Tài liệu Tác động của việc Việt Nam hội nhập kinh tế đến việc làm của lao động nữ đến năm 2020: ... Ebook Tác động của việc Việt Nam hội nhập kinh tế đến việc làm của lao động nữ đến năm 2020
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1403 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Tác động của việc Việt Nam hội nhập kinh tế đến việc làm của lao động nữ đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
UNDP : Chương trình phát triển liên hợp quốc.
UNIFEM : Quỹ phát triển dành cho phụ nữ của liên hợp quốc.
WTO : Tổ chức thương mại quốc tế.
CMKT : Chuyên môn kỹ thuật.
LLLĐ : Lực lượng lao động.
TNTH : Tốt nghiệp tiểu học.
TN THCS : Tốt nghiệp trung học cơ sở.
TN THPT : Tốt nghiệp trung học phổ thông.
GIỚI THIỆU CHUNG
1. Đặt vấn đề
Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt là từ tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã tạo điều kiện cho Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn trong tăng trưởng kinh tế và các mục tiêu xã hội.
Trong khi các thành tựu kinh tế do tác động WTO có vẻ khả quan, thì các tác động về lao động và xã hội rất phức tạp. Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy, trong thời kỳ ngắn hạn và trung hạn, đối với các nước nền kinh tế yếu, chậm điều chỉnh, thì các tác động xã hội tiêu cực nhiều hơn là tích cực, đặc biệt là một bộ phận dân chúng sẽ bị chịu nhiều thiệt thòi do tăng trưởng không đồng bộ với các yếu tố xã hội. Trong nhiều trường hợp, phụ nữ, những người sản xuất nhỏ sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn do mất việc làm, bất bình đẳng tăng lên. Thu nhập của người lao động có thể sẽ kém đi do sự bất ổn định của thu nhập và việc làm do các điều chỉnh về chính sách trong khu vực nhà nước và giá cả đầu vào, đầu ra sản xuất…
Xu thế của Việt Nam sau 1 năm hội nhập WTO phản ánh xu hướng này. Năm 2007, chỉ số giá tiêu dung lương thực thực phẩm tăng 13,9%; chỉ số giá chung tăng 9,5%; vượt xa so với mức chỉ tiêu kế hoạch (dự kiến dưới mức tăng trưởng GDP). Đặc biệt, trong 3 tháng đầu năm 2008, chỉ số giá tiêu dung đã tăng đến mức 12%.
Các kết quả nghiên cứu đề tài cấp bộ năm 2007 của Viện KHLĐ cho thấy, hội nhập và đặc biệt là gia nhập WTO có những tác động không thuận đối với lao động, việc làm và các vấn đề xã hội.
Việc làm trong khu vực xuất khẩu có xu hướng gia tăng, song chủ yếu việc làm trong các ngành sử dụng nhiều lao động có kỹ năng, do vậy xuất hiện các nút cổ chai về nguồn nhân lực, đặc biệt là trong các ngành xuất khẩu.
Tỷ lệ doanh nghiệp mới thành lập tăng khoảng 3% năm 2007 so với 2006, tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động đã giảm. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể phải thu hẹp quy mô sản xuất hoặc thậm chí đóng cửa dẫn đến tình trạng mất việc làm của người lao động, góp phần làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng và nghèo đói giữa các nhóm lao động.
Mức tiền lương có xu hướng tăng, song tăng nhanh trong khu vực công nghiệp và dich vụ, đối với lao động kỹ năng. Xuất nhập khẩu cao không làm tăng tiền lương đối với đa số lao động trong khu vực này. Điều này dẫn đến sự gia tăng khoảng cách thu nhập giữa các vùng, các ngành, các nhóm trình độ lao động.
Tác động của việc gia nhập WTO đối với lao động nữ cũng đáng kể. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khoảng cách giới trong cơ hội việc làm và tiền lương có xu hướng gia tăng trong các khu vực có tỷ lệ xuất khẩu cao. Ngoài ra, các vấn đề của lao động nữ di cư, buôn bán phụ nữ…xuất hiện ngày càng sâu sắc.
Cần phải khẳng đinh rằng, các tác đông của WTO trong thời gian dài là tích cực và tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiến quyết để thực hiện các mục tiêu xã hội. Tuy nhiên, điều này lại phụ thuộc vào cải cách hệ thống pháp luật, thể chế và sự thành công của các chính sách an sinh xã hội mang lại. Do vậy, việc tiếp tục nhận biết cơ chế và dự báo sự tác động của hội nhập WTO đến lao động, việc làm và các vấn đề xã hội là rất cần thiết. Hội nhập kinh tế sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến lao động nữ, đặc biệt là ảnh hưởng tới việc làm của lao động nữ, do lao động nữ có những đặc thù diêng của mình như trình độ chuyên môn kỹ thuật, học vấn và sức khỏe… Điều này sẽ giúp cho việc đinh hướng các chính sách và giải pháp nhằm giảm bớt các tác động tiêu cực của quá trình hội nhập đến người lao động, đặc biệt là nhóm lao động nữ. Vì vậy, để hệ thống một các đầy đủ về sự tác động nên tôi chọn đề tài nghiên cứu là “Tác động của việc Việt Nam hội nhập kinh tế đến việc làm của lao động nữ đến năm 2020”
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích trước hết của chuyên đề thực tập là đưa ra cơ sở lý luận về vấn đề tác động của việc Việt Nam hội nhập kinh tế đến việc làm của lao động nữ.
Mục đích thứ hai là: phân tích thực trạng sự tác động của hội nhập đến việc làm của lao động nữ.
Mục đích thứ ba là: phân tích đánh giá thực trạng cung lao động nữ trên hai mặt đó là số lượng và chất lượng.
Mục đích thứ tư là: Dựa trên phân tích thực trạng sự tác động của hội nhập đến việc làm lao động nữ trong thời gian vừa qua, để từ đó đưa ra hướng giải quyết việc làm trong tương lai của lao động nữ. Vì vậy, cần có những chính sách ưu tiên và hợp lý hơn cho lao động nữ phát triển khả năng của mình. Khi đó lao động nữ sẽ nhận được những công việc tốt khi Việt Nam tham gia hội nhập sâu vào nền kinh tế thới. Ngoài ra, thấy được sự phân biệt giữa lao động nam và lao động nữ trong thị trường lao động, nhất là quá trình chúng ta hội nhập sâu vào thương mại quốc tế.
3. Đối tượng nghiên cứu
Các yếu tố về việc làm, hội nhập và lao động nữ.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sự tác động của việc Việt Nam hội nhập kinh tế đến việc làm của lao động nữ ở tầm vĩ mô cho toàn nền kinh tế. Do kiến thức về hội nhập là rất rộng, vì vậy đề tài của tôi xin tập trung phân tích sự tác động của WTO đến việc làm của lao động nữ đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp các tài liệu thứ cấp trong và ngoài nước.
- Phương pháp thu thập số liệu thống kê.
- Phương pháp dự báo bằng phương pháp chuyển tuổi nhằm xác định số lượng lao động nữ.
- Phương pháp chuyên gia: Đề tài sử dụng phương pháp chuyên gia lấy ý kiến tham vấn về xu hướng tác động của tăng trưởng kinh tế, hội nhập tới việc làm của lao động nữ đến năm 2020 .
6. Bố cục
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý thuyết chung
Chương II: Tác động hội nhập đến việc làm của lao động nữ.
Chương III: Phương hướng và giải pháp tạo việc làm cho lao động nữ.
Đây là ba phần chính quan trọng giúp ta từng bước thực hiện các mục đích đề ra. Từ việc nghiên cứu lý luận, phân tích thực trạng đến đưa ra các giải pháp có hiệu quả.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CHUNG
1. Giới thiệu chung về hội nhập kinh tế quốc tế
1.1 Quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của Việt Nam.
Đảng Cộng sản VN với bản chất cách mạng và tư duy chính trị nhạy bén đã khởi xướng và tiến hành công cuộc đổi mới một cách toàn diện và sâu sắc trên các lĩnh vực, cả về đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới cơ cấu kinh tế, đổi mới quan hệ kinh tế đối ngoại và cải cách nền hành chính quốc gia. Gắn kết các nội dung đổi mới và để bảo đảm cho quá trình đổi mới là quá trình hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế quản lý, từng bước hình thành đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường. Chính điều này không chỉ đảm bảo phát huy được nội lực của đất nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân mà còn tạo ra tiền đề bên trong - nhân tố quyết định cho tiến trình hội nhập với bên ngoài. Việt Nam đã phát triển mạnh quan hệ toàn diện và mở cửa buôn bán biên giới với Trung Quốc; gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á(ASEAN), tham gia Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN; Diễn đàn kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC); là sáng lập viên Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM). Cùng với các nước ASEAN ký Hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, ASEAN Hàn Quốc, ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Úc và New Zealand. Ký hiệp định thương mại song phương với Hoa kỳ (BTA). Đây là những bước đi quan trọng, là sự "cọ xát" từng bước trong tiến trình hội nhập. Thực tiễn những năm qua chỉ rõ: khi mở cửa thị trường, lúc đầu chúng ta có gặp khó khăn. Mở cửa buôn bán biên giới với Trung Quốc, hàng hoá nước bạn tràn vào đẩy doanh nghiệp nước ta vào thế bị động, một số ngành sản xuất "lao đao", một số doanh nghiệp phải giải thể. Tuy nhiên với thời gian, các doanh nghiệp nước ta đã vươn lên, trụ vững và đã có bước phát triển mới. Nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ sản xuất, cải tiến kiểu dáng, mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhờ đó mà tăng được sức cạnh tranh, phát triển được sản xuất, mở rộng được thị trường. Thực hiện các cam kết theo hiệp định mậu dịch tự do ASEAN, chúng ta đã loại bỏ hàng rào phi quan thuế, giảm thuế nhập khẩu. Đến năm 2006, có 10.283 dòng thuế chiếm 99,43% biểu thuế nhập khẩu ASEAN có thuế suất chỉ ở mức 0 - 5%, nhưng các ngành sản xuất của ta vẫn phát triển với tốc độ cao. Trong nhiều năm qua, sản xuất công nghiệp tăng trung bình 15 - 16%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng trung bình trên 20%/năm là nhân tố quan trọng bảo đảm tăng trưởng kinh tế khá cao và liên tục, tạo thêm nhiều công ăn việc làm. Điều đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng lâu dài là tiến trình đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã từng bước xuất hiện lớp cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn cao, thông thạo ngoại ngữ, xuất hiện một đội ngũ những nhà doanh nghiệp mới, có kiến thức, năng động và tự tin, dám chấp nhận mạo hiểm, dám đối đầu với cạnh tranh. Đây là nguồn lực quý báu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhận thức được toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, năm 1995 Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và kiên trì đàm phán và cải tổ để được gia nhập tổ chức này.
1.2 Các mốc đánh dấu chặng đường gia nhập WTO của Việt Nam. - 4-1-1995: Đơn xin gia nhập WTO của Việt Nam được Đại hội đồng tiếp nhận. - 31-1-1995: Ban xem xét công tác gia nhập (WP) của Việt Nam được thành lập với chủ tịch là ông Eirik Glenne, đại sứ Na Uy tại WTO.- 24-8-1995: Việt Nam nộp bị vong lục về chế độ ngoại thương VN và gửi tới Ban thư ký WTO để luân chuyển đến các thành viên của ban công tác.Năm 1998-1999: Các phiên hỏi và trả lời với ban xem xét công tác xét duyệt. Đầu năm 2002: Việt Nam gửi bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ tới WTO và bắt đầu tiến hành đàm phán song phương với một số thành viên trên cơ sở bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ.- 9-10-2004: Việt Nam và EU đạt thỏa thuận về việc Việt Nam gia nhập WTO. - 9-6-2005: Việt Nam và Nhật Bản đạt được thỏa thuận cơ bản về vấn đề mở đường cho Việt Nam sớm gia nhập WTO. - 12-6-2005: Việt Nam cử một phái đoàn đàm phán hùng hậu sang Washington trước thềm chuyến thăm Mỹ chính thức của Thủ tướng Phan Văn Khải với quyết tâm đi đến kết thúc đàm phán song phương.- 18-7-2005: Việt Nam và Trung Quốc đạt thỏa thuận về việc mở cửa thị trường để Việt Nam gia nhập WTO. -31-5-2006: Ký thỏa thuận kết thúc đàm phán song phương với Mỹ - nước cuối cùng trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương.- 26-10-2006: Việt Nam hoàn tất đàm phán đa phương tốt đẹp với các nước. Cuộc đàm phán trước đó diễn ra căng thẳng và tưởng chừng không thể kết thúc được cho đến phút chót. - Ngày 07 tháng 11/2006, nước ta đã chính thức được kết nạp vào tổ chức này.
1.3 Một số điểm mốc trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Nhận thức được toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan. Vì vậy, việc hội nhập cần thiết phải diễn ra theo đúng xu thế của nó. Từ khi Việt Nam chính thức tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đến nay, nó được đánh dấu bởi các mốc thời gian sau:
* Bình thường hoá quan hệ với các tổ chức tài chính-tiền tệ quốc tệ: WB, IFM, ADB* Tháng 1/1995: nộp đơn xin gia nhập WTO. Đã qua 5 phiên đàm phán. Gần đây nhất là phiên họp lần thứ 5 diễn ra ra tại Giơ-ne-vơ (Thuỵ Sĩ) từ 10-11/4/2002.* Tháng 7/ 1995: Ký Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế với Liên minh Châu Âu ( EU).* 7/1995 Gia nhập ASEAN* 1/1996 Thực hiện Chương trình CEPT nhằm tiến tới Khu vực Thương mại tự do ASEAN ( AFTA)* 3/1996: tham gia sáng lập Diễn đàn á- Âu (ASEM) với 25 thành viên.* 11/1998 gia nhập Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu á-Thái Bình Dương ( APEC) : 21 thành viên.* 7/2000: Ký Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ ; có hiệu lực thi hành từ 10/12/2001.
* 9/2003: Ký kết hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam – Nhật Bản
* 7/11/2006 Việt Nam chính thức gia hội nhập với tổ chức thương mại thế giới (WTO)
2. Việc làm
2.1. Việc làm và các nhân tố ảnh hưởng.
Khái niệm việc làm là tiền đề cơ bản giúp chúng ta nhận dạng một cách chính xác và thống nhất về mối quan hệ giữa lao động và việc làm trong nền kinh tế thị trường.
Theo các nhà kinh tế học lao động thì việc làm được hiểu là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của con người.
Theo bộ luật lao động ở nước ta, khái niệm việc làm được xác định là: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều thừa nhận là việc làm”.
Từ quan niệm trên cho thấy, khái niệm việc làm bao gồm các nội dung sau:
- Là hoạt động lao động của con người.
- Hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra thu nhập.
- Hoạt động lao động đó không bị pháp luật ngăn cấm.
Số lượng việc làm trong nền kinh tế phản ánh cầu lao động. Về lý thuyết, cầu lao động cho thấy số lượng lao động mà các tổ chức (đơn vị) kinh tế sẵn sàng thuê (sử dụng) để tiến hành các hoạt động kinh tế với mức tiền lương nhất định.
Cầu lao động phụ thuộc chủ yếu vào quy mô sản lượng và hệ số co giãn việc làm đối với sản lượng (đầu ra).
Quan hệ giữa việc làm và đầu tư thường được các nhà kinh tế xem xết qua chỉ tiêu mức đầu tư để tạo ra một chỗ làm việc mới chẳng hạn ở nước ta, theo tính toán của các chuyên gia kinh tế mức đầu tư trung bình cho một chỗ làm việc mới khoảng 39,3 triệu đồng (cuối những năm 90).
Mức đầu tư cần thiết để tạo việc làm có quan hệ với công nghệ sản xuất. Những ngành có công nghệ cao sẽ cần nhiều vốn hơn để tạo một chỗ làm việc mới và ngược lại
2.2. Những đặc trưng cơ bản của thị trường lao động nữ.
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường vận hành hoàn hảo khi hàng hóa (dịch vụ) được phân phối một cách có hiệu quả thông qua giá cả. Tuy nhiên, hầu hết thị trường lao động đều chưa vận hành hoàn hảo. Chẳng hạn tiền lương (giá cả của lao động) không phải hoàn toàn do các lực lượng cạnh tranh trên thị trường quyết định. Vì vậy, việc nghiên cứu đặc điểm của thị trường lao động nữ có ý nghĩa trong định hướng phát triển thị trường lao động nữ và hoạch định các chính sách lao động-việc làm nhằm khai thác tối ưu nguồn lực lao động nữ cho phát triển kinh tế.
2.2.1 Đại bộ phận việc làm của lao động nữ là trong khu vực nông nghiệp.
Việc làm của lao động nữ trong nông nghiệp ở nước ta có xu hướng giảm theo thời gian nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Khi nền kinh tế phát triển, với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm xuống thì lực lượng lao động nữ trong nông nghiệp cũng sẽ giảm xuống. Như vậy, mức độ phân bố lại lực lượng lao động nữ giữa khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc nhiều vào mức độ phát triển của nền kinh tế.
2.2.2 Số người tự làm việc còn chiếm đa số.
Khi nói đến thị trường lao động thường nói đến “việc làm được trả công” và “tự làm”.
Việc làm được trả công này sinh trong quá trình mua bán sức lao động và nó phụ thuộc vào cả 2 yếu tố cung và cầu lao động. Điều này khác với trường hợp người lao động tự bản thân họ khai thác sức lao động của mình mà không cần có bất cứ sự trao đổi nào - họ được coi là “người tự làm việc”. Quy mô của “người tự làm việc” phụ thuộc phần lớn vào yếu tố cung lao động.
Ở nước ta, “người tự làm việc” cũng rất đông đảo. Đa số họ hoạt động trong khu vực nông nghiệp và có nhiều lao động nữ tham gia.
Việc giảm tỷ lệ “người tự làm việc” ở khu vực nông nghiệp – nông thôn một mặt, phụ thuộc vào quỹ đất đai, chính sách đất đai, các yếu tố văn hóa, xã hội và mặt khác còn phụ thuộc vào qui trình chuyển dịch cơ cấu sản lượng ngành nông nghiệp trong GDP.
Trong khu vực thành thị, tỷ lệ “người tự làm việc” có xu hướng giảm đi khi nền kinh tế phát triển và quá trình công nghiệp hóa được tiến hành với quy mô mở rộng.
2.2.3 Thị trường lao động nữ bị phân mảng.
Trong nền kinh tế thị trường phát triển, lao động nữ được di chuyển khá linh hoạt giữa các ngành nghề và khu vực kinh tế khác nhau do vậy sự chênh lệch về tiền lương giữa các khu vực có xu hướng giảm đi và thị trường lao động bị chia cắt. Tuy nhiên ở nước ta có sự chênh lệch rất đáng kể về mức độ tiền lương và các điều kiện lao động giữa khu vực thành thị và nông thôn; giữa khu vực chính thức và khu vực không chính thức hay nói cách khác, thị trường lao động nữ bị phân mảng và là sự tập hợp của các thị trường. Mỗi thị trường có cơ chế vận động khác nhau, khả năng chuyển đổi việc làm giữa các thị trường này thường là rất khó khăn.
2.3 Cơ cấu việc làm và thị trường lao động ở nước ta.
2.3.1 Thị trường lao động khu vực thành thị chính thức
Khu vực thành thị chính thức là khu vực bao gồm các tổ chức (đơn vị) kinh tế có quy mô tương đối lớn và hoạt động ở nhiều lĩnh vực như sản xuất (công nghiệp, xây dưng); dịch vụ (ngân hàng, bảo hiểm, giáo dục, y tế, du lịch…)và lĩnh vực quản lý.
Các tổ chức (đơn vị) này trong quá trình hoạt động có đặc điểm.
- Hoạt động theo luật và quy định của Nhà nước, chẳng hạn như quy định về lương tối thiểu, an toàn lao động, đền bù cho người lao động…
- Dễ dàng tiếp cận với các nguồn lực (vốn, công nghệ, lao động có trình độ).
- Có cơ cấu tổ chức tương đối hoàn chỉnh (ban lãnh đạo, các phòng – ban chức năng, phân xưởng sản xuất).
- Phải làm nghĩa vụ thuế với Nhà nước (thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân).
Xu hướng phổ biến là người lao động luôn chờ đón cơ hội được làm việc ở khu vực chính thức. Vì họ có được việc làm và thu nhập tương đối ổn định. Tuy nhiên, mức cung về việc làm hay cầu lao động là tăng chậm do vậy tại thị trường lao động khu vực thành thị chính thức luôn có dòng người chưa có việc làm đang chờ việc làm.
2.3.2 Thị trường lao động khu vực thành thị không chính thức.
Khu vực không chính thức thường được sử dụng gắn với các cụm từ như “kinh tế ngầm”, “kinh tế không chính thức”.
Khu vực không chính thức là khu vực kinh tế bao gồm các tổ chức (đơn vị) có quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ, hoạt động rất đa dạng. Hoạt động kinh tế của khu vực không chính thức có một số đặc điểm sau:
- Là khu vực kinh tế có tính dễ thâm nhập.
- Hoạt động không theo luật và phần lớn không có đăng ký.
- Không chịu sự quản lý, điều tiết trực tiếp của Nhà nước, chẳng hạn không chịu sự điều tiết của các chính sách thị trường lao động.
So với các doanh nghiệp trong khu vực thành thị chính thức, các doanh nghiệp trong khu vực không chính thức có đặc điểm:
+ Quy mô hoạt động nhỏ bé, có thể chỉ bao gồm một người chủ và vài công nhân hoặc các thành viên hộ gia đình không trả lương.
+ Hạ tầng cơ sở cho sản cuất yếu kém, đặc biệt là địa điểm kinh doanh (chật hẹp, hay di chuyển); nguồn lực tài chính hạn hẹp; khó tiếp cận với công nghệ mới. Việc làm ở khu vực phi chính thức không nhất thiết đòi hỏi người lao động phải có trình độ chuyên môn, kỹ năng, tay nghề cao mà chủ yếu là cần có kinh nghiệm trong công việc.
Khu vực này có thể tạo được việc làm cho những người di cư từ nông thôn ra. Tuy nhiên đa số những người làm việc trong khu vực thành thị không chính thức là người dân ở thành thị không có vốn để sản xuất kinh doanh và trình độ chuyên môn của họ thấp hoặc không có. Thâm nhập vào khu vực thành thị không chính thức là điều dễ dàng, chỉ với một số vốn nhỏ người ta có thể bán hàng rong ngoài phố, đạp xích lô hoặc làm một loạt các công việc khác. Đối với những người không có vốn cần thiết để tự tạo việc làm, thì vẫn có cơ hội làm việc cho những người khác. Do đó khu vực thành thị không chính thức có khả năng cung cấp một khối lượng lớn việc làm nhưng với mức tiền công thấp và có khuynh hướng ở trạng thái cân bằng. Tuy tiền công ở khu vực này là thấp nhưng thực tế cho thấy, đa số dân thành thị , kể cả những người di cư từ nông thôn ra đều có mức thu nhập trung trình cao hơn khu vực nông thôn.
2.3.3 Thị trường lao động trong khu vực nông thôn
Khu vực nông thông là khu vực mà việc làm chủ yếu trong nông nghiệp, việc làm phi nông nghiệp (công nghiệp chế biến, dich vụ…) chiếm tỷ lệ nhỏ. Xu hướng chung là, khi kinh tế phát triển, khu vực nông thôn phát triển, việc làm phi nông nghiệp tăng ở khu vực nông thôn, thị trường lao động khu vực nông thôn sẽ phát triển sôi động hơn.
Thị trường lao động khu vực nông thôn có những đặc điểm sau:
Người lao đông chủ yếu làm việc trong kinh tế hộ gia đình, lao động tự làm là chính. Mục đích làm việc là để góp phần cùng các thành viên khác trong gia đình tăng sản lượng (tăng thu nhập). Quan hệ làm công ăn lương chưa phát triển.
Cung lao động khu vực nông thôn co giãn nhiều vì khu vực này có tỷ lệ tăng dân số nhanh so với khu vực thành thị. Cầu lao động lại ít co giãn vì cơ cấu sản xuất nông thôn chậm thay đổi, các nguồn lực cho sản xuất bị hạn chế.
Tiền công ở thị trường này được xác định ở điểm cân bằng. Điều này cũng phản ánh người lao động luôn tìm được việc làm. Họ chấp nhận việc làm giản đơn, nặng nhọc và tiền công thấp và thấp hơn mức tiền công ở khu vực thành thị không chính thức.
Thị trường lao động ở khu vực nông thôn ở nước ta có những đặc trưng sau:
Là thị trường phôi thai, quan hệ thuê mướn lao động, quan hệ làm công ăn lương chưa phát triển. Sự thỏa thuận trong quan hệ thuê mướn lỏng lẻo, thường không có hợp đồng lao động, hình thức đổi công làm thuê theo công nhật, vụ việc là chính.
Quan hệ cung cầu lao động ở nông thôn thể hiện sự dư thừa lao động tiềm cũng có ý nghĩa là ở tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng.
Thị trường lao động khu vực nông thôn phát triển ở trình độ thấp: tiền công (trả cho lao động phổ thông, lao động đại trà) trên thị trường rất thấp; tính cạnh tranh không cao; tính linh hoạt và thích ứng của lao đông là rất hạn chế.
3. Lao động nữ
3.1 .Các yếu tố ảnh hưởng đến việc làm của lao động nữ.
3.1.1 Các yếu tố chủ quan.
1> Trình độ học vấn của lực lượng lao động nữ.
Năm 2005, trong tổng lược lượng lao động (LLLĐ) nữ của nước ta (21.624.211 người) có 5,06% số người chưa biết chữ (mù chữ); 14,25% số người chưa tốt nghiệp phổ thông cơ sở (TN PTCS); 19,62% số người tốt nghiệp phổ thông trung học (TN PTTH). Số liệu trên cho thấy trình độ học vấn của LLLĐ nữ còn thấp do tỷ lệ lao động nữ mù chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học còn cao, chiếm tới 20% hay 1/5 LLLĐ nữ. Tỷ lệ này của lao động nữ cao hơn so với tỷ lệ tương ứng của LLLĐ (20% so với 15%)
Biểu 1: Tình độ học vấn của lực lượng lao động nữ
Đơn vị : %
Trình độ
học vấn
2000
2005
2006
Nam
Nữ
Nữ/TS
Nam
Nữ
Nữ/TS
Nam
Nữ
Nữ/TS
Toàn quốc
100,0
100,0
49,65
100,0
100,0
48,72
100.0
100,0
48,59
Mù chữ
2,97
5,06
62,67
3,06
5,06
61,09
2,64
4,40
61,12
Chưa TNTH
14,65
18,33
55,24
11,98
14,25
53,05
11,13
13,70
53,79
TNTH
29,53
29,04
49,24
28,93
29,23
48,97
33,01
34,64
49,80
TN THCS
33,90
32,07
48,26
33,27
31,84
47,62
28,19
25,42
46,01
TN THPT
18,95
15,50
44,64
22,76
19,62
45,03
24,58
22,27
46,14
(Nguồn: số liệu thống kê Việc làm-thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1996-2005, NXB LĐXH, 2006; số liệu điều tra lao động – việc làm 2006, bộ LĐ-TBXH)
Trong giai đoạn 2000-2005, cơ cấu trình độ học vấn của lao động nữ đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực song còn chậm: tỷ lệ lao động có trình độ học vấn TN THCS và TN THPT có xu hướng tăng nhẹ, từ 31% lên 32% (TN THCS) và từ 15,5% lên 19,6 % (TN THPH); tỷ lệ lao động nữ có trình độ từ tiểu học trở xuống đã giảm nhẹ (từ 23,4% xuống 20%). Tuy nhiên, tỷ lệ lao động nữ mù chữ không giảm, vẫn giữ nguyên mức 5,06 %.
Có sự khác biệt không nhỏ về trình độ học vấn của LLLĐ nữ giữa khu vực thành thị và nông thôn – Năm 2005, ở khu vực thành thị, cứ 100 người tham gia lực lượng lao động nữ thì có khoảng 43 người tốt nghiệp PTTH cao gấp 3,5 lần so với chỉ số này ở nông thôn. Trong khi đó, tỷ lệ mù chữ ở nông thôn lại cao gấp 4 lần so với khu vực thành thị. Trong giai đoạn 2000-2005, nhìn chung trình độ học vấn của lao động nữ ở cả khu vực thành thị và nông thôn đều được nâng lên, tuy nhiên mức độ cải thiện chưa nhiều – Năm 2005, tỷ lệ tốt nghiệp PTTH là 43,25% ở khu vực thành thị và 12% ở khu vực nông thôn, tăng tướng ứng 5,86 và 2,71 điểm phần trăm so với năm 2000. Trong khi đó, tỷ lệ lao động nữ mù chữ giảm không đáng kể ở khu vực thành thị, thậm chí ở khu vực nông thôn tỷ lệ này còn tăng them 0,15% lên mức 6,21% ở năm 2005. Điều đó cho thấy, hiện tượng tái mù chữ trong LLLĐ nữ ở khu vực nông thôn đang là vấn đề được quan tâm.
Nhìn chung, trình độ học vấn của LLLĐ nữ thấp hơn so với của LLLĐ nam – Năm 2005, tỷ lệ lao động nữ ở các trình độ từ tốt nghiệp tiểu hiểu học trở xuống (mù chữ, chưa tốt nghiệp tiểu học, tốt nghiệp tiểu học) trong tổng LLLĐ nữ đều cao hơn so với các tỷ lệ tương ứng ở LLLĐ nam lần lượt là 2; 2,27 và 0,29 điểm phần trăm. Trong khi đó, ở các nhóm trình độ cao hơn (TN THCS, TN PTTH), tỷ lệ lao động nữ lại thấp hơn so với các tỷ lệ tương ứng của lao động nam, lần lượt là 1,43 và 3,14 điểm phần trăm. Tuy nhiên các khoảng các này thường có xu hướng hẹp lại trong giai đoạn 2000-2005 (hình 1).
Hình 1: Khoảng cách về trình độ học vấn giữa lao động nữ và lao động nam từ đủ 15 tuổi trở lên, năm 2000 và 2005 (ĐV: điểm phần trăm)
Nguồn: số liệu điều tra lao động việc làm 2000, 2005-bộ lao động, thương binh và xã hội.
2> Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nữ.
Năm 2005, cả nước có 4.501.788 lao động nữ có trình độ chuyên môn kỹ thuật (TĐ CMKT), chiếm 20,82% trong tổng LLLĐ nữ. Trong đó, số lao động nữ có trình độ sơ cấp, học nghề và công nhân kỹ thuật (CNKT) không có bằng chiếm 9,17%; CNKT có bằng chiếm 1,66%; Trung học nghề và trung học chuyên nghiệp chiếm 4,72%; cao đẳng, đại học trỏ lên chiếm 5,26% trong tổng LLLĐ nữ. Tỷ lệ lao động nữ có TĐ CMKT thấp hơn so với tỷ lệ này của LLLĐ cả nước (20,82% so với 25,33%).
Biểu 2: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của LLLĐ theo giới tính năm 2005-2006
Đơn vị: %
CMKT
2005
TS
Nam
Nữ
TS
Nam
Nữ
Toàn quốc
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
Chưa qua đào tạo
74,67
70,38
79,18
68,45
63,55
73,63
Sơ cấp, học nghề và CNKT không bằng (đào tạo ngắn hạn)
11,56
13,83
9,17
19,35
23,88
14,55
CNKT có bằng
3,54
5,31
1,66
1,91
2,97
0,78
Trung học nghề, THCN
4,73
4,73
4,72
4,55
4,34
4,78
CĐ-ĐH trở lên
5,50
5,74
5,26
5,74
5,98
5,48
(Nguồn: số liệu thống kê Việc làm-thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1996-2005, NXB LĐXH, 2006; số liệu điều tra lao động – việc làm 2006, bộ LĐ-TBXH)
Ngược lại, năm 2005 số lao động nữ không có TĐ CMKT (lao động phổ thông) là 17.122.423 người, chiếm 79,19% trong tổng LLLĐ nữ ( hình 2). Tỷ lệ này cao hơn so với tỷ lệ chung của LLLĐ cả nước (79,19% so với 74,67%).
Hình2: cơ cấu lực lượng lao động nữ từ đủ 15 tuổi trở lên chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật, năm 2005 (ĐV: %)
(Nguồn: số liệu điều tra lao động việc làm 2000, 2005-bộ lao động, thương binh và xã hội).
Trong thời kỳ 2000-2005, LLLĐ nữ có TĐ CMKT tiếp tục gia tăng về số lượng và tỷ lệ - Tốc độ tăng LLLĐ nữ có TĐ CMKT bình quân hàng năm là 13,35% /năm và tỷ lệ lao động có TĐ CMKT trong tổng LLLĐ nữ tăng 8,28 điểm phần trăm từ năm 2000 (12,45%) đến năm 2005 (20,82%). Trong khi đó, đối với LLLĐ nữ không có TĐ CMKT, tỷ lệ trong tổng LLLĐ nữ có xu hướng giảm dần (từ 87,46% năm 2000 xuống còn 79,18% năm 2005) song về số lượng vẫn tiếp tục tăng nhẹ với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 0,4%/năm trong giai đoạn 2000-2005. Nhìn chung, trong giai đoạn 2000-2005, cơ cấu lao động nữ chia theo TĐ CMKT đã chuyển dịch tương đối nhanh, nhanh hơn rất nhiều so với cơ cấu lao động nữ chia theo trình độ học vấn.
Hiện nay, cơ cấu lao động nữ theo TĐ CMKT của Việt Nam chưa hợp lý – Tỷ lệ tương quan giữa lao động có trình độ tốt nghiệp Cao đẳng, Đại học trở lên/lao động có trình độ tốt nghiệp trung học nghề và trung học chuyên nghiệp/lao động đã qua đào tạo nghề (bao gồm đào tạo nghề ngắn hạn và dài hạn) của cả nước vào năm 2005 là 1 - 0,86 – 2,74 (của LLLĐ nam là 1 – 0,82 – 3,34). Trong khi đó, tỷ lệ tương quan này của LLLĐ nữ mới chỉ là 1- 0,9 – 2,06
Hình 3: Cơ cấu lực lượng lao động nữ từ đủ 15 tuổi trở lên chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật, của chung cả nước, thành thị và nông thôn, năm 2000-2005
(Nguồn: số liệu điều tra lao động việc làm 2000, 2005-bộ lao động, thương binh và xã hội.)
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của LLLĐ nữ giữa khu vực thành thị và nông thôn có sự khác biệt lớn. Tuy nhiên, tình trạng này đến năm 2005 đã tốt hơn nhiều so với năm 2000- Năm 2000, ở nông thôn, lao động nữ có TĐ CMKT chiếm 6,93%; ở thành thị tỷ lệ này là 32,12% lớn gấp 4,6 lần so với khu vực thành thị và khu vực nông thôn này đã giảm còn 3,4 lần (Tỷ lệ lao động nữ có TĐ CMKT ở thành thị là 44,84% so với tỷ lệ lao động nữ có TĐ CMKT ở nông thôn là 13,7%).
LLLĐ nữ có TĐ CMKT thấp hơn so với LLLĐ nam cả về số lượng và tỷ lệ tất cả các cấp trình độ- Năm 2005, số lượng LLLĐ nữ có TĐ CMKT chỉ bằng 66,79% lao động nữ có trình độ sơ cấp, học nghề và CNKT không có bằng và CNKT có bằng trong tổng LLLĐ nữ thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ này là LLLĐ nam (tương ứng -4,66;-3,65 và -0,01 và -0,48 điểm phần trăm). Trong khi đó, số lượng lao động nữ chưa qua đào tạo cao hơn 6,9% so với số lao động nal chưa qua đào tạo (17.122.423 người so với 16.017.572 người). Tỷ lệ lao động nữ chưa qua đào tạo trong tổng số LLLĐ nữ cũng cao hơn 8,8 điểm phần trăm so với tỷ lệ lao động nam chưa qua đào tạo (79,19% so với 70,38%). Tuy nhiên, xu hướng này thể hiện rõ hơn ở khu vực thành thị - khoảng cách về TĐ CMKT giữa lao động nam và lao động nữ ở khu vực thành thị lớn hơn so với ở khu vực nông thôn.
Hình 4: khoảng cách trong TĐ CMKT giữa lao động nam từ đủ 15 tuổi trở lên của chung cả nước, thành thị và nông thôn, năm 2005
Đơn vị: điểm phần trăm
(Nguồn: số liệu điều tra lao động việc làm 2005-bộ lao động, thương binh và xã hội.)
3.2> Về mặt sức khỏe
3.2.1 Các yếu tố chủ quan.
Các cuộc điều tra về thời gian làm việc của phụ nữ nông thôn cho thấy, thời gian làm việc trung bình của chị em trong ngày là khá cao: 12 giờ/ngày. Và có tới 83,4% trong số 504 nữ công nhân được khảo sát cho biết, họ phải làm thêm từ 10-15 giờ mỗi tuần, có 14% phải làm việc với thời lượng 10giờ/ca…
Hiện nay, phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong lực lượng lao động xã hội của đất nước. Cụ thể: Trong số 40 trên triệu lao động thì phụ nữ chiếm hơn 52%, tỷ lệ lao động nữ chiếm trên 70% ở ngành dệt may, 60% trong ngành chế biến lương thực, thực phẩm, 60% trong lĩnh vực y tế, 70% trong giáo dục phổ thông. Trong nông nghiệp, với gần 10 triệu hộ nông dân, tương ứng với 28 triệu lao động, thì phụ nữ chiếm tới 53,3%, còn ngành công nghiệp là._. 45%.
Là một lực lượng lao động hùng hậu, làm ra phần lớn của cải vật chất cho xã hội, song hiện trạng sức khỏe của phụ nữ ngày nay thật đáng lo ngại. Các cuộc điều tra về thời gian làm việc của phụ nữ nông thôn cho thấy, thời gian làm việc trung bình của chị em trong ngày là khá cao: 12 giờ/ngày. Con số này chỉ dao động đôi chút vào mùa vụ. Riêng với nữ nông dân ở miền Bắc, Bắc Trung Bộ và miền núi, thường làm việc 14 giờ/ngày. Phụ nữ cô đơn và phụ nữ nghèo là những người có ngày làm việc dài nhất, 16 giờ/ ngày. Cũng từ khảo sát trên còn cho biết chi tiết là phụ nữ nông thôn thường phải dành mất 6 giờ/ngày cho các công việc gia đình (nhiều gấp 12 lần so với nam giới). Do phải làm việc nhiều nên thời gian nghỉ ngơi của phụ nữ rất ít, hậu quả là nhiều phụ nữ bị kiệt sức, mỏi mệt, suy nhược cơ thể, đau yếu, sinh bệnh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, thậm chí cả tính mạng.
Bên cạnh thời gian lao động kéo dài, công tác bảo hộ lao động cho phụ nữ cũng chưa được quan tâm đúng mức. Ước tính hiện nay, chỉ có 41,7% doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về bảo hiểm lao động, do đó, gần một nửa phụ nữ hầu như không được huấn luyện định kỳ về bảo hộ lao động và chỉ có 1/3 số công nhân nữ biết các quy tắc an toàn vệ sinh lao động. Đáng lo hơn, gần 70% lao động nữ trong các doanh nghiệp thường xuyên phải tiếp xúc với các yếu tố độc hại. Tuy nhiên, số doanh nghiệp có cán bộ y tế cũng không nhiều. Theo ước tính, có khoảng 44% doanh nghiệp không tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho người lao động. Mặc dù chúng ta đã có những chính sách, những văn bản được chế định bằng pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho người lao động nhưng trên thực tế còn thiếu đồng bộ và chậm được thực thi nếu không muốn nói rằng, nó không được thực hiện chặt chẽ, đầy đủ ở nhiều nơi.
Thiết nghĩ, để bảo vệ sức khỏe, chế độ làm việc cho lao động nữ, cần phải có sự quan tâm hơn nữa của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là sự quan tâm của các cơ quan chuyên trách về vấn đề này như y tế, tổ chức công đoàn, tiền lương, bảo hiểm v.v… Đồng thời, Nhà nước cần nâng cao hơn nữa hiệu lực của Luật Lao động, tăng cường, đầu tư thêm các cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ quan, xí nghiệp trong phạm vi quản lý để giảm thiểu môi trường làm việc độc hại cho công nhân lao động, có thêm những chính sách, chế độ ưu tiên cần thiết cho công nhân viên chức, đặc biệt là giới nữ khi hoạt động trong môi trường độc hại. Bảo vệ sức khỏe cho phụ nữ, chính là bảo vệ sức khoẻ cho các bà mẹ - bảo vệ cho con người mà họ là tiền thân của cả một thế hệ tương lai.
3.2.2 Các yếu tố khách quan
Ngoài các yếu tố chủ quan bên trên, lao động nữ cũng bị tác động rất nhiều từ các nhân tố khác quan, nó được thể hiện rõ nhất từ việc nhận thức từ phía người lao động.
Do điều kiện và nhận thức của tường hộ gia đình, các trẻ em gái có xu hướng bỏ học và đi làm sớm (nhất là ở vùng nông thôn). Tình trạng này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng lao động nữ trong công việc và khó có thể đáp ứng được các đòi hỏi của sự nghiệp Ngoài trình độ tay nghề thấp, đa số lao động nữ có tình trạng sức khỏe kém hơn nam. Do phải đảm nhậh chức năng sinh đẻ, nên lao động nữ phải mất hàng thập kỷ để tái hồi lại, cho nên bị hạn chế về mặt sức khỏe. Vì vậy phụ nữ chỉ có thể làm việc ở một số nghề và một số công việc nhất định phù hợp với khả năng của lao động nữ.
Bên cạnh đó nữ dêc bị mắc bệnh nghề nghiệp và tỷ lệ tai nạn lao động của nữ cao hơn nam giới. Điều đó được thể hiện dước bảng sau:
Bảng : Tỷ lệ lao động mắc bệnh nghề nghiệp và tai nạn lao động
Bệnh nghề nghiệp
Tai nạn lao động
Nghi bị bệnh
Đã giám đinh
QD: Nữ
Nam
10,34
37,5
10,34
0,00
0,00
0,00
NQD: Nữ
Nam
14,29
0,00
0,00
0,00
20,00
25,00
Chung: Nữ
Nam
10,77
15,00
9,23
0,00
1,59
8,33
(Nguồn: trung tâm NCKH lao động nữ)
Mặt khác, tính cơ động (cả về mặt địa lý và nghề nghiệp) của lao động nam là cao hơn nữ. Nữ thường chịu nhiều ảnh hưởng của phong tục tập quán và đặc biệt là gánh nặng gia đình. Vai trò làm vợ, làm mẹ tỏng gia đình không cho phép chị em di chuyển đi tìm việc làm tốt hơn. Chính vì vậy phụ nữ ít có điều kiện và cơ hội để tiếp cận với nguồn thông tin tuyển dụng lao động. Và điều này hạn chế khả năng có việc làm của phụ nữ được thể hiện ở bảng sau đây:
Bảng: nguồn tiếp cận thông tin tuyển lao động của người lao động (%)
Báo chí, TV
Người nhà, quen giới thiệu
Trung tâm giới thiệu
Khác
QD: Nữ
Nam
13,64
28,57
68,18
71,43
2,27
0,00
15,91
0,00
NQD: Nữ
Nam
0,00
16,67
71,43
58,33
0,00
0,00
28,57
25,00
Chung: Nữ
Nam
11,76
21,00
68,63
63,16
1,96
0,00
17,65
15,79
Nguồn: trung tâm NCKH lao động nữ
Hơn nữa phụ nữ còn hay tự ty, không dám mạnh dạn tin vào khả năng của mình và họ hay tự bằng long với chính mình. Trong điều kiện áp lực thất nghiệp cao thì bản thân lao động nữ không đủ tư thế để đòi hỏi chủ doanh nghiệp thực hiện các chế độ theo luật định. Kết quả khảo saot thực tế cho thấy các chế độ nghỉ theo quy định cho nữ đều bị vi phạm nhưng lao động nữ đã không có bất cứ ý kiến nào. Điều này có thể gặp ở các xí nghiệp nhà nước nơi người ta giải thích rằng sở dĩ phụ nữ nghỉ thai sản ngắn hơn so với thời gian cho phép là vì các chị tự nguyện đi làm sớm hơn cũng tương tự như trường hợp các chị xin tự nguyện làm dưới hầm mỏ và nạo vét rỉ tàu những công việc cấm lao động nữ. Những điều này có lý do của nó. Khi phụ cấp thai sản và bảo hiểm xã hội không đủ để nuôi ít nhất là hai mẹ con thì việc cho phép đi làm cũng như khi đứng trước nguy cơ thất nghiệp thì thà làm việc độc hại còn hơn là để con bị đói.
Khi xem xết sự yếu kém của phụ nữ không chỉ đơn thuần nói về khả năng thấp kém thể hiện ra của họ. Bởi vì nữ còn sống trong một xã hội cả nam và nữ chịu ảnh hưởng của những tập tục của xã hội ấy. Cho nên cần xết đến một số yếu tố khác có ảnh hưởng tới cơ hội việc làm và thu nhập cao của nữ.
Dưới con mắt đàn ông là cái nhìn thiên lệch thì đàn bà là những khách thể phụ thuộc được đại diện bởi đàn ông. Đời sống hành động cách nghĩ và tình cảm của phụ nữ là những thứ vụn vặt thứ yếu hoặc không cần gây sự chú ý, hoặc không cần thiết phải xem xét cụ thể. Còn vai trò của người chồng là người chủ, đóng góp chính cho thu nhập gia đình. Chính vì thế mà nó đã làm ảnh hưởng tới việc phát huy tiềm năng của phụ nữ, điều này vẫn còn tồn tại khá nhiều trong những gia đình nông dân ở Việt Nam.
Sự chênh lệch về cơ hội có việc làm và việc làm có thu nhập cao có thể giải thích bằng sự khác biệt về phân bố thời gian lao động trong ngày giữa phụ nữ và nam giới. Phụ nữ phải giành nhiều thời gian hơn cho những công việc không được tính công trong công việc gia đình. Trong khi đó nam giới đầu tư nhiều thời gian vào công việc được xã hội trả công. Các chị đòi hỏi công bằng và bình đẳng ở đây không phải là vợ và chồng phải làm một khối lượng các công việc gia đình là như nhau mà là sự kết hợp hài hòa các công việc gia đình giữa vợ và chồng. Đặc biệt là thái độ của nam giới phải biết thông cảm và tôn trọng vợ, giúp đỡ họ có điều kiện để học tập, nâng cao trình độ có cơ hội tham gia lao động sản xuất.
Kết quả nghiên cứu ngẫu nhiên trên 417 người trong đó có 336 nữ và 81 nam cả lao động trực tiếp và gián tiếp của hội liên hiệp phụ nữ Hà Nội (1/1999) cho thấy nữ công nhân lao động đảm nhận hầu như gần hết việc nhà với sự khác biệt được thống kê rõ rệt:
- Đi chợ hàng ngày: 78,3% trong khi nam giới chỉ có tỷ lệ nhỏ 11,11% xu hướng phải đi chợ hàng ngày của nữ cao gấp 28,8 lần so với nam.
- Giặt giũ: 91,1% nữ so với 8% nam giới có xu hướng nữ cao hơn nam 93,1 lần.
- Việc nấu ăn: 91,1% nữ phải nấu ăn so với 16,05 nam phải nấu ăn,có nguy cơ cao hơn 53,4 lần nam.
- Thời gian nghỉ ngơi trê 6h của nữ ít hơn nam nhiều (46,4% so với 98,77%) có nguy cơ giảm xuống dưới 6h gấp 1,3 lần nam.
Lao động gia đình tuy không trực tiếp làm ra sản phẩm hàng hóa, nhưng giá trị dịch vụ của nó vẫn đóng góp trong tổng sản phẩm xã hội. Nếu nhìn từ góc đọ gia đình thì đó là khoản tiền tiết kiệm, lẽ ra phải được tính vào khoản tiền thu nhập của người phụ nữ, bởi nó cũng đòi hỏi phải tiêu hao thời gian, sự huy động sức lực cơ bắp và trí tuệ con người. Còn theo điều tra phỏng vấn thực tế ở xã hội Huyền Linh huyện Sóc Sơn Hà Nội thì thấy đa số phụ nữ ở đây phải làm việc từ 14 đến 15 giờ/ngày trong khi nam giới chỉ làm việc từ 7 đến 8 giờ/ngày còn lại là thời gian dành cho đọc báo, xem ti vi hoặc đi chơi bạn bè…
Nhưng hầu hết các cuôc điều tra khảo sát mức thu nhập bình quân của vợ và chồng trong ra đinh người ta chỉ tính đến sự đóng góp của việc cho ra đời những sản phẩm lao động sản xuất còn lao động gia đinh thì không được tính công. Vì thế số giờ lao động của phụ nữ trong gia đình cao hơn chồng rất nhiều nhưng mức thu nhập vẫn được tính giá quá thấp.
3.3. Vai trò của lao động nữ đối với sự phát triển của kinh tế xã hội
Lao động nữ nước ta chiếm 51% lực lượng lao động toàn quốc (Nguồn:1996) và tham gia vào mọi ngành, mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Đặc biệt, trong nhiều ngành nghề, phụ nữ chiếm tỷ lệ cao, giữ vai trò quyết định trong sản xuất và phát triển. Sau đây chúng ta xem xét vai trò của lao động nữ trong nhóm ngành kinh tế.
Thứ nhất, trong nhóm ngành dịch vụ, lao động nữ đóng góp có tính chất quyết định bởi họ có ưu thế hơn hẳn nam giới trong lĩnh vực này, đặc biệt là ở các ngành như giáo dục, y tế, ngân hàng, thương nghiệp, vật tư, văn phòng, tiếp tân, bưu điện…Đó là ngành thuộc nhà nước quản lý còn ở lĩnh vực dịch vụ tự do hoặc khu vực “phi kết cấu” thì sao? Theo điều tra của Viện Khoa học Lao động và các vấn đề xã hội, khoảng 60% lao động việc làm trong khu vực phi chính thức là phụ nữ và từ 40-60% chị em hoạt động trong ngành thương mại (tiểu thương và cửa hàng ăn uống nhỏ) (năm 1999). Phụ nữ ngành giáo dục đào tạo chiếm 67,1%, y tế bảo hiểm, may mặc chiếm 63,7%.
Thứ hai, trong ngành công nghiệp (43,2%) và xây dựng (26%) đều có sự tham gia đông đảo của lao động nữ. Ở đây, ngoài việc làm bình đẳng với nam giới, phụ nữ phải làm các công việc nặng nhọc, độc hại như làm đường, gõ gỉ, sơn, phị hồ hoặc làm hóa chất độc hại….Đó là những thiệt thòi, song họ cũng đã khặng định vai trò của mình trong sự phát triển của đất nước. Nhà nước cũng cần chính sách nhằm cải thiện điều kiện làm việc, hạn chế những ảnh hưởng xấu tới sức khỏe mọi người nói chung và lao động nữ nói riêng.
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, mặc dù còn có nhiều khó hăn hơn so với nam giới (bởi họ còn phải đảm đương những thiên chức của người phụ nữ) nên người phụ nữ ít có thời gian tham gia vào các công việc khác. Song họ vẫn cố gắng vươn lên và đạt được nhiều thành tích trong nghiên cứu khoa học, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Trong công tác lãnh đạo, mặc dù chiếm một tỷ lệ khiêm tốn song nhiều người đã tỏ ra rất có năng lực, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh đã tạo ra việc làm cho bản thân và cho nhiều người khác. Ngay cả việc tham gia các cấp chính quyền, là đại biểu quốc hội, phụ nữ cũng ngày càng khẳng định vai trò lớn của mình.
Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, nữ chiếm 53,2% lực lượng lao động ở ngành này. Chị em, người lao động chủ yếu, thường phải đảm bảo 2/3 các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp.
Đối với các công tác KHHGĐ, góp phần làm giảm tỷ lệ tăng dân số thì cũng không thể phủ nhận vai trò của người phụ nữ trong công tác này.
Tất cả những thành tựu trên đều có sự đóng góp quan trọng của lao động nữ, đặc biệt là trong lĩnh vực xóa đói – giảm nghèo, giúp nhau làm kinh tế gia đình thì người phụ nữ đóng vai trò tiên phong và chủ mực.
CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP TỚI
LAO ĐỘNG NỮ
I. Hội nhập kinh tế quốc tế.
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập sâu vào kinh tế thế giới.
Quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới được thể hiện qua sự lưu chuyển tự do của các luồng hang hóa và dịch vụ, các yếu tố đầu vào như vốn, công nghệ, lao động. Trong thập kỷ vừa qua, quá trình toàn cầu hóa, khu vực diễn ra nhanh chóng, các rào cản về thương mại, tài chính giữa các nước trên thế giới được dỡ bỏ. Tự do hóa thương mại diễn ra ở mọi cấp độ, song phương, khu vực, đa phương. Phạm vi hợp tác các hiệp định thương mại tự do (FTA) cũng ngày càng mở rộng.
Hội nhập kinh tế thế giới là thách thức với mọi nền kinh tế, kể cả các nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam. Thách thức này càng khắc nghiệt hơn khi chúng ta là một nước đang phát triển đồng thời là nền kinh tế chuyển đổi.
Hội nhập thế giới, nền kinh tế Việt Nam phải chuyển đổi để dần thích nghi với môi trường cạnh tranh trên “sân chơi” của 150 nước thành viên WTO. Để hội nhập sâu rộng vào “sân chơi” đó Việt Nam đã và đang thực hiện các cam kết của mình. Công tác cải cách hành chính được tăng cường. Hệ thống pháp luật từng bước được đổi mới, phù hợp với chuẩn mực quốc tế hơn. Đã có khoảng 30 luật và pháp lệnh được sửa đổi cho phù hợp với các nguyên tắc và quy định của WTO.
Về cắt giảm thuế, mở cửa thị trường, Việt Nam đang thực hiện theo lộ trình và kết thúc và 7 nam sau khi ra nhập. Bước đầu đã xóa bỏ trợ cấp trực tiếp đối với các ngành xuất khẩu và giảm thuế suất nhập khẩu đối với một số nhóm hang quy định trong cam kết.
1.2 Hội nhập mang đến cho Việt Nam nhiều cơ hội lớn
Hội nhập thế giới Việt Nam có điều kiện mở rộng các thị trường sang các nước thành viên, nhờ đó nhiều triển vọng mới và động cơ mới được tái tạo ra để thu hút đầu tư cho phát triển, bao gồm cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam cũng có cơ hội đầu tư ra nước ngoài.
Hội nhập thế giới các doanh nghiệp có thể tiếp cận đến các nguồn nguyên liệu thô thuận lợi hợn và các dịch vụ hỗ trợ với chất lượng cao hơn, giúp tăng hiệu quả sản xuất và kinh doanh cũng như phát triển các hoạt động xuất, nhập khẩu.
Việt Nam đã đạt được vị thế mới trên trường quốc tế, bình đẳng hơn với các thành viên khác, tạo điều kiện cho đất nước tham gia vào quá trình hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, được đối sử công bằng trong các vụ giải quyết tranh chấp, tham gia xây dựng và phát triển cơ chế hợp tác song phương và đa phương.
1.3 Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức
Việt Nam chịu áp lực cạnh tranh ở ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Các sản phẩm và dịch vụ có sức cạnh tranh kém sẽ mất thị phần. Các doanh nghiệp có sức cạnh tranh yếu sẽ phải cắt giảm sản xuất và kinh doanh hoặc chịu nguy cơ phá sản, dẫn đến tình trạng người lao động bị thất nghiệp. Chính sách, luật pháp và quản lý kinh tế vĩ mô nếu không được cải thiện sẽ gây khó khăn và tạo ra các rào cản cho các hoạt động sản xuất và kinh doanh.
Việc hội nhập thế giới sẽ dẫn tới quá trình ngày càng gia tăng sự phụ thuộc vào nền kinh tế toàn cầu. Biến động giá cả trên thị trường thế giới như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc chữa bệnh; tình hình kinh tế của các bạn hàng thương mại chính và các sự kiện chính trị cũng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Do các ảnh hưởng không đồng đều từ bên ngoai, sẽ có một bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn khiến khoảng cách ngày càng tăng trong xã hội, gây ra mất ổn định xã hội. Những thay đổi trên thị trường quốc tế sẽ có tác động mạnh hơn và nhanh hơn đến thị trường nội đia; nếu không có những chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp cùng với thiếu năng lực dự báo và phân tích, thiếu khả năng kiểm soát và giải quyết vấn đề, những bất ổn của thị trường hoặc thậm chí là khủng hoảng tài chính, kinh tế sẽ xuất hiện.
Việt Nam vẫn phải chịu tình trạng là “một nền kinh tế phi thị trường” trong 12 năm kể từ khi là thành viên chính thức, do bị áp đặt điều khoản về kinh tế phi thị trường. Việt Nam sẽ chịu nhiều thiệt hại khi gặp phải các tranh chấp thương mại liên quan đến biện pháp đối kháng và chống bán phá giá. Số vụ kiện phá giá sẽ gia tăng, đặc biệt là ngay cả khi trở thành thành viên của WTO.
Hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách cho việc bổ sung và hoàn thiện thể chế. Trong thời gian qua, mặc dù đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp luật có liên quan đến kinh tế và thương mại nhưng chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư và phát huy mọi tiềm lực của tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời không ngừng hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã làm bộc lộ nhiều bất cập của nền hành chính quốc gia. Do một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hóa nên khi hội nhập thế giới, nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự thay đổi theo hướng công khai hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của mọi người dân, trong đó có doanh nghiệp và doanh nhân, lấy người dân, doanh nghiệp, doanh nhân là trong tâm phục vụ, khắc phục mọi biểu hiện trì trệ, thờ ơ và vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một nền hành chính như vậy thì chẳng những không tận dụng được các cơ hội do hội nhập kinh tế nói chung và việc hội nhập thế giới nói riêng đem lại mà cũng không chống được tham nhũng, lãng phí nguồn lực.
II. Bối cảnh Việt Nam thời kỳ 2011-2020.
Thời kỳ 2011-2020 là thời kỳ nước ta thực hiện đầy đủ cam kết đã ký với các nước và tổ chức quốc tế. Tự do hóa thương mại hàng hóa dịch vụ, mở cửa đầu tư nhiều lĩnh vực; thực hiện nghiêm ngặt các quy định về bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ môi trường và các cam kết khác.
Kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu và khu vực. Mỗi biến động tích cực hoặc tiêu cực của nền kinh tế thế giới đều có những tác động nhiều mặt đến kinh tế Việt Nam.
Chính vì vậy, tôi chọn mốc thời gian này để làm rõ sự tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến việc làm của lao động nữ thông qua các cam kết khi Việt Nam tham gia hội nhập.
1. Triển vọng kinh tế thế giới giai đoạn 2011-2020.
Về triển vọng kinh tế thế giới giai đoạn 2011-2020, các tổ chức nghiên cứu kinh tế và các chuyên gia thế giới đã đưa nhiều kịch bản khác nhau nhưng đều nhận định rằng kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng và phát triển lạc quan trên các lĩnh vực sau đây:
Tăng trưởng GDP
Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), khối lượng GDP toàn cầu sẽ từ 32 nghìn tỷ USD tăng lên 42 nghìn tỷ USD vào năm 2015 và 53 nghìn tỷ USD (theo giá năm 2000) vào năm 2020. Theo dự báo cua Cơ quan tình báo kinh tế Anh, quy mô nền kinh tế toàn cầu năm 2020 so với năm 2005 sẽ tăng khoảng 66% (với tốc độ tăng trung bình mỗi năm khoảng 3,5%/năm – chỉ tiêu này năm 2005 là 4,8%, năm 2006: 5,4%); còn theo hiệp hội đồng tình báo quốc gia Mỹ (NIC) quy mô kinh tế thế giới sẽ tăng 80% so với năm 2000, thu nhập bình quân đầu người của cả thế giới tăng hơn 50% (năm 2004, GDP bình quân đầu người toàn thế giới, theo giá thực tế 6393 USD; theo sức mua tương đương 8760 USD, riêng 55 nước và vùng lãnh thổ có thu nhập cao theo cách phân loại của LHQ: 30970 USD, còn 60 nước có thu nhập thấp (trong đó có Việt Nam) là 2260 USD.
Thương mại thế giới
Thương mại thế giới giai đoạn 2011-2020 tăng nhanh, đạt tốc độ 7,5%/năm sẽ chiếm 45% GDP. Giá trị xuất khẩu của toàn thế giới từ mức 9 nghìn tỷ USD năm 2005 sẽ tăng lên 20 nghìn tỷ USD (gần bằng 410 lần trị giá xuất khẩu của Việt Nam năm 2007).
Đầu tư
Đầu tư từ 2011 đến 2020, tiếp tục gia tăng luồng vốn đầu tư giữa các quốc gia, đặc biệt là FDI. Dự báo FDI toàn cầu hàng năm trong thời kỳ 2007-2011 sẽ đạt 1,5 nghìn tỷ USD (mức trung bình thời kỳ 2002-2006 là 843 tỷ USD); ngoài ra, đầu tư gián tiếp cũng sẽ tăng, chủ yếu vào thị trường chứng khoán của nước ngoài và nguồn vốn ODA sẽ tăng, các nước thành viên EU đã đồng ý tăng ODA từ 0,39% thu nhập quốc gia mỗi nước lên 0,56% năm 2010 và 0,7% thu nhập quốc gia của 15 nước thành viên ban đầu như đã cam kết nhằm đạt mục tiêu hỗ trợ của LHQ (tuy tỷ lệ phần trăm ODA năm 2015 lớn hơn nhiều so với ODA của năm 2005). Quá trình chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia gia tăng cùng nhiều với sự chuyển dịch các vốn đầu tư giữa các quốc gia, các vùng, khu vực…Đầu tư vào các nước đang phát triển thông qua hình thức M&A giữa các tập đoàn kinh tế sẽ tăng thêm và ngay trong một quốc gia hình thức M&A cũng gia tăng, các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia (TNC) sẽ tăng thêm không chỉ về số lượng mà cả về quy mô.
Dịch chuyển trung tâm kinh tế
Thế giới phát triển theo chiều hướng đa cực, song Mỹ vẫn tiếp tục giữ vị trí đầu tầu. Đến năm 2004, Mỹ đứng thứ nhất về tổng GDP (11668 tỷ USD, chiếm 28,5% GDP thế giới), về GDP bình quân đâu người theo sức mua tương đương 39710 USD), xuất khẩu đạt 819 tỷ USD chiếm 9,05% trị giá xuất khẩu toàn thế giới. Nhưng với sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới khoảng cách giữa Mỹ với các nước đứng thứ hai, thứ ba, thứ tư sẽ thu hẹp lại, chẳng hạn nếu so sánh GDP, thì của Trung Quốc sẽ đứng thứ hai, tiếp theo là Ấn Độ (GDP của Ấn Độ năm 2020 sẽ bằng 40% GDP của Mỹ, còn hiện nay mới bằng 27%). Các nước đang phát triển ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Các hoạt động kinh tế thế giới dần chuyển sang khu vực châu Á, đặc biệt là Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) biến khu vực này thành một trung tâm kinh tế thế giới bên cạnh những nền kinh tế đã phát triển như Bắc Mỹ (chủ yếu là Mỹ), EU, …
Toàn cầu hóa
Quá trình toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ hơn và thiết thực hơn, không chỉ góp phần tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển nhanh hơn, luồng vốn đầu tư, hàng hóa dịch vụ giữa các quốc gia, giữa các khu vực nhiều hơn, đa dạng hơn,…mà còn là quá trình di chuyển lao động giữa các quốc gia, các khu vực diễn ra liên tục, nhiều hơn, nhất là từ các nước đang phát triển (trong đó các quốc gia khu vực châu Á-Thái Bình Dương-khu vực có nguồn lực dồi dào nhất trên thế giới) sang các nước OECD do lao động dễ dàng di chuyển hơn, dân số thế giới tăng chậm lại, nhưng vẫn tăng khoảng 1 tỷ người (chủ yếu ở các nước đang phát triển).
Các liên kết kinh tế song phương, khu vực và đa phương tiếp tục mở rộng, trở thành một trong nhân tố chủ yếu thúc đẩy sự phát triển kinh tế và khu vực như: EU, ASEAN, ASEAN +3, hay liên minh các nước Nam Mỹ (UNASUR) mới thành lập cách đây không lâu,…
Khoa học – công nghệ
Khoa học – công nghệ ngày càng khẳng định vai trò là một trong những lực lượng sản xuất. Xây dựng và phát triển kinh tế tri thức tiếp tục trở thành ưu tiên trong chính sách phát triển của nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển… Với các nước phát triển, khoa học công nghệ trở thành nhân tố chính đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, vào tăng năng suất lao động. Với các nước đang phát triển cũng từng bước nâng cao vai trò của khoa học công nghệ hơn trong tăng trưởng kinh tế cùng với tăng đầu tư và cơ cấu lại nền kinh tế, ngành kinh tế. Hoạt động R&D trên thế giới phát triển mạnh mẽ.
Đồng tiền quốc gia
Đồng USD dần dần mất vị thế độc tôn, cá đồng tiền Euro, Yên Nhật…sẽ có vị thế lớn hơn trong quan hệ thanh toán quốc tế và đầu tư,…Nhiều nước trong từng khu vực cũng đang muốn theo gương các nước Châu Âu để dùng một đồng tiền thống nhất như EURO, nhưng có lẽ đến năm 2020 chưa thành hiện thực.
Những vấn đề về năng lượng, lương thực, môi trường tiếp tục là vấn đề cần cả thế giới góp công, góp của,…để giảm bớt những khó khăn luôn tiềm ẩn bạn chế tăng trưởng kinh tế, đến đời sống của loài người.
2. Tác động của kinh tế thế giới tới kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020
Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Những diễn biến của kinh tế thế giới và khu vực giai đoạn 2011-2020 có những ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Bối cảnh kinh tế thế giới tạo ra những cơ hội phát triển của kinh tế Việt Nam. Bối cảnh kinh tế thế giới tạo ra những cơ hội phát triển chưa từng có, đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với Việt Nam. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, Việt Nam cần phải có những bước đi thích hợp nhằm tận dụng cơ hội tốt do hội nhập kinh tế mang lại, đồng thời phải hạn chế tối đa các tác động bất lợi. Nắm bắt được cơ hội, đối phó kịp thời với các thách thức sẽ giúp Việt Nam tăng trưởng bền vững trong tương lai. Nắm bắt được cơ hội, đối phó kịp thời với các thách thức sẽ giúp kinh tế Việt Nam tăng trưởng bền vững trong tương lai.
Về cơ hội:
Thứ nhất, kinh tế thế giới giai đoạn 2011-2020 vẫn giữ mức tăng trưởng sự trỗi dạy của nền kinh tế châu Á. Với một nền kinh tế tăng trưởng ở tốc độ cao trong thời gian qua, nằm trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng phát triển năng động vào bậc nhất trên thế giới, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nhanh hơn thông qua thương mại và trên toàn cầu và khu vực tổ chức thương mại thế giới (WTO), diễn đàn hợp tác và phát triển kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC),, diễn đạt hợp tác Á-Âu (ASEM), Việt Nam cũng có được vị thế bình đẳng hơn với các quốc gia khác trên trường quốc tế.
Thứ hai, các liên kết kinh tế quốc tế giúp Việt Nam mở rộng thêm được các quan hệ kinh tế, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Dựa trên tiềm năng phát triển của nền kinh tế Việt Nam và những lợi thế cạnh tranh về tài nguyên, nguồn nhân lực, sự ổn định về chính trị xã hội, các nền kinh tế lớn hơn Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc ngày càng chủ động xây dựng và phát triển quan hệ với Việt Nam thông qua các liên kết song phương. Bên cạnh đó, thông qua những liên kết đa phương và khu vực, Việt Nam có thêm nhiều cơ hội mở rộng và phát triển quan hệ với các nước trong khu vực, Việt Nam có thêm nhiều cơ hội mở rộng và phát triển quan hệ với các nước trong khu vực cũng như các nền kinh tế khác có tiềm năng phát triển như NAFTA, Ấn Độ, Hàn Quốc…Việc các mối quan hệ được mở rộng giúp kinh tế Việt Nam tăng trưởng bền vững, không bị phụ thuộc quá nhiều vào bất cứ đối tác nào.
Thứ ba, toàn cầu hóa đã mở ra cho Việt Nam những cơ hội về thương mại, đầu tư lớn chưa từng có. Thị trường xuất khẩu được mở rộng nhờ tự do hóa thương mại, các luồng vốn thu hút vào Việt Nam ngày càng nhiều hơn, quá trình tham gia phân công lao động quốc tế diễn ra thuận lợi hơn, nền kinh tế có vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Những thay đổi về cơ cấu ngành trên thế giới tác động theo hướng tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam, đó là tăng tỷ trọng ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao và các ngành dịch vụ. Người tiêu dùng Việt Nam có nhiều lựa chọn về hàng hóa, dịch vụ với chất lượng tốt hơn và giá thành rẻ hơn nhờ kết quả của việc mở cửa thị trường.
Thứ tư, những thành tựu khoa học công nghệ trên thế giới góp phần làm tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất của nền kinh tế Việt Nam thông qua chuyển giao công nghệ. Đặc biệt, do xu hướng chuyển các cơ sở R&D từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển nên Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận với những nước khoa học, công nghệ mới. Việc áp dụng các kỹ thuật, công nghệ mới xuất hiện giúp làm hàm lượng khoa học kỹ thuật trong các sản phẩm của Việt Nam, phù hợp với yêu cầu của kinh tế thế giới. Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế được biến đổi về chất, tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng kinh tế.
Về thách thức:
Thứ nhất, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hóa ở mức caao, các nền kinh tế sẽ bị phụ thuộc vào những diễn biến từ bên ngoài. Bất cứ bất ổn nhỏ nào trong thị trường tài chính, lao động, thương mại thế giới có tình lan truyền, ảnh hưởng đến tất cả các nền kinh tế; tùy theo sức mạnh của từng nền kinh tế mà mức độ ảnh hưởng có thể lớn hoặc nhỏ. Kinh tế Việt Nam tuy chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong nền kinh tế thế giới nhưng cũng không tránh khỏi xu hướng này. Đặc biệt, khu vực chấu Á nói chung và các nước ASEAN nói riêng đều đang tăng trưởng rất nóng với tốc độ cao, chính vì vậy càng có nhiều biến động, chứa đựng nhiều rủi ro. Đây là một thách thức Việt Nam cần rất lưu ý trong giai đoạn 2011-2020, giai đoạn Việt Nam đã thực sự hội nhập vào nền kinh tế khu vực thế giới.
Thứ hai, toàn cầu hóa đem lại cơ hội phát triển cho tất cả các nền kinh tế, chính vì vậy cạnh tranh để phát triển là quy luật tất yếu. Việt Nam phải sẵn sàng đối mặt với sự cạnh tranh về thị trưởng xuất khẩu, thu hút vốn, lao động và công nghệ với các nước đang phát triển khác, đặc biệt là các nước trong khu vực. Sự trỗi dậy của các nền kinh tế Trung Quốc, Ấn Độ và các nước ASEAN càng khiến cuộc cạnh tranh của Việt Nam thêm gay gắt, do đây là những nền kinh tế có nhiều lợi thế tương đồng với Việt Nam trong một thời gian dài. Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục như nguồn nhân lực, điều kiện cơ sở vật chất, sự yếu kém của các doanh nghiệp về sự cạnh tranh và quy mô.
Thứ ba, tự do hóa thương mại, tài chính và các thị trường khác càng gia tăng, các nước càng sử dụng nhiều các chính sách bảo hộ và các rào cản hiện đại, tinh vi. Những nước thường hay sử dụng các biện pháp này sẽ vẫn là các nước phát triển. Trong khi đó, năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam còn rất yếu, hiểu biết và khả năng vận dụng các quy định quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp nên Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc vượt qua rào cản này. Đặc biệt trong bối cảnh hàng rào thuế dần được hạ thấp, hàng hóa dịch vụ nước ngoài tràn vào Việt Nam ồ ạt, các doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam có thể nhanh chóng mất ngay thị trường nội địa vào tay các doanh nghiệp, sản phẩm có tiềm lực mạnh hơn.
Thứ tư, khoa học công nghệ phát triển và xu hướng chuyển giao công nghệ sang các nước phát triển sẽ đặt Việt Nam trước thách thức phải lựa chọn công nghệ và có chính sách thu hút công nghệ hợp lý nếu không muốc trở thành bãi rác công nghệ của thế giới. Đây là khó khăn không nhỏ do khả năng cạnh tranh, điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam còn thấp hơn so với các nền kinh tế đang phát triển trong khu vực.
Thứ năm, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thay đổi tiêu cực về mặt xã hội như khoảng cách giàu nghèo tăng lên, cạnh tranh khiến nhiều doanh nghiệp bị phá sản, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, ô nhiễm môi trường lan rộng và trầm trọng thêm…Những thay đổi này sẽ gây ra nhiều cản trở cho phát triển kinh tế đất nước.
III. Tổng quan về xu hướng tác động của tự do h._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21443.doc