Đề tài: Tác động của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đến nghành điện tử - viễn thông - một trong số những nghành công nghiệp chủ lực của Việt Nam và rút ra ý nghĩa đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi vươn ra kinh doanh trên thị trường nước ngoài.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của ngành điện tử - viễn thông - một trong những ngành được coi là “mũi nhọn”- một trong những ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam đã chịu rất nhiều tác động sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương
13 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1529 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tác động của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đến ngành điện tử - Viễn thông - một trong số những ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mại thế giới (WTO) nhìn nhận lại thực trạng và những tác động của WTO trong những năm qua, từ đó tập trung nghiên cứu thảo luận về những xu hướng phát triển mới của ngành điện tử, điện lạnh - viễn thông; xu hướng liên kết sản xuất trong các doanh nghiệp điện tử; xu hướng phát triển nguồn nhân lực; phân tích về thị trường bán lẻ: cơ hội và thách thức của ngành sau khi gia nhập WTO cũng như những phân tích về hoạt động sở hữu trí tuệ trong các doanh nghiệp. Những vấn đề về cạnh tranh, về vai trò của Hiệp hội đối với các thành viên trong thời kỳ hội nhập cũng được các đại biểu đề cập tới.
1. Khi Việt Nam tham gia vào WTO, nền kinh tế đã có những biểu hiện tích cực như:
- Hầu hết các chuyên gia đều khẳng định, năng lực sản xuất và kinh doanh của các ngành tăng lên rõ rệt từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp nhưng hầu hết các ngành hàng nước ta đều đạt mức tăng trưởng cao so với nhiều nước trong khu vực. Theo số liệu ước tính, năm 2008, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 31% so với năm 2007 (nếu loại trừ yếu tố tăng giá, mức tăng còn 7%); kim ngạch xuất khẩu đạt 62,9 tỉ USD, tăng 29,5% so với năm 2007; kim ngạch nhập khẩu đạt 79,9 tỉ USD, tăng 27,5% so với năm 2007. Nhìn chung, xuất khẩu các mặt hàng chủ lực thuộc các ngành hàng đều tăng rõ rệt.
- Tốc độ tăng trưởng cao (GDP năm 2007 đạt 8,48%; năm 2008 ước đạt 6,23%), vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh (năm 2007 đạt 20,3 tỉ USD tăng 69,2% năm 2008 ước đạt 60 tỉ USD);
- Thị trường xuất khẩu được mở rộng (kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 48,56 tỉ USD, tăng 21,9% so với chỉ tiêu đặt ra 17,4%, kim ngạch xuất khẩu năm 2008 ước tăng 31,8%, tăng gần 12%, tổng thu cân đối ngân sách nhà nước ước đạt 399.000 tỉ đồng, tăng hơn 76.000 tỉ đồng so với chỉ tiêu của
Quốc hội). Hàng hóa của Việt Nam có cơ hội thâm nhập được thị trường các nước thành viên WTO thuận lợi hơn do thị trường được mở rộng và không bị phân biệt đối xử; có điều kiện tiếp cận với các nguồn tín dụng, công nghệ hiện đại, các loại hình dịch vụ, vật tư, nguyên liệu
- Thâm hụt thương mại giảm; giá trị sản xuất công nghiệp tăng (từ 574.046 tỉ đồng năm 2007 lên 601.478,2 tỉ đồng - tính đến hết tháng 11-2008);
- Các doanh nghiệp Việt Nam đã có lợi gián tiếp từ yêu cầu của WTO về việc cải cách hệ thống ngoại thương, bảo đảm tính thống nhất của các chính sách thương mại và các bộ luật của Việt Nam cho phù hợp với hệ thống thương mại quốc tế. Các quy định của WTO sẽ loại bỏ dần những bất hợp lý thương mại, thúc đẩy cải thiện hệ thống kinh tế và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ hệ thống kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Môi trường kinh doanh trong nước đã được cải thiện theo hướng thuận lợi và minh bạch hơn, thúc đẩy sự phát triển của các ngành hàng; tạo điều kiện cho các loại thị trường phát triển phù hợp với thông lệ quốc tế và theo định hướng. Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính đã có tác động tích cực đối với phát triển các doanh nghiệp mới ở hầu hết các ngành hàng. Việc phát triển hệ thống ngân hàng và bảo hiểm cũng như mở ra các kênh tài chính tạo cơ hội lựa chọn tiếp, cận tài chính tốt hơn cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu, các doanh nghiệp thuộc các ngành ưu tiên như đóng tàu hay phát triển năng lượng mới.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực (tăng tỷ trọng các ngành xuất khẩu chủ lực, nông nghiệp, chế biến thực phẩm, các ngành cung cấp các nguyên liệu vật tư cho sản phẩm, các ngành cạnh tranh kém như dệt may, xe máy và phụ tùng, nhựa, chế biến rau quả... suy giảm);
- Tăng việc làm, tăng năng suất lao động nhờ chuyển dịch cơ cấu lao động; số người thất nghiệp giảm, thu nhập của người dân tăng lên, công tác xóa đói giảm nghèo đạt hiệu quả và phát huy tác dụng...
Việc mở cửa thị trường nội địa, cắt giảm thuế và các rào cản phi thuế đối với các sản phẩm như máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu đã tạo điều kiện cho nhiều mặt hàng đến với người tiêu dùng và doanh nghiệp trong nước với mức giá hợp lý hơn, hướng tới nâng cao năng lực cạnh tranh nhờ được cung cấp nguồn lực tốt hơn. Do thị trường được mở rộng và không bị phân biệt đối xử, các doanh nghiệp Việt Nam cũng có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận với các nguồn tín dụng, công nghệ hiện đại, các loại hình dịch vụ, vật tư, nguyên liệu và cơ hội xuất khẩu sản phẩm, ứng dụng những phương thức quản lý và sản xuất kinh doanh tiên tiến...để nhanh chóng phát triển các ngành có công nghệ cao, ngành mũi nhọn, nhanh chóng đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới.
Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam còn có thể tận dụng cơ chế của WTO để giải quyết các tranh chấp với các nước thành viên khác nhằm bảo vệ quyền lợi trong các cuộc tranh chấp thương mại, sẽ có lợi từ việc cải thiện hệ thống giải quyết tranh chấp khi có quan hệ với các cường quốc thương mại chính. Việc tham gia WTO sẽ cho phép Việt Nam cải thiện vị trí của mình trong các cuộc đàm phán thương mại, có điều kiện tiếp cận các quy tắc công bằng và hiệu quả để giải quyết các tranh chấp thương mại. Những nguyên tắc của WTO đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cũng sẽ có lợi vì sẽ nhận được một số ưu đãi đặc biệt như được miễn trừ sự ngăn cấm trợ cấp xuất khẩu.
- Việt Nam sẽ có điều kiện thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý và công nghệ mới… của nước ngoài. Trong những năm qua, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự đã trở thành một trong những động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp Việt Nam. Đầu tư nước ngoài đã tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất khẩu và giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần chủ yếu vào việc chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam trong những năm qua. Sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có tác động tích cực như: tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, giúp các doanh nghiệp và các nhà quản lý doanh nghiệp trong nước học hỏi thêm về cách thức quản lý sản xuất, tiếp thị, tiếp thu công nghệ, kiểu dáng sản phẩm, phục vụ khách hàng…
- Nâng cao khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả trong nền kinh tế, đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tự do hóa thương mại của WTO sẽ tạo điều kiện cho hàng hóa của các nước thành viên dễ dàng thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Điều này gây sức ép buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận mức độ cạnh tranh khốc liệt, làm cho họ trở nên năng động hơn trong việc tạo sản phẩm mới, cải tiến các dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm…
2. Những khó khăn và tác động tiêu cực:
Tuy nhiên, các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp điện tử - viễn thông nói riêng cũng phải đối mặt với không ít những khó khăn.
- Việc mở cửa thị trường dẫn đến sức ép cạnh tranh tăng lên, các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ phải cạnh tranh ở thị trường trong nước mà còn phải cạnh tranh ở thị trường thế giới. Nhiều khoản trợ cấp hoặc có tính trợ cấp của Nhà nước đối với một số ngành hàng cho một số ngành trước đây buộc phải bãi bỏ theo cam kết gia nhập WTO.
- Quy mô của doanh nghiệp điện tử - viễn thông nước ta chủ yếu là vừa và nhỏ, năng lực tài chính còn yếu kém, kỹ năng và kiến thức chuyên sâu về quản lý trong môi trường cạnh tranh quốc tế còn có hạn, thiếu sự liên kết và chỉ tham gia được vào các khâu có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu đối với hầu hết các ngành hàng, nên phải lệ thuộc nhiều vào các trung gian thương mại nước ngoài. Năng lực nghiên cứu và thiết kế, khả năng đổi mới công nghệ của hầu hết các doanh nghiệp còn rất hạn chế, lực lượng lao động có trình độ cao không đủ đáp ứng nhu cầu phát triển. - Các doanh nghiệp phải đối mặt với các quy định về thực thi quyền sở hữu trí tuệ, tuân thủ các quy định về nhãn mác và xuất xứ hàng hóa, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Mặc dù các hàng rào phi thuế quan được cắt giảm đối với một số mặt hàng và một số thị trường như hạn ngạch xuất khẩu ngành dệt may vào thị trường Hoa Kỳ và EU…, nhưng chúng ta vẫn phải đối mặt với các hàng rào kỹ thuật mới ngày càng tinh vi hơn theo quy định riêng của một số nước. Các mặt hàng thủy sản và nông sản xuất khẩu của Việt Nam vẫn bị cản trở bởi các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm ngày càng khắt khe hơn. Các mặt hàng công nghiệp chế biến và cơ khí luôn phải đối mặt với các vụ kiện chống bán phá giá.
- Sự phát triển của một số ngành thuộc lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, ngành điện, giao thông và một số lĩnh vực dịch vụ công chưa phát triển khiến doanh nghiệp trả giá dịch vụ cao hơn, làm giảm năng lực cạnh tranh.- Xử lý mâu thuẫn giữa một bên là mở cửa, giảm thuế để hạ giá thành đầu vào cho sản xuất và để cho người tiêu dùng được tiếp cận với hàng hóa giá rẻ, một bên là muốn bảo hộ để duy trì sản xuất trong nước. Phần lớn các ngành hàng vừa được sản xuất trong nước lại vừa được nhập khẩu. Với chủ trương bảo hộ một số ngành, chúng ta đang thực hiện chính sách thuế nhập khẩu cao đối với sản phẩm hàng hóa hoàn chỉnh và thuế nhập khẩu thấp hơn đối với nguyên liệu và linh kiện, chi tiết rời để khuyến khích sản xuất và lắp ráp trong nước. Tuy nhiên, nhiều ngành sản xuất không tranh thủ cơ hội này để phát triển sản xuất và cải tiến công nghệ mà chỉ trông chờ vào chính sách bảo hộ, vì vậy khi thực hiện cam kết gia nhập WTO thì những hàng hóa này được sản xuất ra luôn có giá cao hơn so với đối thủ cạnh tranh, khó tiêu thụ ở cả thị trường trong và ngoài nước
Tốc độ tăng trưởng tuy có cao nhưng đã chậm lại, lạm phát tăng cao vượt xa mức dự báo; thị trường tài chính, tiền tệ có nhiều biến động, hệ thống ngân hàng bộc lộ những hạn chế, yếu kém gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp, tác động không nhỏ đến tâm lý của doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng; nguồn nhân lực trong nước không đáp ứng được với những yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài dẫn đến việc mất cân đối giữa cung cầu lao động gây nên khả năng tái nghèo tăng cao; áp lực cạnh tranh gay gắt... cũng đã tác động không nhỏ đến sự phát triển của các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, một trong những khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt đó là chỉ kể từ ngày 1-1-2009, Việt Nam sẽ dỡ bỏ hàng rào thuế quan, điều đó đồng nghĩa với việc sự bảo hộ của Nhà nước đối với các ngành sản xuất trong nước, bao gồm cả các ngành điện tử sẽ không còn nữa. Những quy định ràng buộc khi gia nhập WTO đã có những tác động tới doanh nghiệp, song cho tới thời điểm này, theo các chuyên gia, các nhà quản lý, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thực sự hiểu rõ về luật WTO, chưa kịp thời chuyển đổi cơ cấu sản phẩm, chưa vạch ra hướng đi rõ ràng cho mình trong giai đoạn mới. Mặt khác, cùng với việc các sản phẩm điện tử nguyên chiếc được sản xuất từ các nước khác và sự tham gia sản xuất các hãng điện tử nổi tiếng ngay tại thị trường trong nước đã làm cho các doanh nghiệp điện tử Việt Nam đã khó khăn càng ít có khả năng cạnh tranh hơn.
Đại diện của các doanh nghiệp cho rằng, việc ứng dụng những công nghệ mới và đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp điện tử Việt Nam thời gian qua chưa theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ trong khu vực cũng như trên thế giới, nên chỉ có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là được hưởng “miếng bánh” xuất khẩu và được hưởng lợi từ việc Việt Nam gia nhập WTO cũng như những ưu đãi về nhập khẩu mà các nước dành cho Việt Nam. Chính sự yếu kém về công nghệ đã làm cho năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam không đáp ứng được yêu cầu, sản phẩm sản xuất ra có giá thành cao và chất lượng không phù hợp theo chuẩn mực quốc tế.
Cũng theo các doanh nghiệp, ngoài các lý do về khả năng tài chính hạn chế thì một số chính sách về khoa học công nghệ chưa hợp lỳ, cũng như sự đầu tư của nhà nước chưa thật sự thích đáng cũng là nguyên nhân gây ra sự lạc hậu về công nghệ của ngành hàng này.
Theo các chuyên gia và các nhà quản lý, hiện nay, phần lớn các sản phẩm của Việt Nam đều sản xuất theo thiết kế của nước ngoài bởi lực lượng lao động trong ngành điện tử tuy được đánh giá cao về kỹ năng, mức độ tiếp thu công nghệ mới nhưng các nhà khoa học đầu ngành, các kỹ sư công nghệ, các kỹ sư nghiên cứu thiết kế và phát triển sản phẩm - những người có khả năng tạo ra những sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao cho ngành điện tử Việt Nam lại đang rất thiếu.
Nhân công ở nước ta hiện nay rẻ hơn so với các nước trong khu vực, nhưng năng suất lao động lại chỉ ở mức trung bình và thấp, chủ yếu là lao động thủ công, tác phong còn chậm. Trình độ quản lý - yếu tố tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp cũng đang bộc lộ nhiều bất cập, yếu kém. Đây sẽ là mối lo ngại rất lớn khi Việt Nam thực hiện cam kết thị trường phân phối hàng hóa công bằng đối với cả doanh nghiệp trong nước và nước ngoài kể từ ngày 1-1-2010.
3. Những giải pháp tháo gỡ khó khăn và ý nghĩa đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi vươn ra kinh doanh trên thị trường nước ngoài.
3.1 Đối với các cơ quan quản lý nhà nước:
Chính phủ cần xác định công nghệ điện tử là ngành công nghiệp trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân để có kế hoạch dài hạn phát triển ngành hàng, có sự quan tâm và đầu tư thích đáng.
Nhà nước tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách hành chính, hoàn thiện luật pháp để thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài và lựa chọn các sản phẩm, các công đoạn sản xuất trọng điểm tập trung đầu tư, chỉ đạo phương hướng phát triển phù hợp với hệ thống sản xuất khu vực và trên thế giới.
Tiếp tục phổ biến rộng rãi các nội dung thỏa thuận, các cam kết WTO trong nhân dân và doanh nghiệp để mọi người cùng hiểu rõ, trên cơ sở đó tận dụng được các cơ hội mà WTO mang lại nhằm ứng phó với những khó khăn, thách thức nảy sinh trong quá trình hội nhập.
Tăng cường thể chế nền kinh tế thị trường, giải quyết những vấn đề được Chính phủ xác định là ưu tiên để Việt Nam thoát khỏi địa vị là nền kinh tế phi thị trường theo quan niệm của một số thành viên WTO hiện thời bao gồm: kiểm soát giá cả, chính sách lãi suất, trợ cấp cho doanh nghiệp nhà nước, cải tổ doanh nghiệp nhà nước, quản lý và hoàn thiện chính sách về đất đai, ảnh hưởng của việc xã hội hóa các dịch vụ công và chính sách cạnh tranh. Giải quyết các hậu quả kinh tế và xã hội của hội nhập tại khu vực nông thôn, xử lý những thách thức do sự phát triển không gian không đồng đều và những ảnh hưởng của thay đổi mang lại cho khu vực nông thôn, các chương trình hỗ trợ ban đầu về phân tích chính sách liên quan đến công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, bao gồm đánh giá các phản hồi chính sách đối với các thay đổi kinh tế và xã hội gắn liền với cải cách chính sách đất đai.
- Hỗ trợ năng lực quản lý và điều phối hội nhập, nhằm vào các cơ cấu thể chế mà Chính phủ đặt ra để giám sát và điều phối quá trình thực hiện GAP, và ngoài những việc khác, hỗ trợ đánh giá và thực hiện GAP, tiếp tục điều chỉnh GAP, đánh giá các vấn đề xuyên suốt và các vấn đề nằm ngoài phạm vi trách nhiệm của từng bộ, và giải quyết các nhu cầu phát triển năng lực ưu tiên. - Hỗ trợ thực hiện kế hoạch hành động của địa phương, giúp một nhóm các tỉnh được lựa chọn trên cơ sở chất lượng kế hoạch hành động của tỉnh; tầm quan trọng của các thách thức liên quan đến hội nhập mà tỉnh phải đối mặt; và các cản trở về nguồn lực họ có thể tiếp cận để giải quyết các thách thức này. - Quản lý MDTF, bằng việc tài trợ cho một phạm vi các hỗ trợ cơ cấu thể chế quản lý Quỹ, bao gồm hợp đồng các chức năng kỹ thuật (như kiểm soát tài chính, thiết kế dự án…) và hỗ trợ cấp cao hơn đối với chức năng điều phối và đánh giá thông qua dịch vụ của Cố vấn Kỹ thuật Cao cấp dài hạn (ít nhất ở giai đoạn thực hiện chương trình ban đầu). Cấu phần này cũng bao gồm dự trữ để phản hồi các yêu cầu ưu tiên cho các hoạt động mới được thỏa thuận với nhà tài trợ, trên cơ sở đột xuất.
Để đạt được các mục tiêu đề ra, cần tăng cường năng lực cho các cơ quan hữu quan nhằm triển khai hiệu quả việc thực thi các cam kết gia nhập WTO và để điều chỉnh cơ chế chính sách nhằm tranh thủ tối đa cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO.
Trong lĩnh vực lao động, những nước có nền kinh tế phát triển cao sẽ được lợi từ toàn cầu hoá qua việc có nguồn nhân công rẻ hơn, thị trường hàng hoá, dịch vụ và tư bản được mở rộng hơn; trong khi những nước có nền kinh tế phát triển thấp lại có cơ hội mở rộng thị trường lao động, thêm cơ hội việc làm do tiếp nhận đầu tư nước ngoài, xuất khẩu hàng hoá và xuất khẩu lao động; chất lượng lực lượng lao động được cải thiện thông qua việc tiếp thu công nghệ mới và cách quản lý tiên tiến hơn, nguồn lao động được phân bổ và sử dụng hợp lý hơn.
Tình hình lao động và việc làm trên thế giới chịu tác động trực tiếp của quá trình toàn cầu hoá trên hai vấn đề lớn và thời sự đó là đầu tư trực tiếp nước ngoài và vấn đề di dân, xuất khẩu, nhập khẩu lao động. Một trong những lý do dẫn đến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là khai thác nguồn lao động, đặc biệt của những nước đang phát triển, rẻ hơn nguồn lao động tại nước đó. Theo báo cáo của ngân hàng thế giới, năm 1965 có 76 triệu người ra nước ngoài làm việc, năm 1975 là 84 triệu, năm 1985 là 105,5 triệu và giữa thập kỷ 90 khoảng 140 triệu người. Trên thực tế, dòng di dân và lao động chảy theo chiều từ nước nghèo sang nước giàu, từ nước có trình độ công nghệ thấp sang nước có trình độ công nghệ cao. Tại các nước phát triển, những công việc giản đơn, được trả công thấp, người dân bản địa không muốn làm cho nên ở những nước này có tình trạng vừa có thất nghiệp vừa thiếu lao động. Từ đó hình thành dòng nhập cư lao động hợp pháp và không hợp pháp.
Các nhân tố của toàn cầu hoá tác động trực tiếp tới lao động, việc làm và phát triển nguồn nhân lực thường được chia làm ba nhóm: di chuyển vốn; tự do hoá thương mại và di chuyển lao động mang tính toàn cầu.
Di chuyển vốn thường kèm theo di chuyền công nghệ, kiến thức kinh doanh, quản lý. Do đó, kích thích phát triển giáo dục đào tạo lao động lành nghề đáp ứng sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trên cả ba lĩnh vực, tay nghề, năng lực quản lý và tác phong làm việc, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường có những tác động tích cực, làm tăng nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động. Một thực tế dễ nhận thấy là dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các nước đang phát triển tạo ra nhiều việc làm, bao gồm cả việc làm trực tiếp và gián tiếp, nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Tự do hoá thương mại thúc đẩy việc mở rộng phân công và hợp tác lao động giữa các nước, làm cho việc phân bố và sử dụng các nguồn tài nguyên, nguồn nhân lực và các nguồn tực lực khác của các nước hợp lý hơn. Tự do hoá thương mại thúc đẩy cạnh tranh về giá cả, chất lượng hàng hoá và quy trình sản xuất, quản lý lao động ... Do vậy, yêu cầu đào tạo, huấn luyện nguồn nhân lực ngày càng cao. Mặt khác, tự do hoá thương mại còn là một thách thức lớn đối với các nước đang phát triển. Do hàng hoá có hàm lượng tri thức cao của các nước này chiếm tỷ lệ thấp, trình độ sản xuất hạn chế, hàng hoá không có khả năng cạnh tranh được với hàng hoá của các nước phát triển.
Nhân tố di chuyển lao động trong quá trình toàn cầu hoá được đặc trưng bởi các dòng chủ yếu là: xuất khẩu lao động từ các nước ít phát triển tới các nước phát triển, có nhiều việc làm và tiền công cao; di chuyển lao động chuyên môn kỹ thuật của các nước phát triển vào các nước tiếp nhận công nghệ (các chuyên gia khoa học công nghệ). Ngoài dòng di chuyển lao động ra nước ngoài còn có dòng di chuyển trong nước. Những cơ hội việc làm được tạo ra bởi dòng FDI, nhất là ở những khu công nghiệp và khu chế xuất tạo nên dòng di chuyển lao động trong nước từ những vùng nông thôn ra thành thị, từ khu vực nông nghiệp chuyển sang khu vực công nghiệp, từ nơi thu nhập thấp đến nơi có thu nhập cao
3.2 Đối với các hiệp hội các doanh nghiệp:
Cần liên kết các hội viên hoạt động sản xuất kinh doanh từng loại hình sản phẩm trong các câu lạc bộ sản xuất, phân phối nước ngoài khi mở cửa thị trường.
Tập hợp và cung cấp những thông tin cần thiết và tư vấn cho các doanh nghiệp về cam kết các quy định của WTO về công nghệ sản phẩm mới cũng như sự thay đổi cơ cấu và phương thức sản xuất của ngành công nghệ điện tử thế giới giúp các doanh nghiệp hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh, phát triển sản xuất, xác định thế mạnh của mình trong việc tham gia vào hệ thống sản xuất và thương mại khu vực.
Bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp và thực hiện vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước. Đồng thời, trợ giúp các doanh nghiệp trong quan hệ với các doanh nghiệp nước ngoài.
Hội thảo được xem là cơ hội để các doanh nghiệp điện tử Việt Nam gặp gỡ, trao đổi thêm về kinh nghiệm xây dựng và bảo vệ thương hiệu của mình cũng như đánh giá kết quả mà ngành điện tử - viễn thông đã đạt được trong gần 2 năm qua, cũng như đưa ra những kiến nghị, đề xuất những giải pháp nhằm phát triển ngành điện tử - viễn thông trong thời gian tới./.
4. ý nghĩa đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi vươn ra kinh doanh trên thị trường nước ngoài.
Các doanh nghiệp nói chung, đặc biệt là các doanh nghiệp điện tử Việt Nam cần phải tự tin và những nội lực của bản thân, không trông chờ, ỷ lại sự bảo hộ của nhà nước, nắm vững, nắm chắc luật “chơi”, cũng như những cam kết WTO để hoạch định lại chiến lược sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển và vươn ra kinh doanh trên thị trường nước ngoài.
Tập trung đầu tư theo chiều sâu, chủ động tìm kiếm đối tác trong khu vực nhất là các nước có công nghệ điện tử phát triển để chào mời hợp tác sản xuất, đầu tư, chuyển giao công nghệ.
Với đặc điểm chuyên môn hóa vào toàn cầu hóa của công nghệ điện tử hiện đại, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ nên chọn một chuyên ngành, tập trung vào một sản phẩm mà mình có thế mạnh nhằm tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cao, tạo chỗ đứng trên thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Toàn cầu hoá với việc thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực. Toàn cầu hoá không chỉ là vấn đề cuả từng quốc gia, khu vực mà nó tác động đến , từng doanh nghiệptừng cá nhân. Trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay, yếu tố con người được phát huy hơn bao giờ hết. Tính chất của toàn cầu hoá ngày càng đi vào chiều sâu với sự phát triển như vũ bão và không ngừng của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Lao động giản đơn ngày càng giảm ý nghĩa trong sản xuất và cạnh tranh. Trái lại, năng lực, trình độ và tư chất của con người quyết định việc biến những cơ hội do môi trường mới mang lại thành những hoạt động sản xuất thiết thực, tạo đà cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Có thể nói toàn cầu hoá đang tạo ra yêu cầu, động lực và điều kiện để phát triển nguồn nhân lực. Đối với Việt Nam, tác động tích cực của toàn cầu hoá với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thể hiện trên hai phương diện, Thứ nhất, toàn cầu hoá thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ, đòi hỏi mỗi người phải không ngừng nâng cao trình độ để theo kịp với sự phát triển của nó. Đồng thời, toàn cầu hoá cũng tạo điều kiện cho mỗi người nhanh chóng tiếp cận thông tin, tri thức mới, góp phần nâng cao dân trí. Đây vừa là điều kiện vừa là động lực quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Thứ hai, lao động làm việc trong các doanh nghiệp có phương pháp quản lý tiên tiến, sử dụng công nghệ hiện đại sẽ có điều kiện để học tập nâng cao tay nghề, tiếp thu công nghệ mới, nâng cao năng lực quản lý và tác phong làm việc... Tuy nhiên, cũng chính từ hai phương diện tích cực trên, quá trình hội nhập quốc tế cũng làm bộc lộ những hạn chế của lao động Việt Nam nhờ đó mà xây dựng chiến lược giáo dục và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của thời đại.
- Trong quá trình toàn cầu hoá, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia đã gây nên những tác động mạnh mẽ vào tất cả các nước nhất là các nước đang phát triển, làm xuất hiện hai xu thế đối lập, vừa thúc đẩy di chuyển lao động vừa hạn chế dòng di chuyển này. Một mặt, nhu cầu của thị trường kinh doanh ở nhiều nước phát triển và các nước khan hiếm lao động đã tạo ra một dòng chảy lao động từ những nước đang phát triển và dư thừa lao động tới những nước này. Mặt khác, sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia vào các nước đang phát triển trở thành một yếu tố có tác dụng giữ lao động tại chỗ, hạn chế dòng di chuyển lao động quốc tế, nhưng lại thúc đẩy dòng di chuyển lao động trong nước, từ nông thôn ra thành thị, từ những khu vực kém phát triển tới những nơi phát triển hơn và có thu nhập cao hơn. Một đặc điểm nữa là sự dịch chuyển lao động quốc tế nhưng không vượt qua được biên giới quốc gia. Ngày nay, một người có thể vẫn ở quốc gia mình nhưng làm việc cho một công ty ở quốc gia khác thông qua mạng Internet. Như vậy, dù không có sự di chuyển lao động, trên thực tế lao động vẫn được quốc tế hoá, vẫn có sự phân công và ràng buộc lẫn nhau. Đây là một đặc điểm mới của thị trường lao động trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay. Sự di chuyển lao động trên thị trường các nước đang phát triển, đã và đang làm tăng thu nhập của người lao động. Đa số các nhà kinh tế đều thừa nhận, ở những nền kinh tế mở, năng suất lao động tăng nhanh hơn và 90% sự khác biệt về tiền lương được giải thích bởi sự khác biệt về năng suất lao động. Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng làm biến động thị trường lao động. Dòng di chuyển lao động ở Việt Nam từ nông thôn ra thành thị, từ khu vực nông nghiệp chuyển sang khu công nghiệp, từ nơi có thu nhập thấp đến nơi có thu nhập cao là sự dịch chuyển tuân theo quy luật của thị trường. Tuy nhiên, sự di chuyển lao động theo quy luật thị trường nhiều khi không phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tạo nên sự bất hợp lý trong việc tập trung quá nhiều lao động có trình độ cao ở các đô thị nhưng lại thiếu lao động ở những vùng kinh tế khó khăn. Đồng thời, sự di chuyển lao động bao giờ cũng phát sinh nhiều vấn đề đòi hỏi phải có sự can thiệp và trợ giúp kịp thời, hiệu quả từ phía Nhà nước. Đây là một thách thức lớn xét từ góc độ quản lý thị trường lao động.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6133.doc