Tài liệu Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển Kinh tế xã hội ở thành phố Đà Nẵng: ... Ebook Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển Kinh tế xã hội ở thành phố Đà Nẵng
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1404 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển Kinh tế xã hội ở thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những thành tựu phát triển KT-XH của thành phố Đà Nẵng trong những năm qua, có sự đóng góp quan trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). FDI thực sự trở thành một nguồn vốn quan trọng cho phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, tạo thêm việc làm, góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu, phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại của thành phố ven biển miền Trung. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã và đang trở thành một bộ phận kinh tế quan trọng của thành phố, đóng góp ngày càng tăng trong tổng sản phẩm của thành phố Đà Nẵng.
Tuy nhiên, hoạt động FDI những năm qua còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém. Đồng thời, trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang đặt ra triển vọng và thách thức lớn trên nhiều lĩnh vực trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XIX (nhiệm kỳ 2006-2010) đã đặt ra yêu cầu: Thực hiện đầy đủ và vận dụng linh hoạt các cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư và hỗ trợ sản xuất kinh doanh đi đôi với tiếp tục nghiên cứu ban hành một số cơ chế chính sách ưu đãi nhằm tạo môi trường thông thoáng để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) [2, tr.60].
Nâng cao sự tác động tích cực của FDI đối với phát triển KT-XH thành phố sẽ góp phần thực hiện tốt Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 16-10-2003 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, hoàn thành mục tiêu: đưa thành phố Đà Nẵng trở thành “một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế- xã hội lớn của miền Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại du lịch và dịch vụ;…. phấn đấu để trở thành một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cơ bản trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020”.
Nghiên cứu sự tác động FDI đối với phát triển KT-XH trong thời gian qua ở thành phố Đà Nẵng, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao sự tác động tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của FDI đối với KT-XH của Đà Nẵng là rất cần thiết. Do vậy, vấn đề “Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng” được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung là vấn đề được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam đã xuất bản nhiều sách, báo, công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam như:
- Những vấn đề giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (Nguyễn Khắc Thân, Chu Văn Cấp chủ biên – NXB Pháp lý H.1992);
- Luận văn tiến sỹ kinh tế của Nguyễn Huy Thám “Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở các nước ASEAN và vận dụng vào Việt Nam” (H.1999);
- Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, cơ sở pháp lý - hiện trạng - cơ hội - triển vọng (NXB Thế giới H.1994);
- Luận án PTS của Mai Đức Lộc “Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển kinh tế Việt Nam" (H.1994);
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thực trạng và giải pháp (Trần Xuân Tùng, Nxb Chính trị quốc gia H.2005).
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam (Nguyễn Anh Tuấn, Nxb Tư pháp, H.2005).
- Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam (CIEM SIDA, Nxb Khoa học kỹ thuật, H.2006).
Các đề tài trên đã nghiên cứu bản chất và xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài, đề ra một số giải pháp trong thu hút, quản lý FDI ở Việt Nam.
Đặc biệt, đã có một số công trình nghiên cứu vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Đà Nẵng được công bố giúp chung ta có cái nhìn tương đối rõ hơn tình hình, triển vọng của hoạt động đầu tư nước ngoài của thành phố ven biển miền Trung này như:
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở thành phố Đà Nẵng (Luận án Thạc sỹ kinh tế của Nguyễn Hữu Chiến H.1999);
Một số giải pháp cơ bản nhằm thu hút và quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (đề tài khoa học cấp thành phố- Trung tâm xúc tiến đầu tư Đà Nẵng- ĐN. 2003).
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề: “Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng” dưới góc độ khoa học kinh tế - chính trị. Do đó, đề tài luận văn này là cần thiết và không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Tìm giải pháp nâng cao sự tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của FDI vào phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đầu tư trực tiếp nước ngoài;
- Thực trạng sự tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng;
- Tìm ra nguyên nhân những sự tác động tích cực cũng như tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng;
- Đề ra các giải pháp để nâng cao tác động tích cực của FDI đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Sự tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đối tượng khảo sát: các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng, tình hình KT-XH có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Phạm vi khảo sát: địa bàn thành phố Đà Nẵng, thời gian từ khi thành phố Đà Nẵng được tách ra từ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, để trở thành đơn vị hành chính trực thuộc trung ương (năm 1997-nay).
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, luận văn sử dụng các phương pháp khảo sát thực tế, phỏng vấn chuyên gia, phân tích, tổng hợp, so sánh…, đồng thời kế thừa có chọn lọc kết quả của một số công trình nghiên cứu có liên quan.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Đánh giá sự tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với KT-XH ở thành phố Đà Nẵng kể từ khi Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương đến nay;
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao sự tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển KT-XH ở thành phố trong thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ VAI TRÒ FDI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ –XÃ HỘI
1.1. BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1.1 Khái niệm đầu tư (Investment)
Có nhiều cách hiểu đầu tư, nhưng thông thường đầu tư được coi là “bỏ vốn (tiền của, sức lao động, thì giờ…) vào một công cuộc” [11, tr.257]; hoặc là việc “nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư”[11, tr.257], nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai.
Cho đến nay, có rất nhiều quan điểm, khái niệm, định nghĩa về đầu tư, trong đó có 2 khái niệm tiêu biểu về đầu tư như sau:
Đầu tư là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội, nhằm tạo ra năng lực vốn lớn hơn. Trên bình diện doanh nghiệp, đầu tư là việc di chuyển vốn vào hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lại một khoản tiền lớn hơn.
Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời gian tương đối dài (từ 2 năm trở lên) nhằm thu lợi nhuận hoặc lợi ích KT-XH.
Theo những định nghĩa trên, thì hoạt động đầu tư phải có các đặc trưng sau: đầu tư là một hoạt động tài chính (bỏ vốn thu lợi nhuận), vốn đầu tư có thể là tiền hoặc tài nguyên nói chung; đầu tư là hoạt động trong khoảng thời gian tương đối dài; đầu tư hoạt động bỏ vốn hiện tại, nhằm thu lợi trong tương lai, vì thế đầu tư có tính rủi ro cao.
Tóm lại, đầu tư là hoạt động bỏ vốn trong một thời gian tương đối dài nhằm thu được lợi nhuận (hoặc các lợi ích KT-XH). Vốn đó từ nhiều nguồn khác nhau như quỹ tích luỹ của tái sản xuất xã hội hoặc thu hút từ nước ngoài dưới nhiều hình thức.
Người bỏ vốn đầu tư được gọi là nhà đầu tư hay chủ đầu tư, chủ đầu tư có thể là cá nhân, tổ chức hay nhà nước. Nếu phân loại đầu tư theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, thì có thể chia làm hai loại đầu tư:
“Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư” (điều 3, Luật Đầu tư).
“Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”(điều 3, Luật Đầu tư).
1.1.2. Đầu tư nước ngoài
1.1.2.1. Khái niệm đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài hình thức di chuyển vốn từ nước này sang nước khác nhằm mục đích kiếm lời. Đầu tư nước ngoài có một số đặc điểm khác với đầu tư nội địa đó là:
Chủ đầu tư có quốc tịch nước ngoài, điều này sẽ có liên quan đến các quy định về xuất nhập cảnh, về phong tục tập quán, ngôn ngữ...;
Các yếu tố đầu tư được di chuyển ra khỏi biên giới, đặc điểm này liên quan đến các chính sách, pháp luật về hải quan và cước phí vận chuyển;
Vốn đầu tư có thể là tiền tệ, vật tư hàng hóa, tư liệu sản xuất, tài nguyên thiên nhiên nhưng được tính bằng ngoại tệ, đặc điểm này liên quan đến chính sách tài chính và tỷ giá hối đoái của các nước tham gia đầu tư.
Quan niệm đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước theo Luật Đầu tư năm 2005 của nước ta là: “Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam”. “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư” (điều 3, Luật Đầu tư).
1.1.2.2. Hình thức biểu hiện của đầu tư nước ngoài
- Vốn ODA, đây là nguồn viện trợ song phương hay đa phương dưới dạng viện trợ không hoàn lại hay lãi suất và thường đi kèm theo điều kiện về chính trị.
- Vốn tín dụng thương mại, chủ yếu là nhằm hỗ trợ cho hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu giữa các nước.
- Vốn đầu tư từ việc bán cổ phiếu, trái phiếu... cho người nước ngoài (Foreign Portfolio Investment). Thực chất là người nước ngoài tham gia đầu tư vào các công ty đã phát hành ra cổ phiếu, trái phiếu.
- Vốn FDI, là nguồn vốn đầu tư khá phổ biến hiện nay của nước ngoài (có thể là tư nhân, tổ chức, hay nhà nước hoặc là sự phối hợp) đầu tư vào một quốc gia nào đó nhằm mục đích kiếm lợi nhuận là chủ yếu, thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh ngay tại nước nhận đầu tư.
Các hình thức đầu tư trên đều được các nhà đầu tư nước ngoài vận dụng linh hoạt nhằm đem lại hiệu quả cao. Trên thực tế, nguồn vốn ODA và FDI phổ biến hơn, hai nguồn này đều có vị trí quan trọng theo quan điểm của từng nước, ở từng thời điểm.
1.1.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.3.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Có nhiều khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF): FDI là đầu tư có lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một nước khác (nước nhận đầu tư) không phải nước mà doanh nghiệp đang hoạt động (nước đi đầu tư) với mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh nghiệp.
Theo Uỷ ban Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc (UNCTAD) thì: FDI là đầu tư có mối liên hệ lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một pháp nhân hoặc thể nhân (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) đối với một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác (doanh nghiệp FDI, hoặc chi nhánh nước ngoài hoặc chi nhánh doanh nghiệp).
Tiêu thức phân biệt FDI với hoạt động đầu tư nội địa thường tập trung vào các đặc trưng sau:
- Về vốn góp, các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng một lượng vốn tối thiểu theo quy định của mỗi nước nhận đầu tư để có quyền trực tiếp tham gia điều phối, quản lý quá trình sản xuất kinh doanh;
- Về quyền điều hành quản lý, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào mức vốn góp, nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thì quyền hành hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư nước ngoài, có thể trực tiếp hoặc thuê người quản lý;
- Về phần chia lợi nhuận, dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh, lãi lỗ, đều được phân chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định sau khi đã trừ các khoản đóng góp.
Từ những quan niệm trên có thể hiểu FDI là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình thức vốn sản xuất thông qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào một nước khác để đầu tư, đồng thời trực tiếp tham gia quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý... nhằm mục đích thu lợi nhuận.
1.1.3.2. Các hình thức cơ bản của FDI
Có nhiều tiêu thức để xác định hình thức FDI, về cơ bản là:
Thứ nhất, xét theo mục đích đầu tư, FDI được phân làm hai hoặc đầu tư theo chiều ngang và đầu tư theo chiều dọc.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang: là việc một công ty tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chính ngành sản xuất mà họ đang có lợi thế cạnh tranh một loại sản phẩm nào đó. Với lợi thế này họ muốn tìm kiếm lợi nhuận cao hơn ở nước ngoài nên đã mở rộng và thôn tính thị trường nước ngoài. Hình thức này thường dẫn đến cạnh tranh độc quyền mà Mỹ, Nhật Bản đang dẫn đầu việc đầu tư này ở các nước phát triển.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc: Với mục đích khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu vào rẻ như lao động, đất đai của các nước nhận đầu tư. Các nhà đầu tư thường khai thác các lợi thế cạnh tranh đó để hoàn thiện qua lắp ráp ở nước chủ nhà. Sau đó các sản phẩm được bán trên thị trường quốc tế. Đây là hình thức khá phổ biến của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các nước đang phát triển.
Thứ hai, xét về hình thức sở hữu, đầu tư trực tiếp nước ngoài thường có các hình thức sau:
+ Doanh nghiệp liên doanh: đây là hình thức FDI, qua đó pháp nhân mới được thành lập gọi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp mới này do hai hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Hình thức này có các đặc trưng: pháp nhân mới được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước chủ nhà. Mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân riêng. Nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập với các bên tham gia. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn đã quy định vào liên doanh thì dù một bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định.
+ Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng toàn bộ vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự quản lý, điều hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
+ Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp: đây là hình thức đầu tư trực tiếp, hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai hay nhiều bên (gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh ở nước nhận đầu tư, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không cần thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc pháp nhân mới. Hình thức này không làm hình thành một công ty hay một xí nghiệp mới. Mỗi bên vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân độc lập của mình và thực hiện các nghĩa vụ của mình trước nhà nước.
Ngoài ba hình thức cơ bản trên, theo nhu cầu đầu tư về hạ tầng, các công trình xây dựng còn có hình thức:
+ BOT: là một phương thức đầu tư trực tiếp, thực hiện trên cơ sở văn bản được ký kết giữa nhà đầu tư nước ngoài (có thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài) với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định, hết thời hạn kinh doanh, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao cho nước chủ nhà công trình đó mà không nhận bồi hoàn bất kỳ khoản nào.
Hợp đồng BOT thường được thực hiện bằng 100% vốn nước ngoài, cũng có thể được thực hiện bằng vốn nước ngoài và phần góp vốn của chính phủ hoặc các tổ chức, cá nhân của nước chủ nhà.
+ BTO: là phương thức đầu tư dựa trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Nước chủ nhà có thể sẽ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
+ BT: là một phương thức đầu tư nước ngoài trên cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài, để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Các hình thức BOT, BTO, BT có ưu điểm là thu hút vốn đầu tư vào những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng với đòi hỏi lượng vốn lớn, thu hồi vốn trong thời gian khá dài. Như vậy sẽ làm giảm áp lực cho ngân sách, đồng thời lại có được các công trình hoàn chỉnh để phát huy các nguồn lực khác nhằm phát triển KT-XH. Tuy nhiên, với các phương thức này, nước chủ nhà khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lý, công nghệ tiên tiến và khó kiểm soát công trình.
Ngày nay, cùng với sự gia tăng của dòng vốn FDI, thì ngày càng xuất hiện nhiều hình thức đầu tư mới, đa dạng nhằm đưa lại hiệu quả cao cho nhà đầu tư và nước nhận đầu tư.
1.1.3.3. Xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay
FDI phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế và thương mại thế giới. Toàn cầu hóa kinh tế ngày càng thúc đẩy sự phát triển các luồng vốn FDI, nhằm tối đa hóa lợi nhuận của vốn đầu tư thông qua di chuyển sản xuất, kinh doanh đến địa điểm có lợi nhất về chi phí và tiêu thụ. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia ngày càng tăng lên trong quá trình phân bổ và di chuyển các dòng vốn FDI trên thế giới. Ngày nay, sự vận động của FDI biểu hiện trên một số xu hướng sau:
Cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng, vốn đầu tư nước ngoài đã phát triển nhanh và trở thành một hình thức quan trọng trong hoạt động đầu tư của các quốc gia trên thế giới.
Theo báo cáo của UNCTAD về đầu tư thế giới, tổng vốn lưu chuyển quốc tế trong mấy thập kỷ vừa qua tăng mạnh với mức tăng bình quân khoảng 20 - 30%/năm. Những năm 1970, vốn FDI toàn thế giới mới ở mức khoảng 25 tỷ USD, đến thời kỳ năm 1980 - 1985 đã tăng gấp đôi, đến năm 1995 đã đạt mức 235 tỷ USD. Năm 2000, cùng với đà phục hồi của kinh tế thế giới sau một thời gian ngừng trệ do chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á (1997 - 1999) vốn FDI đạt đến mức kỷ lục, vượt ngưỡng 1.000 tỷ USD, trong đó có phần tăng mạnh do xu hướng sáp nhập và mua lại các công ty, hình thành các công ty, tập đoàn khổng lồ chưa từng có trước đây. Năm 2001, FDI giảm xuống mức 760 tỷ USD và năm 2002 giảm tiếp, chỉ còn 543 tỷ USD do trào lưu mua lại, sáp nhập công ty đã giảm xuống và ảnh hưởng của tình trạng trì trệ, suy thoái của kinh tế thế giới, sự phục hồi chậm chạp của các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, Liên minh Châu Âu (EU).
Nhìn chung, luồng vốn FDI đã có khối lượng lớn, chiếm tỷ trọng đáng kể và trở thành bộ phận quan trọng trong tổng vốn đầu tư và tài chính, sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin và viễn thông, đã tạo ra những khả năng mới cho các hoạt động đầu tư nước ngoài diễn ra thuận lợi, nhanh chóng hơn, là cơ sở của sự gia tăng quy mô và tính đa chiều, đa dạng của hoạt động FDI.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành một xu thế khách quan, tác động đến sự phát triển của tất cả các nước, thì việc Việt Nam mở cửa thu hút FDI đang trở thành một đòi hỏi cấp thiết để tăng cường tiềm lực kinh tế, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và quản lý, góp phần mở rộng thị trường, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước.
Sự phân bổ dòng vốn FDI không đều, phần lớn tập trung ở các nước công nghiệp phát triển, dòng vốn FDI chảy vào các nước đang phát triển tuy có chiều hướng tăng lên nhưng tỷ trọng còn rất nhỏ bé.
Cũng theo báo cáo đầu tư thế giới của UNCTAD, năm 1999 các nước phát triển chiếm 76,5% trong tổng số 865 tỷ USD vốn FDI toàn cầu, trong khi các nước đang phát triển chia nhau số vốn còn lại (khoảng 192 tỷ USD); năm 2000, thu hút vốn FDI của các nước đang phát triển được cải thiện, đạt trên 200 tỷ USD trong tổng số khoảng 1.200 tỷ USD FDI toàn cầu; năm 2001 và 2002, khoảng 80% lượng vốn FDI toàn cầu được đầu tư giữa các nước công nghiệp với nhau, các nước đang phát triển chỉ tiếp nhận được khoảng 20% lượng vốn còn lại. EU là nguồn cung cấp FDI lớn nhất và chủ yếu là trao đổi tư bản trong nội bộ khối; vốn đầu tư ra ngoài EU lại hướng trước hết vào Mỹ. Mỹ cũng là nhà cung cấp FDI thuộc loại lớn nhất, nhưng đồng thời cũng là nước tiếp nhận FDI hàng đầu thế giới (cho đến trước năm 2002).
Trước xu thế trên, để thu hút được nhiều FDI phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH, chúng ta cần phát huy những lợi thế của nước ta như: chính trị ổn định, KT-XH phát triển, môi trường đầu tư đang được cải thiện, các yếu tố đầu vào sản xuất rẻ...
Dòng vốn FDI đang chịu sự chi phối và kiểm soát chủ yếu bởi các TNCs của các nước phát triển.
Mặc dù ngày càng có sự đa dạng hóa trong các đối tác và chủ thể tham gia vào quá trình luân chuyển FDI, nhưng thực chất dòng vốn FDI quốc tế hiện nay đang bị chi phối bởi các công ty xuyên quốc gia ở các nước phát triển. Các công ty xuyên quốc gia trở thành những chủ thể đầu tư trực tiếp với khối lượng kiểm soát trên 90% tổng FDI toàn thế giới, đồng thời là lực lượng chủ yếu vận hành những mảng lớn của nền kinh tế thế giới, nắm vững nguồn vốn tài chính, kỹ thuật, nắm giữ các ngành kinh tế then chốt và mũi nhọn, kiểm soát thương mại quốc tế theo thống kê, các công ty xuyên quốc gia nắm giữ gần 40% sản lượng công nghiệp; 60% ngoại thương, 80% kỹ thuật mới của thế giới tư bản. Chỉ tính riêng 100 công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới (tất cả đều thuộc Mỹ, EU và Nhật Bản) đã chiếm 1/3 FDI toàn cầu và tổng tài sản ở nước ngoài của các công ty này đã lên tới 1.400 tỷ USD, sử dụng 73 triệu lao động, trong đó lao động ở nước ngoài là 12 triệu, chiếm trên 16%.
Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia tiếp tục vươn ra các khu vực khác nhau trên thế giới với quy mô FDI ngày càng lớn, đóng vai trò ngày càng quyết định đối với lĩnh vực này. Bên cạnh việc giữ vững các khu vực đầu tư truyền thống như Châu Âu, Bắc Mỹ, các công ty xuyên quốc gia đang gia tăng hoạt động đầu tư vào những địa bàn mới đầy triển vọng. Đặc biệt, tất cả các công ty xuyên quốc gia đều đẩy mạnh đầu tư vào khu vực châu Á. Đây cũng là địa bàn ưu tiên đầu tư hàng đầu của Nhật Bản, hàng thứ hai của Mỹ (sau Châu Âu) và hàng thứ ba của các nước Châu Âu (sau Bắc Mỹ và Châu Âu).
Đối với nước ta, cần chú trọng đến thu hút FDI từ các TNCs sẽ tận dụng sức mạnh về tài chính, công nghệ và khả năng tiếp cận thị trường thế giới của các TNCs vào quá trình phát triển KT-XH, hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Mặt khác, Việt Nam hiện là một trong những địa bàn mới đầy triển vọng để các TNCs nhắm tới đầu tư.
Tính cạnh tranh giữa các nước đầu tư và giữa các nước tiếp nhận đầu tư với nhau ngày càng cao. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới và tiến trình toàn cầu hóa làm cho nguồn vốn FDI ngày càng mở rộng và gia tăng nhưng đồng thời nhu cầu thu hút sử dụng FDI ở tất cả các nước. Đặc biệt là các nước đang phát triển cũng ngày càng lớn, dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nước và khu vực nhằm thu hút nguồn vốn này. Các nước nhận FDI - đặc biệt là các nước vừa phục hồi sau khủng hoảng, các nền kinh tế đang chuyển đổi và các nước đang phát triển khác có xu hướng tập trung nỗ lực đẩy mạnh việc cải thiện môi trường đầu tư theo hướng thông thoáng, mở cửa rộng hơn, tạo điều kiện kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi hơn, kích thích tiêu dùng nội địa, dỡ bỏ bớt những “rào cản” trong các lĩnh vực, kể cả lĩnh vực nhạy cảm như bảo hiểm, viễn thông, năng lượng... nhằm thu hút, “lôi kéo” FDI.
Trong tổng FDI toàn cầu, các nước đang phát triển chỉ tiếp nhận được trên 20%, nhưng 2/3 của số đó lại tập trung vào một số nước có điều kiện thuận lợi và sức hấp dẫn đầu tư cao như Trung Quốc, ấn Độ, Singapore, Hàn Quốc... Hàn Quốc trước đây là nước chủ yếu sử dụng vay nợ nước ngoài để phát triển. Từ cuối những năm 1980 và nhất là sau khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực đã thay đổi chính sách, chuyển sang mở cửa thu hút mạnh FDI để cơ cấu lại nền kinh tế. Trong đó có việc cơ cấu lại hệ thống các tập đoàn kinh tế, do vậy đã thoát nhanh khỏi khủng hoảng, tạo ra sức sống mới cho nền kinh tế. Nhiều nước khác trong khu vực cũng đang tích cực cải thiện môi trường đầu tư, cạnh tranh trong việc thu hút FDI như Thái Lan, Malaysia, Philippin... Hiện nay đang có sự cạnh tranh khá gay gắt về thu hút FDI trong khu vực đang xuất hiện xu hướng dịch chuyển luồng vốn FDI từ một số nước ASEAN sang Trung Quốc...
Không chỉ có sự cạnh tranh của các nước tiếp nhận đầu tư, cuộc cạnh tranh giữa các nhà đầu tư cũng không kém phần quyết liệt, tạo cho các nước tiếp nhận đầu tư có khả năng lực chọn. Các nhà cung cấp FDI đang “ráo riết” chào mời để có thể nhảy vào những lĩnh vực và thị trường kinh doanh béo bở, những dự án lớn được chính phủ nước sở tại khuyến khích bảo lãnh, bảo hộ...
Trong bối cảnh đó, nước ta cần có chiến lược thu hút đầu tư và sử dụng FDI, chiến lược ấy phải phù hợp với chiến lược phát triển KT-XH. Trong đó mức độ ổn định về chính trị - xã hội, kết quả của sự nghiệp đổi mới đất nước, hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư là những yếu tố quan trọng quyết định để tăng luồng vốn FDI vào Việt Nam nhằm thực hiện những mục tiêu KT-XH.
FDI giữa các đối tác tham gia quá trình luân chuyển vừa có tính quốc tế hóa, vừa có tính cục bộ hóa.
Các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến FDI và nhận thức được tầm quan trọng của FDI đối với tăng trưởng kinh tế và phân công lao động quốc tế trong quá trình toàn cầu hóa. Cùng với tốc độ lưu chuyển vốn quốc tế nhanh, thị trường tài chính của các quốc gia đang mở rộng hơn, tạo nên xu thế ngày càng hội nhập vào thị trường tài chính thế giới.
Hiện tượng “đa biên hóa” trong xu hướng vận động của FDI ngày càng đậm nét, rất nhiều các công trình có sự tham gia của “tập thể” nhiều chủ đầu tư. Sự tham gia này có thể dưới dạng góp cổ phần hoặc phân nhỏ công trình thành các hạng mục đầu tư cho nhiều chủ thể tham gia. Tuy nhiên, FDI cũng mang tính cục bộ khu vực, chẳng hạn như các nước EU là những nhà đầu tư hàng đầu thế giới, nhưng phần lớn khối lượng đầu tư được thực hiện ngay trong nội bộ các nước EU. Do các yếu tố về địa lý và văn hóa mà hiện nay, trên thế giới đã hình thành các nhà đầu tư truyền thống của từng khu vực; ví dụ: Nam Mỹ là “lãnh địa” của các nhà đầu tư Mỹ, còn Nhật Bản đang nắm giữ thị phần đầu tư lớn ở Đông Á.
Như vậy, đối tác đầu tư của nước ta trong thời gian tới vừa đa dạng theo hướng đa phương, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, vừa tập trung vào các nhà đầu tư có tiềm lực tài chính, công nghệ, có uy tín và kinh nghiệm từ Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc....
Hầu hết các nước đều tham gia vào cả hai quá trình đầu tư và tiếp nhận đầu tư.
Hầu hết các nước đều tham gia vào cả hai quá trình đầu tư và tiếp nhận đầu tư. Năm 1998, EU đầu tư ra nước ngoài 368 tỷ USD, nhưng cũng tiếp nhận 230 tỷ USD vốn FDI, là khu vực đầu tư và tiếp nhận đầu tư trực tiếp lớn nhất thế giới. Các nước công nghiệp phát triển (G7) chiếm 4/5 tổng FDI toàn thế giới, nhưng cũng thu hút trên 2/3 tổng vốn FDI toàn cầu.
Quá trình phân công lao động và quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới ngày càng sâu sắc, giúp các quốc gia phát huy lợi thế so sánh của mình khi tham gia đầu tư ra nước ngoài, đồng thời bổ sung nguồn vốn đầu tư để khắc phục những hạn chế của mình (nhất là về công nghệ và năng lực quản lý đối với các nước đang phát triển), làm tăng hiệu quả hoạt động kinh tế trong nước thông qua việc tiếp nhận FDI. Đây là cơ sở của sự gia tăng xu hướng đầu tư.
Hiện nay, nhiều nước và vùng lãnh thổ đang phát triển, ngoài việc thu hút FDI từ các nước phát triển, cũng vươn lên trở thành những nhà đầu tư quốc tế có uy tín lớn như Singapo, Đài Loan.... Tuy nhiên chủ đầu tư FDI từ các nước này chủ yếu vào các nước có cùng khu vực địa lý và mang tính chất chuyển giao một số ngành, cơ sở kinh tế có năng suất lao động thấp, sang các các nền kinh tế kém phát triển hơn.
Vì thế, khi tiếp nhận FDI từ các nước này, cần phải xem xét, chọn lọc những dự án phù hợp, để có thể đảm bảo tính hiệu quả trong thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững và rút ngắn khoảng cách về trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam đối với thế giới. Mặt khác, chúng ta cũng cần mạnh dạn tham gia đầu tư ra nước ngoài để phát huy lợi thế so sánh của mình trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2. TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.2.1. Quan niệm cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội
Phát triển là quá trình mà qua đó một xã hội người cùng nhau phấn đấu thỏa mãn được các nhu cầu mà xã hội ấy coi là cơ bản và hiện đại. Theo nghĩa rộng, phát triển KT-XH bao gồm cả khía cạnh chính trị và phát triển con người.
Phát triển KT-XH là sự phát triển, trong đó tăng trưởng kinh tế nhanh, có chất lượng, xã hội ổn định và phát triển, môi trường trong sạch. Phát triển KT-XH nhanh, bền vững đang là vấn đề vừa có tính cấp bách vừa có tính chiến lược đối với mỗi quốc gia.
Đại hội IX của Đảng đã đưa ra mô hình tổng quát kinh tế của nước ta trong thời kỳ quá độ là: “Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Trong mô hình kinh tế này, một mặt, chúng ta sử dụng cơ chế thị trường với tư cách là thành quả của nền văn minh nhân loại làm phương tiện để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; mặt khác, đề cao vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước đối với nền kinh tế nhằm mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [12].
Các chủ trương, định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế xã hội đều hướng đến sự phát triển bền vững, với những mục tiêu: tăng trưởng kinh tế nhanh; xã hội ổn định phát triển; môi trường trong sạch. Ngay từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định sự gắn kết giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, trong đó coi: trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của hoạt động kinh tế.... Trên cơ sở phát triển sản xuất, tăng thêm thu nhập quốc dân, từng bước mở rộng quỹ tiêu dùng xã._. hội, làm cho nó giữ vị trí ngày càng lớn trong phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa và các sự nghiệp phúc lợi khác. Trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 1991-2000 được thông qua tại Đại hội VII của Đảng nêu rõ: tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Đại hội IX của Đảng cũng đã ra nhiệm vụ: “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo và môi trường, phát triển KT-XH gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo giữa môi trường nhân tạo và môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học" [12, tr.162].
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng địa phương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt chính sách xã hội trên cơ sở phát triển, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển KT-XH [13, tr.101].
Với nhận thức về phát triển KT-XH, chúng ta có điều kiện tìm hiểu mối quan hệ và vai trò của FDI đối với phát triển KT-XH. Có thể nói, FDI có tác động mạnh mẽ đến phát triển KT-XH của nước tiếp nhận đầu tư trên nhiều mặt: tăng trưởng kinh tế, cán cân thanh toán, phúc lợi xã hội, thu nhập của người lao động, văn hoá, đạo đức… Sự tác động ấy diễn ra cả hai chiều thuận và nghịch đối với nước tiếp nhận đầu tư: có nhiều mặt tích cực, đồng thời cũng có những mặt hạn chế, bất lợi riêng.
1.2.2. Những tác động tích cực của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội
FDI có tác động tích cực đến kinh tế – xã hội đối với nước tiếp nhận đầu tư trên một số mặt chủ yếu sau đây:
1.2.2.1. FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội
Tăng trưởng kinh tế thường gắn với tỷ lệ đầu tư. Vốn đầu tư cho phát triển kinh tế được huy động từ hai nguồn chủ yếu là vốn trong nước và vốn ngoài nước. Vốn trong nước được hình thành thông qua tiết kiệm và đầu tư. Vốn nước ngoài được hình thành thông qua vay thương mại, đầu tư gián tiếp và hoạt động FDI. Với các nước nghèo và đang phát triển, vốn là một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế. Những quốc gia này luôn lâm vào tình trạng thiếu vốn đầu tư, hoạt động sản xuất và đầu tư ở những nước này như là một “vòng đói nghèo luẩn quẩn” (theo Paul A. Samuelson). Để phá vỡ vòng luẩn quẩn ấy, các nước nghèo và đang phát triển phải tạo ra “một cú huých lớn”, mà biện pháp hữu hiệu là tăng vốn cho đầu tư, huy động các nguồn lực để phát triển nền kinh tế để tạo ra tăng trưởng kinh tế dẫn đến thu nhập tăng.
So với những hình thức đầu tư nước ngoài khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài có những ưu điểm cơ bản sau đây:
- FDI không để lại gánh nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư như hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác như vay thương mại, phát hành trái phiếu ra nước ngoài... Do vậy, FDI là hình thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương đối ít rủi ro cho nước tiếp nhận đầu tư.
- Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn ra khỏi nước sở tại như đầu tư gián tiếp. Kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực 1997 đã cho thấy, những nước chịu tác động nặng nề của khủng hoảng thường là những nước nhận nhiều vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận, thúc đẩy quá trình này trên nhiều phương diện: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu công nghệ, cơ cấu lao động...
Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. FDI được coi là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển KT-XH. Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành (1988) đến hết ngày 31/6/2006, nước ta đã thu hút được trên 7.550 dự án (6.390 dự án còn hiệu lực) với mức vốn đăng ký đạt hơn 68,9 tỷ USD và vốn thực hiện đạt trên 53,9 tỷ USD, vốn đang hoạt động trên 36 tỷ USD. Tỷ lệ đóng góp vào GDP của khu vực FDI ngày càng tăng. Nếu năm 1994, ở mức 6,9%, thì năm 2004 là 15,2% và “năm 2005 các doanh nghiệp FDI đóng góp 15,9% GDP… gần 10% tổng thu ngân sách nhà nước” [13, tr153]. Khu vực FDI đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trở thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống kinh tế quốc dân.
1.2.2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thúc đẩy phát triển công nghệ, kỹ thuật, phương thức quản lý tiên tiến
Đây là điểm hấp dẫn quan trọng của FDI, bởi vì hầu hết các nước đang phát triển có trình độ khoa học và công nghệ thấp, trong khi phần lớn những kỹ thuật mới được phát minh trên thế giới vẫn xuất phát chủ yếu từ các nước công nghiệp phát triển. Do đó để rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước công nghiệp phát triển các nước đang phát triển cần nhanh chóng tiếp cận với các kỹ thuật mới. Có nhiều phương thức chuyển giao công nghệ khác nhau như nhập khẩu thiết bị, kỹ thuật, mua hoặc hợp đồng sử dụng bản quyền, sáng chế; tự thiết kế và sản xuất theo bản thiết kế tổng thể do bên nước ngoài cung cấp... Thực tế cho thấy, FDI là một kênh quan trọng đối với việc chuyển giao công nghệ cho các nước vừa thiếu vốn, vừa có trình độ phát triển thấp, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý kém, đội ngũ cán bộ chưa được đào tạo đầy đủ.
Các doanh nghiệp FDI còn có tác dụng phổ biến những công nghệ hiện đại, công nghệ sạch, giữ gìn môi trường theo các tiêu chuẩn tiên tiến cho các doanh nghiệp trong nước, nhờ thế mà thúc đẩy khoa học – công nghệ phát triển. Ngoài ra, do áp lực cạnh tranh từ doanh nghiệp FDI, buộc các doanh nghiệp trong nước phải nhanh chóng học hỏi, vươn lên, đổi mới kỹ thuật, công nghệ, cải tiến quản lý, tăng cường đào tạo cán bộ... làm cho tốc độ hiện đại hóa được nâng lên rõ rệt.
Đồng thời, FDI có tác dụng rõ nét hơn các hình thức đầu tư nước ngoài khác trong việc chấn hưng, làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt và sự sôi động của nền kinh tế nước tiếp nhận nhờ gia tăng các nhà đầu tư nước ngoài, kéo theo các dịch vụ cho họ vận tải, khách sạn, văn phòng, nhà hàng ăn uống, vui chơi, giải trí...
Tuy nhiên, không chỉ có các nước đang phát triển quan tâm đến yếu tố chuyển giao công nghệ của FDI, mà các nước công nghiệp phát triển cũng đang tìm cách tận dụng ưu điểm này của FDI nhằm hợp lý hóa sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh để nâng cao sức cạnh tranh, năng suất và hiệu quả tổng thể của nền kinh tế. Những ngành có khả năng cạnh tranh cao thì mở rộng đầu tư ra nước ngoài, những ngành trong nước kém sức cạnh tranh thì có thể cho doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, thậm chí thôn tính hoặc xóa bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả trong nước. Đây cũng là kết quả tất yếu của quá trình phân công, hợp tác lao động quốc tế, chuyên môn hóa và hợp lý hóa sự phân bổ các nguồn lực thông qua FDI.
Đối với nước ta, hoạt động FDI những năm qua đã góp phần quan trọng trong nâng cao năng lực công nghệ cho các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. “Đến năm 2002 việc chuyển giao công nghệ trong khu vực có vốn ĐTNN chiếm 90% trong số 200 hợp đồng” [28, tr.186]. Nhiều công nghệ mới đã được chuyển giao. Ví dụ như: khai thác dầu khí ngoài khơi, lắp ráp các tổng đài kỹ thuật số, công nghệ chế tạo máy biến thế, cáp; hệ thống lắp ráp tự động bảng mạch điện tử; sản xuất mô tơ nhỏ; chíp điện tử; công nghệ về viễn thông; nuôi trồng, chế biến một số nông, lâm, thủy sản; công nghệ dịch vụ kinh doanh khách sạn.
Sự phát triển công nghệ kỹ thuật cũng tác động mạnh mẽ đến xã hội, các tiêu chuẩn mới với những đòi hỏi khắt khe hơn trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, an tòan thực phẩm, vệ sinh môi trường... làm cho chất lượng cuộc sống không ngày càng đươc nâng lên.
1.2.2.3. FDI góp phần thâm nhập thị trường thế giới và khu vực, mở rộng thị trường xuất khẩu, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Chủ thể chủ yếu của hoạt động FDI trên thế giới hiện nay là các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia với mạng lưới chân rết toàn cầu; thông qua tiếp nhận đầu tư của các công ty, tập đoàn này, nước sở tại có điều kiện thuận lợi để tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, làm quen với tập quán thương mại quốc tế, thích nghi nhanh hơn với những thay đổi trên thị trường thế giới... Đó là vai trò làm cầu nối và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế rất quan trọng của FDI, một nhân tố đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa kinh tế.
Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN với uy tín của mình đã giúp hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. “Đến nay, hàng hóa Việt Nam đã có mặt trên 140 nước và ngày càng khẳng định chỗ đứng của mình trên thị trường mới như: EU, châu Mỹ, Trung Đông… góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách… trong 5 năm qua (2001-2005) mỗi năm đóng góp cho ngân sách gần 1 tỷ USD” [16, tr.111].
Hoạt động FDI góp phần quan trọng đối với đẩy mạnh xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh toán. Trong đó, xuất khẩu là một trong những giải pháp tăng trưởng kinh tế, góp phần tăng thêm thu nhập cho nền kinh tế, từ đó tạo điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Thông qua thặng dư xuất khẩu và chuyển vốn đầu tư vào Việt Nam, hoạt động FDI góp phần vào việc hạn chế thâm hụt của cán cân thanh toán.
Ngoài ra, FDI còn góp phần tích cực hòan thiện, nâng cao nghiệp vụ quản lý xuất nhập khẩu theo tiến trình hội nhập quốc tế: như hải quan, thực hiện lộ trình cát giảm thuế; nâng cao hệ thống kinh tế - kỹ thuật xuất nhập khẩu như: thương mại điện từ, ngân hàng điện tử, vận tải (cảng công ten nơ, hệ thống vận tải bồn dầu theo tiêu chuẩn quốc tế, cầu cảng, hàng không....).
Với sự đóng góp của các doanh nghiệp FDI, kim ngạch xuất khẩu Việt Nam tăng nhanh, góp phần nâng mức tăng kim ngạch xuất khẩu lên 16% năm 2005. Nếu như giai đoạn 1990-1995 kim ngạch xuất khẩu khu vực ĐTNN đạt trên 1,12 tỷ USD thì giai đoạn 1996-2000 đạt trên 10,6 tỷ (chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu cả nước). Đến giai đoạn 2001-2005, xuất khẩu của khu vực FDI (không kể dầu thô) đạt mức 33,8 tỷ USD, chiếm trên 33% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Nếu tính cả xuất khẩu dầu thô, tỷ lệ này đạt gần 55%. Khu vực FDI chiếm khoảng 15% tổng sản phẩm nội địa (GDP), 18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Với sự tăng trưởng của xuất khẩu, cán cân thương mại khu vực FDI luôn thăng dư: trong năm 1995 là 5 triệu USD, năm 2002 là 1,184 triệu USD và năm 2003 là 1,3 triệu USD.
1.2.2.4. FDI góp phần giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
FDI góp phần giải quyết việc làm:
Bằng việc tăng nguồn vốn đầu tư xã hội, FDI tác động đến cung – cầu lao động; nó không những trực tiếp thu hút và sử dụng lao động, mà còn gián tiếp tạo thêm việc làm cho các ngành dịch vụ và cho các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước.
Ở nước ta, FDI đã trực tiếp thu hút, giải quyết số lượng việc làm cho xã hội. Số người lao động trong các doanh nghiệp FDI tăng lên hàng năm. Cuối năm 1993 số lao động trong các dự án FDI chỉ có 49.892 lao động, thì đến cuối năm 2004 là 739.000 người, tăng 15 lần so với năm 1993. Giai đọan 1993-2004 bình quân mỗi năm số lao động trong khu vực FDI tăng thêm 66,18 nghìn lao động”.
Cùng với việc phát triển của khu vực FDI, nhiều lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, cung ứng dịch vụ cho khu vực này cũng phát triển theo. Như vậy, sẽ nâng cao khả năng tạo việc làm, giảm bớt tỉ lệ thất nghiệp. Hiện nay, với chính sách tăng dần tỉ lệ nội địa hóa trong sản phẩm của các doanh nghiệp FDI các ngành sản xuất ô tô, xe máy, giày da, may mặc…. đã xuất hiện thêm nhiều doanh nghiệp vệ tinh cung cấp sản phẩm dịch vụ cho doanh nghiệp FDI, tạo ra nhiều việc làm. Tùy theo lĩnh vực sản xuất, số việc làm do doanh nghiệp FDI gián tiếp tạo ra tương đối lớn. Năm 2002 số lao động gián tiếp do doanh nghiệp FDI tạo ra là 553.570, bằng với số lao động đang trực tiếp trong khu vực FDI. Đến cuối năm 2004, các doanh nghiệp FDI thu hút 77 vạn lao động trực tiếp và 1,5 triệu lao động gián tiếp
FDI góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
FDI tác động đến vấn đề lao động của nước tiếp nhận đầu tư liên quan đến cả số lượng và chất lượng lao động. FDI đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng lực, kỹ năng lao động và quản trị doanh nghiệp của lao động Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp FDI đã tạo điều kiện cho lao động nước ta nâng cao tay nghề, tiếp cận kỹ năng, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, rèn luyện kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp tại doanh nghiệp hoặc gửi đi đào tạo ở nước ngoài. “Hiện nay, trình độ, năng lực của 6000 cán bộ quản lý, 25.000 cán bộ kỹ thuật và trình độ tay nghề của hàng vạn lao động ở các doanh nghiệp CVĐTNN được nâng lên rõ rệt” [16, tr.113].
Việc cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý, tăng cường cán bộ, thu hút nhân tài, nâng cao trình độ, năng lực của lao động cũng góp phần rất lớn trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam.
1.2.3. Những tác động tiêu cực của FDI đối với kinh tế – xã hội
Bên cạnh những mặt tích cực, FDI có thể gây ra tác động bất lợi cho nước tiếp nhận, cần phải lưu ý:
1.2.3.1. Mất cân đối trong đầu tư
Việc sử dụng nhiều vốn đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói riêng có thể dẫn đến việc thiếu chú trọng huy động và sử dụng tối đa vốn trong nước. Từ đó, gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư (giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài), có thể gây nên sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn nước ngoài, vào nhà đầu tư nước ngoài (kể cả bí quyết kỹ thuật, công nghệ, đầu mối cung cấp vật tư, nguyên liệu, thị trường sản phẩm...). Nếu tỷ trọng FDI chiếm quá lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển thì tính độc lập tự chủ có thể bị ảnh hưởng, nền kinh tế phát triển có tính lệ thuộc bên ngoài, thiếu vững chắc.
1.2.3.2. Lợi dụng biện pháp chuyển giá để trốn thuế gây thiệt hại cho ngân sách và người tiêu dùng, gây sức ép cạnh tranh đến các doanh nghiệp trong nước
Các nhà đầu tư nước ngoài thường sử dụng lợi thế của mình đối với doanh nghiệp ở nước tiếp nhận, nhất là trong trường hợp liên doanh, để thực hiện biện pháp “chuyển giá” (transfer pricing) thông qua cung ứng nguyên vật liệu, chi tiết, linh kiện, bộ phận, sản phẩm dở dang với giá cao, thu lợi ngay từ khâu này, làm cho giá thành sản phẩm cao một cách giả tạo, giảm lợi nhuận, thậm chí gây ra “lỗ giả, lãi thật”, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và giảm thu ngân sách của nước sở tại. Cụ thể:
- Khai tăng giá trị tài sản góp vốn. Đây là hiện tượng khá phổ biến. Gần đây, Công ty Giám định quốc tế SGS (Thụy sĩ) tiến hành giám định thí điểm 14 dự án FDI theo hình thức liên doanh tại Việt Nam thì đã có 8 dự án chủ đầu tư báo thiết bị nhập khẩu cao hơn 10-20% giá thực tế.
- Mua nguyên liệu, vật liệu và các yếu tố sản xuất đầu vào khác cao hơn giá thực tế.
- Quản lý và sử dụng chi phí không hợp lý. Ví dụ chi phí tiếp thị, quảng cáo rất lớn so với yêu cầu thực tế. Chẳng hạn như Công ty Cocacola chi cho quảng cáo, khuyến mại, phân phối sản phẩm, quản lý hành chính của liên doanh chiếm tới 41,8% doanh thu so với 20% doanh thu được phê duyệt tại luận chứng kinh tế ban đầu.
- Trốn thuế. Ở nước ta hiện nay “những vi phạm pháp luật về thuế vẫn còn diễn ra phổ biến, dưới nhiều hình thức khác nhau.... Lợi dụng sự kém hiểu biết về chế độ kế tóan nước ngoài và trình độ ngoại ngữ yếu của cán bộ thuế, các công ty này áp dụng hình thức kế tóan đa dạng, phức tạp nhằm bịt mắt, qua mặt cán bộ thuế... Nhiều công ty hạnh tóan lỗ cao, khai thấp thu nhập so với thực tế để giảm thuế thu nhập phải nộp”[16, tr.124].
Ngoài việc lợi dụng “chuyển giá”, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước, doanh nghiệp FDI còn gây sức ép cạnh tranh cho doanh nghiệp trong nước. Thông qua sức mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính, công nghệ, các doanh FDI tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt đến các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp trong nước nếu không đủ mạnh dễ bị mất thị phần, làm ăn thua lỗ, thậm chí phá sản. Đôi khi, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thực hiện chính sách cạnh tranh bằng con đường bán phá giá, chịu lỗ trong giai đoạn đầu và các hình thức cạnh tranh không bình đẳng khác để loại trừ đối thủ cạnh tranh độc chiếm hoặc khống chế thị trường, lấn át các doanh nghiệp trong nước, làm cho một ngành hoặc một số ngành sản xuất trong nước không phát triển được.
1.2.3.3. Nguy cơ trở thành bãi thải công nghệ
Lợi dụng trình độ công nghệ thấp và quản lý yếu kém của nước chủ nhà, một số nhà đầu tư nước ngoài thông qua con đường FDI để tiêu thụ những máy móc, thiết bị lạc hậu, thậm chí đã thải loại sang nước tiếp nhận FDI. Thực tế ở nhiều nước cho thấy khi thực hiện các dự án liên doanh, các đối tác nước ngoài đã tranh thủ góp vốn bằng các thiết bị và vật tư đã lạc hậu, đã qua sử dụng (được tân trang) hoặc nhiều khi đã đến thời hạn thanh lý. Nếu không có những quy định và sự kiểm soát chặt chẽ, nước nhận FDI dễ trở thành “bãi thải công nghệ” của các công ty xuyên quốc gia, gây thiệt hại to lớn cho nền kinh tế.
Ở Việt Nam tình trạng trên đang là vấn đề cần chú ý. Theo báo cáo của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường năm 2002: qua thẩm định 727 máy móc, thiết bị của 42 liên doanh với nước ngoài, thì có 72% sản xuất từ 1960, trong đó 2/3 thiết bị đã khấu hao hết; đa số công nghệ nhập vào ngành cơ khí, hóa chất, công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm thuộc loại thông dụng, phổ biến ở nhiều nước; không ít dự án thiết bị, công nghệ nhập vào phần nhiều cũ kỹ, lạc hậu.
Do vậy, công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực thu hút và quản lý nguồn vốn FDI cần có các biện pháp hữu hiệu để có thể giảm thiểu tình trạng tiếp nhận công nghệ lạc hậu, thiết bị, máy móc cũ, năng suất thấp gây thiệt hại cho nền kinh tế.
1.2.3.4. Tác động tiêu cực đến vấn đề xã hội
Sự có mặt của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, các công ty xuyên quốc gia có khả năng gây ra một số ảnh hưởng bất lợi về KT-XH như làm tăng chênh lệch về thu nhập, làm gia tăng sự phân hóa trong các tầng lớp nhân dân, tăng mức độ chênh lệch phát triển trong một vùng hoặc giữa các vùng... Đặc biệt, sự gia tăng số lượng dự án FDI, bao giờ cũng kèm theo sức ép về các chính sách an sinh xã hội, trật tự an toàn cho nước chủ nhà. Việc đầu tư cho an sinh xã hội cũng đòi hỏi chi phí ngân sách không nhỏ, như: xây dựng nhà ở, trường học, y tế, công trình văn hóa – xã hội, vệ sinh môi trường, các dịch vụ công khác…..
Đặc biệt, hiện tượng các chủ doanh nghiệp FDI lợi dụng sự thiếu hiểu biết của các cơ quan, cán bộ quản lý và người lao động, kẽ hở của chính sách, pháp luật Việt Nam để khai thác triệt để sức lao động của công nhân; ở nhiều nơi còn có hành động đối xử bất công, xúc phạm nhân phẩm người lao động, gây mâu thuẫn, phản kháng của công nhân như xô xát, đình công, lãn công…
Trên đây là một số tác động tiêu cực của FDI. Tuy nhiên, những tác động gây ảnh hưởng đến KT-XH ra sao, mức độ thế nào, còn phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của nước chủ nhà. Nếu chúng ta có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đầy đủ và có các biện pháp phù hợp, thì có thể hạn chế, giảm thiểu được những tác động tiêu cực, bất lợi, phát huy mặt tích cực của FDI cho tiến trình phát triển KT-XH của đất nước.
1.3. KINH NGHIỆM VỀ THU HÚT FDI ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Kể từ khi bắt đầu thực hiện chính sách cải cách mở cửa năm 1978 đến nay, nền kinh tế Trung Quốc đã có sự biến đổi mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm, GDP tăng bình quân 9,5%. Trong các yếu tố tác động tạo ra mức tăng trưởng cao như vậy có sự đóng góp quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với 40-45 tỷ USD/năm những năm 1990-2000 và 53 tỷ USD năm 2005 (gần 60% lĩnh vực sản xuất và 24% là lĩnh vực bất động sản), Trung Quốc đã trở thành nước tiếp nhận FDI khoảng 30% tổng các luồng FDI vào tất cả các nước đang phát triển.
Tuy có một số tác động tiêu cực, nhưng về cơ bản FDI đã có những tác động tích cực đến kinh tế – xã hội của Trung Quốc. Tận dụng được FDI, Trung Quốc có điều kiện để cải cách cơ cấu kinh tế, phát triển công nghiệp, hiện đại hóa đất nước, rút ngắn khoảng cách với thế giới về khoa học – công nghệ, thúc đẩy cải cách kinh tế và hội nhập quốc tế. Năm 2001, khu vực FDI đóng góp 1/3 tổng sản lượng công nghiệp, 1/5 giá trị gia tăng công nghệ cao, 51,5% xuất khẩu, thu hút gần 23 triệu lao động. Các khu vực kinh tế vốn lạc hậu ở phía Trung và Tây Trung Quốc, nhờ FDI đã dần dần phát triển trên cơ sở phát huy các ưu thế về lao động và tài nguyên dồi dào của Trung Quốc.
Có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm trong việc phát huy tác dụng tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của FDI đối với phát triển KT-XH ở Trung Quốc như sau:
Một là, nhất quán quan điểm phát triển dựa trên nguồn lực bên trong và bên ngoài, kiên trì theo đuổi mục tiêu cải cách và mở cửa, cân đối giữa nguồn lực trong nước và nước ngoài, sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách chủ động, hợp lý và hiệu quả, coi hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế XHCN.
Nhờ vậy, nền kinh tế phát triển cân đối, vừa phát huy được nguồn nội lực, vừa tranh thủ được nguồn ngoại lực (mà chủ yếu từ FDI) để phát triển KT-XH.
Hai là, mở cửa từng bước, hợp lý và vững chắc. Với việc mở cửa từng bước, hợp lý và vững chắc, Trung Quốc đã đảm bảo mục tiêu đẩy nhanh quá trình hội nhập, nhưng hạn chế những thiệt hại cho doanh nghiệp các các ngành kinh tế trong nước, giữ vững được an ninh kinh tế, giữ vững môi trường.
Ba là, thống nhất môi trường pháp lý giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Sự thống nhất môi trường pháp lý đầu tư, vừa là cơ sở để nhà nước quản lý kinh tế, xã hội bằng pháp luật, hạn chế những mặt tiêu cực của FDI, đồng thời là cơ sở để các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động, ứng xử trên thương trường một cách bình đẳng và minh bạch.
Bốn là, thu hút FDI từ cộng đồng người Hoa trên thế giới. Nhân tố này là đặc trưng riêng tạo nên sự thành công của Trung quốc trong thu hút và phát huy tính tích cực của FDI. Trên thực tế có hơn một nửa tổng các luồng vốn FDI đi vào Trung quốc có nguồn gốc từ Hong Kong, Singapore và Đài Loan, phần lớn các dự án từ luồng vốn này đều có thiện chí trong đầu tư xây dựng phát triển quê hương.
1.3.2. Kinh nghiệm của tỉnh Bình Dương
Theo đánh giá của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI): Bình Dương hiện là tỉnh đứng đầu trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2006. Tính đến tháng 6-2006, toàn tỉnh Bình Dương đã có 1.203 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng vốn đầu tư gần 5,6 tỷ USD, trong đó có 559 dự án FDI đầu tư trong các khu công nghiệp (KCN) tập trung với tổng vốn 2,83 tỷ USD.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm gần 70% tổng nguồn vốn đầu tư phát triển thời kỳ 1998 – nay. FDI là một trong những nguồn lực quan trọng tác động tích cực vào tăng trưởng GDP, với tốc độ từ 14,57% năm 1999 lên 15,2% năm 2004. Mặt khác nó còn góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Các dự án FDI hoạt động ở hầu hết các ngành kinh tế: 97,5% số dự án trong ngành công nghiệp (tập trung ngành công nghiệp chế biến, ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, gas, khí đốt), 1,2 tổng số dự án ở ngành dịch vụ và 0,83% số dự án ngành nông, lâm nghiệp.
Khu vực FDI đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ. Nhiều công nghệ mới đã được nhập vào tỉnh như: lắp ráp sản xuất ô tô, sản xuất tổng đài điện thoại kỹ thuật số, sản xuất cáp quang, dây chuyền tự động lắp ráp hàng điện tử, với trình độ công nghệ bằng hoặc cao hơn các thiết bị tiên tiến đã có trong nước. Nhờ tiếp cận với các công nghệ mới, thiết bị hiện đại, phương pháp quản lý tiên tiến đã dần dần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh.
FDI đã làm tăng nhanh sản phẩm xuất khẩu, tiếp cận với thị trường quốc tế, góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập. Tổng giá trị hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI hiện nay đã đạt 1.348 triệu USD. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI trên địa bàn chiếm 60% doanh thu doanh nghiệp. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu chuyển từ nông sản và bán thành phẩm sang các sản phẩm công nghiệp và tinh chế, nhiều ngành sản xuất nguyên nhiên liệu tại địa phương và hệ thống sản xuất, dịch vụ và công nghiệp phụ trợ ra đời vừa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, vừa phát huy được những nguồn lực sẵn có của tỉnh, giải quyết việc làm cho người lao động trọng và ngoài tỉnh…
Nhiều dự án FDI đã đầu tư vào lĩnh vực bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, năng lượng, làm đường cao tốc, đã góp phần cải thiện rõ rét hệ thống giao thông, bộ mặt đô thị, nâng cấp nhanh chóng cơ sở hạ tầng - kỹ thuật của tỉnh. Ngược lại, hạ tầng – kỹ thuật ngày càng tốt thúc đẩy phát triển KT-XH của tỉnh, tăng hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp FDI, đồng thời cũng là điều kiện thuận lợi tiếp tục thu hút FDI, góp phần đưa Bình Dương là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút ĐTNN.
Nhìn chung, hoạt động FDI trong thời gian qua, đã có nhiều tác động tích cực tới quá trình tăng trưởng KT-XH của tỉnh Bình Dương. Sự hiện diện của các nhà đầu tư nước ngoài là nhân tố tích cực để tạo ra môi trường kinh doanh năng động cho Bình Dương. FDI đang thực sự trở thành một bộ phận quan trọng, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, góp phần vào việc giải quyết những mục tiêu KT-XH của tỉnh. Tuy vậy, hoạt động FDI còn có một số tác động tiêu cực chính đối với KT-XH tỉnh Bình Dương như sau:
Một là, FDI gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế. FDI chỉ tập trung vào công nghiệp ở lĩnh vực sản xuất nước giải khát, hoá mỹ phẩm, giày da, may mặc và các vùng thuận lợi có cơ sở hạ tầng tốt và gần TP. Hồ Chí Minh như Thị xã Thủ Dầu Một, huyện Thuận An, huyện Dĩ An...
Hai là, tác động không tích cực đối với các doanh nghiệp trong nước. Với trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý và khả năng về vốn còn thấp nên các doanh nghiệp trong nước thường thua thua thiệt, phá sản trong cuộc cạnh tranh này với các doanh nghiệp nước ngoài (trong đó có FDI). Bên cạnh đó, trong các doanh nghiệp liên doanh, chúng ta cũng thường thua thiệt nếu các liên doanh này làm ăn kém hiệu quả, khi đó phải dùng vốn góp để khấu trừ vào phần thua lỗ.
Ba là, tác động xấu đến môi trường. Vấn đề ô nhiễm môi trường đô thị, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước, rác thải rắn, nhất là rác thải công nghiệp có xu thế gia tăng, do có tốc độ đô thị hoá và mật độ công nghiệp cao, đang trở thành vấn đề cấp bách cần giải quyết.
Bốn là, FDI làm sự gia tăng dân số cơ học gây sức ép đến yêu cầu phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội, như nhu cầu nhà ở, điện, nước sinh hoạt và một loạt vấn đề xã hội cần giải quyết như đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, hệ thống dịch vụ công….
Năm là, các tranh chấp lao động giữa giới chủ và người lao động trong các FDI ngày càng tăng, và chậm được giải quyết. Vì thế thường dẫn đến đình công, bãi công trái pháp luật, gây mất trật tự, trị an, và làm ảnh hưởng đến sản xuất, thiệt hại cho người lao động và uy tín của doanh nghiệp.
1.3.3. Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Nam
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Quảng Nam chỉ thực sự bùng phát vào giai đoạn 2001 - 2005. Đây là giai đoạn có tính chất quyết định trong bối cảnh vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được định hình: Khu công nghiệp Dung Quất khởi động, thành lập Khu kinh tế mở Chu Lai, Quảng Nam mở rộng quy mô đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang thành phố và Mỹ Sơn, Hội An trở thành Di sản văn hóa thế giới…
Chỉ riêng giai đoạn 2001 - 2005, Quảng Nam đã thu hút đến 45 dự án với tổng vốn đầu tư 310 triệu USD, tạo việc làm cho 8.300 lao động, đóng góp vào ngân sách tỉnh bình quân 170 tỷ đồng/năm. Nhiều dự án lớn đã đi vào hoạt động, kinh doanh có lãi như Khu du lịch Victoria Việt Nam, khách sạn Riverpark, sản xuất các khuôn đúc và bột thạch anh Hoằng Tiệp, khai thác và chế biến đá xây dựng (Wei Xern Sin Industrial), may xuất khẩu (Triệu Vỹ), sản xuất giày (Rieker), sản xuất nước giải khát (Pepsico), Khu du lịch văn hóa làng quê (BNC)...
FDI đã tác động tích cực đến tình hình phát triển KT-XH Quảng Nam. Trước hết, việc thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào địa bàn tỉnh Quảng Nam đã giải quyết được nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển KT-XH, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế.
Vốn đầu tư của nước ngoài có mặt ở hầu hết tất cả các ngành, đặc biệt là những ngành mà Quảng Nam có lợi thế. FDI đã góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH, HĐH, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu ngành. Chất lượng dự án vì vậy cũng được nâng lên về mặt công nghệ, môi trường và qui mô.
FDI đã thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập, là một trong những kênh đưa các sản phẩm sản xuất từ Quảng Nam xâm nhập thị trường các nước một cách có lợi nhất. Thông qua thực hiện các dự án đầu tư các nhà đầu tư nước ngoài trở thành cầu nối, là điều kiện tốt để Quảng Nam nhanh chóng tiếp cận và tiến hành hợp tác được với nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế, cũng như trung tâm kinh tế, kỹ thuật công nghệ mạnh của thế giới. Kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng, từ 6 triệu USD/năm 2000 lên 74 triệu USD/năm 2005.
Bên cạnh đó, nhiều dự án lớn đã đi vào hoạt động kinh doanh có lãi, tạo ra sự đa dạng về sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm, tăng xuất khẩu, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động, đáng nói là thu nhập bình quân của người lao động trong khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cao nhất trong các khu vực, bình quân khoảng 1,736 triệu đồng/người/tháng
Có thể rút ra ba kinh nghiệm chủ yếu trong việc sử dụng có hiệu quả FDI tại Quảng Nam:
Một là, tập trung thu hút FDI vào lĩnh vực có thế mạnh như du lịch và phát triển theo định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH, HĐH, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp.
Hai là, FDI chưa có tác động mạnh đến vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Ba là, tiếp nhận dự án FDI thiếu chọn lọc, nên giảm tính tích cực của FDI; thực hiện chính sách “rải thảm đỏ'' cho FDI, ưu đãi quá thẩm quyền làm giảm nguồn thu ngân sách.
Chương 2
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC._.i chính sách đất đai cần tiếp tục hoàn chỉnh: về giá thuê đất, đền bù, giải phóng mặt bằng; loại bỏ hình thức góp vốn bằng quyền sử dụng đất của các doanh nghiệp Việt Nam, chuyển sang chế độ nhà nước cho thuê đất; nghiên cứu, xây dựng cơ chế cho thuê đất dài hạn đến 99 năm theo thông lệ quốc tế, thu tiền một lần, các nhà ĐTNN có quyền sử dụng, cho thuê, thế chấp... trong thời hạn thuê đất; nghiên cứu giảm mức tiền thuê đất cho phù hợp với định hướng thu hút đầu tư ở các địa phương, bảo đảm mức tiền thuê đất không cao hơn các nước trong khu vực. Giảm giá thuê đất trong các KCN và KCX (phù hợp với chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng).
b) Hoàn thiện các chính sách về đầu tư nước ngoài. Trong đó cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong các nghiệp vụ liên quan đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, xoá bỏ các thủ tục rườm rà, tạo môi trường thuận lợi và thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn chính đáng ở Việt Nam. Quy định rõ ràng, công khai, minh bạch các thủ tục hành chính; Rà soát và bãi bỏ các quy định về thủ tục đang cản trở hoạt động đầu tư nước ngoài. Việc thẩm định và cấp giấy phép đầu tư phải theo đúng quy định của nhà nước, tránh phiền hà, gây trở ngại cho các nhà đầu tư, khắc phục ngay tình trạng thanh tra, kiểm tra không cần thiết gây phiền nhiễu của một số cơ quan chức năng.
c) Hoàn thiện chính sách thuế, ưu đãi đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
- Tiếp tục hoàn thiện Luật thuế giá trị gia tăng và thuế lợi nhuận công ty. Đây là hai loại thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã đi vào hoạt động ổn định (các ưu đãi về thuế lợi tức, thuế giá trị gia tăng của Việt Nam chưa thật hấp dẫn so với các nước trong khu vực và còn nhiều vướng mắc, bất cập).
- Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của các biện pháp ưu đãi tài chính đối với nhà ĐTNN như: vấn đề hoàn thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển lợi nhuận về nước. Không hạn chế hoặc không đưa ra quy định bắt buộc các nhà ĐTNN phải góp vốn bằng tiền mặt khi họ đang gặp khó khăn.
- Xoá bỏ ấn định tỷ lệ nguồn vốn trong các dự án và lĩnh vực cần phát triển mà vốn trong nước không đủ, không có khả năng đầu tư.
- Cần tiếp tục đề ra và thực hiện các cam kết về ưu đãi thuế trong khuôn khổ AFTA, WTO. Đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát để xử lý nghiêm theo luật định những hành vi trốn thuế, lậu thuế.
- Rà soát, củng cố lại các công cụ tài chính - kế toán để tăng cường giám sát kiểm tra hoạt động tài chính của doanh nghiệp FDI nhằm khắc phục những sơ hở gây thiệt hại đến lợi ích quốc gia (đặc biệt là vấn đề chuyển giá).
d) Hoàn thiện chính sách tiền tệ, tín dụng, chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm:
- Hoàn thiện các quy định về mua bán, bảo đảm cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN; quy định về kiểm tra chứng từ khi doanh nghiệp chuyển thu nhập, vốn vay, lãi và phí ra nước ngoài; quy định về mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ ở Ngân hàng nước ngoài; tiến tới tự do hoá chuyển đổi ngoại tế đối với các giao dịch vãng lai.
- Phát triển đồng bộ các thị trường tài chính, nhất là thị trường vốn. Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN được tiếp cận rộng rãi với các thị trường này, được vay vốn tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam.
- Khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm chế biến tinh chế, các sản phẩm chất lượng cao, đặc biệt những sản phẩm thương hiệu Việt Nam.
- Định hướng tiêu thụ sản phẩm theo khuôn khổ pháp lý thích hợp để tránh tình trạng bán phá giá, bán hàng kém chất lượng ra thị trường; khẩn trương triển khai đầy đủ các biện pháp để thực hiện các Luật Cạnh tranh, Luật Chống độc quyền, chống bán phá giá hàng hoá, chống gian lận thương mại và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu... nhằm bảo đảm thực thi có hiệu quả các điều khoản trong những luật đã ban hành.
- Ngăn chặn có hiệu quả nạn buôn lậu, làm hàng giả, làm ăn phi pháp; khuyến khích người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm sản xuất trong nước.
- Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, quảng cáo, tư vấn, môi giới cho các hoạt động của doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
3.3.4. Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI
Để nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI cần tuân theo các nguyên lý sau:
Tổ chức hợp lý hoá trong các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về đầu tư, sự quản lý tập trung thống nhất của UBND thành phố, phân cấp, phân quyền cho các sở, ban, ngành theo chức năng, nhiệm vụ trong việc quản lý doanh nghiệp FDI trên địa bàn; đơn giản hoá thủ tục hành chính, xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh.
Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ban, ngành trong việc quản lý nhà nước về FDI. Có biện pháp ngăn chặn ngay tình trạng kiểm tra tuỳ tiện, hình sự hoá các quan hệ kinh tế của doanh nghiệp, đồng thời vẫn quản lý được các doanh nghiệp và có chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Cơ quan quản lý các doanh nghiệp FDI ở thành phố chủ động đối thoại với nhà đầu tư để hướng dẫn về luật pháp, chính sách, giải quyết kịp thời các kiến nghị của họ, tháo gỡ các ách tắc, điều chỉnh và bổ sung các chính sách, biện pháp tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước mắt, cần tập trung xử lý những ách tắc, phiền hà trong lĩnh vực hải quan, xuất nhập khẩu, đất đai, xây dựng... mở rộng diện thực hiện đăng ký đầu tư đối với những lĩnh vực đã có chủ trương khuyến khích tự do đầu tư.
Rà soát và cải tiến mạnh mẽ hơn nữa tất cả các thủ tục liên quan đến đầu tư nước ngoài theo định hướng tinh giảm đầu mối, công khai rõ ràng, minh bạch các quy định thời hạn và người có trách nhiệm xử lý, các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp; giảm bớt các thủ tục không cần thiết; thực hiện chế độ một cửa; cam kết và thực hiện việc giải toả mặt bằng, bàn giao mặt bằng đúng thời hạn như cam kết với nhà đầu tư nước ngoài; thực hiện công tác kiểm tra, giám sát tiến độ đầu tư và xử lý kịp thời các vướng mắc, phát sinh theo quy định.
Để nâng cao hiệu lực của các cơ quan nhà nước, cần xác định rõ chức năng, quy định cụ thể phạm vi, quyền hạn của cơ quan, mỗi việc chỉ nên do một đơn vị chịu trách nhiệm giải quyết các vấn đề đầu tư, hậu kiểm đầu tư FDI, giảm thiểu tình trạng ách tắc gây trở ngại hoặc buông lỏng trong hoạt động đầu tư, và quản lý FDI.
Nâng cao phẩm chất và năng lực của công chức nhà nước nói chung và công chức trực tiếp tham gia quản lý FDI; kiên quyết loại bỏ những công chức nhà nước không đủ phẩm chất, thiếu kiến thức và năng lực chuyên môn, thiếu tinh thần hợp tác.
Tăng cường quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp FDI, trước mắt, cần tập trung một số vấn đề sau:
a) Đào tạo cán bộ và nguồn nhân lực
Tổ chức bồi dưỡng, nâng cao trình độ về pháp luật, chính sách, chuyên môn đối với đội ngũ cán bộ làm công tác hợp tác đầu tư với nước ngoài, hướng tới đáp ứng yêu cầu hội nhập và giao lưu quốc tế.
Có kế hoạch đào tạo thường xuyên, liên tục cán bộ đối ngoại, cán bộ làm công tác quản lý ĐTNN, cán bộ trực tiếp tham gia vào các liên doanh không chỉ giỏi về kinh tế, quản lý mà phải am hiểu luật pháp trong nước và quốc tế, trong đó chú ý cán bộ chủ chốt hoạt động kinh tế đối ngoại: có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, giàu về kiến thức, thông thạo ngoại ngữ, hiểu biết pháp luật và có khả năng đàm phán quốc tế để có thể đảm bảo làm việc tốt, có hiệu quả trong môi trường vừa hợp tác vừa đấu tranh.
Trên cơ sở từng ngành đã có quy hoạch chi tiết cho việc gọi vốn FDI theo từng dự án cụ thể, phải có quy hoạch cán bộ dự kiến tham gia các dự án liên doanh, qua đó có các kế hoạch đào tạo cụ thể nhằm chuẩn bị cán bộ đủ điều kiện cử vào tham gia các chức vụ chủ chốt trong liên doanh.
Đối với đội ngũ cán bộ đang tham gia ở các liên doanh cần có kế hoạch biện pháp quản lý, giúp đỡ, bồi dưỡng thông qua các cuộc sinh hoạt, trao đổi kinh nghiệm, hội nghị, hội thảo để nâng cao trình độ.
Kiên quyết xử lý các cán bộ công chức nhà nước ở bất cứ cương vị nào có thái độ và hành động sách nhiễu, gây khó khăn cản trở nhà ĐTNN; có chế độ phụ cấp, khen thưởng cho những người có nhiêu thành tích trong công tác đầu tư nước ngoài; Biểu dương các nhà ĐTNN làm ăn có hiệu quả và có nhiều đóng góp cho Việt Nam.
Về lâu dài, thành phố cần có những chính sách đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó tập trung triển khai một số chương trình sau:
- Xây dựng Trường phổ thông trung học chất lượng cao Lê Qúy Đôn* Học sinh giỏi được tuyển vào học tại trường sẽ thành phố chịu toàn bộ chi phí ăn học, với điều kiện các em sau khi tốt nghiệp các trường đại học sẽ công tác tại thành phố ít nhất 5 năm.
** Hiện nay đã có 107 em được tuyển chọn cử đi đào tạo theo đề án, trong đó có 28 em được cử đi học đại học tại nước ngoài, chủ yếu là các nước: Mỹ, Pháp, Anh, úc, ấn Độ, Thuỵ Sĩ và Singapo.
Đây là là nguồn để thành phố đào tạo nhân lực chất lượng cao của thành phố trong 10-20 năm tới.
- “Đề án 151”’ (theo Quyết định 151/QĐ-UB ngày 06-9-2004 của thành phố) đào tạo bậc đại học trong và ngoài nước cho học sinh Trường Lê Qúy Đôn bằng ngân sách nhà nước; đối tượng là những học sinh có kết quả học tập cao, trúng tuyển đại học vào những ngành đào tạo mà thành phố có nhu cầu, tự nguyện tham gia chương trình đào tạo và sau khi tốt nghiệp về phục vụ thành phố 7 năm trở lên **.
- “Đề án 84” thu hút, tiếp nhận những cán bộ, quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật, công chức, viên chức có học hàm, học vị, có trình độ chuyên môn cao, có năng lực thực tiễn, phù hợp với yêu cầu phát triển KT-XH của thành phố.
- “Đề án 393” với mục tiêu là đào tạo 100 cán bộ lãnh đạo, quản lý và chuyên gia tại nước ngoài trong giai đoạn 2006 đến năm 2010.
b) Thực hiện tốt quản lý nhà nước về công nghệ:
- Tập trung đổi mới công nghệ cho một số ngành mũi nhọn; khuyến khích, hỗ trợ hình thành các khu công nghệ cao, công nghệ sạch của thành phố. Mở rộng hợp tác, quan hệ quốc tế nhằm phát triển công nghệ. Thực hiện tốt việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
- Xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật, công nghệ; Hoàn thiện các quy định, tổ chức và thực hiện giám định đối với các công nghệ được chuyển giao; có chế tài, biện pháp xử nghiêm khắc những vi phạm các tiêu chuẩn công nghệ đã được đăng ký.
- Tổ chức mạng lưới thông tin công nghệ và hỗ trợ hoạt động tư vấn chuyển giao công nghệ. Trước mặt, xây dựng ngay một số các trung tâm dịch vụ tư vấn và thẩm định công nghệ để giúp các nhà quản lý và đối tác Việt Nam thực hiện giám định chất lượng, giá cả công nghệ.
c) Quản lý nhà nước về lao động, giải quyết vấn đề lao động
Trước hết thành phố cần triển khai một số việc sau:
Phối hợp với các cơ quan, ngành tổ chức tốt đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật đáp ứng đòi hỏi của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong qua trình đào tạo cần chú ý giáo dục cho công nhân ý thức làm chủ, thái độ lao động, ý thức tổ chức kỷ luật, tính công nghiệp trong lao động là nội dung song hành cùng với tay nghề được đào tạo.
Đảm bảo tốt vấn đề an sinh xã hội đối với người lao động. Đặc biệt, trước sự gia tăng nhanh lao động (nhất lao động ngoại tỉnh) vào thành phố, Đà Nẵng cần giải quyết tốt việc xây dựng nhà ở, hệ thống giáo dục, y tế, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở các KCN, KCX.
Xây dựng và hoàn thiện bộ máy hành pháp về quản lý lao động trong các doanh nghiệp FDI (trong đó chú ý đến chức năng của từng đơn vị, đồng thời có quy chế phối hợp giữa các đơn vị, tổ chức).
Trên cơ sở hệ thống Luật Lao động hiện hành, thành phố cần cụ thể hoá bằng các quy định cụ thể và thực hiện nghiêm túc quy định về: tuyển chọn lao động, chức năng của các cơ quan quản lý lao động, vấn đề đào tạo, sa thải, đề bạt, xử lý tranh chấp về tiền lương, thu nhập; ký kết hợp đồng lao động thoả ước lao động tập thể...; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…..
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật lao động trong các doanh nghiệp FDI; có biện pháp xử lý nghiêm đối với những vi phạm về luật lao động; giải quyết tốt mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động…
Bằng nhiều hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật lao động cho cả người lao động và người sử dụng lao động; thực hiện việc trợ giúp pháp lý cho người lao động khi xảy ra tranh chấp lao động* Người lao động ở Đà Nẵng có tâm lý e ngại ra toà giải quyết tranh chấp lao động. Số vụ đưa ra toà án giải quyết tranh chấp lao động rất ít (xem phụ lục 9).
** Hiện nay, LĐLĐ thành phố Đà Nẵng giành 15 biên chế tăng cường cho doanh nghiệp, nhưng đều là doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn Nhà nước chi phối. Không có doanh nghịêp FDI nào có biên chế Công đòan chuyên trách.
; có biện pháp xử lý nhanh và hiệu quả trong việc hoà giải tranh chấp lao động tập thể, tránh để xảy ra các vụ xung đột, đình công tập thể không đúng pháp luật và đặc biệt không để xảy ra điểm nóng về trật tự, an toàn xã hội.
Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị trong doanh nghiệp, đặc biệt là tổ chức công đòan. Có cơ chế tạo điều kiện cho tổ chức Công đoàn vào việc phản ánh nguyện vọng, kiến nghị, đề xuất của người lao động đối với chủ doanh nghiệp.
Liên đoàn Lao động thành phố cần giành biên chế thích đáng để tăng cường cán bộ công đoàn vào làm việc tại các doanh nghiệp FDI có nhiều lao động** (trước mắt là 9 doanh nghiệp sản xuất đồ chơi, may mặc và giày da, có chủ đầu tư Đài Loan). Đây là biên chế công đòan chuyên trách tại doanh nghiệp, hưởng lương từ Liên đòan Lao động thành phố, ngoài ra còn hưởng lương từ doanh nghiệp.
Ngoài việc thực hiện tốt các chính sách an sinh đối với lao động ở các KCN, KCX, thành phố cần có chính sách khuyến khích, khen thưởng đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp FDI nói riêng làm tốt công tác chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người lao động.
d) Quản lý tốt môi trường, thực hiện “FDI bền vững môi trường”.
Những năm qua, ở thành phố Đà Nẵng, sự tác động tiêu cực của FDI đối với môi trường không lớn, luồng vốn FDI trong các ngành công nghiệp nhạy cảm về ô nhiễm môi trường không nhiều. Tuy nhiên, trong những năm sắp tới, cùng với việc gia tăng luồng FDI vào thành phố là sự gia tăng những nguy cơ huỷ hoại môi trường sinh thái, đa dạng sinh học và các di sản văn hoá. Do vậy, thành phố cần chú ý đến quản lý nhà nước đảm bảo thực hiện FDI bền vững môi trường.
Để thực hiện được FDI bền vững* Một dự án FDI bền vững môi trường khi: tạo được tính cạnh tranh về tài chính cho các nhà đầu tư; đóng góp cho nền kinh tế, đem lại lợi ích xã hội và giảm nghèo cho nước, địa phương chủ nhà; có kết quả đúng đắn về môi trường, hướng thân thiện môi trường.
cần chú ý các yếu tố sau: chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách bảo vệ môi trường; cơ hội và sức ép của thị trường thế giới, thị trường nội địa; triết lý và tầm nhìn của nhà đầu tư FDI; cơ hội và sức ép về tài chính (của nhà đầu tư); các chính sách khác có liên quan của nhà nước.
Như vậy, FDI đòi hỏi từ nhiều phía: ngoài yếu tố khách quan, thì vai trò của các nhà đầu tư và chính quyền sở tại rất lớn. Một mặt, thành phố cần đề ra những quy định cụ thể trong việc đảm bảo bền vững môi trường; khuyến cáo và thu hút chọn lọc những dự án có công nghệ sạch, những giải pháp và công nghệ thân thiện môi trường, đi đôi với phương án đầu tư phải kèm theo những giải pháp phòng ngừa ô nhiễm. Ngoài ra, thành phố cần tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành Luật Môi trường, xử lý các trường hợp vi phạm, kể cả việc thu hồi giấy phép kinh doanh, đầu tư; chủ động tiến hành việc gặp gỡ, bàn thảo để nâng cao tính cộng đồng, chia sẻ trách nhiệm trong thực hiện được FDI bền vững giữa nhà đầu tư (đặc biệt là các TNCs), người tiêu dùng, các hội nghề nghiệp, các tổ chức tài chính, bảo hiểm….
3.3.5. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp FDI
Các tổ chức chính trị - xã hội ở các doanh nghiệp FDI có vai trò rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả, hạn chế tác động tiêu cực của FDI đối với KT-XH; làm tốt công tác tổ chức Đảng, các đoàn thể ở đây không chỉ bảo vệ quyền lợi của người công nhân mà còn đấu tranh làm lành mạnh môi trường đầu tư, hạn chế sai phạm của chủ đầu tư, tránh các vụ đình công tự phát vô tổ chức...
3.3.5.1. Giải pháp xây dựng và phát huy vai trò của các tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Tuyên truyền vận động giới chủ và người lao động hiểu được: khi tổ chức này hình thành và hoạt động có hiệu quả thì cả giới chủ lẫn người lao động cùng được, cùng có lợi; giáo dục đoàn viên công đoàn biết chấp hành nghiêm túc kỷ luật lao động, có ý thức rèn luyện tác phong công nghiệp, có tinh thần sáng tạo trong lao động, tăng cường giáo dục hơn nữa về lẽ sống và về lý tưởng sống cho đoàn viên; tìm được tiếng nói chung giữa doanh nghiệp và tổ chức đoàn thể.
Ở những nơi chưa có tổ chức đảng và đoàn thể, thì Liên đoàn lao động thành phố và Thành Đòan phải chủ động thâm nhập vào công nhân, người lao động trong doanh nghiệp, cũng như chủ động tiếp cận với giới chủ doanh nghiệp thuyết phục họ tạo điều kiện để hình thành tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên; bố trí cán bộ chuyên trách có đủ phẩm chất, năng lực, trách nhiệm đến làm nhiệm vụ tại những doanh nghiệp có đông lao động và đặc biệt là trong lúc các doanh nghiệp ấy chưa có tổ chức đảng lãnh đạo.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng các tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên trong doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Quan tâm đào tạo và bồi dưỡng cho đoàn viên công đoàn, đoàn thanh niên có trình độ về mọi mặt. Xây dựng đào tạo đội ngũ cán bộ công đoàn, đoàn thanh niên phải thật thật sự có năng lực, nhiệt tình với phong trào. Cán bộ công đoàn có bản lĩnh chính trị, có kiến thức, giỏi chuyên môn, biết ngoại ngữ mới đủ khả năng đàm phán, đấu tranh, thuyết phục giới chủ.
Liên đòan Lao động và Thành Đoàn phân công cán bộ chuyên quản tại các KCX, KCN, giành trên 20 biên chế xuống làm cán bộ chuyên trách Công đòan, Đòan Thanh niên Công sản Hồ Chí Minh tại doanh nghiệp CVĐTNN có nhiều đòan viên, thanh niên.
Các tổ chức chính trị này cũng cần phối hợp với các sở, ban, ngành có liên quan trong việc nắm bắt tình hình, lắng nghe ý kiến của quần chúng ở doanh nghiệp FDI và nơi doanh nghiệp họat động, phán ánh kịp thời tình hình, để giúp các cấp chính quyền có thể động viên, khen thưởng việc chấp hành pháp luật của Nhà nước, đồng thời điều chỉnh, sử lý những sai phạm của các doanh nghiệp FDI.
3.3.5.2. Xây dựng và củng cố tổ chức đảng trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Để khu vực FDI phát triển lành mạnh cần phải có sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Việc xây dựng, phát huy vai trò hạt nhân chính trị, chức năng lãnh đạo của tổ chức đảng trong doanh nghiệp là vấn đề quan trọng và cấp thiết. Nhưng hiện nay chỉ có 4% doanh nghiệp FDI có tổ chức đảng, cần khẩn trương tiến hành các các giải pháp nhằm xây dựng và củng cố tổ chức đảng trong các doanh nghiệp này như sau:
a) Đối với những doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng:
Trước mắt, tập trung thành lập chi bộ ở những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, ổn định, có đông người lao động, có đủ đảng viên và doanh nghiệp có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế của thành phố. Đảm bảo yếu tố hình thành tổ chức đảng: doanh nghiệp có đủ 3 đảng viên chính thức trở lên thì tiến hành thành lập chi bộ, những nơi chưa có đủ số lượng đảng viên thì thành lập chi bộ ghép trực thuộc xã, phường hoặc quận, huyện.
Để hình thành thành tổ chức đảng: chú trọng xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể quần chúng trong doanh nghiệp, nhất là tổ chức công đoàn và đoàn thanh niên. Tổ chức đoàn thể vững mạnh tạo điều kiện thuận lợi để hình thành tổ chức đảng; làm tốt công tác phát triển đảng viên (nơi có tổ chức đảng), nơi chưa có thì tổ chức đảng ở địa phương (nơi quần chúng cư trú), thì chịu trách nhiệm theo dõi kết nạp đảng viên mới những quần chúng ưu tú đang làm việc tại doanh nghiệp; doanh nghiệp có 3 đảng viên chính thức trở lên mà đang sinh hoạt ở địa phương, thì làm thủ tục chuyển sinh hoạt Đảng về doanh nghiệp và thành lập chi bộ; đối với các dự án chuẩn bị thành lập doanh nghiệp có vốn Nhà nước liên doanh với nước ngoài, các cấp uỷ và chính quyền chuẩn bị điều kiện để thành lập ngay tổ chức đảng khi doanh nghiệp đi vào hoạt động, trong đó chú ý lựa chọn cán bộ để đưa vào liên doanh phải gắn với công tác thành lập tổ chức đảng, trước hết là những cán bộ chủ chốt doanh nghiệp.
b) Củng cố tổ chức đảng:
Đối với cấp uỷ, đảng viên của tổ chức đảng trong doanh nghiệp FDI cần:
Làm tốt công tác chính trị tư tưởng, nâng cao chất lượng đảng viên, đảng viên gương mẫu và có uy tín trong doanh nghiệp.
Tổ chức đảng thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, thể hiện vai trò hạt nhân chính trị, lãnh đạo người lao động và vận động, thuyết phục nhà đầu tư thực hiện tốt đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các thoả ước lao động đã ký kết, góp phần xây dựng doanh nghiệp phát triển ổn định.
Chủ động và tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, thực hiện được vai trò lãnh đạo của mình; quan tâm, chỉ đạo xây dựng các đoàn thể công đoàn, đoàn thanh niên vững mạnh; xây dựng được quy chế hoạt động phù hợp với đặc điểm tình hình của doanh nghiệp, đồng thời chủ động xây dựng thoả ước với chủ doanh nghiệp (thể chế hoá được hoạt động của tổ chức đảng).
Đối với các cấp uỷ cấp trên: tăng cường chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn, tạo điều kiện để tổ chức đảng hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ; cử đảng viên là cán bộ có trình độ, năng lực, am hiểu và tâm huyết với công tác đảng, giỏi về quản lý, thông thạo ngoại ngữ, luật pháp tham gia cấp uỷ ở khu vực này, bồi dưỡng phát triển đảng viên mới tại doanh nghiệp FDI, đồng thời chuyển những đảng viên sinh hoạt đảng nơi cư trú, về sinh hoạt đảng tại tổ chức đảng nơi làm việc.
Nâng cao vai trò của tổ chức Đảng trong doanh nghiệp để làm tốt chức năng lãnh đạo các đòan thể và quần chúng trong việc đảm bảo doanh nghiệp họat động đúng pháp lụât Việt Nam và các thông lệ quốc tế, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động và quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, của đối tác nước ngoài và phía Việt Nam.
Trên đây là hệ thống các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao tác động tích cực FDI đối với phát triển KT-XH ở Đà Nẵng. Trong đó, bao gồm cả những giải pháp thu hút, thu hút có chọn lọc FDI, bởi đó chính là tiền đề để FDI phát huy tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần ổn định và phát triển xã hội, giữ vững môi trường sinh thái trong sạch, bền vững. Triển khai tốt các giải pháp nâng cao tính tích cực của FDI, cũng là cách để giảm thiểu đến mức thấp nhất tác động tiêu cực, tối đa hóa lợi ích mà FDI có thể đem lại cho phát triển KT-XH của Đà Nẵng.
KẾT LUẬN
FDI có vai trò quan trọng đối việc phát triển kinh tế của một quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Nó góp phần nâng cao năng lực sản xuất của quốc gia thông qua cung cấp về vốn, công nghệ sản xuất tiên tiến, kỹ năng và trình độ quản lý, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Tuy nhiên sự tác động của FDI không chỉ là chiều thuận với sự phát triển KT-XH mà đôi khi nó còn có tác động nghịch. Việc sử dụng có hiệu quả FDI, phát huy những mặt tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực còn phụ thuộc rất nhiều vào chính sách thu hút và năng lực quản lý, điều hành nền KT-XH của nước tiếp nhận đầu tư.
Gần 10 năm qua từ khi được chia tách từ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, thành phố Đà Nẵng đã từng bước đạt được những thành công nhất định trong quá trình thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn FDI, phục vụ cho quá trình phát triển KT-XH. FDI đã có những tác động tích cực trong quá trình xây dựng và phát triển KT-XH; bổ sung nguồn vốn cho phát triển KT-XH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, với đóng góp vào GDP với tỷ lệ cao hơn 7%; thúc đẩy quá trình phát triển công nghệ, và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH; giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động; nâng cao chất lượng lao động, phát triển nguồn nhân lực. Tuy FDI có một số tác động tiêu cực đối với KT-XH là điều khó tránh khỏi, song tác động tích cực là cơ bản, là nguồn lực hữu hiệu thúc đẩy sự phát triển của thành phố, nhằm đưa Đà Nẵng thành đô thị hiện đại văn minh, giàu bản sắc.
Trong thời gian tới, thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn FDI là chủ trương và mục tiêu có tính chiến lược lâu dài của thành phố. Hội nhập và hội nhập sâu vào kinh tế thế giới và khu vực (đặc biệt khi Việt Nam tham gia WTO, Đà Nẵng cũng như cả nước đang đứng trước những cơ hội lớn, đồng thời phải đối đầu với thách thức không nhỏ, trong đó có lĩnh vực thu hút FDI.
Tuy nhiên, “cơ hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tùy thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tùy thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta“ [10, tr.2]. Thành phố Đà Nẵng với nhiều lợi thế, nếu tận dụng tốt sẽ là điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tốc độ phát triển KT-XH, huy động nhiều, sử dụng hiệu quả, quản lý tốt nguồn ngoại lực này sẽ kích thích mặt tích cực, hạn chế tiêu cực của FDI, góp phần tích cực đẩy nhanh quá trình phát triển của thành phố, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước đưa thành phố Đà Nẵng trở thành “một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế- xã hội lớn của miền Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại du lịch và dịch vụ…. phấn đấu để trở thành một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cơ bản trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020”.
Danh mỤc LIÖU THAM KH¶O
Ban ChÊp hµnh §¶ng bé thµnh phè §µ N½ng (2001), V¨n kiÖn §¹i héi lÇn thø XVIII §¶ng bé thµnh phè §µ N½ng, §µ N½ng.
Ban ChÊp hµnh §¶ng bé thµnh phè §µ N½ng (2006), V¨n kiÖn §¹i héi lÇn thø XIX §¶ng bé thµnh phè §µ N½ng, §µ N½ng.
NguyÔn H÷u ChiÕn (1999), Thu hót ®Çu t trùc tiÕp níc ngoµi ë thµnh phè §µ N½ng, LuËn v¨n th¹c sÜ Kinh tÕ, Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh, Hµ Néi.
CIEM SIDA (2006), T¸c ®éng cña ®Çu t trùc tiÕp níc ngoµi tíi t¨ng trëng kinh tÕ ë ViÖt Nam, Nxb Khoa häc kü thuËt, Hµ Néi.
C¬ quan Ph¸t triÓn quèc tÕ Thuþ §iÓn, ViÖn Nghiªn cøu Qu¶n lý kinh tÕ Trung ¬ng (2003), Héi nhËp kinh tÕ - ¸p lùc c¹nh tranh trªn thÞ trêng vµ ®èi s¸ch cña mét sè níc, Nxb Giao th«ng vËn t¶i, Hµ Néi.
Côc Thèng kª §µ N½ng (2006), Niªn Gi¸m thèng kª §µ N½ng, §µ N½ng.
Côc Thèng kª §µ N½ng (2006), Thµnh phè §µ N½ng 30 n¨m x©y dùng vµ ph¸t triÓn, §µ N½ng.
NguyÔn §×nh Cung (2006), “Ngµy mai, LuËt Doanh nghiÖp vµ LuËt §Çu t cã hiÖu lùc”, B¸o ®iÖn tö Thêi b¸o kinh tÕ ViÖt Nam, (
Ph¹m M¹nh Dòng (2002), “§Þnh híng hoµn thiÖn ph¸p luËt, chÝnh s¸ch vÒ ®Çu t trùc tiÕp níc ngoµi t¹i ViÖt Nam tríc yªu cÇu héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ”, Website Uû ban Quèc Gia vÒ hîp t¸c Quèc tÕ, (
NguyÔn TÊn Dòng (2006), “Gia nhËp Tæ chøc Th¬ng m¹i thÕ giíi, c¬ héi, th¸ch thøc vµ hµnh ®éng cña chóng ta”, Tuæi trÎ (293/2006), (phô tr¬ng; 1-4).
NguyÔn V¨n §¹m (2003), Tõ ®iÓn TiÕng ViÖt têng gi¶i vµ liªn tëng, Nxb V¨n ho¸ th«ng tin, Hµ Néi.
§¶ng Céng s¶n ViÖt Nam (2001), V¨n kiÖn §¹i héi ®¹i biÓu toµn quèc lÇn thø IX, Nxb ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi.
§¶ng Céng s¶n ViÖt Nam (2006), V¨n kiÖn §¹i héi ®¹i biÓu toµn quèc lÇn thø X, Nxb ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi.
Hoµng H¶i (2004), “Nh÷ng vÊn ®Ò vÒ ph¸t triÓn khu vùc kinh tÕ cã vèn ®Çu t níc ngoµi”, T¹p chÝ Céng s¶n ®iÖn tö, (56), (
Ph¹m H¶o, Vâ Xu©n TiÕn (2004), Toµn CÇu ho¸ kinh tÕ, nh÷ng c¬ héi vµ th¸ch thøc ®èi víi miÒn Trung, Nxb ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi.
TrÇn Quang L©m, An Nh H¶i (2006), Kinh tÕ cã vèn ®Çu t níc ngoµi ë ViÖt Nam hiÖn nay, Nxb ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi.
V.I.Lªnin (2005), Toµn tËp, TËp 27, Trang web §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam ®¨ng t¶i l¹i Ên phÈm cña Nxb ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi.
Liªn ®oµn Lao ®éng thµnh phè §µ N½ng (2006), B¸o c¸o t×nh h×nh ®×nh c«ng vµ gi¶i quyÕt ®×nh c«ng tõ 1997 ®Õn nay, §µ N½ng.
Hå Quang Minh (2006), “nguån lùc ®Çu t bªn ngoµi trong sù nghiÖp ®æi míi vµ ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi ë viÖt nam”, T¹p chÝ Céng s¶n ®iÖn tö, (101), (
Ph¹m Duy NghÜa vµ Vò Thµnh Tù Anh (2006), “Chê híng dÉn thi hµnh LuËt §Çu t”, B¸o ®iÖn tö Thêi b¸o kinh tÕ ViÖt Nam, (
Nhãm t vÊn c¸c nhµ tµi trî ViÖt Nam (2005), B¸o c¸o ph¸t triÓn ViÖt Nam 2006, Trang web Ng©n hµng ThÕ giíi, Hµ Néi.
Silem.A (2002), B¸ch khoa toµn th vÒ kinh tÕ häc vµ khoa häc qu¶n lý, Nxb Lao ®éng x· héi, Hµ Néi.
Së Tµi nguyªn – M«i trêng thµnh phè §µ N½ng (2006) B¸o c¸o vÒ t×nh h×nh m«i trêng t¹i c¸c KCN, côm c«ng nghiÖp trªn ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng, §µ N½ng.
NguyÔn Huy Th¸m (1999), Kinh nghiÖm thu hót vèn ®Çu t níc ngoµi ë c¸c níc ASEAN vµ vËn dông vµo ViÖt Nam, Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh, LuËn v¨n tiÕn sü kinh tÕ, Hµ Néi.
Mai Thµnh (2003), “§Çu t trùc tiÕp níc ngoµi víi sù ph¸t triÓn kinh tÕ cña ViÖt Nam”, T¹p chÝ Céng s¶n ®iÖn tö, (38), ( show_content.pl?ID=1079).
Trung t©m kü thuËt 3 - Tæng côc tiªu chuÈn ®o lêng chÊt lîng (2006), B¸o c¸o kÕt qu¶ ®iÒu tra, ®¸nh gi¸ thùc tr¹ng c«ng nghÖ cña 15 ngµnh kinh tÕ - kü thuËt trªn ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng, §µ N½ng.
Trung t©m xóc tiÕn ®Çu t §µ N½ng (2003), Mét sè gi¶i ph¸p c¬ b¶n nh»m thu hót vµ qu¶n lý ®Çu t trùc tiÕp níc ngoµi trªn ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng, B¸o c¸o khoa häc, §µ N½ng.
NguyÔn Anh TuÊn (2005), §Çu t trùc tiÕp níc ngoµi víi ph¸t triÓn kinh tÕ ë ViÖt Nam, Nxb T ph¸p, Hµ Néi.
TrÇn Xu©n Tïng (2005), §Çu t trùc tiÕp níc ngoµi ë ViÖt Nam, thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p, Nxb ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi.
Uû ban nh©n d©n thµnh §µ N½ng (2005), §Ò ¸n Gi¶i quyÕt viÖc lµm cho ngêi trong ®é tuæi lao ®éng cña thµnh phè, §µ N½ng.
Uû ban nh©n d©n thµnh phè §µ N½ng (2000), Quy ho¹ch ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi thµnh phè §µ N½ng giai ®o¹n 2001-2010, §µ N½ng.
ViÖn kinh tÕ thµnh phè Hå ChÝ Minh (2005), B¸o c¸o tæng hîp §¸nh gi¸ vai trß cña ®Çu t trùc tiÕp níc ngoµi trong ph¸t triÓn kinh tÕ - x· héi trªn ®Þa bµn TP.HCM, Trang web ViÖn Kinh tÕ thµnh phè Hå ChÝ Minh, Thµnh phè Hå ChÝ Minh.
._.