Tác động của việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh lạng sơn

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BỘ MÔN KHOA HỌC QUẢN LÝ ------ ĐỀ TÀI : Tác động của việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh lạng sơn KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH QUẢN LÝ XÃ HỘI LỜI CẢM ƠN Khoá luận này là kết quả nghiên cứu của tôi sau quá trình học tập và rèn luyện dưới mái trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc Gia Hà Nội. Trong quá trình thực hiện tôi đã nhận được sự giú

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2579 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tác động của việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh lạng sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p đỡ của nhiều thầy cô trong và ngoài bộ môn Khoa học quản lý đã dậy dỗ, dìu dắt tôi trong quá trình học tập, tôi cũng nhận được sự giúp đỡ tạo điều kiện của ban lãnh đạo, các cô, các chú, các chị trong Sở lao động – Thương binh và xã hội, nơi tôi thực tập. . Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, người thân đã giúp đỡ, động viên khích lệ tôi cả về vật chất cũng như tinh thần. Mặt dù đã có nhiều cố gắng nhưng tôi biết khả năng mình còn hạn chế cho nên khoá luận không tránh khỏi thiếu sót. Do vậy, tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ của thầy cô giáo, các bạn sinh viên và những người quan tâm đến đề tài này. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Vấn đề nghèo đói đang là vấn đề mang tính toàn cầu và có ảnh hưởng rất lớn đén sự sống còn, tồn tại và phát triển của nhân loại. Như chúng ta đều biết nhân loại đã bước sang thế kỉ XXI nhưng vấn đề chưa xoá đươc hết cái đói, chưa giảm hết được hết cái nghèo, mặc dù đây là vấn đề cấp thiết. Liên hiệp quốc đã và đang không ngừng kêu gọi các quốc gia cần đầu tư và chú trọng hơn nữa đối với vấn đề đói nghèo. Trong khi trí tuệ đã đưa con người vươn tới ngày càng xa hơn vào vũ trụ bao la, rất nhiều công trình khoa họcđã đưa lại những nguồn vật liệu mới, công nghệ mới…Vậy mà hiện nay trên thế giới vẫn còn hơn 1 tỷ người không biết đọc biết viết, còn cả một “châu lục đen”phải sống trong cảnh nghèo đói thậm chí cả một bộ phận cùng cực. Đất nước ta đã trải qua bao nhiêu năm dưới ách nô lệ lầm than, những khát vọng cháy bỏng về một nền hoà bình là sự oằn mình vất vả đấu tranh để giành nước và giữ nước. Hơn bao giờ hết mỗi người dân càng thấm thía và trân trọng những thành quả cách mạng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có được ngày hôm nay. Việc xây dựng và xây dựng đất nước trong thời bình ngày nay không còn con đường nào khác đó là sự đồng lòng, nỗ lực để xây dựng đất nước càng vững mạnh về mọi mặt: kinh tế - chính trị – xã hội… Trong nhiều năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo, nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự định hướng của Nhà nước đang trên đà tăng trưởng, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Song bên cạnh những kết quả đã đạt được còn có những vấn đề tồn tại và bức xúc, một trong những vấn đề đó là vấn đề đói nghèo của một bộ phận dân cư - đặc biệt là đối với những vùng nông thôn miền núi. Lạng Sơn là một tỉnh miền núi – biên giới phía Bắc nước ta, là tỉnh còn có nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế – xã hội, tỷ lệ nghèo hiện nay đang ở mức 17,06%.Công tác thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo của tỉnh cũng đang được chú trọng thực hiện và cũng đã đem lại những kết quả nhất định tuy nhiên với năng lực và khả năng hiện có tỉnh Lạng Sơn còn đứng trước rất nhiều thử thách và khó khăn, tỷ lệ nghèo đói tuy đã giảm qua các năm nhưng vẫn còn ở tỷ lệ cao. Làm thế nào để đưa Lạng Sơn thoát khỏi đói nghèo đang là câu hỏi lớn đặt ra cho Đảng bộ, chính quyền và toàn thể nhân dân Lạng Sơn. Tìm ra những nguyên nhân cũng như giải pháp đúng đắn để “xoá đói giảm nghèo”, để nâng cao hiệu quả công tác xoá đói giảm nghèo và để làm cho sự tác động đó ngày càng rõ rệt hơn góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ văn minh” là rất thiết thực ở Lạng Sơn.Từ cách nhìn nhận như vậy nên tôi chọn đề tài “Tác động của việc thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo đối với sự phát triển xã hội ở tỉnh Lạng Sơn” làm khoá luận tốt nghiệp cử nhân Quản lý xã hội. 2. Lịch sử nghiên cứu Nghèo khổ là một trong năm vấn đề lớn có tính chất toàn cầu: ô nhiễm môi trường sinh thái, khủng hoảng năng lượng, bênh tật, thất nghiệp, nghèo khổ. Vì thế vấn đề xoá đói giảm nghèo không chỉ giành được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, của tổ chức xã hội của nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta có các đề tài do Bộ lao động –Thương binh xã hội như : “Xoá đói giảm nghèo", Hà Nội, 1993. Báo cáo 3 năm thực hiện xoá đói giảm nghèo và phương hướng nhiệm vụ thời gian tới, ngày 18/4/1995. Tập thể tác giả : “Xoá đói giảm nghèo, tăng trưởng kinh tế“, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội năm 1996. Nguyễn Thị Hằng : “Vấn đề xoá dói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay” – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Hà Nội, 1997 Vũ Thị Ngọc Phùng “Vấn đề tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn đề xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam”. NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội, 1993… Ngoài ra còn có một số luận văn thạc sĩ, tiến sĩ có đề cập đến vấn đề này ở những địa phương khác nhau. Các công trình trên đă đi vào nghiên cứu nội dung của vấn đề đói nghèo, vấn đề tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và một số vấn đề liên quan trong sự phát triển của đất nước ta. Các công trình này hầu hết được nghiên cứu dưới góc độ xã hội, một số về thực trạng và giải pháp ở những địa phương khác nhau. Ở Lạng Sơn có các tư liệu, bài viết của “Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo” về tổng kết 3 năm thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 2001-2003 và mục tiêu xoá đói giảm nghèo trong năm 2005. Tuy nhiên chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu sâu vấn đề này đặc biệt là dưới góc độ Quản lý xã hội. Vì vậy với đề tài “Tác động của việc thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo với sự phát triển xã hội ở tỉnh Lạng Sơn”; khoá luận đă được nghiên cứu dưới góc độ Quản lý xã hội tìm ra những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả công tác, chất lượng thực thi chính sách xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Lạng Sơn. Việc thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của tỉnh, điều quan trọng là tạo sự cân bằng giữa các mặt, giữa các vùng miền đất nước, vì vậy dưới góc độ quản lý xã hội phải đề ra những chính sách phát triển phù hợp, khả thi và việc thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo ở Lạng Sơn không ngoài mục đích đó. 3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng của việc tổ chức thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo ở Lạng Sơn, từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp chủ yếu về mặt quản lý để nâng cao hiệu quả của chính sách xoá đói giảm nghèo đối với tỉnh nhà, góp phần thực hiện mục tiêu giảm tỉ lệ đói nghèo ở tỉnh xuống mức tối thiểu. * Nhiệm vụ : - Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của chính sách xoá đói giảm nghèo ở nước ta. Nêu ra vấn đề thuộc về chính sách xoá đói giảm nghèo như đối tượng, nội dung, nhiệm vụ và vai trò của chính sách xoá đói giảm nghèo. - Đi sâu phân tích thực trạng việc tổ chức thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo của tỉnh, từ đó nhận định đánh giá những tác động của nó đối với sự phát triển của tỉnh Lạng Sơn. - Từ góc độ Quản lý xã hội, khoá luận bước đầu đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chính sách xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Lạng Sơn. 4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: Thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo và tác động của nó đối với sự phát triển xã hội tỉnh Lạng Sơn. - Khách thể: + Nông dân thuộc lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn + Các doanh nghiệp vừa và nhỏ + Những đối tượng thuộc chính sách xã hội - Phạm vi nghiên cứu: + Không gian : địa bàn tỉnh Lạng Sơn + Thời gian : Giai đoạn 2001 – 2005 5. Phương pháp nghiên cứu + Khảo sát thực tế + Phân tích số liệu + Thống kê, điều tra xã hội học 6. ý nghĩa của khoá luận - Lý luận : + Góp phần làm rõ cơ sở, nội dung, nhiệm vụ và vai trò của chính sách xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta, cũng như tỉnh Lạng Sơn. + Trên cơ sở khảo sát thực tế ở địa phương, khoá luận bước đầu đưa ra những luận giải về nguyên nhân của những thành công và hạn chế của việc thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Lạng Sơn dưới góc độ quản lý - Thực tiễn : + Những kết quả, giải pháp trong khoá luận này có thể là những tài liệu, nguồn thông tin cho những người nghiên cứu sau này về tình hình xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Lạng Sơn. + Đề xuất một số ý kiến đóng góp thiết thực đối với các nhà quản lý, đối với Ban chỉ đạo các cấp trong việc thực thi chính sách xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Lạng Sơn. 7. Kết cấu khoá luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo khóa luận gồm 2 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chính sách xoá đói giảm nghèo Chương 2: Tổ chức thực hiện xoá đói giảm nghèo ở Tỉnh Lạng Sơn và tác động của nó đối với sự phát triển xã hội CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 1.1. Vài nét về quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin và của Hồ Chí Minh về đói nghèo và giải quyết vấn đề đói nghèo 1.1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đói nghèo và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Có thể khẳng định rằng chính sách xoá đói giảm nghèo là một chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con người, là động lực phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Song để đề ra chính sách đúng đắn phải dựa trên cơ sở, luận cứ khoa học và thực tiễn rút ra từ việc nghiên cứu và tổng kết đời sống xã hội. Trong xã hội có giai cấp, những người bị áp bức, bóc lột phải chịu cuộc sống cùng cực thêm vào đó là thiên tai, chiến tranh tàn phá gây nên nhiều cảnh lầm than. Đói nghèo không chỉ xuất hiện và tồn tại lâu dài trong chế độ phong kiến với trình độ sản xuất thấp kém mà ngày nay với sự phát triển cao về trình độ sản xuất, khoa học công nghệ phát triển như vũ bão thì đói nghèo vẫn đang và sẽ tồn tại. Trong di sản kinh điển Mac xít, Các Mác, Ph.Ăngghen đã viết một số tác phẩm nổi tiếng nghiên cứu về tình trạng nghèo khổ của giai cấp vô sản và những người lao động dưới ách thông trị của chủ nghĩa tư bản. Tiêu biểu là “Bản thảo kinh tế triết học” (1844) của Các Mác, “Tình cảnh của giai cấp công nhân Anh” (1845) của Ph.Ăngghen…Trong những tác phẩm này các Ông đă mô tả cặn kẽ, tỉ mỉ và xác thực tình cảnh đói nghèo của những người vô sản… chế độ bóc lột tàn bạo trong xã hội tư bản đã dẫn đến sự phân hoá xã hội thành hai cực : Tích luỹ giàu có tột độ ở phía thiểu số giai cấp có của – giai cấp tư sản và tích luỹ sự bần cùng ở đa số những người lao động, làm cho người lao động ngày càng lún sâu vào cái hố của sự đói nghèo, bệnh tật, thất nghiệp, thất học. Theo Mác, Ph.Ăngghen và VI Lênin đã phân tích những mâu thuẫn kinh tế- xã hội gay gắt trong thời kì chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền, lũng đoạn đầu thế kỉ XX, tức chủ nghĩa Đế quốc. Đây là thời kì tích tụ trầm trọng hơn sự đói nghèo cùng cực của giai cấp vô sản và những người lao động ở khắp các châu lục trên thế giới. Sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, trong bước chuyển từ “Chính sách Cộng sản thời chiến” sang “Chính sách kinh tế mới” (NEP), Lênin là người chủ trương phát động kinh tế hàng hoá, dùng lợi ích vật chất, coi đó là một nhân tố kích thích mọi người lao động, giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế. Đó là một trong những biện pháp nhằm xoá bỏ căn bản tình trạng đói nghèo, nhất là ở nông thôn trong công tác xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. 1.1.2. Hồ Chí Minh với vấn đề đói nghèo Tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng nên lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến chủ nghĩa Mác-Lênin, Người chủ trương làm cách mạng để giành độc lập cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Ham muốn tột bậc của Người là đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Ngay từ đầu cuộc cách mạng, Người đã đặc biệt chăm lo đến đời sống của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xếp ngang hàng ba loại giặc cần phải diệt là: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Người cho rằng đói nghèo, lạc hậu, dốt nát là những kẻ thù nội xâm làm suy yếu đất nước và chế độ. Chỉ có thể đưa đất nước vượt qua đói nghèo, lạc hậu mới đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, đó mới là mặt tích cực, là bản chất của chủ nghĩa xã hội. Mặc dù đói nghèo và phân hoá giàu nghèo là hiện tượng phổ biến trong tất cả các quốc gia trên thế giới. Song có điều khác nhau là ở chỗ xuất phát từ chế độ chính trị khác nhau thì vấn đề đói nghèo đặt ra ở mức độ nào và được giải quyết triệt để hay không? Đó là điều cần được xem xét để thấy rõ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. * Chính sách xoá đói giảm nghèo là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Chủ nghĩa tư bản do bản chất xă hội là tư hữu và yếu tố cạnh tranh được khai thác một cách triệt để trong cơ chế thị trường nên vấn đề phân hoá giàu nghèo là tự phát. Ở nước ta, xét về mục tiêu vươn tới là làm cho “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Mục tiêu đó được thực hiện thông qua chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và đường lối phát triển kinh tế của Đảng, sự phát triển đó đảm bảo công bằng, ổn định và phát triển bền vững. Cũng chính những mục tiêu đó đã tự nói lên tính tất yếu của việc xoá đói giảm nghèo, tăng giàu trong cộng đồng dân cư nước ta. Chủ nghĩa xã hội không để cho sự phân hoá giàu nghèo diễn ra và phát triển tự phát ở bên ngoài những tác động điều chỉnh của Nhà nước không để cho một bộ phận dân cư bần cùng hoá. Điều đó giải quyết được trên cơ sở biện chứng giữa kinh tế và xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Mục tiêu phát triển của Đảng và Nhà nước ta là lấy con người làm trung tâm, mọi chính sách kinh tế xã hội cũng như chính sách xoá đói giảm nghèo đều hướng vào sự phát triển của con người và do con người; tạo nên sự ổn định, công bằng và bền vững trong phát triển đó chính là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói : Chủ nghĩa xã hội là gì, là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do nhưng muốn tách một mình mà ngồi ăn no, mặc ấm, cũng cần làm sao cho tất cả mọi người được ăn no mặc ấm. Bác nhấn mạnh “ Chính sách của Đảng và Chính phải là phải hết sức chăm sóc đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói thì Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt thì Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm thì Đảng và Chính phủ có lỗi”.[ 20 ; 27] Vì vậy, cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân, phải lãnh đạo, tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và tiết kiệm. Dân đủ ăn, đủ mặc thì những chính sách của Đảng và chính phủ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được [ 20 ;27,28]. Theo Bác Hồ thì chính sách của Đảng phải : “Làm cho người nghèo đủ ăn Người đủ ăn thì khá giàu Người giàu thì giàu thêm”[13; 287] Đất nước ta chỉ có thể phát triển trở nên văn minh, hiện đại với sự giàu có, phồn vinh về kinh tế và sự ổn định lành mạnh về xã hội, sự phong phú về đời sống văn hoá tinh thần nếu chúng ta vượt qua được cửa ải nghèo đói, lạc hậu. Nếu nước ta không vượt qua được thì không thể tạo được cơ sở và tiền đề cho phát triển, cũng không thể thực hiện được định hướng xã hội chủ nghĩa và như vậy nguy cơ tụt hậu xa so với khu vực và thế giới sẽ ngày một lớn hơn, thách thức đối với sự phát triển của đất nước sẽ ngày một gay gắt hơn. Đây là cơ sở việc hoạch định chiến lược xoá đói giảm nghèo của đất nước. Do đó, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, muốn thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa chúng ta phải tập trung sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân chống đói nghèo, lạc hậu. * Xét về mặt quản lý xã hội Bất cứ một chế độ chính trị- xã hội nào cũng quan tâm đến vấn đề quản lý xã hội. Trong điều kiện đất nước ta hiện nay, vấn đề quản lý xã hội không tách rời công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình không ngừng đổi mới và hoàn thiện nhiệm vụ quản lý xã hội. Quá trình quản lý xã hội một cách khoa học là một quá trình kết hợp giữa mặt lý luận và thực tiễn, kết hợp những nguyên lý của khoa học với hành động có trách nhiệm và sáng tạo của các tầng lớp nhân dân. Đó là quá trình thống nhất của việc nghiên cứu, đề ra các đường lối, chiến lược đến việc đưa ra các đường lối, chiến lược ấy vào cuộc sống bằng hệ thống pháp luật, các chính sách kinh tế- xã hội bằng các biện pháp khác nhau. Quản lý xã hội một cách khoa học đặt ra yêu cầu cao đối với chủ thể quản lý ở tất cả các cấp cũng như đối với cá nhân nhà quản lý. Quản lý xã hội đòi hỏi một năng lực tổng hợp về các mặt phẩm chất chính trị, đạo đức, tinh thần trách nhiệm, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn…để không ngừng đổi mới tư duy, trau dồi tác phong sâu sát thực tiễn, gắn bó với đời thường của nhân dân. Chính sách xoá đói giảm nghèo là một chính sách đúng đắn góp phần vào mục tiêu phát triển đất nước, đó là sự phát triển tiến bộ, công bằng, bình đẳng và ổn định. Vì thế chính sách xoá đói giảm nghèo được xây dựng trên cơ sở khoa học lý luận và tình hình thực tiễn của đất nước. Điều đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta- chủ thể quản lý xã hội có một bản lĩnh chính trị vững vàng và năng động, một nghệ thuật lãnh đạo và quản lý vừa mềm dẻo vừa kiên quyết. Cũng như bất cứ một lĩnh vực nào, ở đây chính sách xoá đói giảm nghèo phải dựa trên những tư tưởng, quan điểm của Đảng lãnh đạo, phải phù hợp với bản chất, chế độ chính trị- xã hội của nước ta hiện nay cũng như đòi hỏi của thực tiễn. 1.2 Đối tượng, nội dung và mục đích của chính sách xoá đói giảm nghèo 1.2.1 Đối tượng Chính sách xoá đói giảm nghèo rất đa dạng và phong phú tác động đến các nhóm dân cư và các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở nước ta đối tượng tác động của chính sách xoá đói giảm nghèo có thể phân chia thành các nhóm sau: Thứ nhất là nông dân chiếm 80% dân số của cả nước, trong đó đối tượng này được phân ra thành các nhóm đối tượng nhỏ theo khu vực: Nông dân nông thôn ở vùng núi, hải đảo; nông dân nông thôn ở đồng bằng trung du. Đây là nhóm đông nhất mà lại được hưởng ít nhất từ phúc lợi chung của Nhà nước (phúc lợi về thông tin, giao thông vận tải, y tế, giáo dục…) Ngoài mảnh đất được giao và một phần không nhiều dịch vụ thuỷ lợi, chăm sóc cây trồng, giống cây…họ ít có cơ hội để có thể chuyển sang hoạt động ở các lĩnh vực khác nhằm cải thiện đời sống của mình. Trong những năm gần đây nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, người nông dân đã được giúp đỡ và tư vấn cải tiến giống và kĩ thuật đưa cây trồng, vật nuôi vào từng hộ gia đình. Tuy nhiên hiệu quả kinh tế mới dừng ở mức độ nhất định. Sự hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân- một lực lượng đông đảo như vậy thì quả không dễ; thực tiễn cho thấy việc hỗ trợ nông dân, người dân nghèo bằng quĩ xoá đói giảm nghèo chỉ đủ để hộ nông dân vay một lượng vốn mua lợn giống đến khi bán lợn trả tiền vay ngân hàng người nông dân thậm chí lỗ vì phải trả cả lãi. Cho nên việc hỗ trợ cho nông dân cần được hoạch định và thiết kế cho cả ngành, theo các kênh hỗ trợ giá toàn ngành nhằm giúp đỡ nông dân có thể sản xuất mở rộng trong điều kiện của giá thị trường nông phẩm thấp Thứ hai là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong quan hệ giữa hai doanh nghiệp này với doanh nghiệp lớn thì ưu thế luôn thuộc về doanh nghiệp lớn, nó thể hiện xu hướng tự phát do cạnh tranh độc quyền. Nhà nước tác động bằng chính sách hỗ trợ tín dụng, chuyển giao công nghệ, tư vấn. Thứ ba là những đối tượng thuộc diện chính sách xã hội. Tự bản thân những đối tượng này không có điều kiện bình đẳng với các tầng lớp xã hội khác khi tham gia thị trường lao động xã hội. Đó là những người tàn tật, những người là nạn nhân của các tệ nạn xã hội, người già…Đây là những người hưởng chính sách xã hội. Các chính sách này được xây dựng trên cơ sở nhân đạo, từ thiện, truyền thống dân tộc, chính sách dân tộc của Nhà nước. 1.2.2. Nội dung và mục đích của chính sách xoá đói giảm nghèo Để giải quyết vấn đề đói nghèo, một trong những vấn đề cơ bản là xây dựng và xác định nó trong tổng thể các chính sách xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: chính sách xoá đói giảm nghèo bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người; điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, chính trị, đạo đức…coi nhẹ chính sách xoá đói giảm nghèo tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính sách xoá đói giảm nghèo luôn gắn với chế độ chính trị- xã hội. Ở chủ thể hoạch định chính sách này là Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với sự tham gia của các tổ chức chính trị- xã hội, các ban ngành đoàn thể xã hội như : Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Lao động và thương binh xã hội, Hội nông dân Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam… Như vậy, chính sách xoá đói giảm nghèo là sự thể chế hoá, cụ thể hoá đường lối, chủ trương giải quyết các vấn đề đói nghèo dựa trên những tư tưởng, quan điểm của chủ thể lãnh đạo phù hợp với bản chất chế độ chính trị- xã hội, phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và của nhóm xã hội nói riêng nhằm tác động trực tiếp vào con người hướng tới mục tiêu cao nhất là thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân. Với nội dung đó, chính sách xoá đói giảm nghèo phải được kế hoạch hoá bằng các chương trình dự án hình thành các quỹ, các cơ sở và các tổ chức xã hội. Xét một cách tổng thể, chính sách xoá đói giảm nghèo có những mục đích cơ bản sau : * Tái tạo tiềm năng nhân lực thông qua các chính sách ưu tiên về dân số, giáo dục, bảo vệ sức khoẻ con người…đối với những đối tượng thuộc chính sách xoá đói giảm nghèo. * Phát triển tổng hợp các nguồn lực, đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm có nguồn vật chất được tạo ra từ sự phát triển xã hội bao gồm cả sự phát triển văn hoá. Đến lượt nó những nguồn lực này lại thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội ở mức độ và hiệu quả cao hơn cho sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Chính những nguồn lực này góp phần quyết định để thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Phát triển nguồn lực không chỉ là tạo vốn, cho dù đó là yếu tố không kém phần quan trọng, mà nó còn là tư liệu sản xuất, đào tạo và chuyển giao công nghệ, hỗ trợ lúc khó khăn, tăng cường khả năng sản xuất và kiến thức cho người nghèo, là sự tăng cường hệ thống quản lý để xây dựng và sử dụng có hiệu quả nguồn lực. * Góp phần vào sự nghiệp xây dựng vững chắc xã hội bằng việc thực hiện những ưu tiên về xã hội cần thiết để xoá đói giảm nghèo ở các vùng có khó khăn, những vùng sâu, vùng xa và những cá nhân có hoàn cảnh đặc biệt. Với nhiệm vụ này việc giải quyết phải xuất phát từ thực tế về sự phát triển không đồng đều giữa các vùng dân cư và vùng lãnh thổ nước ta, do những khác biệt và hoàn cảnh kinh tế- xã hội cũng như điề kiện tự nhiên, tập quán và hậu quả thiệt hại sau 30 năm chiến tranh. * Tạo điều kiện cho một bộ phận dân cư có nhiều khả năng hoà nhập với xã hội, có điều kiện tiêu thụ những sản phẩm vật chất và tinh thần một cách đúng đắn, tiết kiệm, phù hợp với trình độ phát triển sức sản xuất của đất nước và những chuẩn mực đạo đức, pháp lý của chế độ xã hội chủ nghĩa. * Tạo được một mô hình lối sống xã hội chủ nghĩa với những đặc điểm chủ yếu là sự phát triển toàn diện của cá nhân kết hợp hài hoà với sự phát triển hài hoà của cộng đồng trên cơ sở kế thừa giá trị truyền thông đạo lý tốt đẹp của dân tộc. 1.3. Một số khái niệm của chính sách xoá đói giảm nghèo 1.3.1. Khái niệm chung về nghèo đói Nghèo đói là một khái niệm được dùng từ lâu trên thế giới để diễn đạt mức sống của một nhóm dân cư, một nhóm quốc gia hay một quốc gia khác cụ thể. Nghèo đói không chỉ là vấn đề xã hội ở các nước lạc hậu, kém phát triển, mà ngay các nước công nghiệp phát triển cũng tồn tại bộ phận dân cư bị đánh giá là nghèo đói. Một số quan niệm về nghèo đói đã được đưa ra như : Nghèo đói là một vấn đề kinh tế –xã hội mang tính toàn cầu. Hộ gia đình nghèo đói là hộ: “ Có ít tài sản, ngôi nhà hoạc mái nương thân của gia đình nhỏ bé, bùn cỏ, lá hoặc bẹ cọ, chỉ ít đồ đạc bên trong, chiếc ổ lá làm chỗ ngủ, cũng có thể có một chiếc giường, xoong nồi và vật dụng khác” [1 ;76] “Gia đình không có đất hoặc mảnh đất không đảm bảo hoặc chỉ đảm bảo một cuộc sống mong manh, hoặc đất thuê mướn, hoặc cấy rẽ. Gia đình chỉ có một ít vốn và nguồn lương thực ít ỏi, không chắc chắn và lệ thuộc vào thời vụ.Thu thập của gia đình thường rất thấp trong những mùa màng làm ăn ế ẩm” [1;117] Ở Việt Nam trước đây quan niệm những người nghèo khổ là những người bần cố nông, không có ruộng đất đi làm thuê. Ngày nay xác định những người nghèo, hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập thấp không đảm bảo cuộc sống tối thiểu, những hộ gia đình thường xuyên thiếu ăn. Hội nghị chống nghèo đói ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương do ECAP tổ chức tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc( Thái Lan) đã đưa ra những khái niệm chung về nghèo: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển và phong tục tập quán của địa phương”[ 15 ;1] Nghèo đói là một phạm trù chỉ mức sống của một cộng đồng hay một nhóm dân cư là thấp nhất so với mức sống của một cộng đồng khác, nhóm dân cư khác. *Khái niệm chính sách xóa đói giảm nghèo: là một hệ thống nhiều chính sách đồng bộ bao gồm trên nhiều lĩnh vực kinh tế- xã hội, cả về đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần. Trong đó chính sách phát triển kinh tế là rất quan trọng. 1.3.2 Nghèo đói tuyệt đối và nghèo đói tương đối Ngân hàng phát triển Châu Á đã đưa ra khái niệm nghèo đói tuyệt đối và khái niệm nghèo đói tương đối. “Nghèo đói tuyệt đối là việc không có khả năng thoã mãn các nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống cơ thể con người”[15 ;2]. Ở khái niệm này nghèo đói tuyệt đối có xu hướng đề cập đến những người đang thiếu ăn theo nghĩa đen “ Nghèo đói tương đối là tình trạng không có khả năng đạt mức sống tối thiểu tại một thời điểm nào đó” [15 ;2]. Khái niệm nghèo đói tương đối thừa nhận có một số nhu cầu ở nước này được xem là thiết yếu, nhưng ở nơi khác lại xem là xa xỉ. Tuy nhiên việc đưa ra khái niệm nghèo ở đây (nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối) chỉ là tương đối. *Khái niệm đói : Ngoài những khái niệm nghèo đói nói chung ở Việt Nam còn khái niệm đói theo Nguyễn Hữu Hải “Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thu nhập không đảm bảo duy trì cuộc sống”[15;3]. Thực tế, đói là những người đang phải đối mặt hàng ngày với vấn đề thiếu lương thực, là những người thường xuyên thiếu ăn. Do đó biện pháp cấp bách đối vối họ là phải kịp thời cung cấp lương thực cho họ, tiếp đến mới bàn tới các giải pháp để họ tiếp cận được vấn đề lương thực một cách ổn định. Các quan niệm về đói nghèo nêu trên phản ánh ba khía cạnh chủ yếu của người nghèo là : Không được thụ hưởng mhững nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu giành cho con người. Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư Thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng *Chuẩn nghèo : chuẩn nghèo là công cụ để phân biệt người nghèo và người không nghèo. Theo quan niệm chung, những người có thu nhập dưới 1/3 mức trung bình của xã hội thì coi đó là những người nghèo như vậy chuẩn nghèo là một khái niệm động, nó biến động theo không gian và thời gian. Về không gian nó biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội của từng vùng hay từng quốc gia. Ví dụ như ở Việt Nam, chuẩn nghèo biến động theo ba vùng khác nhau đó là vùng : đô thị, nông thôn đồng bằng, nông thôn miền núi. Về thời gian chuẩn nghèo cũng có biến động lớn và nó biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội và nhu cầu của con người và theo từng giai đoạn lịch sử, vì rằng kinh tế –xã hội phát triển đời sống con người ngày được cải thiện tốt hơn, tất nhiên không phải tất cả các nhóm dân cư đều có tốc độ cải thiện giống nhau, thông thường thì nhóm không nghèo có tốc độ tăng mức thu nhập, mức sống cao hơn nhóm nghèo. So với chuẩn nghèo giai đoạn 1996- 2000, chuẩn nghèo giai đoạn 2001 -2005 tăng khoảng 1,5 lần. Sở dĩ có sự lựa chọn phương án tăng 1,5 lần trong 5 năm (1996 -2000) mức sống dân cư Việt Nam tăng khoảng 1,47 lần và GDP bình quân đầu người giai đoạn 1996 - 2000 tăng khoảng 1,97 lần. Theo chuẩn trên đầu năm 2001, Việt Nam có khoang 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm tỉ lệ 17,2%. Cụ thể tính theo thu nhập là: Nông thôn miền núi, hải đảo : 80.000đ/người/tháng (960.000/năm) Vùng nông thôn đòng bằng : 100.000đ/người/tháng (1.200.000đ/năm) Vùng thành thị :150.000đ/người/tháng (1.800.000đ/năm) [15 ; 6 ] Những hộ ở các vùng trên có mức thu nhập bình quân dưới mức thu nhập được xác định là hộ nghèo. 1.4. Vai trò và tác động của chính sách xoá đói giảm nghèo đối với sự phát triển xã hội 1.4.1. Vai trò của chính sách xoá đói giảm nghèo đối với vấn đề quản lý xã hội Mối quan hệ của chính sách xã hội với chính sách xoá đói giảm nghèo và quản lý xã hội : Quản lý xã hội theo một nghĩa rộng là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền, tức quyền lực của bộ máy nhà nước vùng với sự tác động của các chủ thể xã hội nhằm duy trì và phát triển theo mục tiêu đã được lựa chọn với những đặc trưng do tính chất và trình độ đã đạt được của lực lượng sản xuất quy định. Bất cứ một công việc quản lý nào dù là cấp độ nào cũng cần có công cụ quản lý, công cụ quản lý là cái mà người quản lý dùng để tác động lên đối tượng nhằm đạt tới ý đồ, mục tiêu quản lý. Nhờ có công cụ quản lý người quản lý chuyển tải được ý chí của mình lên từng người, một tổ chức và cả xã hội và một vấn đề lớn đặt ra cho công tác quản lý đó là triển khai thực hiện trên phạm vi quản lý nhà nước thì chúng ta có những công cụ quản lý hữu hình và vô hình, do đó chúng ta phải đặt ra cho việc quản lý những đường lối quản lý cụ thể. Như thế chính sách là một công cụ quản lý xã hội, chính sách là một phương tiện rất đặc thù không thể thiếu được để quản lý xã hội. Nó thể hiện quan điểm của nhà quản lý với nhưng mục đích đã xác định, các biện pháp, các thủ thuật được thực hiện mang tính pháp lý hay mang tính pháp quy với cả cộng đồng buộc cả cộng đồng phải thực hiện. Trên cơ sở đó ta thấy rằng chính sách xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách cơ bản của chính sách xã hội, đảm bảo cho một bộ phận dân cư bị thiệt thòi và hụt hẫng trong đời sống được hoà nhập với cộng đồng là cho xã hội phát triển theo hướng công bằng, văn minh. 1.4.2. Tác động của chính sách xoá đói giảm nghèo đối với sự phát triển xã hội Với chính sách xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta thì việc giải quyết vấn đề đói nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề chính trị, công bằng xã hội… Vì thế chính sách x._.oá đói giảm nghèo tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, đây là một trong những tác động quan trọng để phát triển đất nước trong những năm đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tác động về kinh tế : Chính sách xoá đói giảm nghèo là một trong các chính sách kinh tế – xã hội của Đảng và nhà nước ta nhằm tạo tiền đề cho sự phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đối với nước ta bước vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu vẫn còn phổ biến, nông dân vẫn chiếm tỷ lệ cao trong dân số cả nước (80%) và tỷ lệ lao động trong nông nghiệp vẫn còn lớn (73%) trong tổng số lao động của cả nước. Giá trị sản phẩm nông nghiệp chiếm hơn 40% tổng sản phẩm các ngành sản xuất vật chất. Điều này cho thấy giai cấp nông dân nước ta vẫn giữ vị trí rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước cũng như công cuộc bảo vệ Tổ quốc theo định hưóng xã hội chủ nghĩa. Việc thành bại của vấn đề sản xuất nông nghiệp sẽ tác động đến tình hình kinh tế –xã hội của đất nước, vậy mà có hơn 90% người nghèo ở nước ta sống ở khu vực này, đối tượng này không thể chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước theo yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nếu chủ thể sản xuất nông nghiệp là những người nghèo. Tác động về chính trị: Chính sách xoá đói giảm nghèo nhằm đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, cho sự phát triển bảo đảm công bằng xã hội thực hiện mục tiêu cao nhất là chăm lo lợi ích cuộc sống cho tất cả mọi người lao động, chăm lo đời sống và lợi ích thiết thân cho con người để phát triển con người, giải phóng con người và xã hội thoát khỏi đói nghèo lạc hậu. Xoá đói giảm nghèo nhằm tạo điều kiện cho nhân dân lao động đa số là nông dân thực hiện quyền làm chủ, quyền lao động theo đúng khả năng. Đó là quyền dân chủ cơ bản nhất vì thất nghiệp, đói nghèo làm cho chủ thể sản xuất mất một phần lớn quyền công dân. Xoá đói giảm nghèo bao hàm trong nó không chỉ xoá đói nghèo mà còn vươn tới làm giàu, tạo tiền đề cho cá nhân và cộng đồng trở nên giàu có, phồn vinh, thực hiện công bằng xã hội, giải phóng người lao động cả về vật chất và tinh thần. 1.5. Sự cần thiết của công tác xoá đói giảm nghèo và quan điểm của Đảng và nhà nước ta về vị trí vai trò của công tác xoá đói giảm nghèo 1.5.1. Khái niệm công tác xoá đói giảm nghèo “Công tác xoá đói giảm nghèo là quá trình đưa các chủ trương ,chính sách của Đảng, Nhà nước vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, đặc biệt là hộ nghèo, xã nghèo trên cả nước”[15;51]. Thông qua các chương trình, chính sách của Đảng và Nhà nước, các cơ quan, đoàn thể, các địa phương… giúp đỡ người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, nâng cao mức thu nhập và các nhu cầu thiết yếu khác. Qua đó từng bước giúp họ thoát nghèo từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, các địa phương đặc biệt là giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng núi và đồng bằng và giữa các dân tộc trong cả nước. Để làm tốt công tác này, chúng ta phải nhận thức đúng đắn và thống nhất quan điểm xoá đói giảm nghèo là giúp đỡ người nghèo tự vươn lên để thoát nghèo chứ không phải là sự trợ cấp hoặc mang tính bố thí cho người nghèo. Chúng ta cho người nghèo cái cần câu chứ không phải cho họ xâu cá. Để có được những điều này chúng ta phải tích cực tuyên truyền, vận động, giúp đỡ người nghèo; cung cấp tiền vốn, phương tiện sản xuất, hướng dẫn họ cách thức làm ăn để họ tự vươn lên xoá bỏ tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, chính quyền địa phương, đồng thời giúp họ xoá bỏ tâm lí tự ti, mặc cảm. Giúp họ có lòng tin vào Đảng, Nhà nước, chính quyền và tin vào chính mình, tin vào cuộc sống tương lai. 1.5.2. Vai trò vị trí của công tác xoá đói giảm nghèo Những kết quả thu được từ công tác xoá đói giảm nghèo có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của đất nước nói chung và của mỗi vùng, mỗi địa phương nói riêng, mang nhiều ý nghĩa cả về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, giáo dục. Xét về mặt kinh tế: Hiệu quả của công tác xoá đói giảm nghèo có ý nghĩa rất quan trọng đến sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước, nó thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế phát triển và ngược lại sự tăng trưởng kinh tế cũng sẽ tác động trỏ lại đối với công tác xoá đói giảm nghèo. Hoạt động của công tác xoá đói giảm nghèo gọi là có kết quả chính là việc tạo ra nhiều việc làm cho người nghèo, để họ có thu nhập, mức thu nhập của người nghèo được nâng lên, góp phần không nhỏ vào nguồn quỹ phục vụ công tác xoá đói giảm nghèo. Về mặt chính trị xã hội : Xoá đói giảm nghèo tạo cơ hội cho mỗi cá nhân, hộ gia đình, xã nghèo… có điều kiện phát triển, nó góp phần làm ổn định chính trị kinh tế – xã hội, hạn chế những tiêu cực nảy sinh do tình trạng nghèo đói gây ra. Xoá đói giảm nghèo có hiệu quả là điều kiện giữ vững và đảm bảo ổn định chính trị –xã hội. Khi mức sống được nâng cao người nghèo từng bước có được những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống. Đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện, được quan tâm đầy đủ hơn, nó sẽ củng cố được lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chính quyền và chế độ xă hội, điều đó làm ổn định chính trị, kinh tế, xã hội. Ngược lại nếu không làm tốt công tác xoá đói giảm nghèo, để hộ nghèo đói dài triền miên, số hộ nghèo, người nghèo ngày càng tăng sẽ tạo kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng làm tổn hại đến sự đoàn kết và thống nhất trong dân cư, cộng đồng, gây mất ổn định xã hội. Nghèo đói cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội và ngược lại các tệ nạn xã hội cũng chính là nguyên nhân dẫn tới đói nghèo. Do vậy thực hiện tốt công tác xoá đói giảm nghèo trước hết nó hạn chế được các tệ nạn xã hội,đồng thời nó tiết kiệm được một lượng ngân sách để hỗ trợ cho người nghèo vào việc phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội khác làm cho xã hội tốt đẹp hơn. Về mặt văn hoá giáo dục: Thực hiện tốt công tác xoá đói giảm nghèo sẽ tạo ra điều kiện cho sự phát triển giáo dục như : Trẻ em dến tuổi đi học có điều kiện và cơ hội đến trường. Nguyên nhân chủ yếu là do nghèo đói và sự cần thiết phải có lao động trong gia đình, trẻ em đang trở thành một nguồn lao động cho gia đình nên vấn đề học hành ít được quan tâm. Do vậy hiệu quả của công tác xoá đói giảm nghèo sẽ khắc phục được tình trạng này và số trẻ em đến tuổi đi học sẽ có điều kiệ và cơ hội đến trường nhiều hơn Điều kiện giảng dạy và giáo dục được nâng cao, chất lượng giáo dục và đào tạo ngày càng được cải thiện, trình độ dân trí của người dân được nâng lên, tỷ lệ mù chữ giảm, cơ hội người nghèo tiếp cận khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất, nâng cao thu nhập tốt hơn. 1.5.3. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác xoá đói giảm nghèo Đảng ta chủ trương từng bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội đối với toàn dân theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm mở rộng và phát triển các loại hình bảo trợ xã hội, tạo nhiều hệ thống bảo trợ xã hội cho những người có công với cách mạng và những người gặp khó khăn. Nghiên cứu bổ sung chính sách, chế độ bảo trợ xã hội phù hợp với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Quan điểm đường lối của Đảng ta đối với công tác xoá đói giảm nghèo tiếp tục được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với mục tiêu là đảm bảo và không ngừng nâng cao đời sống vật chất cho mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh. Nhà nước tạo môi trường và điều kiện cho người lao động có việc làm chăm lo cải thiện điều kiện lao động. Có chính sách thích đáng đối với các gia đình thương binh liệt sỹ, bệnh binh, cán bộ lão thành, những người về hưu. Chăm lo đời sống cho những người già cả, neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ em mồ côi. Gia đình liệt sĩ, thương binh, người già, neo đơn … là những người, những gia đình thuộc diện dễ tổn thương. Những gia đình này thường là thiếu lao động trụ cột, do sản xuất gặp khó khăn, tiền lương thấp, thu nhập từ sản xuất kinh doanh hạn chế… Do vậy, họ có thể trở thành những người nghèo, hộ nghèo. Đảng ta luôn quan tâm đến cá gia đình chính sách đó là đạo lý uống nước nhớ nguồn, đạo lý vì người nghèo, vì mục tiêu làm cho con người đều được ấm no hạnh phúc. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, mục tiêu xoá đói giảm nghèo trở thành một quốc sách. Một chương trình mục tiêu quốc gia quan trọng. Đảng ta xác định đó là nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng của Đảng, Nhà nước và của nhân dân ta. Nghị quyết chỉ rõ: “Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo thông qua những biện pháp cụ thể, sát với tình hình từng địa phương, xoá nhanh các hộ đói, giảm mạnh các hộ nghèo” [3;106 ]. Xoá đói giảm nghèo là sự nghiệp cách mạng của toàn dân, là một chính sách xã hội cơ bản, là hướng ưu tiên trong toàn bộ các chính sách kinh tế và xã hội. * Phát triển kinh tế đi đôi với thực tiễn xoá đói giảm nghèo bền vững, gắn xoá đói giảm nghèo với phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, kinh tế hộ, dịch vụ ngành nghề, lồng nghép xoá đói giảm nghèo với các chương trình mục tiêu quốc gia và an sinh xã hội. Xác định rõ các vùng trọng điểm, các hoạt động ưu tiên để tập trung nguồn lực đầu tư có hiệu quả. * Gắn xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm với thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, từ đó tạo cơ hội và điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản. Phát huy nội lực là chủ yếu, đồng thời tăng cường sự hợp tác quốc tế. Bằng nguồn lực của Nhà nước và của toàn xã hội, tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cho vay vốn, trợ giúp đào tạo nghề. Cung cấp thông tin chuyển giao công nghệ, giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm đối với những vùng nghèo và nhóm dân cư nghèo…. Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản không có hộ đói. Thường xuyên củng cố thành quả xoá đói giảm nghèo. * Từ chủ trương và chiến lược xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước, có thể thấy một số quan điểm trong chỉ đạo thực tiễn. * Xoá đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững đồng thời chủ động tạo các nguồn lực cho các hoạt động trợ giúp người nghèo đói. * Xoá đói giảm nghèo không những là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước của toàn xã hội, mà trước hết là bổn phận của chính người nghèo, phụ thuộc vào sự tự vận động của bản thân người nghèo, của cộng đồng nghèo. * Triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo bằng các nguồn tài chính trợ giúp của Nhà nước và các tổ chức trong và ngoài nước. * Việc hỗ trợ và cho vay vốn hộ nghèo phải đi liền với công tác tư vấn, hướng dẫn sử dụng vốn vay có hiệu quả, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của từng hộ gia đình. CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH LẠNG SƠN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 2.1 Khái quát về tỉnh Lạng Sơn và tình hình đói nghèo ở Lạng Sơn 2.1.1 Vài nét về kinh tế – xã hội ở Lạng Sơn Lạng Sơn là một tỉnh miền núi nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam, có toạ độ địa lý là 22027’ – 21019’ vĩ Bắc và 106006’ – 107021’ Kinh Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía Đông Nam giáp tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), và giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Nam giáp Bắc Giang, phía Tây Nam giáp tỉnh Thái Nguyên và phía Tây giáp Bắc Cạn. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 8.187 km2, diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng chiếm 8,3%; diện tích đất tự nhiên, đất lâm nghiệp có rừng chiếm 36,8%; diện tích đất chưa sử dụng, núi đá chiếm 56,3%. Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng chiếm tới hơn 80% kinh tế của tỉnh, nghề trồng trọt chủ yếu là lúa nước, ngô, khoai, sắn… Bên cạnh đó nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng khá phát triển. Cách làm ăn cũ, quảng canh, manh mún, cá thể, sản xuất nhỏ đã và đang chuyển sang lối làm ăn mới, thâm canh tập trung và chuyên canh. Các biện pháp khoa học kỹ thuật đang ngày càng được ứng dụng rộng rãi, công tác thuỷ lợi được phát triển khá mạnh. Do đó năng suất cây trồng ngày càng tăng khá hơn. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cũng đang được mở rộng. Mỏ than Na Dương, phốt phát Vĩnh Thịnh, các xí nghiệp tinh dầu hồi, cơ khí, chế biến lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gốm, nhà máy xi măng đã và đang phục vụ đắc lực cho sản xuất nông lâm nghiệp. Mạng lưới giao thông khá thuận tiện. Trong tỉnh có 87 km đường sắt, gần 400km đường quốc lộ nằm trên các tuyến Quốc lộ1A , 1B, 4A, 4B, có 253 km đường biên giới với Trung Quốc trải dài qua 20 xã và một thị trấn thuộc 5 huyện (Tràng Định, Văn Lãng, Lộc Bình, Cao Lộc,và Đình Lập); có 2 cửa khẩu quốc tế (cửa khẩu đường sắt ga Đồng Đăng và cửa khẩu đường bộ Hữu Nghị), hai cửa khẩu quốc gia là cửa khẩu Chi Ma huyện Lộc Bình và cửa khẩu Tân Thanh huyện Văn Lãng. Dân số Lạng Sơn hiện nay có trên 70 vạn, với mật độ bình quân 60 người/km2, sống ở 10 huyện và 1 thành phố.với 226 xã, phường thị trấn, trong đó có 106 xã đặc biệt khó khăn thụ hưởng chương trình 135 Lạng Sơn là một địa bàn quần cư, thống nhất của nhiều dân tộc bao gồm anh em như Nùng( 43,8%), Tày(35,2%), Kinh(15,2%), Dao(3,5%), và các dân tộc anh em khác Những điều kiện trên cho phép Lạng Sơn có nhiều nguồn lực để phát triển toàn diện (vừa phát triển kinh tế – xã hội với các tỉnh bạn vừa có cơ hội buôn bán với tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc). Nếu được đầu tư đúng mức sẽ rất thuận lợi để đáp ứng một nền sản xuất đa dạng và các hoạt động kinh tế năng động mà trước mắt là đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp làm động lực phát triển cho tỉnh Lạng Sơn. Đầu tư, phát triển toàn diện kinh tế – xã hội cũng là điều kiện để giải quyết việc nâng cao mức sống nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Qua 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 13 (2001-2004), có thể đánh giá tổng quát: Nền kinh tế tiếp tục phát triển tương đối cao so với mức tăng trưởng chung của cả nước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, nhất là cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp và nông thôn; năng lực sản xuất và kết cấu hạ tầng ngày càng được bổ sung, đang từng bước hoàn thiện, các lĩnh vực văn hoá, xã hội đều có những chuyển biến tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được củng cố và giữ vững. Công tác xoá đói giảm nghèo cũng đang được chú trọng thực hiện và cũng đã mang lại nhiều kết quả tốt. Mặc dù tỉnh Lạng Sơn đã có những bước tiến đáng kể về kinh tế – xã hội trong những năm qua, song trên thực tế đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đồng bào các dân tộc vùng sâu vùng xa. Vấn đề đói nghèo và nhân hoá giàu nghèo vẫn tồn tại và diễn ra phức tạp, tình trạng đói nghèo vẫn còn cao, việc xoá nghèo chưa thực sự bền vững. 2.1.2 Thực trạng nghèo đói ở Lạng Sơn hiện nay Theo kết quả điều tra tháng 3/2001 tỉ lệ hộ nghèo toàn tỉnh theo chỉ tiêu mới là 17.06% (tương đương 25.129 hộ) trong đó tỷ lệ hộ đói là 4.026% tương đương với 5.530 hộ. Thực trạng nghèo đói trong toàn tỉnh phần lớn là rơi vào các nhóm hộ gia đình thuần nông, độc canh cây lúa và tự cung tự cấp, ít có tư liệu sản xuất, đông con, thiếu lao động, thu nhập thấp, ngay tái sản xuất cũng không có điều kiện. Ở đây tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm dẫn đến hiện tượng người dân nông thôn ra thành thị đi làm thuê, bốc vác, đặc biệt là hiện nay phần lớn họ đi làm “cửu vạn” ở biên giới cửa khẩu, đây đang là vấn đề nhức nhối đối với tỉnh Lạng Sơn, cuộc sống của họ luôn bấp bênh nguy cơ đói nghèo luôn cao. Số người này có cả trẻ em, phụ nữ đây là vấn đề đáng lưu tâm đòi hỏi sự quan tâm chặt chẽ của cấp uỷ, các cấp chính quyền của tỉnh bởi chính điều này góp phần không nhỏ đối với việc mất trật tự xã hội, an ninh quốc phòng, gia tăng các tệ nạn xã hội. Cũng theo thống kê tháng 3/2001, tỷ lệ đói nghèo trong toàn tỉnh ở mức cao chủ yếu là ở các huyện, xã vùng cao, vùng sâu nơi đồng bào các dân tộc ít người sinh sống. Cao nhất là huyện Văn Quan 38,44%, huyện Tràng Định 27,55%, tỷ lệ đói nghèo ở mức thấp nhất là ở Thành phố: 4,10% (xem phụ lục, bảng 1, trang 74). Với điều kiện sinh hoạt của hộ nghèo thì chỉ có 2% có nhà kiên cố, 80% nhà tranh vách nứa và đặc biệt có 18% nhà cửa tạm bợ, đồ dùng sinh hoạt gia đình quá đơn sơ, chủ yếu dùng gỗ, tre, nứa và vài thứ khác có giá trị không đáng kể, ở dưới mức trung bình về lượng và tồi tàn về chất. Các hộ này hầu như không có những trang thiết bị, vật dụng như đài, tivi, xe máy, máy khâu…. Về tư liệu sản xuất phục vụ cho nông thôn rất thấp, các loại tư liệu sản xuất ít, họ thường dùng sức lao động bằng cơ bắp và sức kéo của gia súc là chủ yếu thế nên hệ số sử dụng đất kém hiệu quả. Vì là tỉnh miền núi nên ruộng chủ yếu là loại bậc thang, hệ thống thuỷ lợi rất kém do chưa đầu tư đúng mức, số ruộng ở cao hầu như chỉ gieo cấy được 1 vụ/năm. Hộ nghèo không thiếu lao động (trung bình 3 đến 4 người/hộ) nhưng số lượng lao động rất thấp thể hiện cụ thể: lao động trong năm chỉ đạt dưới 150 ngày. Xu hướng phân hoá giàu nghèo ở Lạng Sơn diễn ra chủ yếu giữa nông thôn và thành thị, giữa một số các dân tộc, điều này thể hiện ở tỷ lệ phân loại giàu nghèo (chia theo khu vực và dân tộc) của tỉnh (xem phụ lục, bảng 2, trang 75). Điều đáng chú ý là tuy có sự phân hoá giàu nghèo nhưng không có sự phân hoá giai cấp. Trong toàn tỉnh nói chung hiện nay đang tồn tại hai nhóm người giàu, nghèo. Và do đó điều kiện sinh hoạt giữa các hộ ở nông thôn, thành thị cũng có sự chênh lệch. 2.1.3 Nguyên nhân của đói nghèo Tình trạng đói nghèo có nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng có thể khái quát thành hai nguyên nhân chính: nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Tuy nhiên cách phân chia này cũng chỉ là tương đối. *Nguyên nhân khách quan: (nguyên nhân từ bên ngoài người nghèo) Có thể khẳng định rằng đói nghèo ở Lạng Sơn trước hết là do trình độ kinh tế-xã hội còn thấp, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng còn chưa phù hợp. Công tác thuỷ lợi còn nhiều yếu kém, chủ yếu là cục bộ chưa có sự bố trí hợp lý, hiệu quả thấp, gây khó khăn cho sản xuất. Về đường xá, hiện nay đa phần các xã đã có đường ôtô đến trung tâm xã nhưng là đường đất, một số xã tuy có đường còn chưa sử dụng được cả bốn mùa, đường tới các làng bản cực kỳ khó khăn, nhất là vào mùa mưa do đó việc trao đổi hàng hoá bị hạn chế. Chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, tự tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo (chính sách thuế, chính sách ưu đãi…) chưa hoàn thiện và đồng bộ. Tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp theo mùa (nông nhàn) làm cho một số gia đình trở nên nghèo đói và dễ bị tổn thương, lao động nông nhàn rất nhiều do không có thị trường lao động, không các ngành nghề phụ thay thế (các nghề thủ công truyền thống rất ít, manh mún) điều này làm ảnh hưởng đến nguồn thu của các hộ gia đình. Một số chính sách áp dụng cứng nhắc, không phù hợp với điều kiện thực tế, việc chuyển giao công nghệ cho người nghèo còn gặp khó khăn, trở ngại lớn. Trồng cây, chăn nuôi thiếu những kỹ thuật cơ bản, chưa biết cách thức buôn bán, kinh doanh, dịch vụ. Điều kiện tự nhiên: Lạng Sơn có địa hình đồi núi bị chia cắt phức tạp, thời tiết khắc nghiệt, đất canh tác ít, diện tích chủ yếu là đồi và đặc biệt là những khó khăn về khí hậu, Lạng Sơn chịu ảnh hưởng mạnh của gió mùa Đông Bắc nên nạn mất mùa thường xuyên xảy ra, gia súc và vật nuôi bị giảm số lượng đáng kể, hoa màu chậm phát triển và hay bị chết nên sản lượng cũng như năng suất giảm đáng kể, làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sản xuất của người nông dân. *Nguyên nhân chủ quan: (từ bản thân người nghèo) Theo số liệu điều tra cho thấy: đói nghèo do thiếu vốn sản xuất kinh doanh là 79,5%; do thiếu đất canh tác 59,1%; do thiếu kinh nghiệm làm ăn: 34,68%; do thiếu lao động, đông người ăn theo 31,9%; do gặp rủi ro, ốm đau, tai nạn, thiên tai: 4,1%; do lười lao động: 1,7%; do mắc bệnh xã hội là 0,7% [14; 4 ]. Hầu hết người nghèo bị nghèo đói là do thiếu hiểu biết, do trình độ nhận thức thấp. Từ đó kinh nghiệm và kỹ thuật sản xuất kinh doanh cực kỳ hạn chế, họ canh tác sản xuất chủ yếu theo kinh nghiệm của bản thân, thiếu sự ứng dụng khoa học trong sản xuất dẫn đến năng suất kém. Tình trạng nghèo còn do nguyên nhân về dân số: các gia đình nghèo thường là gia đình đông con, nhất là các hộ gia đình dân tộc ít người, trung bình khoảng 3 đến 4 con/hộ. Nguyên nhân cơ bản của những hộ gia đình này là quá ít đất đai và vốn, hoặc quá ít việc so với số lao động, ngoài ra có thể do người trụ cột trong gia đình bị chết, già yếu, ốm đau hay tàn tật. Sức khoẻ và tình trạng nghèo nàn thường có mối quan hệ qua lại với nhau. Nghèo đói làm cho sức khoẻ tàn tạ (vì người nghèo phải thường sống trong điều kiện vệ sinh kém và ăn không đủ chất dẫn đến thiếu dinh dưỡng) ngược lại sức khoẻ kém là nguyên nhân của sự nghèo khổ (vì người yếu không thể làm việc một cách hiệu quả được). Vòng luẩn quẩn này đòi hỏi phải giải quyết cùng một lúc hai vấn đề: giảm đói nghèo và tăng cường sức khoẻ. Thiếu vốn cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản của những hộ nghèo. Mặc dù đã có những chính sách, chủ trương hỗ trợ vốn cho người nghèo của Ngân hàng nông nghiệp, nhưng nguồn vốn này còn có hạn chế là chủ yếu trông chờ vào nguồn ngân sách của Nhà nước. Ngoài những nguyên nhân chủ quan nêu trên thì vấn đề nghèo đói còn những nguyên nhân sau: do lười lao động, ăn tiêu lãng phí, họ không có ý thức tiết kiệm và dành dụm… Như vậy thực trạng đói nghèo ở Lạng Sơn (17,06%) vẫn đang ở mức cao so với các nước, đặc biệt trong điều kiện cơ chế thị trường hiện nay ở Lạng Sơn và cũng như các địa phương khác sự phân hoá giàu nghèo là khó tránh khỏi, đây là vấn đề cần được quan tâm và giải quyết. Một mặt phải có chính sách tiếp tục phát huy tiền năm đất nước phát triển về kinh tế, khuyến khích mọi người làm giàu, mặt khác phải có chính sách xã hội hướng vào việc xoá đói giảm nghèo. Điều này cần tổng hợp các biện pháp, giải pháp cụ thể và tích cực. 2.2 Tổ chức thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Lạng Sơn 2.2.1 Khái quát chung về tổ chức thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo Chương trình xoá đói giảm nghèo tỉnh giai đoạn 2001-2005 được triển khai thực hiện trong bối cảnh có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn. *Thuận lợi: Kế thừa những thành tựu đã đạt được trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn (1996-2000), rút ra những bài học kinh nghiệm có giải pháp phù hợp thực hiện có giải pháp phù hợp thực hiện có hiệu quả hơn cho nên bước vào giai đoạn 2001-2005, công tác thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo có những thuận lợi sau: -Nền kinh tế của tỉnh luôn tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước, bình quân hàng năm là 9,84% [18;7 ], cao hơn mức bình quân giai đoạn 1996-2000 (là 9,25%) gần đạt mục tiêu đề ra (10-10.5%); cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỉnh đã và đang từng bước khai thác được tiềm năng, thế mạnh của tỉnh; nền kinh tế thị trường tạo điều kiện thuận lợi hơn để huy động mọi nguồn lực cho phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo được nhiều việc làm cho người lao động. Kết cấu hạ tầng cơ sở: Điện, đường, trường học, trạm y tế, hệ thống thuỷ lợi, thông tin liên lạc, điện thoại…được chú trọng xây dựng và mở rộng, từng bước, phát huy được tác dụng, đáp ứng yêu cầu thực tế của nhân dân. Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của cấp uỷ, chính quyền các cấp, các ban, ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở. Bước đầu tổng kết được kinh nghiệm công tác xoá đói giảm nghèo. Chương trình xoá đói giảm nghèo được triển khai trong điều kiện tình hình kinh tế – chính trị – xã hội ổn định. *Khó khăn: Lạng Sơn là tỉnh miền núi biên giới và còn là một tỉnh nghèo, địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, khí hậu khắc nghiệt, thời tiết diễn biến thất thường, trình độ dân trí thấp, việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế. Nguồn vốn huy động, đầu tư cho xoá đói giảm nghèo còn hạn chế so với nhu cầu cần thiết của chương trình cũng như nhu cầu của người dân. Đội ngũ cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo về năng lực, trình độ còn nhiều hạn chế, không đồng đều lại thường xuyên thay đổi, nhất là ở cấp xã dẫn đến việc tổ chức, điều hành, nắm, theo dõi, tham mưu đề xuất về công tác xoá đói giảm nghèo còn lúng túng, hiệu quả chưa cao. Khoảng cách về thu nhập, mức sống giữa khu vực thành thị và nông thôn nhất là những xã vùng sâu, vùng xa có sự chênh lệch ngày càng lớn. Những khó khăn trên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình, hiệu quả và tính bền vững của chương trình xoá đói giảm nghèo. 2.2.2 Quan điểm chỉ đạo của tỉnh Theo quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân tỉnh đã xác định xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ trọng tâm trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm, do đó đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát và liên tục công tác thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo của tỉnh theo đúng tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Giai đoạn 1996-2000, thực hiện Nghị quyết Đại hội XXI Đảng bộ tỉnh và nghị quyết 05/NQ-TW ngày 28/3/1997 của Ban Thường vụ tỉnh uỷ khoá XII về thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã được ổn định và nâng lên rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 19,67% năm 1996 và xuống còn 11% năm 2000 (theo chuẩn nghèo cũ). Sang giai đoạn 2001-2005, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành tiêu chí mới về xác định hộ nghèo, theo tiêu chí này hộ nghèo của tỉnh còn ở mức khá cao, một bộ phận hộ đã thoát nghèo nhưng chưa bền vững; còn nhiều hộ nghèo chưa được cải thiện nhà ở, trong đó có một số hộ thuộc diện chính sách người có công với cách mạng. Với quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu xoá đói giảm nghèo đã được Đại hội toàn quốc lần thứ IX Đảng và đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng bộ tỉnh đề ra. Từ việc xác định rõ nguyên nhân của tình trạng đói nghèo, thấy rõ những ưu khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thực hiện của cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể đối với chương trình xoá đói giảm nghèo trong giai đoạn 1996-2000, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh xác định xoá đói giảm nghèo là việc làm trọng tâm cấp bách trong giai đoạn 2001-2005. Ngày 18/7/2001 Ban chấp hành đảng bộ đã ban hành Nghị quyết số 03/NQ-TƯ về “Đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005” với một số nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu sau: *Về nhiệm vụ: Các cấp uỷ, chính quyền các cấp phải xác định xoá đói giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm, 5 năm và trong chiến lược phát triển – xã hội của ngành mình, địa phương mình. Thực hiện xoá đói giảm nghèo là trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn. *Về mục tiêu: Hết năm 2002 xoá hộ nghèo diện chính sách người có công với cách mạng, đảm bảo mức sống các hộ chính sách người có công phải bằng và cao hơn mức sống trung bình so với các hộ ở nơi cư trú. Hết năm 2005 giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh xuống dưới 7% (theo chuẩn nghèo mới). Bình quân mỗi năm giảm từ 1,0-1,2%. 2.2.3 Tình hình triển khai chính sách xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Để có thể triển khai được các chương trình, dự án nhằm xoá đói giảm nghèo một cách có hiệu quả và đúng đối tượng, đúng mục đích thì Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo của các cấp cùng với c ác thành viên trực thuộc đã thực hiện một số công việc sau: Trước tiên, là khảo sát, điều tra nắm danh sách, địa chỉ và hoàn cảnh cụ thể của từng hộ đói nghèo. Chủ thể trực tiếp thực hiện công tác này là Sở lao động – Thương binh và xã hội, Uỷ ban nhân dân các cấp phối hợp để thực thi các nội dung sau: Quán triệt mục đích yêu cầu và tập huấn nghiệp vụ điều tra hộ đói nghèo cho cán bộ phụ trách công tác xoá đói giảm nghèo các huyện thị. In ấn hệ thống biểu mẫu cấp phát đến tận thôn, bản xã, phường, thị trấn. Tập huấn phương pháp xác định và tổng hợp hộ đói nghèo cho cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo ở các cấp. Tiến hành tổ chức điều tra, phân loại hộ đói nghèo trên phạm vi toàn tỉnh. Cấp giấy chứng nhận hộ đói nghèo, cấp giấy miễn giảm một phần viện phí theo Nghị định 95/CP của Chính phủ trên cơ sở số liệu đã điều tra. *Mục đích: Phục vụ trực tiếp cho Ban đại diện Hội đồng quản trị ngân hàng nông nghiệp các huyện thị làm căn cứ để xây dựng chiến lược kinh tế – xã hội của tỉnh, đặc biệt đó là căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo ở các xã, phường, thị trấn trong từng giai đoạn. *Kết quả: Được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương nhất là ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo từ huyện, thị đến xã, phường, thị trấn đã khắc phục mọi khó khăn để thu nhập thông tin tổng hợp, đảm bảo chất lượng số liệu và tiến độ thời gian, điển hình là các huyện Hữu Lũng, Chi Lăng, Văn Lãng, Cao Lộc và thành phố. Kết quả cuộc điều tra đã phản ánh sát tình hình thực tế báo cáo theo đúng hệ thống biểu mẫu quy định. Thứ hai, nhằm khẳng định trách nhiệm cao đối với công tác xoá đói giảm nghèo, ban chỉ đạo đã thực hiện ký cam kết xoá đói giảm nghèo giữa Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh với Uỷ ban nhân dân các cấp; giữa Uỷ ban nhân dân các cấp với các thôn bản, khối phố. Kết quả: việc tổ chức ký cam kết xoá đói giảm nghèo đã được thực hiện nghiêm túc từ tỉnh đến huyện, thị. Tuy nhiên việc tổ chức đến từng hộ gia đình chưa được thực hiện tốt, một số xã chưa tổ chức ký cam kết xoá đói giảm nghèo với huyện, thị theo quy định của Uỷ ban nhân dân tỉnh. Thứ ba, công tác tuyên truyền, vận động, chủ thể thực hiện công tác này là các cơ quan thông tin đại chúng: báo, đài phát thanh và truyền hình tỉnh, huyện. Ngoài ra còn có sự phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận tổ quốc, các thành viên trong Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo từ tỉnh đến các huyện, thị và đã đến tận xã, phường để tuyên truyền vận động nhằm nâng cao nhận thức, động viên kịp thời, sự đồng tình ủng hộ, hưởng ứng của các chi hội cơ sở, cũng như các hội viên tham gia tích cực góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo đề ra. Bên cạnh đó Uỷ ban nhân dân tỉnh đã cụ thể hoá Nghị quyết của tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân tỉnh bằng việc ban hành Quyết định số 11/2002 UB-QĐ ngày 4/3/2002 về phê duyệt “Chương trình xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005”. Chương trình đã xác định rõ mục tiêu và các giải pháp cụ thể. Từng nhóm giải pháp đư._.và phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân cho phù hợp với giai đoạn hiện nay. Như vậy, xoá đói giảm nghèo là một kiểm nghiệm thực tế góp phần củng cố, tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị ở tỉnh Lạng Sơn. Chính trị ổn định và vững mạnh là thể hiện niềm tin của nhân dân Lạng Sơn đối với Đảng, với chính quyền. Sự gắn bó này sẽ không bị bất cứ một thế lực nào, kẻ thù nào chia rẽ mà ngược lại kẻ thù sẽ phải cúi đầu trước sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân. Điều này có ý nghĩa cực kỳ to lớn vì: Có dân, thuận lòng dân là có tất cả. 2.5.3. Tác động đối với an ninh quốc phòng. Chính sách xoá đói giảm nghèo là chính sách kinh tế – xã hội, là một trong những đòn bẩy góp phần phát triển xã hội. Kinh tế mạnh, chính trị vững đồng thời vừa là cơ sở để đầu tư, củng cố lực lượng an ninh quốc phòng. Lạng Sơn là một tỉnh biên giới phía Bắc của nước ta, có địa thế quan trọng và là cửa khẩu thông thương với nước ngoài, vì vậy an ninh quốc phòng rất cần thiết được đề cao. Việc đảm bảo cuộc sống ổn định cho quân và dân đặc biệt là các xã vùng biên giới sẽ rất được coi trọng khi chế độ ta đầu tư chính sách đúng đắn, thoả đáng đối với nhân dân, nhân dân ta sẽ một lòng cùng với lực lượng vũ trạng làm tốt công tác giữ gìn an ninh, trật tự xã hội, bảo vệ vững chắc biên giới của tổ quốc, góp phần tích cực vào việc tăng cường ổn định chính trị, mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội. Tỉnh đã thực hiện chính sách hỗ trợ đối với đồng bào định cư tại các thôn, bản, vùng biên giới, tạo điều kiện cho đồng bào an tâm sản xuất, ổn định cuộc sống, bám đất bám làng. Đặc biệt là chương trình 135 và 143 do thủ tướng chính phủ phê duyệt, đã được tỉnh Lạng Sơn triển khai mang lại kết quả tốt, tạo ra phong trào lao động sản xuất sôi nổi, sự hồ hởi, phấn khởi và tin tưởng của đồng bào các dân tộc tin vào đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước. Đó đồng thời là nền tảng vững chắc của trật tự an ninh vùng biên cương của Tổ quốc. 2.5.4. Tác động đối với văn hoá - tinh thần Xoá đói giảm nghèo ở Lạng Sơn đã khơi dậy và huy động được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo thành phong trào thi đua sản xuất sôi nổi và mang tính xã hội hoá cao, cùng giúp đỡ, đùm bọc, bao dung vượt lên trên từng số phận đói nghèo với truyền thống nhân ái và mang tính cộng đồng sâu sắc của dân tộc, nhân dân Lạng Sơn đã đoàn kết, tương trợ lẫn nhau để cùng xoá đói giảm nghèo. Chính sách xoá đói giảm nghèo do Đảng ta phát động đã đi vào lòng dân, trở thành phong trào quần chúng rộng khắp, thật cảm động và biết ơn những cán bộ, công nhân viên chức đã tiết kiệm từng ngày lương, những em học sinh đã dành từng bữa ăn sáng để có tiền ủng hộ xoá đói giảm nghèo, thật đáng trân trọng về bao nỗ lực của các cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo, những cô, bác đã nghỉ hưu, không ngại tuổi cao sức yếu, những bạn trẻ, thanh niên năng nổ nhiệt tình… Tất cả mọi người đã tham gia tận tình tham gia phong trào với một ý nghĩa thống nhất. Lo cho dân nghèo, cho đồng bào ruột thịt của mình. Tất cả những việc làm trên đều rất vô tư, trong sáng và không hề vụ lợi cá nhân, vượt qua những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường và sự cám dỗ vật chất, lối sống thực dụng. Điều đó thể hiện lòng nhân ái, tình đoàn kết bao dung tốt đẹp với “một miếng khi đói bằng một gói khi no” của dân tộc ta. Đó cũng chính là làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Bác đã từng kêu gọi đồng bào cả nước phát huy tinh thần “ tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách” để cứu giúp những người đói, nghèo. Phát huy truyền thống dân tộc, chủ trương xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta đang đi vào cuộc sống với khí thế của phong trào rộng khắp, mang tính xã hội hoá cao ở tỉnh Lạng Sơn. Chính sách xoá đói giảm nghèo không những giúp cho người nghèo có vốn làm ăn mà cái được ở đây là khơi dậy lòng tin, ý chí, năng lực để họ vươn lên thoát khỏi cảnh khốn cùng, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Người dân không những có được cuộc sống vật chất mà họ còn được tiếp cận với nhiều dịch vụ càng góp phần nâng cao nhận thức và hành động. Với mục đích cao cả và ý nghĩa nhân đạo, công tác xoá đói giảm nghèo không dung nạp những tư tưởng cá nhan vụ lợi mà xuất phát từ tấm lòng, tình cảm nhân nghĩa, yêu nước thương nòi, đồng cam cộng khổ, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau trong tình làng nghĩa xóm, tình cộng đồng trong quan hệ giữa con người với con người, con người với xã hội. Do đó xoá đói giảm nghèo cần phải là hoạt động tự nguyện, tự giác của tất cả mọi người. Chính với ý nghĩa cao cả đó mà thông qua hoạt động xoá đói giảm nghèo chúng ta có thể có được những chuẩn mực xã hội ngày càng tốt đẹp hơn trong mối quan hệ cộng đồng xã hội. Vì thế xoá đói giảm nghèo không chỉ là chính sách giải quyết về mặt kinh tế – xã hội mà còn là chính sách củng cố được lòng tin, sức mạnh của cộng đồng người đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. 2.6. Phương hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Lạng Sơn 2.6.1. Phương hướng và mục tiêu thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo của tỉnh trong thời gian tới * Phương hướng. Tiếp tục làm chuyển biến nhận thức của toàn Đảng, toàn dân về chủ trương phương hướng và giải pháp chương trình mục tiêu Quốc gia xoá đói giảm nghèo cũng như chương trình xoá đói giảm nghèo của tỉnh đề ra. Tăng cường nguồn vốn và tập trung các nguồn lực xoá đói giảm nghèo cho các hộ diện chính sách vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng dân tộc ít người. Đối với hộ nghèo không còn khả năng lao động cần hỗ trợ để mức sống của họ không dưới mức tối thiểu, cho vay vốn để sản xuất không lấy lãi hoặc lãi suất rất thấp bằng nguồn vốn huy động và nguồn vốn trích từ ngân sách tỉnh. Ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng cho vùng nghèo, xã nghèo theo thứ tự, điện, dường, trường, trạm, nước sinh hoạt, cho vùng nông thôn. Do đó cần xác định đúng diện đầu tư phát triển của chương trình, từ đó thực hiện đúng các giải pháp để đảm bảo đầu tư đúng mục tiêu, đúng đối tượng, có hiệu quả và không để thất thoát. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và đoàn kết các dân tộc ở vùng biên giới, vùng núi. Giải quyết và thực hiện tốt các chính sách đối với hộ đói nghèo,tiến hành cụ thể hoá kế hoạch chỉ đạo điểm của tỉnh về công tác xoá đói giảm nghèo. * Mục tiêu. - Mục tiêu chung: Với những phương hướng trên, mục tiêu chung mà ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo tỉnh đề ra trong chương trình xoá đói giảm nghèo là: Tạo điều kiện thuận lợi, phù hợp để người người nghèo tiếp cận với các dịch vụ sản xuất, tự lực vượt nghèo đói vươn lên khá giả và làm giàu, hỗ trợ giải quyết vịêc làm, hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo phát triển sản xuất tăng thu nhập, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn tạo thêm cơ hội vịêc làm cho người lao động, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống. Tạo cơ chế cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội một cách bình đẳng. * Mục tiêu cụ thể. + Phấn đấu mỗi năm giảm 3% hộ nghèo, tương đương 4.500 hộ/năm hết năm 2010 còn 15% hộ nghèo. + Các xã đặc biệt khó khăn có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu. + Thu nhập của nhóm hộ nghèo tăng từ 1,3 đến 1,5 lần so với năm 2005, không còn hộ nghèo thuộc diện chính sách người có công với cách mạng, 100% có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống bình quân trên địa bàn cư trú. + Đào tạo nghề miễn phí cho nông dân, trong đó có hộ nghèo mỗi năm từ 5000 đến 7.500 người. + Mỗi năm giải quyết tạo việc làm cho 10.000 – 12.000 lao động. + Xuất khẩu lao động từ 800-1000 người/năm. + Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống dưới 4%, nâng tỷ lệ thời gian sử dụng lao động nông thôn lên 80%. + Phấn đấu nâng mức thu nhập đầu người lên mức 2.800.000đ/năm. 2.6.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn tới Giải quyết vấn đề nghèo đói và phân tầng xã hội ở nước ta hiện nay là một vấn đề lâu dài và phức tạp, đặt biệt là đối với nông thôn và miền núi. Vì vậy, muốn đạt được kết quả tốt phải có quan điểm đúng đắn và thiết thực. Các giải pháp xoá đói giảm nghèo ở Lạng Sơn hiện nay đã đem lại những kết quả đáng kể nhưng hầu hết chỉ là giải pháp tình thế. Vì vậy, cần phải có những giải pháp tích cực nhằm vào các nguyên nhân cơ bản của căn bệnh nghèo đói vực dậy nền kinh tế của tỉnh Lạng Sơn – một miền biên giới cửa ngõ phía Bắc nước ta. Trên cơ sở của nội dung nghiên cứu thực trạng cũng như quá trình tổ chức thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo ở Lạng Sơn. Khoá luận xin đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo của tỉnh. Đây có thể là một số ý kiến đóng góp khiêm tốn của khoá luận đối với các nhà quản lý, đối với BCĐ các cấp trong việc thực thi chính sách này. Một số giải pháp cụ thể đó là: - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về chính sách xoá đói giảm nghèo. - Củng cố BCĐ xoá đói giảm nghèo các cấp. - Phát huy cơ chế, chính sách xoá đói giảm nghèo có hiệu quả hơn. - Gắn xoá đói giảm nghèo với lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn. - Mở rộng quan hệ quốc tế – kinh tế đối ngoại. - Huy động các tổ chức xã hội từ thiện. Khoá luận xin đi sâu phân tích những giải pháp cụ thể này như sau: * Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về chính sách xoá đói giảm nghèo . Trước tiên phải tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền cả về hình thức và nội dung thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Đồng thời thực hiện tuyên truyền bằng các hình thức hoạt động, vận động của các tổ chức đoàn thể, quần chúng. Đa dạng các hình thức tuyên truyền, chú ý tuyên truyền sâu rộng ở cấp xã, phường, thôn, bản. Đại bộ phận người nghèo đều không có nghề nghiệp ổn định, không có kinh nghiệm sản xuất, thậm chí không biết cách làm ăn, trình độ văn hoá khoa học kỹ thuật hạn chế. Trong giai đoạn xoá đói vừa qua, họ chỉ cần vốn và cố gắng xoay sở để có cái ăn hàng ngày, nhưng để vượt nghèo thì lại đòi hỏi nhiều điều kiện căn bản hơn, không chỉ lo cho cái ăn mà còn phải bảo đảm những yếu tố cơ bản khác trong cuộc sống hàng ngày của con người, phải có tri thức, kinh nghiệm trong làm ăn, phải có trình độ khoa học – kỹ thuật nhất định, phải nhạy bén về thị trường, phải thay đổi cách nghĩ, cách làm việc. Do đó, vấn đề giáo dục cho người nghèo trước hết phải giúp họ xây dựng niềm tin, ý chí vươn lên và khắc phục những tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, vừa mê tín nặng nề và thụ động trong cuộc sống. Những tư tưởng mê tín, lạc hậu đó còn khá phổ biến trong dân nghèo ở địa phương, người ta nghĩ rằng nghèo đói là do số phận để rồi họ ỷ lại, thụ động trong cuộc sống, với tư tưởng, ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Vì vậy, để giúp người nghèo thoát khỏi ảnh hưởng bởi những tư tưởng trên cần chỉ ra cho họ thấy những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo là do xuất phát từ điều kiện tự nhiên, do đất đai cằn cỗi, thời tiết khắc nghiệt, đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội kém phát triển… nên việc sản xuất làm ăn khó khăn, thiếu thốn gây ra đói nghèo. Từ đó, giúp cho người nghèo xây dựng niềm tin phấn đấu vượt nghèo. Điều kiện đầu tiên để thực hiện trong giai đoạn hiện nay ở Lạng Sơn là phải bồi dưỡng, hướng dẫn, giúp người nghèo nâng cao nhận thức, trình động, văn hoá, khoa học – kỹ thuật để học tự tin gia tăng sản xuất, cụ thể: Hướng dẫn học cách sản xuất, kỹ thuật chăn nuôi, trồng lúa, cây ăn quả, chế biến nông sản, làm nghề thủ công truyền thống, buôn bán nhỏ… Hướng dẫn kiến thức chi tiêu trong gia đình sao cho hợp lý và tiết kiệm để có vốn làm ăn. Tổ chức mở các lớp tập trung hướng dẫn với lực lượng hướng dẫn viên là những kỹ thuật viên của trung tâm dạy nghề, trung tâm khuyến nông, trung tâm xúc tiến việc làm, các cá nhân có kinh nghiệm, thành đạt trong sản xuất kinh doanh, có khả năng hướng dẫn người khác… Giáo dục toàn cộng đồng thấy trách nhiệm của mình trong công tác xoá đói giảm nghèo để thực hiện mục đích của chủ nghĩa xã hội, để giải quyết những vấn đề xã hội. Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết tương thân tương ái trong cộng đồng các nhân dân trong tỉnh. Ai ai cũng tự giác đóng góp công sức của mình để xoá đói giảm nghèo, người giàu, người khá giả giúp người nghèo, người nghèo giúp đỡ lẫn nhau như đã thực hiện trong năm qua, sao cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giả, người giàu thì giàu thêm, người nào cũng biết chữ, biết đoàn kết. * Nâng cao năng lực của bam chỉ đạo xoá đói giảm nghèo các cấp, từng ban ngành. Bất cứ phong trào hành động chách mạng nào muốn đảm bảo thắng lợi đòi hỏi phải được tổ chức chặt chẽ. Phong trào xoá đói giảm nghèo ở Lạng Sơn nhờ có bộ máy tổ chức, quản lý từ huyện đến xã, bản thường xuyên được chấn chỉnh, hoạt động nhịp nhàng nên không những tạo thuận lợi cho việc quản lý về mặt kinh tế mà còn tạo điều kiện cho các tổ chức, đoàn thể vận động thành viên của mình thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước. Để tiếp tục phát huy và làm tốt hơn nữa hiệu quả của chính sách xoá đói giảm nghèo, đối với giải pháp này cần có những nội dung cụ thể sau: - Bố trí đủ cán bộ chuyên trách, tập huấn cách làm ăn, kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo theo hướng. + Nơi nào yêu cầu tiếp tục tăng cường cán bộ để vừa triển khai chương trình và trực tiếp bồi dưỡng cán bộ tại chỗ cho xã. + Các xã khác bố trí đủ cán bộ chuyên trách xoá đói giảm nghèo, có chế độ phụ cấp phù hợp. + Phối hợp với Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tri thức trẻ về xã để phát triển y tế, giáo dục, sản xuất …. Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. - Tăng cường năng lực tổ chức, chỉ đạo triển khai chương trình. + Phân công trách nhiệm rõ ràng từ cấp uỷ Đảng, Uỷ ban nhân dân huyện và các xã, đến Mặt trận tổ quốc, các ban ngành, đoàn thể, ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo các cấp. Tăng cường hoạt động phối hợp giữa các tổ chức đối với công tác xoá đói giảm nghèo. + Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác xoá đói giảm nghèo là công tác trọng tâm ở địa phương hiện nay. Vì vậy, cấp uỷ phải có Nghị quyết và chương trình họp định kỳ để xem xét, đánh giá phong trào kịp thời, bổ sung biện pháp giải quyết đói nghèo cho phù hợp với địa phương trong từng thời gian. * Để khắc phục tình trạng đói nghèo ở địa phương, Đảng tập trung lãnh đạo giải quyết hỗ trợ cho hộ thiếu đói để họ có thể sản xuất, buôn bán nhỏ hoặc làm dịch vụ, tạm thời có thu nhập bảo đảm cho cuộc sống hàng ngày sao cho không bị đứt bữa. Nhưng khi sang giai đoạn giảm nghèo, Đảng phải lãnh đạo sâu sát hơn đối với phương hướng và giải pháp xoá đói giảm nghèo phù hợp. Đối với cấp tỉnh, huyện, xã đi sâu đi sát thực tế hơn nữa, cấp uỷ không chỉ dựa vào báo cáo mà phân công các uỷ viên theo dõi, giúp đỡ từng tổ giảm nghèo. + Mỗi tổ chức chính trị – xã hội đều có các đồng chí đại biểu là thanh niên trong BCĐ xoá đói giảm nghèo. Vì vậy, những đồng chí này phải làm tốt trách nhiệm của mình, phải báo cáo lại kịp thời công tác thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo cho phù hợp. + Các đoàn thể, mặt trận tổ quốc phải có sự phối hợp trong công tác xoá đói giảm nghèo và cam kết không để xảy ra tình trạng tái đói, tình trạng phát sinh hộ nghèo với những hộ có thành viên của mình. - Tổ chức tốt công tác kiểm tra, thanh tra để kịp thời khắc phục những sai sót, khuyết điểm để rút kinh nghiệm cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo, duy trì công tác tổng kết, sơ kết, thực hiện chế độ khen thưởng, xử lý kịp thời, nhân rộng điển hình các gương cá nhân, tập thể làm công tác xoá đói giảm nghèo, kiểm tra, uốn nắn, xử lý kịp thời những sai sót. * Phát huy cơ chế, chính sách xoá đói giảm nghèo có hiệu quả. - Cơ chế quản lý, cấp phát vốn: Theo tinh thần Nghị quyết của Quốc hội quyết định của Chính phủ giao nhiệm vụ và chỉ tiêu ngân sách Nhà nước, nhằm tăng cường quyền chủ động và trách nhiệm để các địa phương bố trí và thực hiện kế hoạch trên địa bàn do đó cơ chế quản lý chương trình cần thay đổi theo hướng: + Đối với các sở, ban ngành quản lý chương trình: phải đề xuất định hướng chương trình cụ thể (thông qua xây dựng mục tiêu kế hoạch hàng năm, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét). Hoàn thiện cơ chế chính sách hợp lý của địa phương để đến được hộ nghèo, xã nghèo, vùng cao, biên giới, kiểm tra thực hiện chương trình ở các huyện, thị nhằm đảm bảo mục tiêu đề ra: chỉ đạo chuyên môn ở địa phương làm tốt trách nhiệm được giao trong thực hiện chương trình. + Đối với cấp tỉnh, huyện bố trí kế hoạch bằng hoặc cao hơn chỉ tiêu trên giao. Thành lập ban chỉ đạo các cấp do chủ tịch Uỷ ban chỉ đạo tỉnh làm trưởng ban, cơ quan kế hoạch là thường trực với trách nhiệm tổng hợp, tạo ra cân đối nguồn lực cho chương trình. Các sở, Ban, ngành chuyên môn chịu trách nhiệm chỉ đạo, theo dõi, tổng hợp, báo cáo kết quả thực hiện từng dự án của chương trình theo chức năng sau khi phân bổ vốn theo định kỳ quý: 6 tháng, kết thúc năm từng địa phương phải thực hiện chế độ đăng ký kế hoạch, báo cáo tiến độ và kết quả thực hiện cho sở lao động – thương binh và xã hội, sở kế hoạch và đầu tư, sở tài chính. Thực hiện công khai nguồn vốn vay xoá đói giảm nghèo, vốn xây dựng cơ sở hạ tầng và các nguồn đóng góp của nhân dân. - Về chính sách tín dụng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với các sở, ngành liên quan nghiên cứu nên giảm lãi xuất tiền vay đối với người nghèo. Ngày 01/9/1999 Chính phủ giảm lãi xuất cho người nghèo vay từ 0.8% xuống còn 0.7%/tháng vẫn chưa phù hợp với người nghèo ở khu vực III, vì lãi suất ở đây bằng với lãi suất của Ngân hàng thương mại. Cho nên cần phải tăng cường cho vay trung hạn để người nghèo đầu tư sản xuất chống tái nghèo. - Về chính sách hỗ trợ y tế cho người nghèo: Sở giáo dục và đào tạo cần có chính sách miễn giảm học phí cho học sinh con em hộ nghèo, cấp học bổng khuyến khích học sinh nghèo vượt khó hỗ trợ sách vở, đồ dùng học tập cho các em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. * Gắn xoá đói giảm nghèo với lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn cần có biện pháp cho phát triển nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là các biện pháp hỗ trợ về trợ cước, trợ giá, chế biến tiêu thụ sản phẩm, ứng dụng khoa học và công nghệ. Chúng ta mới chỉ tác động và coi trọng khuyến nông mà chưa chú trọng khâu tiêu thụ và chế biến nông sản cho nông dân. Thực tiễn cho thấy hiện tượng người nông dân huyện Lộc Bình đã đổ dưa hấu và bỏ thối một cách lãng phí vì giá quá rẻ, không tiêu thụ được kịp vụ. Điều này nhấn mạnh hơn nữa là cần phải có chính sách trợ cước, trợ giá phù hợp với nông phẩm. Chú trọng phát triển hệ thống tư vấn, dịch vụ hỗ trợ sản xuất như: Phát triển hệ thống tiết kiệm – tín dụng của Hội phụ nữ. Hội nông dân, dịch vụ cung ứng vật tư, thuỷ lợi, tăng cường hệ thống khuyến nông, lâm và hướng dẫn kỹ thuật mới, cách làm ăn cho người nghèo, xã nghèo một cách có hiệu quả. * Mở rộng quan hệ quốc tế – kinh tế đối ngoại. Lạng Sơn là tỉnh miền núi phía Bắc cho nên có điều kiện thuận lợi để mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, có 2 cửa khẩu biên giới là điểm giao lưu, buôn bán trao đổi hàng hoá với nhân dân Trung Quốc. Đây là sự bố trợ quan trọng tạo điều kiện khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực về đất đai, lao động, phát triển sản xuất, hàng thủ ôcng truyền thống và xuất khẩu những mặt hàng thế mạnh của địa phương. Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế để xây dựng, phát triển đời sống kinh tế, văn hoá và xã hội ở địa phương. Thực hiện tốt các dự án quốc tế như: dự án PAM, dự án F67 (tăng thu nhập) dự án IW DDAVC (chăn nuôi) dự án CIDSE (Tín dụng)… * Huy động các tổ chức xã hội, từ thiện tham gia xoá đói giảm nghèo. Trong thời gian tới tỉnh cần huy động, vận động sự đóng góp của các tổ chức kinh tế – xã hội trong và ngoài tỉnh. Đặt biệt là vận động các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trên địa bàn đóng góp cho quỹ xoá đói giảm nghèo của địa phương. Vận động các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức từ thiện góp phàn giúp Lạng Sơn xoá đói giảm nghèo. Sự tham gia đóng góp về vật chất, tiền của, hỗ trợ đào tạo nghề và đặc biệt là những hoạt động nhân đạo, từ thiện như chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo, trao tặng dụng cụ hỗ trợ cho người tàn tật… có ý nghĩa rất lớn đối với công tác xoá đói giảm nghèo. 2.6.3. Một số kiến nghị * Đối với chủ thể thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo Nhiệm vụ chung của ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo các cấp: Phải xác định chỉ tiêu và xây dựng kế hoạch hàng năm về xoá đói giảm nghèo sát tình hình thực tế ở địa phương. Kiểm tra giám sát thường kỳ, hướng dẫn và quản lý sử dụng các quy mô cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo của cấp mình, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các dự án của chương trình trên địa bàn cấp mình (tháo gỡ khó khăn kịp thời từ cơ sở) đồng thời phổ biến những kinh nghiệm điển hình về thực hiện các dự án, điều tra, xây dựng chuẩn mực nghèo đói cho kế hoạch xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2006-2010. Sở Lao động – Thương binh và Xã hội. Cần phối hợp với các ban ngành và tổ chức đoàn thể tổng hợp các thông tin thật chính xác. Cùng các sở, ban, ngành và các tổ chức đoàn thể xác định số hộ nghèo, xã nghèo. Cùng với các ngành chức năng xác định nhu cầu về nguồn lực và cơ chế tạo nguồn lực, tổng hợp kế hoạch xoá đói giảm nghèo của tỉnh. Xây và tổ chức thực hiện dự án nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo. Sở Kế hoạch và đầu tư Tổ chức thực hiện các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng và sắp xếp lại dân cư, xây dựng kế hoạch lồng ghép các dự án, chương trình kinh tế – xã hội khác với chương trình xoá đói giảm nghèo. Bố trí kế hoạch các chương trình xoá đói giảm nghèo. Lên kế hoạch chương trình dự án thể hiện trong kế hoạch hàng năm, 5 năm trình Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt. Ngân hàng phục vụ người nghèo. Thực hiện tốt dự án về tín dụng người nghèo. Tham mưu, đề xuất các biện phsản phẩm huy động vốn, giải quyết chính sách tín dụng cho người nghèo. * Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn. Chủ trì xây dựng và thực hiện đề án định canh định cư, di dân phát triển kinh tế mới, dự án hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề, dự án hướng dẫn người nghèo cách làm ăn và khuyến nông- lâm- ngư. Thực hiện kế hoạch lồng ghép các chương trình, dự án của ngành mình với chương trình xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể tham gia chương trình xoá đói giảm nghèo. *Đối với bản thân người nghèo Xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân ta xoá đói giảm nghèo là mục tiêu, là lý tưởng thể hiện bản chất, tính ưu việt của Đảng, Nhà nước ta. Nhưng vượt qua đói nghèo bằng nội lực là chính. Vì vậy phải khơi dậy tính tích cực, tính tự vươn lên của các hộ nghèo, xã nghèo, vùng nghèo có sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng xã hội. Vì thế, chính bản thân người nghèo phải tự nỗ lực phấn đấu, phải kiên trì vượt đói nghèo. Bản thân người nghèo phải ý thức được rằng đói nghèo không phải do số phận mà đó là những nguyên nhân thực tế – nếu biết cách khắc phục thì từ “đói nghèo” sẽ chẳng thể tồn tại. Chỉ khi bản thân người nghèo tự ý thức vươn lên thoát khỏi đói nghèo, khi đó mới có thể tính đến hiệu quả của việc thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo. Việc thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo ở Lạng Sơn nhìn chung đã đạt được kết quả lớn, góp phần vào sự phát triển chung của tỉnh về mặt kinh tế-xã hội, chính trị-an ninh quốc phòng….Nhưng bên cạnh đó còn có những hạn chế cần khắc phục. Trên cơ sở của những phương hướng và mục tiêu đề ra khoá luận đã đưa ra những giải pháp, những kiến nghị về mặt tổ chức quản lý thực hiện với mong muốn nâng cao hiệu quả chung của chương trình xoá đói giảm nghèo ở Lạng Sơn. Nhưng dù có giải pháp tốt nhất hay cao xa nhất đi chăng nữa mà chính sách xoá đói giảm nghèo không được sự ủng hộ của người dân thì mọi giải pháp đều trở nên vô nghĩa. KẾT LUẬN Chính sách xoá đói giảm nghèo là một chính sách xã hội nhằm khắc phục tình trạng đói nghèo của một bộ phận dân cư trong xã hội. Tuy nhiên nhân tố quyết định để khắc phục tình trạng đói nghèo lạc hậu phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa, xét về bản chất là chế độ ưu việt hơn cả trong việc giải quyết vấn đề đói nghèo, xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, xã hội (Văn kiện Đại hội Đảng giữa nhiệm kỳ, khoá 7) vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội là phục vụ cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của con người. Về mặt quản lý xã hội, chính sách xoá đói giảm nghèo là một công cụ quản lý tích cực, là quan điểm tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta – chủ thể quản lý xã hội- hướng vào sự phát triển của con người, vì con người và do con người, chính sách xoá đói giảm nghèo không thể thiếu được để thực hiện quản lý xã hội trong thời đại ngày nay, những kết quả của nó là sự tác động sâu sắc đến sự phát triển xã hội, tác động về mặt kinh tế – xã hội; chính trị – xã hội; an ninh quốc phòng. Thực trạng đói nghèo hiện nay đang là một vấn đề trở ngại lớn đối với sự phát triển xã hội ở Lạng Sơn. Các nhà quản lý, lãnh đạo, các cấp uỷ Đảng, chính quyền tỉnh đang đặt vấn đề giải quyết đói nghèo lên hàng đầu trong nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội.Với quyết tâm đó công tác xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005 đã được thực hiện một cách có hiệu quả đem lại những kết quả đáng mừng và có tác động sâu sắc đến sự phát triển xã hội của tỉnh Lạng Sơn. Lòng tin của người dân vào Đảng và Nhà nước nói chung và các cấp lãnh đạo, các cấp chính quyền tỉnh Lạng Sơn nói riêng càng được củng cố và nâng cao, từ đó họ có thể yên tâm sản xuất và tự mình vươn lên trong cuộc sống. Tuy đã đạt được những kết quả đáng mừng như vậy nhưng tỷ lệ đói nghèo trong tỉnh vẫn còn cao nhiều hộ nghèo đã thoát nghèo đói song vẫn sống trong cảnh cuộc sống bấp bênh có nguy cơ tái nghèo cao. Điều này đòi hỏi các cấp lãnh đạo, các cấp chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh phải quan tâm chỉ đạo sát sao hơn nữa đến vấn đề nghèo đói và chống tái nghèo. Có như vậy thì sự phát triển xã hội ở tỉnh Lạng Sơn mới có thể bền vững và liên tục. TÀI LIỆU THAM KHẢO Robert Chamber (1991). Phát triển nông thôn – Hãy bắt đầu từ những người cùng khổ. Nhà xuất bản Đại học và Chuyên nghiệp, Hà Nội Đảng cộng sản Việt Nam (2001).Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam tại Đại hội khoá VI . Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2005). Tài liệu nghiệp vụ khảo sát xác định hộ nghèo 2005. Nhà xuất bản Lao động – Xã hội. Bộ Lao động – Thương binh va Xã hội (2004). Tài liệu tập huấn cán bộ xoá đói giảm nghèo cấp xã. Nhà xuất bản Lao động – Xã hội Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (2004). Tài liệu tập huấn cán bộ xoá đói giảm nghèo cấp tỉnh, huyện. Nhà xuất bản Lao động – Xã hội Giàu nghèo trong nông thôn hiện nay (1993). Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội. Hệ thống văn bản về Bảo trợ xã hội và xoá đói giảm nghèo (2004). Nhà xuất bản Lao động – xã hội, Hà Nội Nguyễn Hữu Hải (1997). Xoá đói giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam. (Báo cáo tại hội thảo quốc tế về phân cấp ngân sách và phân phối dịch vụ cho nông thôn, Hà Nội. Nguyễn Hữu Hải (2000). Phương pháp xác định nghèo đói của Bộ lao động – Thương binh và Xã hội. Bộ lao động – Thương binh và xã hội. Ngân hàng thế giới, Tổng cục thống kê. Hoàng Thiếu Hoa (2004). Xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, Hà Nội. Hà Quốc Lâm (2002). Xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay – Thực trạng và giải pháp. Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia. Hồ Chí Minh (1984). Toàn tập (tập 4), Nhà xuất bản Sự thật Sở Lao động- Thương binh và Xã hội (2005).Báo cáo tổng kết chương trình xoá đói giảm nghèo và việc làm tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2001-2005. TS. Nguyễn Hữu Tiến, CN Nguyễn Văn Chiều (2005). Chính sách xoá đói giảm nghèo (lưu hành nội bộ). Hà Nội GS.TS Hoàng Toàn, TS. Phạm Kim Chiến (2000). Giá trình quản lý xã hội. Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật Hà Nội. Lê Ngọc Thanh (2004). Xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc Thiếu số Việt Nam thực trạng và giải pháp, Hà Nội. Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2003). Sơ kết nghị quyết số 03- NQ/TW ngày 18/7/2001 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về việc “Đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005”. Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (2002). Quyết định của UBND tỉnh Lạng Sơn về vịêc kiện toàn Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo và việc làm tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2001-2005. Vụ Tuyên giáo – Uỷ ban nông nghiệp Trung ương (1974). Trích một số bài nói và viết của Hồ Chí Minh về nông dân, nông nghiệp, nông thôn, Hà Nội. PHỤ LỤC Bảng 1: Tỷ lệ hộ nghèo các huyện, thị năm 2001 Huyện, thị Tỷ lệ (%) Văn Lãng 13.70 Chi Lăng 19.06 Bắc Sơn 18.26 Văn Quan 38.44 Lộc Bình 13.76 Thành phố 4.10 Cao Lộc 19.80 Bình Gia 29.45 Đình Lập 20.80 Tràng Định 27.55 Hữu Lũng 22.42 (Nguồn: Số liệu thống kê xoá đói giảm nghèo giai đoạn 1998- 2000 và 2001-2003, NXB Lao động-xã hội trang 107, 108 Bảng 2: Khối lượng tiêu dùng một số sản phẩm chủ yếu bình quân (đầu người /tháng) (ĐVT: kg, lít) Chỉ tiêu Tỉnh T. thị N. thôn Dân tộc Kinh Tày Nùng Dao Hoa Lương thực 17.2 11.1 18.8 14.9 17.4 17.5 17.9 18.7 Thịt các loại 1.9 3.5 1.8 3.4 1.9 1.7 1.7 1.9 Trứng các loại 1.6 3.4 1.4 2.9 1.9 1.6 - 2 Mỡ, dầu ăn 1.1 0.9 1.1 1.1 1.0 1.3 - 2.4 Cá, tôm, thuỷ sản 1.3 1.9 1.8 1.6 1.6 1.9 1.7 2 Rau các loại 8.0 5.8 9.4 6.9 8.2 5.0 5.5 11.2 Nước mắm 20 2.0 2.0 2.7 2.6 2.1 - 2.6 Đường, mật 1.9 2.2 - 2.5 1.9 1.9 1.7 1.9 Lạc vừng 1.9 - 1.9 1.9 2.0 1.9 1.8 2.1 (Nguồn: Chi cục Thống kê Lạng Sơn) Bảng 3: Báo cáo nhanh kết quả xoá đói giảm nghèo 1.Chuẩn cũ Năm Tổng số hộ Tỷ lệ(%) Năm 2001 23.252 15,84 Năm2002 20.707 13,95 Năm 2003 16.945 11,28 Năm 2004 13.272 8,67 Năm 2005 9.581 6,27 2. Chuẩn mới Năm Tổng số hộ Tỷ lệ(%) Năm 2001 25.129 17,06 Năm2002 22.159 15,17 Năm 2003 18.778 12,5 Năm 2004 15.121 9,98 Năm 2005 11.446 7,50 (Nguồn: Sở Lao động- Thương binh và Xã hội tỉnh Lạng Sơn) MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLV2188.DOC