Tài liệu Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động thương mại của các Doanh nghiệp sản xuất: ... Ebook Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động thương mại của các Doanh nghiệp sản xuất
39 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1362 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động thương mại của các Doanh nghiệp sản xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Từ năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đi vào giai đoạn đổi mới toàn diện. Cơ cấu kinh tế đã chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thi hành chính sách mở cửa, mở rộng giao lưu quốc tế về mọi mặt, khuyến khích các nhà kinh doanh nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, tăng cường hợp tác song phương và đa phương về kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật với nhiều nước trên thế giới.
Dưới tác động của các chính sách kinh tế xã hội mới, nhiều biến đổi to lớn đã diễn ra . Nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển biến quan trọng, liên tục tăng trưởng với nhịp độ cao và ổn định trong nhiều năm, đời sống của người dân ngày càng ổn định và nâng lên.
Ngày 07/11/2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Bên cạnh đó việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới có những tác động rất lớn đến các doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế. Nghiên cứu những tác động để tìm ra biện pháp thúc đẩy và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp để phù hợp với tình hình mới là một nội dung hết sức quan trọng và cần thiết.
Vì vậy,em quyết định lựa chọn đề tài: “Tác động của việc Việt Nam gia nhập wto đến hoạt động thương mại của các doanh nghiệp sản xuất”
Trong đề tài này, em tập trung nghiên cứu những tác động của việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới đến hoạt động thương mại của các doanh nghiệp sản xuất trong nước nhằm đề ra các biện pháp khắc phục cũng như phát triển mở rộng hoạt động thương mại cho các doanh nghiệp sản xuất.
CHƯƠNG I: HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT VÀ CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO
Hoạt động thương mại doanh nghiệp
Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mai và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích thu lợi nhuận hoặc thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, khi nói đến hoạt động thương mại chính là nói đến các hoạt động liên quan đến việc mua sắm vật tư kĩ thuật cho sản xuất( thương mại đầu vào) và quá trình tiêu thụ sản phẩm( thương mại đầu ra).
Trong nền kinh tế thị trường, chức năng thương mại được coi là một bộ phận hữu cơ quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp. Thật vậy, đối với mỗi doanh nghiệp, sản phẩm được sản xuất ra là để bán cho người tiêu dùng do đó người tiêu dùng chiếm vị trí trung tâm và là đối tượng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Nói một cách khác sản phẩm sản xuất ra phảI được tiêu thụ, đó là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm đã trở thành một bộ phận chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động thương mại của doanh nghiệp.
Nhưng ở các doanh nghiệp sản xuất, chức năng thương mại không chỉ dừng lại ở tiêu thụ sản phẩm mà còn ở hoạt động đảm bảo các yếu tố đầu vào cho sản xuất. Đó chính quá trình mua sắm vật tư cho sản xuất của các doanh nghiệp. Để thực hiện quá trình sản xuất đòi hỏi phảI bảo đảm thường xuyên, liên tục nguyên, nhiên vật liệu và máy móc thiết bị… Chỉ có bảo đảm đủ số lượng, đúng mặt hàng và chất lượng cần thiết với thời gian qui định thì sản xuất mới có thể tiến hành được bình thường và sản xuất kinh doanh mới có hiệu quả. Mua sắm vật tư cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là hai bộ phận chủ yếu của hoạt động thương mại ở doanh nghiệp. Nhưng để thực hiện hai chức năng trên doanh nghiệp phải tham gia vào hệ thống các mối quan hệ kinh tế phức tạp. Mối quan hệ kinh tế đó phát sinh giữa các doanh nghiệp do phân công lao động xã hội quyết định và được điều tiết bằng tài chính và pháp luật.
Sự cần thiết của công tác tài chính trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại là do việc tuân thủ các qui luật vốn có của sản xuất hàng hóa. Đối với các doanh nghiệp, vật tư kĩ thuật là hàng hóa và được trao đổi mua bán như những hàng hóa thông thường khác. Vì vậy, công tác tài chính trong lĩnh vực điều tiết các nghiệp vụ thương mại được coi là một khâu quan trọng của hoạt động thương mại doanh nghiệp.
Mua sắm vật tư và tiêu thụ sản phẩm bao giờ cũng gắn liền với một khối lượng lớn công việc vận chuyển và bảo quản hàng hóa. Tất cả những vật tư kĩ thuật mua sắm cho doanh nghiệp phải được tổ chức vận chuyển, tiếp nhận và bảo quản tốt. Có như vậy mới bảo đảm được yêu cầu của tiêu dùng sản xuất. Đối với công tác tiêu thụ sản phẩm cũng vậy, sản phẩm sản xuất ra phải được tổ chức tiếp nhận, phân loại, bao gói, bảo quản và xuất bán cho khách hàng nhanh chóng kịp thời.
Như vậy, nội dung chủ yếu của hoạt động thương mại doanh nghiệp bao gồm tất cả các hoạt động liên quan và phục vụ quá trình mua sắm vật tư cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm như tài chính, luật pháp, dịch vụ, vận tải, kho tàng…
Hoạt động thương mại có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất và thực tế ảnh hưởng đến tất cả các chỉ tiêu kinh tế của dóanh nghiệp. Vai trò của hoạt động thương mại ngày càng gia tăng, có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy, hiện nay ở các doanh nghiệp, hoạt động thương mại đươc đặc biệt quan tâm từ khâu tổ chức quản lí đến tổ chức các hoạt động thương mại và phòng kinh doanh đã trở thành bộ phận trọng yếu trong bộ máy điều hành của doanh nghiệp.
Các cam kết của chính phủ Việt Nam
Các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam là kết quả rõ ràng nhất sau hơn 11 năm đàm phán, đồng thời là tâm điểm chú ý của các đối tác đàm phán, bạn bè quốc tế, các tầng lớp dân cư, các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ, đại diện các bộ, ngành và cộng đồng các doanh nghiệp.
Trước khi trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam đã đưa ra nhiều cam kết về kinh tế, thương mại để mở cửa thị trường, thúc đẩy cải cách kinh tế trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), trong các Hiệp định thương mại và đầu tư song phương (đáng chú ý nhất là Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ) và gần đây trong khuôn khổ ASEAN mở rộng. Bên cạnh đó, Việt Nam còn tham gia nhiều chương trình hợp tác trong Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM).
Có thể khẳng định rằng, các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam là những cam kết triệt để nhất, toàn diện nhất, đồng thời là điều kiện tiên quyết để nước ta tham gia vào tổ chức kinh tế, thương mại lớn nhất hành tinh, vì vậy, nó có những tác động sâu sắc đến sự phát triển kinh tế - thương mại của đất nước. Do đó, để đánh giá tác động của việc gia nhập WTO đến tình hình phát triển kinh tế - thương mại của Việt Nam, trước tiên phải xem xét và phân tích các cam kết gia nhập của Việt Nam.
Cam kÕt ®a ph¬ng
Theo kết quả đàm phán, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên do nước ta đang phát triển ở trình độ thấp lại đang trong quá trình chuyển đổi nên ta yêu cầu và được WTO chấp nhận cho hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp phi nông nghiệp, quyền kinh doanh.
Các cam kết chính trong vấn đề đa phương là: Việt Nam chấp nhận bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm tức là không muộn hơn 31/12/2018. Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu ta chứng minh được với đối tác nào là kinh tế Việt Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường thì đối tác đó ngừng áp dụng chế độ “phi thị trường” đối với ta. Chế độ “phi thị trường” chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá. Và các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù đối với hàng xuất khẩu nước ta dù ta bị coi là nền kinh tế phi thị trường.
Về dệt may, các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam khi vào WTO (riêng trường hợp ta vi phạm quy định WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may thì một số nước có thể có biện pháp trã đũa nhất định). Ngoài ra thành viên WTO cũng sẽ không được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may của nước ta.
Về trợ cấp phi nông nghiệp, Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành cho hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, ta được bảo lưu thời gian quá độ là 5 năm (trừ ngành dệt may).
Về trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. Các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế.
Về quyền kinh doanh (quyền xuất nhập khẩu hàng hóa): Việt Nam đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất nhập khẩu hàng hóa như người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ các mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước (như xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí) và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà ta chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi (như gạo và dược phẩm).
Cam kết của Việt Nam đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền xuất nhập khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong mọi trường hợp, DN và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo - tạp chí…
Về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia, các thành viên WTO đồng ý cho ta thời gian chuyển đổi không quá 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định WTO. Hướng sửa đổi là đối với rượu trên 20 độ cồn hoặc sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế phấn trăm. Đối với bia, sẽ chỉ áp dụng một mức thuế phần trăm.
Đối với doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp thương mại nhà nước, cam kết trong lĩnh vực này là nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt ®ộng DNNN. Tuy nhiên, nhà nước với tư cách là một cổ đông được can thiệp bình đẳng vào hoạt động của DN như các cổ đông khác. Ta cũng đồng ý cách hiểu mua sắm của DNNN không phải là mua sắm Chính phủ.
Về tỷ lệ cổ phần thông qua quyết định tại DN: Điều 52 và 104 của Luật DN quy định một số vấn đề quan trọng có liên quan đến hoạt động của công ty TNHH và Công ty cổ phần chỉ được phép thông qua khi có số phiếu đại diện ít nhất là 65% hoặc 75% vốn góp chấp thuận. Quy định này có thể vô hiệu hóa quyền của bên góp đa số vốn trong liên doanh. Do vậy, ta đã xử lý theo hướng cho phép các bên tham gia liên doanh được thỏa thuận vấn đề này trong điều lệ công ty
Về một số biện pháp hạn chế nhập khẩu, ta đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân phối lớn không muộn hơn ngày 31/5/2007. Với thuốc lá điếu và xì gà, ta đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên sẽ chỉ có một DN nhà nước được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điều và xì gà. Mức thuế nhập khẩu mà ta đàm phán được cho hai mặt hàng này là rất cao. Với ôtô cũ ta cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm.
Về cam kết thực hiện minh bạch hóa, ngay từ khi gia nhập Việt Nam sẽ công bố dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân. Thời hạn dành cho việc góp ý và sửa đổi tối thiểu là 60 ngày. Việt Nam cũng cam kết sẽ đăng công khai các văn bản pháp luật trên các tạp chí, trang tin điện tử của bộ, ngành.
Một số cam kết liên quan khác: thuế xuất khẩu, Việt Nam chỉ cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu theo lộ trình, không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác.
Về đa phương, Việt Nam còn đàm phán một số vấn dề đa phương khác như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là sử dụng phần mềm hợp pháp trong cơ quan Chính phủ. Định giá tính thuế xuất nhập khẩu, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, các biện pháp hàng rào kỹ thuật trong thương mại… Với nội dung này, ta cam kết tuân thủ các quy định của WTO kể từ khi gia nhập.
Cam kết về thuế nhập khẩu
Mức cam kết chung của Việt Nam là đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình 5 - 7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong khoảng 5 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5 - 7 năm.
Mức cam kết cụ thể: sẽ có khoảng hơn 1/3 dòng số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô - xe máy… vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định.
Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Bên cạnh đó, Việt Nam đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất là phương tiện vận tải.
Cam kết của Việt Nam sẽ cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO (giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp). Đây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 - 5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng.
Về hạn ngạch thuế quan, ta bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối.
Cam kết về mở của thị trường dịch vụ
Về diện cam kết, trong Hiệp định thương mại song phương (BTA) với Hoa Kỳ ta đã cam kết 8 ngành dịch vụ (khoảng 65 phân ngành). Trong thỏa thuận WTO, ta cam kết đủ 11 ngành dịch vụ, tính theo phân ngành khoảng 110 ngành. Về mức độ cam kết, với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó có những ngành nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch… ta giữ được mức độ cam kết gần như trong BTA. Riêng viễn thông, ngân hàng và chứng khoán, để sớm kết thúc đàm phán, ta đã có một số bước tiến nhưng nhìn chung không quá xa so với hiện trạng và đều phù hợp với định hướng phát triển đã được phê duyệt cho các ngành này.
Cam kết chung cho các ngành dịch vụ về cơ bản như BTA. Trước hết, công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ phi điều đó được ta cho phép trong từng ngành cụ thể. Ngoài ra, công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam. Cuối cùng, ta cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam nhưng tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa thị trường ngành đó. Riêng ngân hàng ta chỉ cho phép ngân hàng nước ngoài mua tối đa 30% cổ phần.
Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí: Đồng ý cho phép các DN nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để đáp ứng các dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí. Tuy nhiên, Việt Nam còn giữ nguyên quyền quản lý các hoạt động trên biển, thềm lục địa và quyền chỉ định các ty thăm dò, khai thác tài nguyên. Bảo lưu được một danh mục các dịch vụ dành riêng cho các DN Việt Nam như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp trang thiết bị và vật phẩm cho dàn khoan xa bờ… Tất cả các công ty vào Việt Nam cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Dịch vụ viễn thông, Việt Nam có thêm một số nhận nhượng so với BTA nhưng ở mức độ hợp lý, phù hợp với chiến lược phát triển của ta. Cụ thể là cho phép thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng mạng (phải thuê mạng do DN Việt Nam nắm quyền kiểm soát) và nới lỏng một chút về việc cung cấp dịch vụ qua biên giới để đổi lấy giữ lại hạn chế áp dụng cho viễn thông có gắn với hạ tầng mạng (chỉ các các doanh nghiệp nhà nước nắm đa số vốn mới đầu tư hạ tầng mạng, nước ngoài chỉ được góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên doanh với đối tác Việt Nam đã được cấp phép).
Dịch vụ phân phối, về cơ bản giữ được như BTA, tức là khá chặt so với các nước mới gia nhập. Trước hết, về thời điểm cho phép thành lập DN 100% vốn nước ngoài là như BTA (1/1/2009). Thứ hai, tương tự như BTA, ta không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, xi măng, phân bón… ta chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm. DN có vốn đầu tư nước ngoài, mở điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được ta cho phép theo từng trường hợp cụ thể.
Dịch vụ bảo hiểm, về tổng thể, mức độ cam kết ngang BTA, tuy nhiên, ta đồng ý cho Hoa Kỳ thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ ngày gia nhập.
Dịch vụ ngân hàng, ta đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007. Ngoài ra ngân hàng nước ngoài muốn được thành lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn phi chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND từ thể nhân Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế về mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam (không quá 30%).
Dịch vụ chứng khoán, ta cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO
Các cam kết khác, với các ngành còn lại như du lịch, giáo dục, pháp lý, kế toán, xây dựng, vận tải… mức độ cam kết về cơ bản không khác nhiều so với BTA. Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn - xuất bản.
III. T¸c ®éng cña viÖc ViÖt Nam gia nhËp WTO ®Õn ho¹t ®éng th¬ng m¹i cña doanh nghiÖp s¶n xuÊt
1.C¬ héi khi gia nhËp WTO
1.1. Mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu
Khi gia nhập WTO, theo nguyªn t¾c tèi huệ quèc, nước ta sẽ được tiếp cận mức độ tự do hãa này mà kh«ng phải đàm ph¸n hiệp định thương mại song phương với từng nước. Hàng hoá của nước ta vì vậy sẽ có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong việc thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế. Do điều kiện tự nhiên và chi phí lao động rẻ, Việt Nam có lợi thế trong một số ngành, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp và dệt may. Đây là hai ngành được WTO rất quan tâm và đã đề ra nhiều biện pháp để xoá bỏ dần các rào cản thương mại. Chẳng hạn, theo Hiệp định Dệt may của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng đối với mặt hàng dệt may được xoá bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng lợi ích này nếu có mối quan hệ thương mại "như thế nào đó" đối với các nước thành viên WTO. Đối với thương mại hàng nông sản, các thành viên WTO cũng đã và đang đưa ra nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan, từ đó mang lại cơ hội mới cho những nước xuất khẩu nông sản như Việt Nam.
Từ thập kỷ 90 cho đến nay, xuất khẩu của Việt Nam đã có bước phát triển ngoạn mục. Tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước năm 2000 đạt 16,5 tỷ USD (xuất khẩu hàng hoá đạt 14,3 tỷ USD và xuất khẩu dịch vụ đạt 2,2 tỷ USD), tăng gấp 6,87 lần so với 1990 (đạt 2,4 tỷ USD). Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình hàng năm của thời kỳ 1991 – 2000 là 21,5%. Năm 2001 xuất khẩu hàng hoá đạt 15,2 tỷ USD, tăng 6,3% so với năm 2000. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu đạt 16,706 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm 2001 và năm 2003, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 19870 triệu USD, tăng 7,4% so với kế hoạch phấn đấu cả năm (18,5 tỷ USD) và tăng 18,9% so với cùng kỳ năm 2002.
Sau thời kỳ bị chững lại năm 1998 và những tháng đầu năm 1999, xuất khẩu của Việt Nam đã trở lại nhịp độ tăng trưởng cao. Năm 1999 tăng 23,3% và năm 2000 tăng 24%. Cho tới năm 2003 đã tăng 18,9% so với năm 2002, đưa xuất khẩu bình quân theo đầu người của Việt Nam vượt xa ngưỡng 170 USD (chỉ sự chậm phát triển về ngoại thương). Bên cạnh đó là sự cải thiện quan trọng cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo hướng tích cực tăng dần tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp (tỷ trọng phát triển từ 38,3% năm 2002 lên 43% năm 2003) và giảm dần tỷ trọng nhóm hàng nguyờn li?u, khoáng sản (từ 31,2% năm 2002 và còn 27,6% năm 2003) và giảm nhẹ tỷ trọng nhóm hàng nông lâm thuỷ sản (từ 30,5% năm 2002 giảm còn 29,4% năm 2003). Ngoài ra, Việt Nam còn chú trọng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ lệ sản phẩm chế biến, giảm xuất khẩu thô, hàng nông lâm – thuỷ sản đầu thập kỷ 90 từng chiếm tỷ trọng trên dưới 50% trong tổng xuất khẩu của Việt Nam (năm 1990 chiếm tỷ trọng 48%, năm 1991 chiếm 52%, 1992 chiếm 49,5% tổng kim ngạch xuất khẩu) đã từng bước giảm đáng kể. Thị trường xuất khẩu sản phẩm của Việt Nam cũng không ngừng được mở rộng và đa dạng hoá. Từ chỗ chỉ xuất khẩu sang các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu, ngày nay sản phẩm của Việt Nam đã có mặt ở khắp mọi nơi trên thế giới. Hàng Việt Nam đã chiếm được thị phần nhất định ở những thị trường lớn thế giới như EU, Mỹ, Nhật Bản...
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra chiến lược phát triển xuất khẩu lâu dài thời kỳ 2001 – 2010 cho các đơn vị kinh tế và định hướng xuất khẩu năm 2004. Năm 2004, dự kiến xuất khẩu hàng hoá đạt 22,45 tỷ USD, tăng 13% so với năm 2003, trong đó các doanh nghiệp 100% vốn trong nước dự kiến 10,85 tỷ USD, tăng 9,5% các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dự kiến 11,6 tỷ USD, tăng 16,4%. Tăng cường xuất khẩu vào các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhât Bản, Ôxtrâylia, các nước ASEAN, các tiểu vương quốc ả rập thống nhất, Nam Phi, Mêxico, Canada, Hàn Quốc, Nga
Định hướng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010
Nhóm hàng hoá
Kim ngạch 2010 (triệu USD)
Tỷ trọng
2000
2010
1. Nguyên, nhiên liệu
1.750
20,1
3 – 3,5
2. Nông sản, thuỷ sản
8.000 – 8.600
23,3
16 – 17
3. Chế biến chế tạo
20.000 – 21.000
31,4
40 – 45
4. Công nghệ cao
7.000
5,4
12 – 14
5. Hàng hoá khác
12.500
19,4
23 – 25
Tổng xuất khẩu hàng hoá
48.000 – 50.000
100
100
Định hướng thị trường xuất khẩu của Việt Nam tới 2010
(Đơn vị: %)
Thị trường
Tỷ trọng 2005
Tỷ trọng 2010
Châu á
57-60
46-50
Nhật Bản
15-16
17-18
ASEAN
23-25
15-16
Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông
16-18
14-16
Châu Âu
26-27
27-30
EU
21-22
25-27
SNG và Đông Âu
1,5-2
3-5
Bắc Mỹ (chủ yếu là Mỹ)
5-6
15-20
Ôxtrâylia và New Zealand
3-5
5-7
Các khu vực khác
2
2-3
1.2. Nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế
Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, sẽ phải vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, từ đó có thêm cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh không những ở trong nước mà còn trên thị trường quốc tế.
1.3. Sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Môi trường thương mại quốc tế, sau này nhiều nỗ lực của WTO, đã trở nên thông thoáng hơn. Tuy nhiên, khi tiến ra thị trường quốc tế, các doanh nghiệp của nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại, trong đó có cả những rào cản trá hình núp bóng các công cụ được WTO cho phép như chống trợ cấp, chống bán phá giá… Tranh thủ thương mại là điều khó khăn mà phần thua thiệt thường rơi về phía nước ta, bởi nước ta là nước nhỏ. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để đấu tranh với các nước lớn, đảm bảo sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Thực tiễn cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả và nhiều nước đang phát triển đã thu được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế này.
2. Thách thức của việc gia nhập WTO
Bên cạnh cơ hội, việc gia nhập WTO cùng tạo ra một số thách thức lớn đối với nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Đó là:
2.1. Sức ép cạnh tranh
Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, loại bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường dịch vụ… sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Đây sẽ là thách thức không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đã quen với sù b¶o trî của Nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẽ không có cách nào khác là chủ động và sẵn sàng đối diện với thách thức này bởi đó là hệ quả tất yếu của sự phát triển, là chặng đường mà mọi quốc gia đều phải đi qua trên con đường hướng tới hiệu quả và phồn vinh. Dù không gia nhập WTO thì thách thức này sớm hay muộn cũng sẽ đến.
2.2 Thách thức về nguồn nhân lực
Để quản lý một cách nhất quán toàn bộ tiến trình hội nhập, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo dựng môi trường cạnh tranh năng động và cải cách có hiệu quả nền hành chính quốc gia, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ đủ mạnh xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với nước ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị từ bây giờ, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ngoài ra, để tận dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và tham gia có hiệu quả vào các cuộc đàm phán trong tương lai của tổ chức này, chúng ta cũng cần phải có một đội ngũ cán bộ thông thạo qui định và luật lệ của WTO, có kinh nghiệm và kỹ năng đàm phán quốc tế. Thông qua đàm phán gia nhập, ta đã từng bước xây dựng được đội ngũ này, nhưng vẫn còn thiếu. Nhằm nâng cao năng lực đối phó với thách thức, nước ta đang tập trung xây dựng cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, củng cố vị thế trên thị trường nội địa. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế để đối phó với tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Kiện toàn, củng cố hệ thống tiêu chuẩn về kỹ thuật, vệ sinh kiểm dịch cũng như hỗ trợ doanh nghiệp các thông tin và kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế…
Thực tế hầu hết các nước gia nhập WTO đều có nền kinh tế phát triển nhanh. Sớm gia nhập WTO, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang quyết tâm phấn đấu, chủ động tạo bước chuyển biến mới về phát triển kinh tế. Nắm bắt thời cơ, vượt qua những thách thức rất lớn, phát huy cao độ nội lực, khai thác tối đa các nguồn lực bên ngoài để tạo thế lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, nhất định đất Việt Nam sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển vào năm 2010 và trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020
3.Sù t¸c ®éng ®Õn th¬ng m¹i ®Çu vµo
a.ThuËn lîi
Nghiên cứu về tác động của gia nhập WTO đã chỉ ra rằng, việc là thành viên của GATT/WTO có quan hệ chặt chẽ với sự tăng lên đáng kể của nhập khẩu từ các nước công nghiệp, tuy nhiên nghiên cứu cũng không chắc chắn trong trường hợp thành viên là các nước đang phát triển. Trên cơ sở phân tích thực tiễn hoạt động XNK Việt Nam thời gian qua, có thể khẳng định với tư cách là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội nhập hàng hoá có chất lượng và giá cả cạnh tranh, đáng chú ý là khối lượng hàng hoá NK có thể tăng nhưng giá trị kim ngạch NK có thể tăng hoặc tăng không đáng kể.Và người Việt Nam sẽ có lợi trong việc tiêu dùng của mình.
Việc nhập khẩu hàng hoá diễn ra dễ dàng sẽ làm cho hoạt động sản xuất-kinh doanh thuận lợi hơn đối với các doanh nghiệp phải NK công nghệ và nguyên liệu ®Çu vµo.
Giá thành các yếu tố đầu vào trở nên rẻ hơn,gia nhập WTO các doanh nghiệp sẽ không còn phải lo lắng nhiều về giá cả cũng như chất lượng các yếu tố đầu vào cho sản xuất như nguyên, nhiên vật liệu cho các quá trình sản xuất ra sản phẩm. Càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội tiếp cận được với các nguồn nguyên nhiên vật liệu, các dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị phục vụ cho đầu vào sản xuất.
Sự xuất hiện thêm nhiều nhà cung ứng các yếu tố đầu vào từ các quốc gia trong khối wto và hơn nữa nước ta là một địa chỉ đầu tư vốn có lực lượng lao động trẻ, dồi dào, giá nhân công rẻ sẽ làm cho các yếu tố này trở nên rẻ và nhiều hơn và hơn nữa sức ép cạnh tranh cũng là một trong những nhân tố quan trọng giúp giá cả hạ.
Các mối quan hệ kinh tế hợp tác không chỉ đơn thuần mang tính chất ngắn hạn (mua đứt-bán đoạn) mà dần sẽ trở thành quan hệ hợp tác truyền thống đôi bên cùng có lợi của nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp được tự do trong lựa chọn bạn hàng và nhà cung cấp các yếu tố đầu vào cho mình do vậy họ sẽ quan tâm rất nhiều đến giá cả và chất lượng từ phía các nhà cung cấp.
Điều này cũng dẫn tới các nhà cung cấp sẽ chủ động tìm đến các doanh nghiệp sản xuất và trở nên linh hoạt hơn trong chiến lược bán và cung cấp các sản phẩm của mình. Các nhà cung cấp sẽ chủ động tiếp cận và nắm bắt nhu cầu của các doanh nghiệp ma mình nhắm tới. Điều này giúp doanh nghiệp sản xuất tiết kiệm thời gian mua sắm các yếu tố đầu vào cũng như những khoản chi phí không đáng có.
b.Khó khăn:
Công nghiệp phụ trợ phát triển chậm làm gia tăng sự phụ thuộc vào thị trường thế giới dẫn tới đẩy chi phí trung gian lên cao nhất là khi giá nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới tăng mạnh.
Việc loại bỏ, cắt giảm hàng rào thuế quan theo các cam kết đối với hàng hoá NK theo hạn định của WTO cũng đồng thời làm gia tăng sức cạnh tranh đối với hàng hoá sản xuất trong nước. Đây là một thách thức đối với các doanh nghiệp trong nước khi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung còn hạn chế
4.Sự tác động đến thương mại đầu ra
a.Thuận lợi:
Các doanh nghiệp có cơ hội được tiếp cận và xâm nhập vào các thị trường tiêu thụ rộng lớn của khối wto mà mức độ khai thác tùy thuộc vào tiềm lực và chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như khả năng bắt kịp với những thay đổi của môi trường kinh doanh quốc tế.
Sự thành công chỉ thuộc về những doanh nghiệp có tầm nhìn, hướng đi và mức độ chuyên môn hóa đạt đẳng cấp quốc tế.
Việc giảm giá thành các yếu tố đầu vào dẫn đến giảm giá thành sản phẩm làm cho sản phẩm của doanh nghiệp sẽ chiếm ưu thế trong cạnh tranh về giá so với các sản phẩm cùng loại. Đây cũng là thuận lợi cho các doanh nghiệp vốn có chất lượng._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33233.doc