khu bảo tồn biển, các bãi rạn nhân tạo, lắp đặt các thiết bị dụ cá, tạo các vùng cư trú có tính chiến lược cho các loài giống thuỷ sản. thả giống một số giống loài ra vùng biển, cơ cấu lại lực lượng khai thác ven bờ một các hợp lý, đồng thời chuyển dần sang canh tác trên vùng biển ven bờ, vừa khai thác, vừa nuôi. Xây dựng các quy hoạch chi tiết về các khu vực nuôi trồng thuỷ sản sinh thái cảu miền Trung, ban hành và thực hiện các tiêu chuẩn về vùng nuôi an toàn, quy trình nuôi sạch nhằm đảm bảo hiệu quả môi trường nuôi thuỷ sản bền vững, hạn chế dịch bệnh và sản xuất có hiệu quả.
- Duy trì đa dạng sinh học cho sự phát triển bền vững của ngành thuỷ sản.
Đa dạng sinh học là cơ sở của nguồn lợi và có vai trò duy trì nguồn lợi ở trạng thái cân bằgn. Khai thác không hợp lý các đối tượng có giá trị, đương nhiên gây nên sự mất cân bằng đó và dẫn đến việc thất thoát nguồn lợi gen và diệt vong của tất cả các loài, kéo theo sự suy giảm nguồn lợi. Do đó, để duy trì đa dạng sinh học và phát triển nguồn lợi cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
Trước hết là bảo vệ các quẩn thể, các loài đang có nguy cơ bị đe doạ diệt vong bằng cách nghiêm cấm khai thác chúng trên cơ sở pháp luật, bao gồm cả các biện pháp hành chính và kinh tế. Đã đến lúc chúng ta cần tạo nên cơ sở gây nuôi, sản xuất giống trong các trại thực nghiệm hay bán tự nhiên nhằm khôi phục số lượng các quần thể và để “làm giàu” cho sông hồ và biển đối với những đối tượng đang có xu hướng cạn kiệt.
Biện pháp hữu hiệu nhất để bảo tồn và phát triển của loài là duy trì và bảo vệ chính nơi ở và hệ sinh thái mà loài đó là một đơn vị cấu thành. Bảo vệ nơi sống và hệ sinh thái bằng cách không gây ra xao động, không thu hẹp và huỷ hoại chúng, nhất là các hệ sinh thái điển hình. Việc xây dựng các vùng bảo vệ, vườn quốc gia trên biển đang trở thành nhiệm vụ bức xúc hiện nay.
Trước mắt cần thiết lập vùng cấm đánh bắt hoàn toàn hay theo mùa hco vùng nước nông ven bờ biển, các sông suối là đường di cư sinh sản hay bãi đẻ của các đối tượng thuỷ sản có giá trị.
Quản lý chặt chẽ việc phóng thải các chất thải rắn, thỉa lỏng của các cơ sở công nghiệp, du lịch và dân sinh ven sông, ven biển nhằm giảm thiểu mức ô nhiễm vực nước.
Vùng đất ngập nước nói chung hay ven biển nói riêng là địa bàn tranh chấp của nhiều lĩnh vực kinh tế, do đó lợi ích của ngành này thường mâu thuẫn với lợi ích của các ngành khác, lợi ích trước mắt của mỗi ngành mâu thuẫn với lợi ích lâu dài của toàn vùng. Để bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển kinh tế lâu bền, việc quy hoạch tổng thể cho sự phát triển của vùng phải được thiết lập dưới sự quản lý trực tiếp của trung ương hoặc cấp vùng, đủ thẩm quyền và năng lực điều phối hoạt động của các thành phần kinh tế.
Cần phải nâng cao nhận thức về đa dạng sinh học, nguồn lợi và môi trường cũng như về pháp luật cho cộng đồng dân cư, Hiện tại pháp luật, chính sách… và sự nhận thức của người dân còn có khoảng cách khá lớn, trong khi đời sống thường nhật của họ còn gặp khó khăn. Giảm thiểu mức gia tăng dân số, giải quyết tốt công ăn việc làm nhằm xoá đói giảm nghèo trong các cộng đồng dân cư ven biển sẽ là điều kiện quyết định để đưa họ tham gia trực tiếp vào công tác quản lý đa dạng nguồn tài nguyên và môi trường.
3.5. Hoàn thiện cơ chế quản lý ngành
Tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới thật sự tổ chức bộ máy và đổi mới phương thức quản lý Nhà nước đối với sản xuất kinh doanh của ngành thủy sản.
Cần sớm hoàn thành và thông qua Luật Thuỷ sản nhằm ổn định môi trường kinh doanh, cũng như tạo cơ sở để thực hiện kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh thuỷ sản từ khai thác, nuôi trồng đến chế biến thương mại… từ đó có những biện pháp xử lý đối với những tình trạng vi phạm pháp luật, đặc biệt là việc khai thác vừa bãi nguồn tài nguyên môi trường.
Xây dựng cơ chế phối hợp về quản lý và chỉ đạo thống nhất giữa Bộ Thuỷ sản và các địa phương trong việc thực hiện nuôi trồng thuỷ sản theo dung quy hoạch và các mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản với chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản, chương trình khai thác hải sản xa bờ giữa các chương tình với các hoạt động khác của ngành có tầm quan trọng trong kinh tế xã hội và quản lý môi trường nguồn lợi.
Tăng cường công tác quản lý kiểm tra, giám sát việc thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm nhằm đáp ứng các yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm, tránh dư lượng kháng sinh và đồng đều về chất lượng ngay từ khâu sản xuất nguyên liệu đến thu mua bảo quản và chế biến xuất khẩu. Tổ chức lại hệ thống cơ quan quản lý an toàn vệ sinh và thú y thuỷ sản từ Trung ương đến địa phương.
Phát huy năng lực các tổ chức xã hôi nghề nghiệp (Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản, Hội Nghề cá Việt Nam) và xây dựng các tổ chức quần chúng, xã hội nghề nghiệp này vững mạnh ở những địa phương trọng điểm có nghề cá phát triển. Tạo mọi điều kiện để các tổ chức này tham gia thực hiện chương trình, đề án phát triển sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản. Xây dụng các quy chế phối hợp giữa Bộ và hai hội nhằm phát huy cao nhất vai trò của các tổ chức quần chúng trong quản lý và phát triển ngành cho phù hợp với yêu cầu đổi mới và hội nhập.
Kết luận
Có thể nói quá trình gia nhập vào WTO của Việt Nam nói chung và của ngành thuỷ sản nói riêng là một sự kiện vô cùng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế Việt Nam. Tham gia vào tổ chức thương mại thế giới là cơ hội thuận lợi cho xuất khẩu thuỷ sảnViệt Nam tăng trưởng mạnh. Hiện nay, sản phẩm thuỷ sản nước ta đã có mặt trên 160 quốc gia trên thế giới và Việt Nam hiện đứng thứ 6 trong Top 10 quốc gia xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới.
Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế cũng khiến cho sản phẩm xuất khẩu của ta phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức hơn nữa như các vấn đề về an toàn vệ sinh thực phẩm, các tiêu chuẩn về kỹ thuật thương mại, về thương hiệu, về giá cả, chất lượng sản phẩm… Chính những khó khăn này đòi hỏi các Doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cần nỗ lực hoàn thiện mình hơn nữa bằng việc đưa ra thị trường các sản phẩm có chất lượng cao đảm bảo vệ sinh, hoàn thiện hơn về chiến lược kinh doanh để có hướng đi đúng đắn gây dựng được thương hiệu sản phẩm, tạo được uy tín đối với người tiêu dung trong và ngoài nước.
Bài viết đã phân tích tác động của gia nhập WTO ảnh hưởng đến xuất khẩu thuỷ sản đồng thời đưa ra một số các giải pháp để tận dụng cơ hội và hạn chế khó khăn nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. Hy vọng các giải pháp đưa ra sẽ tạo được động lực giúp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản nước ta ngày càng phát triển.
Song, khi tham gia vào tổ chức thương mại quốc tế để có thể đứng vững và phát triển được thì không chỉ dựa vào sự cố gắng của một cá nhân hay một doanh nghiệp mà là sự chung tay góp sức của chính phủ, các ban ngành, các bộ, các hiệp hội …để tạo ra một khối đoàn kết cùng hỗ trợ và bảo vệ lẫn nhau.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thu thập tài liệu cũng như viết bài nhưng do chưa có nhiều kinh nghiện thực tiễn và thời gian nghiên cứu có hạn, vì vậy, bài viết của em không tránh được những thiếu sót nhất định, em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo để bài viết của em đựoc tốt hơn.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới ThS. Đặng Thị Lệ Xuân và chú Hoàng Văn Thành (phó trưởng ban Kinh tế Vĩ mô) đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Danh mục tài liệu tham khảo
Bộ Kế hoạch và Đầu tư “ Đánh giá tác động của 5 năm triển khai hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ đối với thương mại, đầu tư và cơ cấu kinh tế của Việt Nam”, 2007, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia”
Bộ Kế hoạch và Đầu tư “Tác động hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ”, 2005, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Bộ Tài chính Mỹ - Tổng cục Hải Quan “ Xuất khẩu sang thị trường Mỹ”, 2002
Dự án hỗ trợ thương mại đa biên (Mutrap II), “Hướng dẫn đàm phán các thoả thuận thừa nhận lẫn nhau đối với hàng hoá nông sản các quy định của WTO về tương đương và công nhận tiêu chuẩn lẫn nhau”, 2008, Nhà xuất bản lao động – xã hội.
Dự án hỗ trợ thương mại đa biên (Mutrap II), “Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới – giải thích các điều kiện gia nhập”, 2008, Nhà xuất bản lao động - xã hội.
Nguyễn Vinh Thanh, “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, 2005
PGS. TS. Nguyễn Chu Hồi, “Cơ hội và thách thức của ngành thuỷ sản khi Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại Thế giới”
Uỷ ban Quôc gia về hợp tác kinh tế Quốc tế “ Các văn kiện gia nhập tổ chức thương mại thế giới – WTO của Việt Nam”, 2007
Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế “Tổng quan các vấn đề về tự do hoá thương mại dịch vụ”, 2005, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Một số các trang Web:
-
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21444.doc