Tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta hiện nay" (qua thực tế tỉnh Hải Dương)

mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Dân số và sự tồn tại, phát triển của xã hội là hai vấn đề luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói đến vấn đề dân số không có nghĩa là chỉ nói tới mặt số lượng mà còn bao gồm mặt chất lượng của dân số. Cùng với việc phát triển kinh tế- xã hội, con người cần phải điều chỉnh các xu hướng dân số cho phù hợp với sự phát triển. Quy mô, cơ cấu dân số, tốc độ gia tăng dân số và sự phân bố dân cư phù hợp sẽ tạo ra những tiền đề và động lực quan trọng cho phát triể

doc90 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1738 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta hiện nay" (qua thực tế tỉnh Hải Dương), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n bền vững, ngược lại, sự gia tăng dân số không phù hợp sẽ tạo ra những nhân tố cản trở việc thực hiện những mục tiêu kinh tế- xã hội. Có thể nói, dân số là cơ hội, đồng thời là thách thức đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Vì vậy, bất cứ quốc gia nào cũng cần có một chính sách dân số hợp lý để tạo ra một quy mô dân số “tối ưu”. Nghĩa là, vừa có thể đảm bảo việc phát huy mọi nguồn lực cho sản xuất, tạo ra được nhiều nhất của cải vật chất cho xã hội, mặt khác, vừa có thể đảm bảo được sự kết hợp hài hòa giữa sản xuất với tiêu dùng, tăng cường và thúc đẩy việc tích lũy cho tái sản xuất mở rộng. Nhận thức được vị trí và tầm quan trọng của vấn đề dân số trong sự phát triển xã hội, ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm tới việc thực hiện chính sách dân số. Từ đó đến nay, đặc biệt là từ năm 1993 (Đánh dấu bằng sự ra đời của nghị quyết hội nghị lần thứ tư BCH TW Đảng cộng sản việt nam khóa VII), trong công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng. Có thể nhận thấy, ban đầu chúng ta mới chủ yếu quan tâm tới vấn đề giảm sinh để ổn định quy mô dân số, thì đến nay về cơ bản chúng ta đã bắt đầu quan tâm được nhiều hơn tới chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta những năm vừa qua nhìn chung đang có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực với thành tựu rất quan trọng. Tuy nhiên, gần đây việc thực hiện chính sách dân số lại nảy sinh một số vấn đề mới, tỷ lệ các cặp vợ chồng sinh con thứ ba tăng “ đột biến”, xu hướng giảm sinh có những dấu hiệu chững lại… Thực tế ấy cho thấy những thành tựu trong việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta trong thời gian qua là chưa thực sự bền vững và một trong những nguyên nhân của thực tế trên đó là sự tác động trở lại “ một cách mạnh mẽ” của những yếu tố tâm lý xã hội cũ, bảo thủ, lỗi thời. Việc nghiên cứu một cách có hệ thống sự tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số, từ đó đề ra những giải pháp khắc phục tác động tiêu cực của tâm lý xã hội trong việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, vừa cấp bách vừa lâu dài. Là một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc bộ, Hải Dương cũng không phải là ngoại lệ. Có thể nói, sự tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số ở đây còn hết sức nặng nề. Qua thực tế nhiều năm công tác ở cơ sở với đặc thù của công tác nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị cùng với những kiến thức, kinh nghiệm ban đầu đã tích lũy được là những lý do để người viết chọn đề tài: "Tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta hiện nay" (qua thực tế tỉnh Hải Dương) làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Triết học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề ý thức xã hội, tâm lý xã hội, vấn đề dân số đã được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và những người quan tâm đề cập dưới những góc độ khác nhau. Các công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố dưới dạng đề tài khoa học, chuyên đề, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài đăng tải trên các tạp chí, sách báo... Cụ thể như: - “Những yếu tố tâm lý xã hội ảnh hưởng tới mức sinh”, UBDS Hà nội 1991; “KAP (Kiến thức- thái độ- thực hành)” UBQGDS (1993); “Tâm lý cộng đồng làng và di sản”, Đỗ Long- Trần Hiệp (1993); “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay”, Đề tài KX. 07. 02 (1996) Phan Huy Lê- Vũ Minh Giang (Chủ biên); “ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay”, Đề tài KX. 07. 03 (1997) Nguyễn Tài Thư (Chủ biên); - “Nền sản xuất nhỏ Việt Nam và hậu quả của nó trong tâm lý dân tộc”, Tạp chí Thông tin triết học, số2/ 1971, Tác giả Vũ Khiêu; “ý thức người sản xuất nhỏ và ý thức hàng ngày”, Tạp chí Triết học, số2/ 1986, Tác giả Hồ Sỹ Quý; “Tâm lý “ trọng nam khinh nữ” trong xã hội hiện nay”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 10/ 1995, Tác giả Trần Thị Minh Đức; “ý thức xã hội với sự gia tăng dân số ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/ 2005, Tác giả Nguyễn Thị Nga; - “Sự tác động của phong tục tập quán đến mức sinh và giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình ở Hà Nội”, Luận án phó tiến sỹ khoa học Triết học (Chuyên ngành Xã hội học), Tác giả Nguyễn Quốc Triệu (1994); “ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến trong cán bộ lãnh đạo và phương hướng khắc phục nó”, Luận án tiến sỹ khoa học Triết học, Tác giả Nguyễn Bình Yên; “Tâm lý sản xuất nhỏ ở đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay và phương hướng khắc phục (Qua thực tế tỉnh Thái Bình)”, Luận văn thạc sỹ Triết học, Tác giả Trần Sỹ Dương (1997) … Đã có không ít công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực tâm lý, ý thức con người, nhìn chung do yêu cầu mục đích của mỗi công trình, các tác giả chủ yếu tập trung làm rõ những vấn đề lý luận chung cũng như sự tác động của lĩnh vực ý thức xã hội nói chung đối với tồn tại xã hội. Tuy nhiên, việc nghiên cứu sự tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số, hơn nữa coi sự tác động của tâm lý xã hội như một trong những nguyên nhân của sự gia tăng dân số nhanh ở Hải Dương hiện nay vẫn chưa được quan tâm đầy đủ. Vì vậy, việc thực hiện đề tài này là nhiệm vụ cần thiết. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nội dung của chính sách dân số rất rộng, luận văn chủ yếu đi sâu phân tích một số tâm lý xã hội tác động trực tiếp tới nhận thức, tình cảm, thái độ và hành vi của con người trong việc thực hiện chính sách dân số. Hơn nữa, với quy mô và tốc độ gia tăng dân số ở nước ta hiện nay, luận văn chủ yếu tập trung vào tác động của tâm lý xã hội đến sự gia tăng dân số nhanh, việc sinh con thứ 3 trở lên tăng “ bất thường” và cản trở của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng dân số. Đồng thời, những số liệu khảo sát, đánh giá trong luận văn cũng chủ yếu được thực hiện ở tỉnh Hải Dương. 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích: Phân tích làm rõ tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta hiện nay (qua thực tế tỉnh Hải Dương), từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục tác động tiêu cực của tâm lý xã hội trong việc thực hiện chính sách dân số. * Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ tập trung làm rõ: - Vai trò của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số và những yếu tố tâm lý xã hội phổ biến tác động tới việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta hiện nay. - Nghiên cứu, đánh giá tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số ở Hải Dương hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm khắc phục tác động tiêu cực của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta nói chung và Hải Dương nói riêng. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn đã vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về lĩnh vực ý thức xã hội, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện ý thức xã hội mới ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. * Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận triết học mác xít, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích - tổng hợp, lôgíc - lịch sử, hệ thống - cấu trúc, điều tra khảo sát, thống kê - so sánh... trong nghiên cứu và trình bày. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn có những đóng góp khoa học mới sau: - Phân tích một cách có hệ thống tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện CSDS ở nước ta hiện nay (qua thực tế tỉnh Hải Dương). - Đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm khắc phục tác động tiêu cực của tâm lý xã hội trong việc thực hiện chính sách dân số ở Hải Dương hiện nay. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định các chương trình, chính sách phát triển kinh tế- xã hội, cũng như các mục tiêu, chương trình dân số ở các địa phương nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng. - Tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các Trường chính trị tỉnh, thành phố. - Giúp cho những người làm công tác quản lý lãnh đạo xã hội có thể nhận thức, đánh giá một cách đầy đủ hơn về tác động của tâm lý xã hội đối với những lĩnh vực khác nhau của địa phương mình. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết. Chương 1 Chính sách dân số và vai trò của Tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số 1.1. Chính sách dân số và quá trình thực hiện chính sách dân số ở nước ta 1.1.1. Chính sách dân số Trong sự phát triển của lịch sử xã hội, gia tăng dân số là một vấn đề mang tính khách quan, hợp quy luật. Bởi vì, nó xuất phát từ những nhu cầu tự nhiên- sinh học của con người, tuy vậy nó cũng là một quá trình mang tính lịch sử- xã hội, nghĩa là nó cần phải được điều chỉnh. Việc tác động, điều chỉnh các quá trình dân số được thực hiện thông qua hàng loạt các chính sách xã hội, trong đó trước hết và trực tiếp nhất là chính sách dân số. Hiện nay, về chính sách dân số cũng có nhiều quan niệm khác nhau. Quan điểm thứ nhất: Chính sách dân số là những chủ trương và biện pháp của đảng và nhà nước nhằm điều tiết quá trình biến đổi dân số theo những mục tiêu nhất định [19, tr.195]. Quan điểm này mặc dù đã chỉ ra được bản chất của chính sách dân số nhưng vẫn còn khá chung chung. Quan điểm thứ hai: Theo quan niệm của nhóm cố vấn về chính sách dân số thuộc Uỷ ban dân số của Hội đồng kinh tế và xã hội Liên hợp quốc: Chính sách dân số là những biện pháp và những chương trình được thiết kế nhằm đóng góp vào việc đạt được mục tiêu kinh tế xã hội, dân số, chính trị, các mục tiêu công cộng khác thông qua việc tác động đến các biến đổi dân số quan trọng, cụ thể là quy mô, cơ cấu và sự phân bố dân số (trong phạm vi quốc gia và quốc tế) và các đặc trưng dân số của nó [20, tr.208-209]. Với quan điểm này chính sách dân số không chỉ tác động nhằm tái tạo, tăng giảm số lượng dân số mà còn có ý nghĩa tái tạo và hoàn thiện chất lượng dân cư nhằm giải quyết vấn đề dân số và phát triển. Như vậy, chính sách dân số không đồng nhất với việc hạn chế sinh đẻ, mặc dù với hầu hết các nước trên thế giới hiện nay thì hạn chế sinh đẻ là nhiệm vụ trọng tâm của chính sách dân số. ở một số nước phát triển, có tỷ lệ gia tăng dân số thấp, thậm chí đang sụt giảm thì các biện pháp ưu tiên và truyền thông dân số lại thể nhắm đến mục tiêu khuyến khích sinh đẻ. Quan điểm thứ ba: Theo quan niệm của các nhà khoa học thuộc Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: “ Chính sách dân số là hệ thống các biện pháp do nhà nước tiến hành nhằm đạt được kiểu tái sản xuất dân số trong tương lai” [20, tr.207]. Như chúng ta đã biết, tái sản xuất dân số là sự lặp lại thường xuyên quá trình vận động của dân số. Trên thực tế có hai quan niệm về tái sản xuất dân số: quan niệm về tái sản xuất dân số theo nghĩa hẹp và quan niệm tái sản xuất dân số theo nghĩa rộng. Nếu mục tiêu và đối tượng tác động là tái sản xuất dân số theo nghĩa hẹp thì ta có chính sách dân số theo nghĩa hẹp, theo đó chính sách dân số chỉ tác động tới vận động tự nhiên (sinh sản, tử vong) và vận động cơ học (di dân theo lãnh thổ). Còn khi mục tiêu và đối tượng tác động là tái sản xuất theo nghĩa rộng, ta có chính sách dân số theo nghĩa rộng nghĩa là chính sách dân số phải quan tâm tới cả 3 dạng vận động: vận động tự nhiên, vận động cơ học và vận động xã hội (từ nhóm xã hội này sang nhóm xã hội khác hoặc nâng cao chất lượng của nhóm về mặt xã hội). Quan niệm thứ ba hiện nay đang được dùng phổ biến hơn cả, nó không chỉ phản ánh được nội dung cơ bản của chính sách dân số mà còn cho thấy tính chất phong phú, đa dạng của chính sách dân số. Trước đây, quan niệm phát triển thường nghiêng về những tiêu chuẩn kinh tế- kỹ thuật thì ngày nay đang chuyển dần sang ý nghĩa phát triển xã hội, phát triển con người và phát triển bền vững. Xem xét quan hệ dân số- phát triển thực chất là nhìn nhận dân số theo quan điểm phát triển bền vững thông qua vai trò của con người. Dù quan niệm thế nào thì con người vẫn luôn đứng ở vị trí trung tâm của sự phát triển. Phát triển con người một mặt phát huy được tiềm năng của chính mỗi con người, mặt khác giúp cho việc khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả nhất các nguồn lực cho phát triển kinh tế- xã hội cũng như đảm bảo cho sự phát triển bền vững của các thế hệ tương lai. Như vậy, “sinh đẻ có hướng dẫn”, “ sinh đẻ có kế hoạch” hay “kế hoạch hóa gia đình” đều là biện pháp cơ bản để vươn tới mục tiêu cao hơn: mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Thực hiện tốt chính sách dân số là một trong những giải pháp cơ bản để đạt tới sự phát triển bền vững. Chính sách dân số là một bộ phận của chiến lược phát triển toàn diện của mỗi quốc gia, là một trong những công cụ hữu hiệu để điều tiết quá trình vận động của dân số. Trước hết, nó điều tiết sự phát triển dân số hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội. Chính sách dân số điều chỉnh quá trình di cư, nhập cư, đảm bảo phân bố dân cư và lao động hợp lý, phù hợp với điều kiện, đặc điểm, tình hình phân bố của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Việc thực hiện tốt chính sách dân số còn góp phần thúc đẩy quá trình phát triển giáo dục, y tế… đặc biệt là giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân số với tài nguyên, môi trường, hạn chế tệ nạn xã hội từng bước nâng cao chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống… ở nước ta hiện nay, việc thực hiện chính sách dân số suy cho cùng là việc hạn chế tỷ lệ gia tăng dân số nhanh, hạn chế tình trạng sinh con thứ 3 trở lên và thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống. Đối với chính sách dân số, quan trọng nhất vẫn là nhóm chính sách có liên quan đến vấn đề sinh, tử và di dân bởi vì mọi sự biến đổi của dân số suy cho cùng đều chịu ảnh hưởng của 3 nhân tố này. Theo một phép tính đơn giản thì: Tăng dân số tự nhiên = Số sinh- số chết. Vì vậy, việc sinh đẻ và các chính sách tác động tới mức sinh có ý nghĩa quan trọng nhất, nhất là với những nước có tốc độ gia tăng dân số nhanh như Việt Nam. Đương nhiên việc con người không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống, kéo dài tuổi thọ… làm cho mức chết giảm đi và như vậy thì vấn đề kiểm soát sự gia tăng dân số chỉ còn là vấn đề kiểm soát mức sinh. Tất nhiên, mức chết có ảnh hưởng nhất định tới việc “ gây áp lực dân số” song không thể coi việc “ làm gia tăng yếu tố này” như một giải pháp của giảm áp lực dân số đối với quá trình phát triển. Đây cũng chính là lý do vì sao trong phạm vi đề tài này tác giả chủ yếu đề cập tới tác động của tâm lý xã hội tới mức sinh và giải pháp khắc phục tác động của tâm lý xã hội tới mức sinh ở nước ta hiện nay. 1.1.2. Quá trình thực hiện chính sách dân số ở nước ta Chính sách dân số ở Việt Nam đã được Đảng và nhà nước quan tâm từ rất sớm. Theo thời gian và dựa vào đặc điểm lịch sử của đất nước, chúng ta có thể chia quá trình thực hiện chính sách dân số thành 3 thời kỳ cơ bản: - Thời kỳ từ năm 1961 đến năm 1975: Đây là thời kỳ đất nước còn đang bị chia cắt, chính sách dân số mới chỉ được thực hiện ở Miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Có thể nhận thấy ngay từ đầu, Đảng và nhà nước ta đã rất chú ý tới vấn đề dân số, quan tâm tới số lượng cũng như chất lượng dân số “ vì sức khỏe các bà mẹ, vì hạnh phúc và hòa thuận trong gia đình và để nuôi dạy con cái chu đáo”. Mục tiêu của giai đoạn này là hướng tới quy mô gia đình 3 con, đối tượng vận động chủ yếu là phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và đã đông con, trước hết là nữ công nhân viên chức nhà nước, trong các lực lượng vũ trang, phạm vi thực hiện chính sách dân số tập trung ở thành thị, nông thôn đồng bằng Sông Hồng … kinh phí cho hoạt động dựa vào ngân sách nhà nước cấp. Kết quả là tốc độ gia tăng dân số có giảm nhưng rất chậm, hiện tượng gia đình đông con khá phổ biến. Quan niệm về chính sách dân số như thế còn rất hạn chế, nhìn chung mới chú ý đến quy mô dân số mà rất ít quan tâm tới vấn đề chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống. Với điều kiện đặc biệt của lịch sử và ảnh hưởng của cơ chế tập trung bao cấp lúc bấy giờ mà hiệu quả của việc thực hiện chính sách dân số chưa cao. - Thời kỳ từ năm 1975 đến năm 1984: Đất nước thống nhất, dân số cả nước lúc này đã xấp xỉ 48 triệu người, gần gấp đôi so với năm 1955. Chính sách dân số bắt đầu được triển khai trên phạm vi cả nước với xu hướng đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch. Sau một thời gian tạm lắng, cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch lại được phát động một cách sôi nổi và được triển khai rộng khắp trên toàn quốc chuẩn bị cho sự phục hưng nền kinh tế. Cũng trong giai đoạn này, công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình được xác định là vị trí quốc sách trong sự nghiệp phát triển đất nước. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IV khẳng định: “ Mọi ngành, mọi cấp phải coi cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch là công tác có tầm quan trọng to lớn, có ý nghĩa chính trị kinh tế và xã hội góp phần tích cực vào việc nâng cao đời sống của nhân dân ta”. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng lần thứ V: “ Phải quyết định và thi hành chính sách dân số đúng đắn, trong đó một công việc cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược kinh tế và xã hội, mà tất cả các tổ chức Đảng và chính quyền các cấp phải hết sức quan tâm và trực tiếp chăm lo, là tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch” [6, tr.72]. Những nỗ lực của cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch bước đầu đã góp phần hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số. Số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đã giảm từ 5,25 con năm 1975 xuống còn 3,85 con năm 1984. - Thời kỳ từ năm 1984 đến nay: Do những khó khăn về kinh tế- xã hội, từ năm 1975 đến năm 1984 chính sách dân số một lần nữa lại không được quan tâm đầy đủ. Từ năm 1975 đến những năm 1983, 1984 tỷ lệ gia tăng dân số ở các tỉnh phía Nam khá cao, ở các tỉnh phía Bắc việc thực hiện những mục tiêu dân số cũng tiến triển tương đối chậm, sự gia tăng dân số nhanh đã bắt đầu tạo sức ép không nhỏ lên sự phát triển kinh tế xã hội. Những mục tiêu của chính sách dân số nhìn chung đều không thực hiện được. Đứng trước tình hình kinh tế xã hội khủng hoảng một cách nghiêm trọng, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, gia tăng dân số nhanh… đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc hơn nữa về tầm quan trọng của chính sách dân số và đẩy mạnh một bước hiệu quả công tác dân số. Có thể coi đây là thời kỳ việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta đã có những chuyển biến tích cực cả về nội dung, hình thức và cách thức tiến hành. Nhiều văn bản chính sách đã được ban hành, đáng chú ý là: Quyết định số 58/ HĐBT ngày 11 tháng 4 năm 1984 của Hội đồng bộ trưởng về việc thành lập Uỷ ban dân số và sinh đẻ có kế hoạch. Nghị quyết Hội nghị lần thư tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình tháng 1 năm 1993. Quyết định số 270/ TTg ngày 3 tháng 6 năm 1993 của Thủ Tướng Chính phủ về chiến lược dân số và kế hoạch hóa gia đình đến năm 2000. Quyết định số 147/ QĐ- TTg ngày 22 tháng 12 năm 2000 về chiến lược dân số Việt Nam 2001- 2010. “Pháp lệnh Dân số” được Uỷ ban Thường vụ quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua ngày 9 tháng 1 năm 2003.Trong đó chỉ rõ: Thực hiện gia đình ít con, khỏe mạnh, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nâng cao chất lượng dân số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững đất nước [65, tr.11]. Nghị quyết số 47- NQ/ TW ngày 22 tháng 3 năm 2005 của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định: “ Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Giảm tốc độ tăng dân số. Tiếp tục duy trì kế hoạch giảm sinh và giữ mức sinh thay thế, bảo đảm quy mô và cơ cấu dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dân số” [11, tr.103]. Thời kỳ này đã đánh dấu sự thay đổi căn bản nhận thức và hành động của Đảng và nhà nước ta về chính sách dân số. Vị trí quốc sách của chính sách dân số tiếp tục được khẳng định trong văn kiện của hầu hết các đại hội Đảng và trong nhiều chính sách phát triển kinh tế- xã hội khác. Việc thực hiện CSDS những năm gần đây ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. 1.1.3. Những thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta những năm gần đây 1.1.3.1. Thành tựu Việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta đã có một quá trình lâu dài với nhiều thành tựu và kinh nghiệm vô cùng quý báu. Đến nay, có thể đánh giá thành tựu trong việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta thời gian qua, nhất là những năm gần đây với các mặt cụ thể như sau: Thứ nhất, về mức sinh, tốc độ gia tăng dân số cơ bản đã được kiểm soát, điều này được chứng minh thông qua mức sinh liên tục giảm trong nhiều năm gần đây. Kết quả giảm sinh đã đạt được sớm hơn so với dự kiến. Mục tiêu của " Chiến lược DS- KHHGĐ đến năm 2000" là " giảm cho được tổng tỷ suất sinh xuống mức 2,9 con hoặc thấp hơn, quy mô dân số dưới mức 82 triệu người vào năm 2000 để đạt mức sinh thay thế vào năm 2015". Thực tế đã chứng minh rằng, những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX tỷ lệ sinh không giảm, hoặc giảm rất chậm thì từ năm 1993 trở lại đây, tức là từ khi thực hiện Chiến lược dân số đến năm 2000, tổng tỷ suất sinh đã giảm khá nhanh, từ 3,8 con vào năm 1989 xuống 2,67 con vào thời kỳ 1992- 1996 và còn khoảng 2,3 con vào năm 1999. Quy mô dân số ở mức 78 triệu người vào giữa năm 2000. Kết quả này đã tạo cơ sở để chúng ta có thể đạt mức sinh thay thế chậm nhất vào năm 2005, sớm hơn 10 năm so với dự kiến [65, tr.2]. Từ những thành công nổi bật đó, Việt Nam đã vinh dự được Tổ chức Liên hợp quốc trao giải thưởng Dân số vào năm 1999. Thứ hai, về cơ bản đã thống nhất được nhận thức và hành động của toàn xã hội về tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách dân số. Hầu hết các tổ chức Đảng, chính quyền đã coi công tác dân số là bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.Với sự tích cực hưởng ứng và tham gia của các tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, các ban ngành và đoàn thể, bước đầu chúng ta đã tạo được những cơ sở cho việc thay đổi hành vi một cách bền vững, hạn chế được tác động tiêu cực của tâm lý xã hội. Trong xã hội, quan niệm về hôn nhân, sinh đẻ đã có những chuyển biến tích cực ngày càng nhiều người có ý thức kết hôn muộn, đẻ ít con, nuôi con khỏe mạnh. Thứ ba, công tác thông tin- giáo dục- truyền thông từng bước được đẩy mạnh. Nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng đối với công tác dân số đã có sự chuyển biến đáng kể. Các hoạt động truyền thông mang tính đa dạng, nhiều chiều, nội dung phong phú. Đặc biệt đã có sự quan tâm chú ý tới từng nội dung, từng đối tượng cụ thể để có những phương pháp phù hợp, hiệu quả. Truyền thông dân số đã được lồng ghép vào các nội dung tuyên truyền, giáo dục, các chương trình chính sách phát triển Thứ tư, hệ thống những quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước ta cùng với thời gian đã từng bước được bổ sung, phát triển hoàn thiện và ngày càng thể hiện tính đúng đắn, hiệu quả, sát với tình hình thực tế hơn. Mục tiêu và các giải pháp của chiến lược dân số- kế hoạch hóa gia đình nhìn chung là phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước, cơ chế quản lý dân số theo chương trình mục tiêu được định hình và đang phát huy tác dụng. Có thể khẳng định rằng: Những chính sách được ban hành nếu đáp ứng được sự mong mỏi của nhân dân, xuất phát từ những cơ sở thực tiễn khách quan thì đều tạo ra được sự đồng thuận cao trong xã hội, phát huy được sức mạnh của đông đảo nhân dân và được thực hiện một cách có hiệu quả. Ngoài những thành tựu cơ bản nêu trên, cũng cần phải kể tới thành công đó là chúng ta đã tạo dựng được một bộ máy tổ chức và mạng lưới những người làm công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình rộng khắp từ trung ương tới cơ sở. Trình độ những người làm công tác dân số được nâng lên rõ rệt, nhất là đối với đội ngũ cán bộ chuyên trách. Trang thiết bị được tăng cường, hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tiễn được quan tâm. Chất lượng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình cơ bản đã đáp ứng được những yêu cầu của người sử dụng hiện nay. Với những thành tựu như vậy, có thể nói Việt Nam đã tạo dựng được những cơ sở mấu chốt nhất cũng như môi trường xã hội thuận lợi cho việc triển khai các chương trình, chính sách dân số những năm tiếp theo. 1.1.3.2. Những hạn chế Do chúng ta chưa nhận thức được hết tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình, ở một số nơi đã có những dấu hiệu của sự chủ quan, thỏa mãn với những thành tích bước đầu trong công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình. Có không ít địa phương, chính quyền và cơ quan chức năng đã thể hiện sự thiếu kiên quyết trong khâu tổ chức thực hiện. Chính vì vậy, công tác dân số cũng bộc lộ một số hạn chế. Những hạn chế tiêu biểu có thể kể ra đó là: Một là, quy mô dân số nước ta vẫn ở mức cao và đang không ngừng tăng lên. Đây đã và sẽ tiếp tục là thách thức lớn đối với sự phát triển của Việt Nam. Theo thống kê của các tổ chức liên hợp quốc dân số Việt Nam hiện đang xếp thứ ba ở Đông Nam á (đứng sau In- đô- nê- xia và Phi- Líp- Pin) và thứ 14 trên thế giới. Dự báo số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ sẽ tăng từ 21,1 triệu người năm 2000 lên 25,5 triệu vào năm 2010. Việt Nam lại là một nước có cơ cấu dân số trẻ, do vậy có thể nói tiềm năng sinh đẻ còn rất lớn. Trong nhiều năm tới, cho dù mức sinh tiếp tục giảm song dân số tiếp tục tăng mỗi năm khoảng từ 1 đến 1,1 triệu người. Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia có mật độ dân số cao trong khu vực và trên thế giới. Hai là, mức sinh ở một số nơi vẫn còn ở mức cao và sự chênh lệch về mức sinh giữa các vùng còn khá lớn, có khi lên tới từ 1,1 đến 1,9 lần. Việc giảm sinh diễn ra chưa đồng đều. Từ năm 2000 mức sinh giảm sinh đã chững lại và không đạt chỉ tiêu quốc hội giao là giảm tỷ lệ sinh là 5%o mỗi năm. Kết quả thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình giảm sút. Trong những năm 2003 và 2004 tỷ lệ sinh con thứ 3 tăng mạnh trở lại. Đặc biệt năm 2003, sự tăng đột biến của việc sinh con thứ 3 đã kéo theo tỷ lệ phát triển dân số từ 1,32% vào năm 2002 lên 1,47% năm 2003 [20, tr 211- 213]. Ba là, một thời gian dài chúng ta đã quá chú trọng tới mục tiêu giảm sinh mà chưa thực sự quan tâm tới chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống. Chính sách dân số còn thể hiện sự mất cân đối. Chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống chưa đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực có chất lượng cao cho thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các tố chất về thể lực của con người Việt Nam như chiều cao, cân nặng và sức bền còn hạn chế. Bốn là, bộ máy quản lý dân số ra đời muộn, chưa ổn định, trình độ của đội ngũ quản lý, triển khai chương trình còn hạn chế, điều này thể hiện cả về trình độ khoa hoa học cơ bản, hiểu biết pháp luật cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Thực tế đã có không ít những nơi tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và ngay cả những cán bộ chuyên trách đã hết sức lúng túng trước những vấn đề cụ thể và thực tiễn đặt ra, ví dụ như việc xử lý vấn đề sinh con thứ 3 trong thời gian qua. Điều này cũng phần nào cho thấy về năng lực dự báo, lập kế hoạch và xử lý tình huống của đội ngũ cán bộ còn yếu. Việc lồng ghép các yếu tố dân số vào quá trình hoạch định chính sách, lập kế hoạch chưa đáp ứng được những yêu cầu của tình hình mới. Không ít người dân vẫn thể hiện sự “ thờ ơ”, thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện chính sách dân số. Tóm lại, nâng cao hiệu quả công tác dân số, phấn đấu vì mục tiêu giảm sinh mà trước hết là hạn chế tình trạng sinh con thứ 3 hiện nay là một yêu cầu vừa cấp bách vừa lâu dài. Việc thực hiện tốt chính sách dân số sẽ đem lại lợi ích to lớn đối với sự phát triển kinh tế- xã hội và tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện con người. Mặt khác, nếu chính sách dân số đúng đắn, phù hợp với tâm tư nguyện vọng của nhân dân, đảm bảo sự kết hợp và tác động cùng chiều cũng như khai thác được những yếu tố truyền thống, tâm lý xã hội tích cực thì hoàn toàn có thể thu được những kết quả mong đợi. 1.2. Tâm lý xã hội và vai trò của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta hiện nay 1.2.1. Tâm lý xã hội trong đời sống tinh thần xã hội Đời sống của con người được chia thành nhiều lĩnh vực hoạt động. Hoạt động tinh thần của đời sống xã hội là một trong những lĩnh vực hoạt động cơ bản. Trong đời sống tinh thần của con người thì tâm lý xã hội lại có một vị trí hết sức quan trọng. ý thức xã hội bao gồm những tư tưởng, quan điểm, lý luận cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống của một cộng đồng người phản ánh tồn tại xã hội của họ [21, tr.165]. ý thức xã hội là một bộ phận thuộc đời sống tinh thần của xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định theo những cách thức khác nhau và biểu hiện bằng những hình thái ý thức xã hội cụ thể như: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo…Trong đó ý thức xã hội không chỉ được tồn tại dưới dạng lý luận và quan điểm xã hội mà còn tồn tại như là những trạng thái của tình cảm, xúc cảm, thói quen, tập quán …Căn cứ góc độ xem xét và với những tiêu chí khác nhau người ta có thể có những cách phân chia ý thức xã hội thành những cấp độ khác nhau. Thông thường, căn cứ vào trình độ phản ánh người ta phân chia kết cấu ý thức xã hội bao gồm ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận. ở trình độ ý thức xã hội thông thường, tâm lý xã hội là bộ phận chủ yếu, còn trong ý thức lý luận bộ phận chủ yếu đó là hệ tư tưởng. Triết học Mác- Lênin khẳng định: Tâm lý xã hội bao gồm những tình cảm, tâm trạng, ý thích, mong muốn, cả những tập quán, truyền thống.v.v. được hình thành một cách tự phát dưới ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện sinh sống hàng ngày [21, tr.167]. Là một phương thức tồn tại của ý thức xã hội, tâm lý xã hội không tồn tại độc lập như một thành phần trong kết cấu của ý thức xã hội. Nó có mặt trong tất cả các hình thái của ý thức xã hội: ý th._.ức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức thẩm mĩ … Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng đều là sự phản ánh tồn tại xã hội và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Tuy vậy, về cơ bản thì tâm lý xã hội thuộc cấp độ thấp của ý thức xã hội. Tâm lý xã hội là một bộ phận của ý thức xã hội thông thường nhưng nó lại có vị trí rất quan trọng. Nếu coi tâm lý xã hội là cấp độ thấp của ý thức xã hội để rồi coi nhẹ tâm lý xã hội là hết sức sai lầm. Giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng, giữa tình cảm và lý trí, giữa tri thức và nhiệt tình cách mạng luôn có sự thống nhất và sự tác động qua lại lẫn nhau. Trong nhiều trường hợp sức mạnh của tư tưởng chỉ trở thành sức mạnh hiện thực khi nó kết hợp với yếu tố tâm lý và có sức mạnh lâu bền khi nó đi vào tập quán. Bản thân tư tưởng không có thể tạo ra những bước ngoặt của lịch sử nếu như không có hoạt động của con người với ngọn lửa của lòng nhiệt tình cách mạng. Tình cảm, xúc cảm thúc đẩy con người hoạt động, giúp con người vượt qua những khó khăn. Thành công của bất kỳ hoạt động nào của con người phụ thuộc rất nhiều vào thái độ của con người đối với hoạt động đó. Nếu cuộc sống của chúng ta thiếu đi những tình cảm, xúc cảm, lòng nhiệt tình và quyết tâm của mỗi con người thì có lẽ trước đây, hiện nay và cả mai sau sẽ không có và cũng không thể có sự tìm kiếm của con người về chân lý. Nhưng nếu chúng ta thiếu sự hiểu biết khoa học về nó, cường điệu hóa vai trò của tâm lý xã hội thì cũng dễ dẫn đến những hậu quả tai hại. Phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất của con người một cách trực tiếp, vì vậy, biểu hiện của tâm lý xã hội trong đời sống xã hội rất phong phú đa dạng, phức tạp. Nhìn chung thì tâm lý xã hội mang nhiều dấu ấn chủ quan như tâm trạng, xúc cảm. ở tâm lý xã hội yếu tố trí tuệ còn đan xen với yếu tố tình cảm. Mặt khác, tâm lý xã hội thường có tính phổ biến, mang tính “ lây lan” nhanh, dễ thâm nhập vào quần chúng. Cũng phải thấy rằng, tâm lý xã hội bên cạnh những ưu điểm còn có những hạn chế nhất định. Thực tế cho thấy, tâm lý xã hội thường có tính bảo thủ rất lớn, nhất là khi nó đã ăn sâu vào đầu óc con người và trở thành thói quen, tập quán…Nó thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội, tức là nó có thể tồn tại lâu hơn khi những cơ sở kinh tế- xã hội nảy sinh ra nó đã biến đổi hoặc không còn nữa. Hơn nữa, tâm lý xã hội thường mới chỉ dừng lại ở sự phản ánh bề ngoài của tồn tại xã hội, do vậy chưa sâu sắc và ít nhiều mang tính cảm tính. Tâm lý xã hội khó có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng những mối liên hệ bản chất của tồn tại xã hội. Đồng thời nó còn mang nặng tính kinh nghiệm và hạn chế về tính sáng tạo. Mặt khác, tâm lý xã hội thường ăn sâu vào đầu óc con người nên những yếu tố bảo thủ, lạc hậu lại có “ khả năng” trở thành lực cản “ ghê gớm” đối với sự phát triển kinh tế- xã hội. ở các xã hội có giai cấp, tâm lý xã hội cũng mang tính giai cấp. Mỗi giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau mà hình thành nên những nét tâm lý khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Các học giả của giai cấp thống trị thường phủ nhận tính giai cấp của ý thức xã hội nói chung và tâm lý xã hội nói riêng. Trái lại, triết học Mác- Lênin một mặt khẳng định tính phổ biến của tâm lý xã hội nhưng mặt khác cũng không phủ nhận tính giai cấp của nó. Triết học Mác- Lênin còn khẳng định những tầng sâu của tâm lý xã hội trong từng giai cấp. C.Mác và Ph. ăngghen viết: “ Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung tư tưởng của những người không có tư liệu sản xuất vật chất cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối [29, tr.66]. Tâm lý xã hội không chỉ mang tính giai cấp mà tâm lý xã hội còn bao gồm những đặc điểm tâm lý dân tộc. Tâm lý dân tộc là những đặc điểm về tình cảm, ý chí, tập quán, tính tình, thị hiếu…, được hình thành do ảnh hưởng của những điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và cả những điều kiện tự nhiên trong quá trình phát triển lâu dài của một dân tộc. Những đặc điểm tâm lý dân tộc ăn sâu vào tâm tư, tình cảm của các tầng lớp nhân dân lao động và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và trở thành phong tục tập quán nên những đặc điểm của tâm lý dân tộc thường tương đối ổn định. Tất nhiên, những thay đổi có tính bước ngoặt trong điều kiện lịch sử, trong sinh hoạt chính trị, xã hội của một dân tộc cũng có thể dẫn tới những thay đổi nhất định trong tâm lý xã hội của dân tộc đó. Trong xã hội có giai cấp, tâm lý dân tộc và tâm lý giai cấp có mối lên hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và tạo ra cuộc đấu tranh tư tưởng rất phức tạp. Cũng như toàn bộ ý thức của giai cấp thống trị, những đặc điểm tâm lý xã hội của giai cấp thống trị chi phối cả tâm lý dân tộc và tâm lý xã hội của các giai cấp khác. Hơn nữa, tâm lý của các giai cấp trong xã hội không tồn tại một cách cô lập mà trong mối quan hệ với nhau. Đề cập về ảnh hưởng của tâm lý của các giai cấp trong lịch sử đối với tâm lý của giai cấp công nhân, V.I. Lênin viết: Họ (tức những người sản xuất nhỏ) bao quanh giai cấp vô sản từ mọi phía bằng một bầu không khí tiểu tư sản, làm cho giai cấp vô sản bị tiêm nhiễm, bị hủ hóa, luôn làm cho giai cấp vô sản tái phạm những tính xấu cố hữu của giai cấp tiểu tư sản như: tính nhu nhược, tản mạn, chủ nghĩa cá nhân [25, tr.46]. Trong chủ nghĩa xã hội, tâm lý dân tộc và tâm lý giai cấp có sự thống nhất với nhau, nó xuất phát từ sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp chứ hoàn toàn không xuất phát từ một mong muốn chủ quan nào. ở đó luôn diễn ra đồng thời quá trình: khai thác, phát triển những yếu tố tích cực của tâm lý dân tộc và đấu tranh để xóa bỏ những tàn dư tâm lý lạc hậu, phản động của các giai cấp thống trị bóc lột cũng như của những người sản xuất nhỏ đã và đang là những lực cản đối với sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Tâm lý xã hội cũng có mối quan hệ chặt chẽ với tâm lý cá nhân. Tâm lý cá nhân là sự phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất của các cá nhân ở những mức độ khác nhau. Tâm lý cá nhân là toàn bộ thế giới chủ quan của một cá nhân phản ánh thế giới khách quan (chủ yếu là quan hệ xã hội) thông qua điều kiện sống, hoạt động và thể nghiệm của bản thân. Nó là sự thống nhất giữa thế giới khách quan và thế giới chủ quan, là sự thống nhất giữa cái chung, cái đặc thù và cái rêng trong một cá nhân [48, tr.142]. Tâm lý cá nhân thể hiện thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ thể. Tuy nhiên tâm lý cá nhân không thể không mang tính xã hội, bởi vì cái cá nhân chỉ tồn tại và biểu hiện sự tồn tại của mình trong xã hội hay là trong mối quan hệ với những cá nhân khác. Triết học Mác- Lênin khẳng định: “Xã hội … là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người” và “Lịch sử xã hội của người ta bao giờ cũng chỉ là lịch sử phát triển cá nhân của họ” [35, tr.788- 789]. Sự hình thành hệ thống cấu trúc tâm lý trọn vẹn trong mỗi cá nhân làm cho mỗi cá nhân có nhân cách riêng, có sức mạnh riêng trong nhận thức và cải tạo thế giới hiện thực. Tâm lý cá nhân chịu ảnh hưởng trực tiếp của tâm lý xã hội. Tất nhiên, nói như vậy không có nghĩa là tâm lý xã hội và tâm lý cá nhân không có sự khác biệt. Tâm lý cá nhân không phải bao giờ cũng thể hiện đầy đủ quan điểm, tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng, một tập đoàn xã hội, một thời đại xã hội. Mặt khác, tâm lý xã hội không phải là tồn tại chung chung, trừu tượng mà tâm lý xã hội bao giờ cũng tồn tại trong tâm lý cá nhân, thông qua tâm lý cá nhân. Sự thâm nhập của tâm lý xã hội trong tâm lý cá nhân sẽ quyết định tính phổ biến cũng như vai trò của tâm lý xã hội trong đời sống xã hội. Sự tác động của tâm lý xã hội đối với tồn tại xã hội là sự tác động thông qua tâm lý cá nhân, trên cơ sở đó hình thành những tình cảm, ước muốn, thói quen và định hướng và điều chỉnh hành vi của con người. Nếu quá nhấn mạnh điều kiện sinh sống cụ thể của mỗi cá nhân, thổi phồng những nét riêng biệt thì không thể hiểu được bản chất đời sống tinh thần của cá nhân, dẫn đến mơ hồ, lệch lạc trong việc đánh giá nhận thức và hoạt động của cá nhân. Ngược lại, nếu chỉ chú ý tới mặt xã hội mà coi nhẹ đặc điểm tâm lý riêng biệt của từng cá nhân thì cũng dẫn đến chủ quan, giản đơn trong việc xem xét tâm lý cá nhân, do đó sẽ không thể giải thích được một thực tế là cùng sống trong một điều kiện sinh hoạt vật chất nhất định nhưng những tình cảm, suy nghĩ và hành động của con người lại có thể khác nhau. Mối quan hệ này được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. 1.2.2. Những xu hướng biến đổi cơ bản của tâm lý xã hội và vai trò của nó trong việc thực hiện chính sách dân số 1.2.2.1. Những xu hướng biến đổi của tâm lý xã hội Trong giai đoạn hiện nay, những biểu hiện và những xu hướng biến đổi của tâm lý xã hội ở Việt Nam là rất phức tạp, nhiều chiều. Xu hướng thứ nhất mang tính chủ đạo là quá trình hình thành những yếu tố tâm lý xã hội mới. Đây là xu hướng tất yếu của sự phát triển. Sự ra đời của tâm lý xã hội mới trên cơ sở đó là sự chuyển biến của những tâm lý xã hội cũ sang tâm lý xã hội mới đồng thời nó còn là sự phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất đang nảy sinh và phát triển. Sự hình thành những tâm lý xã hội mới này góp phần to lớn vào quá trình nâng cao đời sống tinh thần của con người, tạo điều kiện cho việc phát huy tính năng động tự chủ, thúc đẩy tính tự giác của mỗi cá nhân, từ đó đẩy xã hội phát triển. Chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực tâm lý xã hội ở nước ta hiện nay là kết quả trực tiếp của những thay đổi về nhu cầu và các quan hệ lợi ích. Những thành tựu kinh tế xã hội của hơn 20 năm đổi mới một mặt đã tạo điều kiện đáp ứng ngày càng tốt hơn những nhu cầu thiết yếu của con người, mặt khắc nó cũng làm nảy sinh ra những nhu cầu mới. Đồng thời, những quan hệ lợi ích trong xã hội cũng có những thay đổi đáng kể, trong đó lợi ích cá nhân ngày càng được quan tâm. Do tác động của các yếu tố kinh tế- xã hội và văn hóa, trình độ dân trí và trình độ nhận thức của con người được nâng cao, người dân có điều kiện để lựa chọn những giá trị mới phù hợp để tạo sự tương đồng với nhau hình thành một hệ giá trị chuẩn mực tiến bộ. Trong phương thức thừa nhận và lựa chọn hệ giá trị chuẩn mực, yếu tố lý trí sẽ không ngừng tăng lên so với yếu tố tình cảm, điều này làm cho hệ giá trị mới mang tính thực tế hơn. Lối sống mới đã và đang làm biến đổi những quan niệm về đạo đức, tình cảm và hành vi ứng xử giữa các cá nhân, tác phong công nghiệp đang dần thay thế cho lối sống tùy tiện, lạc hậu, trì trệ. Dưới tác động của hệ thống quản lý mới và sự hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật, ý thức pháp luật của người dân được hình thành đầy đủ hơn, chính vì vậy mà vai trò và tác động (nhất là tác động tiêu cực) của tâm lý truyền thống cũng giảm bớt. Xu hướng thứ hai là sự tồn tại dai dẳng của những tâm lý xã hội bảo thủ, lạc hậu đã và đang là những lực cản to lớn đối với sự phát triển kinh tế- xã hội. Nảy sinh trên cơ sở một nền nông nghiệp lạc hậu, trì trệ, sản xuất nhỏ và manh mún, tâm lý xã hội của con người Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của tâm lý xã hội truyền thống với những đặc trưng bảo thủ, trì trệ, khép kín… Có thể nói, do những đặc điểm lịch sử và dân tộc, chế độ quốc hữu hóa ruộng đất và sự tồn tại dai dẳng của công xã nông thôn đã làm cho sự phát triển của xã hội Việt Nam nói chung có tính chất “ tiệm tiến” mà không có những bước tiến mang tính nhảy vọt. Trong lịch sử phát triển ấy, sự phân biệt của các phương thức sản xuất không biểu hiện một cách rõ rệt. Sự kết hợp giữa thủ công nghiệp với nông nghiệp trong khuôn khổ công xã nông thôn làm cho nó có “ khả năng” cung cấp những sản phẩm tiêu dùng thiết yếu của con người trong khuôn khổ của “ văn minh nông nghiệp”. Cơ cấu kinh tế giản đơn, tự cung tự cấp đã tạo ra cho công xã nông thôn một sức sống tương đối ổn định và lâu dài. Công xã nông thôn có ảnh hưởng lớn tới cả cơ cấu kinh tế, xã hội, văn hóa và tư tưởng con người Việt Nam. Làng xã cổ truyền là nơi nơi lưu giữ, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc thông qua các phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống… Tuy nhiên, tác động tiêu cực của nó cũng không nhỏ, đó là sự duy trì lâu dài nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, làm cho làng xã trở thành những đơn vị kinh tế khép kín, cản trở sự phát triển của sở hữu tư nhân, hạn chế sự phát triển của công nghiệp, quan hệ hàng hóa- tiền tệ. Trong môi trường kinh tế- xã hội đó cá nhân bị hòa tan vào cộng đồng, bị trói buộc trong những mối quan hệ cổ truyền, chính vì thế mà cá nhân khó có cơ hội phát triển. Việc đề cao vai trò của đời sống tình cảm, luân lý, đạo đức đã không chỉ làm hạn chế lý trí của con người mà còn làm cho con người luôn bị “ giam hãm” trong các làng xã- công xã với vô vàn những tập tục từ ngàn xưa, làm con người bị giảm thiểu nhu cầu, mất hết tính chủ động sáng tạo. Những tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống cũ cũng vì thế mà luôn có một sức sống lâu bền và một vị trí đặc biệt trong xã hội. Khi phân tích về sự thống trị của Anh ở ấn Độ, đề cập đến công xã nông thôn, C. Mác viết: Những công xã nông thôn thơ mộng ấy, dầu cho chúng có vô hại như thế nào chăng nữa, bao giờ cũng vẫn là cơ sở bền vững của chế độ chuyên chế phương Đông, rằng những công xã ấy đã hạn chế lý trí của con người trong những khuôn khổ chật hẹp nhất, làm cho nó trở thành công cụ ngoan ngoãn của mê tín, trói buộc nó bằng những xiềng xích nô lệ của những quy tắc cổ truyền, làm cho nó mất hết sự vĩ đại, mọi tính chủ động lịch sử [32, tr.177]. Những tâm lý này về cơ bản đã hết vai trò lịch sử của nó, nhưng vì những lý do nào đó mà nó vẫn tồn tại. Những tâm lý xã hội này cần phải từng bước được xóa bỏ. Cũng phải nhấn mạnh rằng, để xóa bỏ những tâm lý xã hội này phải trải qua một quá trình lâu dài, khó khăn. Xu hướng thứ ba là sự kết hợp, đan xen giữa những yếu tố tâm lý xã hội cũ và mới. Đây là xu hướng cần lưu tâm, nhất là đối với việc thực hiện chính sách dân số. Bởi vì, nếu chỉ cần một tác động nào đó (ví dụ như chính sách, luật pháp hay nhận thức của chủ thể hoạt động…) những tâm lý này có thể chuyển biến theo hướng tích cực, nhưng cũng có thể chuyển biến theo hướng hoàn toàn ngược lại, nhất là khi những yếu tố tâm lý xã hội cũ được khơi dậy. Thực tế đã chứng minh, tâm lý xã hội bảo thủ, lạc hậu không tự mất đi và cũng không mất đi ngay lập tức, trái lại nó có thể tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất dưới những hình thức khác nhau. Một yếu tố tâm lý xã hội nào đó, mặc dù bảo thủ, lạc hậu nhưng nếu bằng cách này hay cách khác đã tìm được cho mình một khả năng thích ứng với những điều kiện mới thì nó có thể “ bùng lên” mạnh mẽ và tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế- xã hội là vô cùng to lớn. Những xu hướng biến đổi của tâm lý xã hội cho thấy những mâu thuẫn trong việc thừa nhận và lựa chọn hệ giá trị chuẩn mực cũng như sự phân hóa trong đời sống tâm lý tình cảm của con người Việt Nam hiện nay. Từ những xu hướng vận động hết sức phức tạp, đan xen của tâm lý xã hội ở nước ta hiện nay mà sự tác động của tâm lý xã hội đối với những cơ sở kinh tế- xã hội đã làm nảy sinh ra chúng cũng rất phong phú, đa dạng. Vai trò của tâm lý xã hội đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế trên cơ sở đó mà tâm lý xã hội nảy sinh, vào mức độ phản ánh đúng đắn của tâm lý xã hội đối với những nhu cầu phát triển xã hội và mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng. 1.2.2.2. Vai trò của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số Trong việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta hiện nay, sự tác động của tâm lý xã hội thể hiện rõ nét trên cả hai phương diện: tác động tích cực và tác động tiêu cực. Nói cách khác, đó là sự tác động có tính chất đan xen, giữa những tác động tiêu cực và những tác động tích cực không có một gianh giới tuyệt đối. Điều này vừa biểu hiện như một mâu thuẫn bên trong, vừa biểu hiện tính chất hai mặt của tâm lý xã hội. Có thể đứng trên nhiều góc độ để xem xét sự tác động của tâm lý xã hội trong việc thực hiện chính sách dân số. Về những tác động của tâm lý xã hội trong việc thực hiện chính sách dân số, cụ thể là vào quan niệm và quyết định sinh con, theo Tiến sỹ Nguyễn Thị Nga là “ khá lặng lẽ nhưng sâu sắc, âm thầm nhưng dẻo dai, không ồn ào nhưng cũng không kém phần quyết liệt” [41, tr.69]. Cũng theo Tiến sỹ Nguyễn Thị Nga thì mọi hành vi của con người đều phản ánh thái độ và quan niệm của chính họ; tức là dù thừa nhận hay không thừa nhận thì quan niệm và thái độ của con người cũng chi phối những hành vi của họ, mà quan niệm và thái độ của con người có được xét đến cùng đều xuất phát từ vấn đề nhận thức của họ. Như vậy thì sự tác động của tâm lý xã hội phụ thuộc vào sự thâm nhập, chuyển hóa của tâm lý xã hội trong tâm lý cá nhân. Tâm lý xã hội thường được hiểu là sự phản ánh những cơ sở kinh tế- xã hội “ đã bị vượt qua”. Do đó, việc nhìn nhận tác động của tâm lý xã hội đối với sự phát triển thường nghiêng về đánh giá tiêu cực. Tất nhiên, có mối quan hệ nhất định giữa tâm lý xã hội với những cơ sở kinh tế- xã hội của giai đoạn trước và cũng gây ra nhiều tác động không tốt đối với sự phát triển xã hội song vấn đề lại nằm ở năng lực khai thác và mục đích sử dụng của chủ thể. Vai trò của tâm lý xã hội trong việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta hiện nay thể hiện ngay trong những tác động của tâm lý xã hội tới nhận thức, tình cảm, thái độ … và hành vi của cá nhân trong việc thực hiện chính sách dân số. Thứ nhất, tác động tới nhận thức của mỗi cá nhân trong việc thực hiện chính sách dân số. Một trong những đặc điểm của tâm lý xã hội là “ tính lây lan” nhanh và phạm vi ảnh hưởng là rất rộng. Tâm lý xã hội càng có phạm vi ảnh hưởng rộng thì càng có xu hướng thống nhất về nội dung các chuẩn mực, phán xét, đánh giá, càng làm cho người ta nhận thức sâu sắc hơn về những vấn đề diễn ra trong xã hội. Trong điều kiện môi trường xã hội lành mạnh, không có những lệch lạc về chuẩn mực và những thước đo giá trị xã hội, các giá trị văn hóa, truyền thống, phong tục tập quán được coi trọng thì nhân cách, trình độ văn hóa của con người có điều kiện phát triển. Một xã hội phát triển sẽ dẫn dắt hành vi con người theo những chuẩn mực giá trị. Ngược lại, trong sự khủng hoảng, suy thoái, những giá trị văn hóa, tinh thần … bị coi nhẹ, hoặc tổn thương sẽ là “ mảnh đất hiện thực” vô cùng màu mỡ cho những hành vi phản văn hóa, trái đạo lý. Tác dụng của tâm lý xã hội ở đây đó chính là sức mạnh chuyển tải thông tin, tuyên truyền phổ biến các giá trị, các quan điểm của của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về chính sách dân số cũng như việc thực hiện chính sách dân số. Thứ hai, tác động tới tình cảm, tâm trạng … thái độ của cá nhân trong việc thực hiện chính sách dân số. Tình cảm, tâm trạng, xúc cảm và thái độ là những yếu tố cơ bản của tâm lý cá nhân. Mặc dù về cơ bản nó được hình thành một cách tự phát dưới những tác động của những điều kiện sinh sống hàng ngày, tuy nhiên nó cũng không tách rời những yếu tố truyền thống, phong tục tập quán, những kinh nghiệm sống đã được tích lũy trong quá trình lịch sử. Bản chất con người “ không phải là một cái trừu tượng cố hữu của những cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó,bản chất người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [29, tr.11]. Tình cảm của cá nhân thường được bộc lộ dưới dạng những phản ứng là tích cực hay tiêu cực của họ trước những sự kiện, hiện tượng và các quá trình diễn ra trong xã hội. Tình cảm của cá nhân trong việc thực hiện chính sách dân số biểu hiện trong thực tế đó là thái độ lên án hay đồng tình đối với những hành vi dân số, ủng hộ hay thờ ơ trong việc thực hiện chính sách dân số, có hay không việc đề cao trách nhiệm công dân …Cũng chính vì vậy mà mỗi cá nhân đều mong muốn tự kiểm soát được tình cảm và thái độ của mình phù hợp với tình cảm và thái độ chung của cả cộng đồng. Thái độ của cá nhân không những bị lệ thuộc vào tình cảm mà còn phụ thuộc vào cả trạng thái tâm lý của họ. Do ảnh hưởng trực tiếp của những điều kiện sinh sống mà trạng thái tâm lý được thể hiện ở những trạng thái đối lập: hưng phấn hay ức chế, lạc quan hay bi quan, quan tâm hay thờ ơ …. Tùy thuộc vào những trạng thái tâm lý mà thái độ của họ cũng có thể khác nhau. Chẳng hạn khi trong trạng thái hưng phấn, nhiệt tình người ta thường có những phản ứng mạnh mẽ, tích cực trước những hành vi vi phạm chính sách dân số, ngược lại người ta thường thờ ơ trước những hành vi vi phạm chính sách dân số. Những trạng thái tâm lý đó được bộc lộ trong nội dung các phán xét, đánh giá của tâm lý xã hội và qua đó, tâm lý xã hội tác động tới thái độ của con người trong việc thực hiện chính sách dân số. Thứ ba, tác động tới hành vi của cá nhân trong việc thực hiện chính sách dân số. Nói tới hành vi của con người trong việc thực hiện chính sách dân số tức là nói tới việc tham gia của con người với tư cách là chủ thể của chính sách dân số. Hành vi của con người trong việc thực hiện chính sách dân số là kết quả của những kinh nghiệm xã hội, những thuộc tính xã hội, những kết quả của giáo dục, đào luyện mà họ được tiếp nhận từ xã hội; là cái cá thể và sự phát triển của cá thể hóa đã đạt được đến một mức nào đó thông qua tác động của cái xã hội và quá trình xã hội hóa đối với con người. Sự chuyển hóa của tâm lý xã hội trong tâm lý cá nhân cuối cùng biểu hiện ra ở việc cá nhân có thể tự đánh giá và điều chỉnh hành vi ứng xử của mình trong xã hội Trong chừng mực nhất định hành vi của con người trong việc thực hiện chính sách dân số là sự phản ánh nhận thức và thái độ của họ đối với việc thực hiện chính sách dân số. Trong trường hợp này có thể coi tâm lý xã hội là “ tấm gương” để mỗi cá nhân tự soi mình vào đó mà định hướng, thực hiện cũng như việc điều chỉnh hành vi của mình theo những chuẩn mực xã hội đã trở thành thói quen, phong tục tập quán … trong tâm lý xã hội. ở đây, sức mạnh điều chỉnh hành vi của tâm lý xã hội khiến cho mỗi cá nhân phải đứng trước những sự lựa chọn nhất định, phải suy nghĩ, đánh giá trước khi thực hiện một hành vi dân số nào đó. Hành vi đó đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp? … Có thể thấy, tác động của tâm lý xã hội đối với hành vi của con người trong việc thực hiện chính sách dân số chính là ở cách thức mà con người lựa chọn cũng như thực hiện hành vi dân số của mình. 1.3. Những yếu tố cơ bản chi phối sự tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng, có thể làm giảm nhẹ hay trầm trọng hơn những tác động của tâm lý xã hội, thậm chí giúp cho việc khai thác những tâm lý xã hội truyền thống như một nhân tố “ có lợi” trong việc thực hiện chính sách dân số. Chúng ta có thể chỉ ra những nhân tố cơ bản sau đây: 1.3.1. Hệ thống các cơ chế, chính sách và pháp luật Đây là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ nhất. Thực tế cho thấy, sau khi có pháp lệnh dân số 2003 được ban hành, tỷ lệ các cặp vợ chồng sinh con thứ 3 trở lên lại có xu hướng tăng mạnh. Có nhiều lý do đã được đưa ra để giải thích cho hiện tượng này và một trong những lý do được nhắc tới nhiều nhất lại nằm ở nội dung của pháp lệnh dân số. Trong pháp lệnh dân số, lần đầu tiên “ quyền sinh sản” của công dân được khẳng định: “ Bảo đảm việc chủ động, tự nguyện, bình đẳng của mỗi cá nhân, gia đìng trong kiểm soát sinh sản, chăm sóc sức khỏe sinh sản, lựa chọn nơi cư trú và thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số” [44, tr.8- 9]. Điều 10 của pháp lệnh ghi rõ: “ Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền: Quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, điều kiện học tập, lao động,công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở bình đẳng”[44, tr 13]. Pháp lệnh Dân số 2003 thể hiện một bước tiến lớn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của Đảng và nhà nước ta. Tuy nhiên, trong điều kiện cụ thể nước ta nó thực sự chưa mang lại hiệu quả mong muốn. Như vậy là có một thực tế, một chính sách (mà cụ thể là chính sách dân số) có thể phù hợp với xu hướng vận động và phát triển chung nhưng có thể lại là chưa phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể. Sự phù hợp hay không phù hợp của chính sách dân số với những đặc điểm và diễn biến tâm lý xã hội có một ý nghĩa rất quan trọng, nó chi phối sự tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số. Cùng với chế độ sở hữu, hệ thống tổ chức bộ máy và các thiết chế quyền lực nói chung, hệ thống pháp luật và các công cụ, phương tiện quản lý là một đảm bảo cần thiết về tư tưởng và tinh thần cho xã hội. ảnh hưởng của cơ chế, chính sách pháp luật thường bằng những phương thức và công cụ quản lý nhất định, Với hệ thống cơ chế, chính sách và pháp luật, nhà nước thực hiện sự kiểm soát, điều chỉnh của mình đối với hành vi của mỗi công dân. 1.3.2. Mức độ thâm nhập và chuyển hóa tâm lý xã hội trong tâm lý cá nhân Như chúng ta đã phân tích, giữa tâm lý xã hội và tâm lý cá nhân có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng tâm lý cá nhân không phải là “ bản sao” đầy đủ của ý thức xã hội. Sự hình thành và phát triển của tâm lý cá nhân là một quá trình phức tạp, bao gồm sự tác động của nhiều yếu tố. Tâm lý học Mác- xít không phủ nhận yếu tố bẩm sinh, di truyền nhưng coi yếu tố này chỉ là cơ sở, là tiền đề vật chất có ảnh hưởng nhất định đối với mặt nào đó của tâm lý cá nhân chứ không phải là yếu tố duy nhất quyết định sự hình thành và phát triển của tâm lý cá nhân. Sự thâm nhập và chuyển hoá của tâm lý xã hội trong tâm lý cá nhân phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của cá nhân. Tâm lý cá nhân không phải là được “ hấp thụ” một cách trực tiếp từ trong xã hội mà là kết quả của một một quá trình rèn luyện, thể nghiệm bản thân lâu dài, gian khổ, phức tạp. Do đó, một mặt mỗi cá nhân phải luôn thể hiện tính tích cực, chủ động của mình, biết phân tích, tiếp thu một cách có phê phán đối với những quan điểm và hành vi trong xã hội. Mặt khác, nó cũng đòi hỏi sự định hướng và chỉ đạo thống nhất. ở đây, vai trò của những nhà quản lý xã hội, các tổ chức xã hội như: Mặt trận tổ quốc, hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, … là rất lớn. Bản thân các tư tưởng không thể “ cải biến” được hiện thực. Tư tưởng nói chung và tâm lý xã hội nói riêng chỉ có thể phát huy sức mạnh cải tạo hiện thực khi nó thâm nhập được vào quần chúng và định hướng cho hoạt động thực tiễn. Nội dung của đời sống tâm lý cá nhân là sự phản ánh thế giới khách quan thông qua hoạt động của mỗi cá nhân. Sự hình thành và phát triển của tâm lý cá nhân quyết định việc phát huy vai trò của cá nhân đối với xã hội. 1.3.3. Chế tài xử lý của pháp luật Có thể nói để pháp luật dân số thực sự đi vào đời sống xã hội và ngày càng phát huy hiệu quả thì ý thức pháp luật của người dân phải được nâng cao. Ngoài việc nâng cao chất lượng hệ thống văn bản pháp luật, đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật dân số nói riêng chúng ta cần chú ý tới cả vấn đề cần phải có những biện pháp mạnh, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Một trong những nguyên nhân làm cho việc vi phạm pháp luật dân số diễn ra khá phổ biến và trong một thời gian dài đó là việc ban hành hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, văn bản được đưa ra nhưng thiếu chế tài xử lý làm cho những cơ quan chuyên trách, các cấp ủy đảng và chính quyền nhiều địa phương hết sức lúng túng. Đơn cử một ví dụ: Pháp lệnh Dân số được ra đời từ ngày 9 tháng 1 năm 2003 và chính thức có hiệu lực từ ngày 1 tháng 5 năm 2003 nhưng đến ngày 16 tháng 9 năm 2003 mới có nghị định hướng dẫn thực hiện và hướng dẫn xử lý vi phạm. Như vậy, việc ban hành Pháp lệnh Dân số và một số chính sách khác thiếu chặt chẽ cùng với sự chậm trễ kể trên đã tạo “ điều kiện pháp lý” cũng như đủ thời gian cho sự ra đời của “ cả một thế hệ”. Và khi có văn bản hướng dẫn thực hiện thì hậu quả của nó đã hiện hữu và công tác xử lý chỉ còn là xử lý vấn đề “ đã xảy ra”. Hơn nữa, trong công tác xử lý vi phạm pháp luật dân số cũng chưa được thực hiện một cách triệt để, thiếu kiên quyết, nhất là đối với cán bộ, đảng viên vi phạm. Đến lúc này có thể khẳng định rằng với một hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chế tài xử lý của pháp luật vừa thiếu, vừa yếu đã trở thành “ cơ hội” cho sự trỗi dậy và tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta thời gian vừa qua và là một trong những nguyên nhân làm cho việc sinh con thứ 3 khó kiểm soát. 1.3.4. Trình độ dân trí Trình độ dân trí có liên quan tới những điều kiện và khả năng tiếp nhận các thông tin xã hội cùng với năng lực nhận thức, đánh giá đúng đắn các thông tin đó. Đồng thời nó cũng có ảnh hưởng trực tiếp tới hành vi của con người. Khi trình độ dân trí được nâng cao, người dân có những điều kiện để nhận diện được đâu là những giá trị văn hóa đích thực, những tình cảm, thói quen, truyền thống tâm lý có tác dụng cho cuộc sống và hoàn thiện con người. Nhìn chung thì trình độ học vấn có ý nghĩa to lớn trong việc thẩm định các giá trị, chuẩn mực trong xã hội, từ đó tạo dư luận tiến bộ trong cộng đồng. Trình độ dân trí cơ bản được biểu hiện ở trình độ học vấn học vấn của dân cư. Đây là cơ sở vững chắc cho sự phát triển dân số hợp lý trong quá trình phát triển. Mức sinh phụ thuộc rất nhiều vào trình độ học vấn của dân cư mà trước hết là trình độ học vấn của phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ và sắp bước vào độ tuổi sinh đẻ. Kết quả điều tra nhân khẩu học cho thấy: Phụ nữ có trình độ học vấn cao thường có ít con bởi vì họ có khả năng kiểm soát được những yếu tố tác động tới mức sinh. Số con đã sinh trung bình của một phụ nữ thường tỉ lệ nghịch với trình độ học vấn của người mẹ. Điền này không chỉ phụ thuộc trình độ học vấn của phụ nữ nói chung mà còn phụ thuộc vào cả tỷ lệ phụ nữ có trình độ học vấn cao trong tổng số phụ nữ. Bảng 1.1: Quan hệ giữa số con trung bình và trình độ học vấn của phụ nữ [66, tr 64] Không được đi học Chưa tốt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp trung học cơ sở Tốt nghiệp THPT trở lên Số con TB của một phụ nữ 4,02 3,98 3,06 2,58 1,87 Ngoài những vấn đề nêu trên còn phải kể tới một số yếu tố khác nữa như tuổi kết hôn, đời sống kinh tế, việc làm, thu nhập, tốc độ đô thị hóa…và ngay cả mức sống, mức độ phổ biến của tâm lý xã hội cụ thể, chúng đều ảnh hưởng tới sự tác động của tâm lý xã hội đối với việc._. những diễn biến tâm lý trong nhân dân Tâm lý xã hội có vai trò quan trọng trong sự phát triển của ý thức xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nghiên cứu trạng thái tâm lý xã hội của nhân dân. Việc nghiên cứu trạng thái và những diễn biến tâm lý trong nội bộ nhân dân là cơ sở để hiểu dân, nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Từ đó tập hợp, giáo dục quần chúng nhân dân, đưa quần chúng tham gia tích cực, tự giác vào các quá trình xã hội. Có thể nói, một trong những nguyên nhân làm cho kết quả thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình chững lại và giảm sút, tình trạng sinh con thứ 3 tăng đột biến đó là sự yếu kém trong đánh giá và dự báo, chủ quan không lường trước được những diễn biến tâm lý phức tạp trong nội bộ nhân dân, nhất là những diễn biến tâm lý có liên quan tới việc thực hiện chính sách dân số. Việc kịp thời nắm bắt những diễn biến tâm lý trong nhân dân giúp chúng ta có những đánh giá đúng đắn tình hình, kịp thời đổi mới trong công tác tuyên truyền, giáo dục, định hướng dư luận xã hội nhằm chủ động ngăn ngừa những dấu hiệu vi phạm có thể xảy ra. Trong những năm qua việc các cấp ủy đảng và chính quyền ở không ít địa phương có dấu hiệu chủ quan, thỏa mãn với những thành tựu bước đầu, nhất là không chú ý đối với những tác động của tâm lý xã hội đã làm cho công tác xử lý vi phạm hết sức lúng túng và khó khăn, đến lúc này có thể khẳng định rằng những diễn biến trong thời gian qua đã gây ra những hậu quả nặng nề và lâu dài. Diễn biến tâm lý trong nội bộ nhân dân thường có xu hướng kéo dài, âm ỉ, biểu hiện dưới nhiều hình thức “ ngụy trang” do vậy rất khó nhận diện, khi đã biểu hiện thành một xu hướng thì mức độ cũng như phạm vi ảnh hưởng đã rất nặng nề. Để làm tốt hơn nữa công tác này chúng ta cần chú ý những điểm sau: + Đi sâu, đi sát tình hình thực tiễn, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nghiên cứu một cách nghiêm túc tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Tiếp tục đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác dân số, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chuyên trách và đội ngũ cộng tác viên cơ sở làm cho họ nắm chắc chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng vận động, thuyết phục đối tượng, thực hiện tốt phương châm “ vào từng ngõ, gõ từng nhà, dà từng người”. + Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác dân số, huy động sức mạnh toàn dân, toàn xã hội tham gia vào công tác dân số, tạo mọi điều kiện để mỗi cá nhân, gia đình và toàn thể cộng đồng tham gia một cách tự nguyện và chủ động. Đưa người dân thực sự trở thành chủ thể của công tác DS- KHHGĐ. + Nhạy bén trong công tác thu thập số liệu, nắm bắt tình hình. Cảnh giác với mọi xu hướng biến đổi tư tưởng có thể xảy ra. Nâng cao chất lượng công tác thống kê, báo cáo dân số. Theo dõi sát mọi biến động dân số, thu thập, xử lý số liệu về dân số đảm bảo tính hệ thống, chính xác phục vụ cho công tác dân số. Đưa các nội dung chương trình dân số vào việc hoạch định các chương trình, mục tiêu kinh tế- xã hội. Từng bước khắc phục và đẩy lùi căn bệnh thành tích như đã diễn ra ở một số địa phương trong thời gian qua. Để kịp thời nắm bắt diễn biến tâm lý trong nội bộ nhân dân, xã hội hóa công tác dân số cần đẩy mạnh. Cho đến nay hầu hết các huyện của tỉnh Hải Dương đã tổ chức tốt việc cam kết thi đua các làng, khu dân cư, trong đó quyết tâm phấn đấu có từ 50%- 60% làng và khu dân cư không có người sinh con thứ 3 trở lên. 2.3.5. Chú trọng công tác kiểm tra giám sát, xử lý kịp thời những biểu hiện vi phạm pháp luật dân số Tâm lý xã hội là lĩnh vực hết sức đặc thù, là tình cảm, xúc cảm, tâm trạng do vậy phải hết sức coi trọng công tác động viên, khuyến khích. Hơn nữa, do nhiều nguyên nhân mà một bộ phận quần chúng nhân dân chưa nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách dân số, ý thức tuân thủ pháp luật chưa cao, còn bị chi phối nhiều bởi những thói quen, tập tục lạc hậu, tâm lý xã hội cũ lỗi thời vì thế cần hết sức coi trọng công tác vận động quần chúng. Cán bộ, đảng viên phải thực sự gương mẫu, nói đi đôi với làm. Nói đi đôi với làm cần phải được coi là nguyên tắc, một tiêu chí không thể thiếu trong việc xem xét. đánh giá phẩm chất và năng lực của cán bộ, đảng viên. Nhấn mạnh công tác kiểm tra, giám sát không chỉ nhằm phát hiện và xử lý những vi phạm mà chủ yếu nhằm nhắc nhở, đôn đốc, hướng dẫn việc thực hiện chính sách dân số một cách có hiệu quả nhất. Trên thực tế cũng phải thừa nhận rằng, việc thực thi Pháp lệnh Dân số 2003 chưa nghiêm có phần thiếu sót của nhiều cơ quan, ban ngành từ trung ương tới địa phương, có cả những thiếu sót trong một số nội dung “ không rõ ràng” của pháp lệnh dân số. Vì vậy, công tác kiểm tra, giám sát còn nhằm mục đích kiểm điểm, đánh giá, kịp thời rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình thực thi pháp lệnh, từng bước bổ sung, hoàn thiện nội dung của Pháp lệnh Dân số. Mặt khác, với những hành vi cố tình vi phạm cần nghiêm khắc xử lý, đặc biệt là đối với những sai phạm của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong việc sinh con thứ 3 thời gian qua. Công tác xử lý phải rõ ràng tránh tình trạng bao che, xử lý nội bộ … để hợp thức hóa những sai lầm, khuyết điểm nhằm làm gương và lấy lại niềm tin cho quần chúng nhân dân. Có thể nhận thấy trong những năm qua, chúng ta đã có nhiều nỗ lực, cố gắng song trước những tác động của cơ chế kinh tế thị trường, những diễn biến phức tạp và tác động mạnh mẽ của tâm lý xã hội …, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân số, việc chấp hành pháp luật dân số ở các địa phương còn nhiều hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Hạn chế này do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu vẫn là do ý thức pháp luật của toàn xã hội còn ở trình độ thấp, hệ thống pháp luật trong công tác dân số chưa đồng bộ đã và đang tạo kẽ hở cho một số đối tượng luồn lách pháp luật, vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, một nguyên nhân cũng không kém phần quan trọng đó là việc kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện pháp luật, công tác chấp hành luật pháp cũng như việc xử lý vi phạm pháp luật dân số còn chưa nghiêm. Việc khắc phục những tác động tiêu cực của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số cần phải nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, xây dựng một lối sống và làm việc tôn trọng pháp luật. Để làm được điều đó việc kiểm tra, giám sát chấp hành pháp luật, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước bằng pháp luật và kiên quyết xử lý vi phạm pháp luật trong đó pháp luật dân số là bức thiết và quan trọng. Trong công tác này chúng ta cần chú ý một số điểm sau: + Phân công trách nhiệm cụ thể, rõ ràng đối với các cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân số, các đoàn thể và tổ chức xã hội cùng tham gia. Đồng thời cũng xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các tập thể, gia đình và công dân trong việc thực hiện chính sách dân số. + Kiên quyết xử lý những hành vi vi phạm pháp luật dân số. Nhất là tình trạng xi phạm ở đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết số 47- NQ/TW, ngày 22 tháng 3 năm 2005 của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình: “ Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 và Chỉ thị số 50- CT/TW, ngày 6 tháng 3 năm 1995 của Ban bí thư Trung ương Đảng (khóa VII)” Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát cán bộ các cấp, nhất là cán bộ quản lý, lãnh đạo ở cơ sở. Kết hợp với công tác kiểm tra chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII. Các cơ quan nhà nước cũng cần nghiêm túc đánh giá vai trò của mình trong công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình, cần đưa kết quả thực hiện chính sách dân số vào nội dung đăng ký thi đua của cán bộ, công chức cũng như cơ quan. Tránh vì thành tích mà xem nhẹ hoặc bao che cho những biểu hiện vi phạm. + Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân lao động, kịp thời chấn chỉnh những sai phạm trong công tác kiểm tra, giám sát cũng như công tác xử lý của cá nhân và những cơ quan chức năng đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Tránh tình trạng bao che, xử lý nội bộ … như đã xảy ra trong thời gian qua. + Công tác kiểm tra giám sát cần phải được thực hiện một cách thường xuyên, từ các khu dân cư, các chi bộ đến các cơ quan, các tổ chức và đoàn thể xã hội. Mỗi đảng viên ở các chi bộ, mỗi cán bộ ở cơ sở phải thể hiện vừa là người lãnh đạo, chỉ đạo, vừa là người thực hiện cụ thể ở gần dân nhất, phải là tấm gương sáng để quần chúng noi theo. Như vậy, để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật dân số, khắc phục tác động tiêu cực của TLXH đối việc thực hiện CSDS ở nước ta hiện một mặt phải nâng cao vai trò, trách nhiệm, hiệu quả việc thực hiện CSDS ở địa phương, mặt khác cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thi hành pháp luật, đảm bảo tôn trọng các quyền và nghĩa vụ của công dân. kết luận Tâm lý xã hội là một bộ phận quan trọng cấu thành ý thức xã hội. Những đặc điểm hình thành và phát triển đã làm cho tâm lý xã hội có một sức sống lâu bền và một vị trí đặc biệt trong đời sống xã hội cũng như đời sống tinh thần của mỗi cá nhân. Với tư cách là một phương thức tồn tại đặc thù của ý thức xã hội, tâm lý xã hội có sự tác động trở lại mạnh mẽ đối với tồn tại xã hội và chi phối nhiều lĩnh vực của đời sống con người. Tác động của TLXH trong việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta hiện nay là rất lớn. Sự tác động ấy biểu hiện cả hai phương diện tác động tích cực và tác động tiêu cực. Thậm chí, có nơi có lúc chúng ta có thể khẳng định tác động tiêu cực của tâm lý xã hội là một trong những nguyên nhân, hơn nữa là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến những khó khăn trong việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta trong thời gian qua và chúng cũng sẽ tiếp tục còn gây ra những trở ngại đối với việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta trong thời gian tới. Tác động của TLXH đối với việc thực hiện CSDS ở nước ta nói chung và Hải Dương nói riêng trước hết và chủ yếu là sự tác động đối với việc thực hiện các chỉ tiêu về mức sinh. Những TLXH như: Tâm lý muốn sinh nhiều con; tâm lý muốn có con trai; tâm lý sinh con để có nếp có tẻ; tâm lý sinh con để dự phòng; tập quán kết hôn sớm… đã trở thành những nhân tố cản trở thực hiện mục tiêu gia đình ít con. Mặt khác, tâm lý trọng nam khinh nữ; tâm lý phân biệt đối xử với phụ nữ, tâm lý gia trưởng đã cản trở việc thực hiện mực tiêu nâng cao chất lượng dân số, thực hiện bình đẳng giới và xây dựng gia đình hạnh phúc. Bên cạnh đó, một số yếu tố TLXH cũng có những tác động tích cực trong việc nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm cũng như nâng cao tính tích cực, chủ động của con người trong việc thực hiện CSDS. Việc khắc phục tác động tiêu cực của tâm lý xã hội trong việc thực hiện chính sách dân số xét đến cùng là nhằm mục đích hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số nhanh ở nước ta hiện nay. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, việc hạn chế tình trạng sinh con thứ ba là vấn đề có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện mục tiêu giảm sinh. Từ thực tế tỉnh Hải Dương, có thể rút ra những giải pháp cơ bản như: Xây dựng cơ sở kinh tế- xã hội cho sự hình thành và phát triển ý thức xã hội mới; Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các hoạt động truyền thông, giáo dục thay đổi hành vi nhằm nâng cao nhận thức, thái độ và hành vi của xã hội về dân số; Tăng cường công tác lãnh đạo chỉ đạo, hoàn thiện hệ thống pháp luật dân số và hiệu quả quản lý nhà nước về dân số; Kịp thời nắm bắt những diễn biến tâm lý trong nhân dân; Chú trọng công tác kiểm tra giám sát, xử lý kịp thời những biểu hiện vi phạm pháp luật dân số. Tâm lý xã hội là một hiện tượng đa chiều, phức tạp về cơ cấu cũng như phong phú về sắc thái và hình thức biểu hiện. Chính vì vậy, tác động của tâm lý xã hội, đặc biệt trong việc thực hiện chính sách dân số bao giờ cũng trong một thời gian dài, không gian rộng. Tuy nhiên, một mặt khi những yếu tố tồn tại xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế xã hội của nó thay đổi thì tâm lý xã hội với tư cách là ý thức xã hội sớm muộn cũng biến đổi theo, đây là con đường khắc phục những hạn chế của tâm lý xã hội một cách tự nhiên. Mặt khác, tâm lý xã hội dù có bảo thủ như thế nào thì cũng chỉ có thể tác động trở lại các quá trình kinh tế- xã hội thông qua hoạt động của con người. Trong giai đoạn hiện nay, việc thay đổi một cách căn bản và bền vững hành vi của con người trong việc thực hiện chính sách dân số phụ thuộc rất nhiều vào những chuyển biến căn bản và sâu sắc trong lĩnh vực TLXH, việc chúng ta khai thác và sử dụng những yếu tố TLXH như thế nào…Nếu chúng ta nhận thức đầy đủ và tìm ra cơ chế tác động của tâm lý xã hội đối với tồn tại xã hội nói chung và việc thực hiện CSDS nói riêng, để có những giải pháp nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của nó, đồng thời phát huy tác động tích cực của tâm lý xã hội, khai thác những yếu tố có lợi, phát huy nhân tố con người, đưa con người tham gia và các quá trình xã hội, thành chủ thể của đời sống xã hội thì chúng ta hoàn toàn có thể đạt được những mục tiêu dân số và những mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra. Danh mục tài liệu tham khảo Nguyễn Phương Bích (1963), “Phương thức sản xuất châu á là gì?” Nghiên cứu lịch sử , (8). Trương Chính (1994), Cha ông ta đã tiếp thu những gì tích cực ở các ý thức hệ phong kiến của Trung Quốc, Nho giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phan Đại Doãn- Nguyễn Toàn Minh (1997), Một số vấn đề làng xã trong lịch sử Việt Nam, (Chuyên đề lịch sử Việt Nam), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quang Đạm (1991), Khổng giáo và gia đình, Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Tập 1,Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (giữa nhiệm kỳ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, Lưu hành nội bộ. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Thị Minh Đức (1995), Tâm lý “ trọng nam khinh nữ” trong xã hội hiện nay, Khoa học về phụ nữ, (10). Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trần Văn Giàu (1994), Đạo đức Nho giáo và đạo đức truyền thống Việt Nam, Nho giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (1978), Tâm lý học Liên- Xô, (Tiếng Việt), Nxb Tiến bộ, Maxcơva. Trương Mỹ Hoa (1995), Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong phát triển kinh tế- xã hội, tham gia quản lý nhà nước và định hướng phát triển đến năm 2000, Tạp chí Cộng sản, (14). Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (Dự án VIE/97/P17) (2000), Dân số và phát triển một số vấn đề cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (Giáo trình TCLLCT) (2004), Văn hóa- xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Triết học (2003), Giáo trình Chủ nghĩa duy vật lịch sử, (Hệ cử nhân chính trị), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Thế Kiệt (1989), Vai trò của những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong việc xây dựng con người mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án phó tiến sỹ khoa học Triết học. Phan Huy Lê- Vũ Minh Gang (Chủ biên) (1996), Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay, Đề tài KX. 07. 02. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1969), Toàn tập, Tập 31, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. Đỗ Long- Trần Hiệp (1993), Tâm lý cộng đồng làng và di sản. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập,Tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác – Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, Tập 1, Nxb Sự Thật, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Magali Romedenne (2005), Bình đẳng- thông điệp ngày dân số thế giới năm 2005, Tạp chí Báo chí & tuyên truyền, (4). Nguyễn Chí Mỳ (1990), Tư tưởng tiểu tư sản ở Việt Nam hiện nay. Những biểu hiện tiêu cực, đặc trưng và con đường khắc phục nó, Luận án phó tiến sỹ khoa học triết học. Nguyễn Thị Nga (2005), “ ý thức xã hội với sự gia tăng dân số ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (3). Hoàng Thị Nga (2005), “ Sự gia tăng dân số và đói nghèo”, Tạp chí báo chí & tuyên truyền, (4). Những quy định của nhà nước về công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình và bảo vệ, chăm sóc trẻ em (2002), Nxb Lao động, Hà Nội. Pháp lệnh Dân số, Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của pháp lệnh dân số (2003), ủy ban DS- GĐ& TE Tỉnh Yên Bái. Lê Thị Quý (1997), “ Nghiên cứu, giảng dạy về giới: Những vấn đề và những mảng trống”, Tạp chí Báo chí tuyên truyền, (6). Từ điển Bách khoa Việt Nam (1999), Tập 1, Nxb Văn hóa thông tin. Từ điển Triết học (1986), Nxb Tiến bộ Mat-xcơ- va. Tổ nghiên cứu Tâm lý học Cục tuyên huấn- Tổng cục chính trị (1974), Tâm lý học, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Nguyễn Tài Thư (Chủ biên) (1997), ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, Đề tài KX. 07. 03. Nguyễn Thiện Trưởng (2006), “ chương trình dân số Việt Nam với việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ”, Tạp chí Cộng sản, (14). ủy ban dân số Hà Nội (1991) Những yếu tố tâm lý xã hội ảnh hưởng tới mức sinh. ủy ban dân số- gia đình & trẻ em Hải Dương (2005), “ Báo cáo tổng kết công tác dân số- gia đình và trẻ em năm 2005”. ủy ban dân số- gia đình& trẻ em huyện Bình Giang- Hải Dương (2005), “Báo cáo công tác dân số- gia đình& trẻ em năm 2005”. ủy ban dân số- gia đình & trẻ em huyện Chí Linh- Hải Dương (2004), “Báo cáo công tác dân số- gia đình & trẻ em năm 2004”. ủy ban dân số- gia đình & trẻ em huyện Gia Lộc- Hải Dương (2005), “Báo cáo công tác dân số- gia đình & trẻ em năm 2005”. ủy ban dân số- gia đình & trẻ em, huyện Kinh Môn- Hải Dương (2005), “Báo cáo công tác dân số- gia đình & trẻ em năm 2005”. ủy ban dân số- gia đình & trẻ em huyện Thanh Miện- Hải Dương (2005), “Báo cáo công tác dân số- gia đình & trẻ em năm 2005”. ủy ban Nhân dân tỉnh Hải Dương, Trường Chính trị tỉnh Hải Dương, Khoa Triết học- chính trị xã hội (2005), Báo cáo kết quả đề tài khoa học "Thực trạng, nguyên nhân gia tăng dân số tự nhiên tỉnh Hải Dương từ 2002- 2004 và các giải pháp khắc phục". ủy ban Nhân dân xã Đoàn Tùng- Thanh Miện- Hải Dương (2005), “ Báo cáo tổng kết công tác dân số- gia đình & trẻ em năm2005”. ủy ban Nhân dân xã Lê Hồng- Thanh Miện- Hải Dương (2005), “ Báo cáo tổng kết công tác dân số- gia đình & trẻ em năm 2005”. ủy ban Nhân dân xã Phạm Kha- Thanh Miện- Hải Dương (2005), “ Báo cáo tổng kết công tác dân số- gia đình & trẻ em năm 2005”. ủy ban Nhân dân xã Tráng liệt- Bình Giang- Hải Dương (2005), “ Báo cáo tổng kết công tác dân số- gia đình và trẻ em năm 2005”. ủy ban Quốc gia dân số (1993) KAP (Kiến thức- thái độ- thực hành). ủy ban Quốc gia dân số- kế hoạch hóa gia đình (1993), Chiến lược dân số- kế hoạch hóa gia đình đến năm 2000. ủy ban Quốc gia dân số và kế hoạch hóa gia đình (2000), Chiến lược dân số Việt Nam 2001- 2010. ủy ban Quốc gia dân số- kế hoạch hóa gia đình (1996), Việt Nam- Dân số và phát triển 1990- 1995, Nxb Thống kê, Hà Nội. Lê Ngọc Văn (2005), Vài nét về thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay, Tạp chí Báo chí & tuyên truyền, (4). Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt. Lê Hữu Xanh (1999), Tâm lý nông dân đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. phụ lục Phụ lục 1 Một số khái niệm cơ bản có liên quan * Dân số: Là tập hợp người sinh sống trong một lãnh thổ quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính. Dân số trên một vùng lãnh thổ được tính theo công thức: Pt = Po + (B – D) + (I – O) Trong đó Pt: Dân số tại thời điểm nghiên cứu Po: Dân số tại thời điểm đã nghiên cứu trước đó B: Số trẻ em sinh ra sống D: Số người chết I: Số người di chuyển đến O: Số người di chuyển đi B - D: Dân số tăng tự nhiên I – O: Dân số tăng cơ học Từ công thức này ta có công thức tính tỷ lệ phát triển dân số: (B –D) + (I – O) Tỷ lệ phát triển dân số = --------------------- x 100% Pt * Quy mô dân số: Là số người sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính tại thời điểm nhất định. * Cơ cấu dân số: Là tổng số dân được phân loại theo giới tính, độ tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và các đặc trưng khác. * Mức sinh: Là việc thực hiện khả năng sinh trong điều kiện thực tế. * Mức sinh thay thế: Là mức sinh tính bình quân, trong toàn xã hội thì mỗi cặp vợ chồng có hai con. (Thông thường một quốc gia nếu duy trì được mức sinh bình quân khoảng trên dưới 2,1 là đã có thể đạt mức sinh thay thế). * Tỷ suất sinh thô: Là số trẻ em sinh ra sống trên 1000 dân trong một năm. Công thức tính: B CBR = -------- x K P Trong đó: CBR: Tỷ suất sinh thô B: Số trẻ em sinh ra sống trong năm P: Dân số trung bình trong năm K: Là hằng số = 1000 * Kế hoạch hóa gia đình: Là nỗ lực của nhà nước, xã hội để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng chủ động, tự nguyện quyết định số con, thời gian sinh con và khoảng cách giữa các lần sinh nhằm bảo vệ sức khỏe, nuôi dạy con có trách nhiệm, phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình. * Công tác dân số: Là việc quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động tác động đến quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và nâng cao chất lượng dân số. * Phát triển bền vững: Là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai. Phụ lục 2 pháp lệnh dân số ( Trích) Chương II: Quy mô, cơ cấu dân số và phân bố dân cư Mục 1: Quy mô dân số Điều 10. Quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền: Quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở bình đẳng. Lựa chọn, sử dụng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình. Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có nghĩa vụ: Sử dụng các biện pháp tránh thai. Bảo vệ sức khỏe và thực hiện các biện pháp phòng, tránh các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS. Thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình. Phụ lục 3 nghị định của chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của pháp lệnh dân số Ngày 16 tháng 9 năm 2003 ( Trích) Chương II: Quy mô dân số, cơ cấu dân số Mục 1: Quy mô dân số Điều 17. Quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân không tách rời nhau trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Mỗi cặp vợ chồng, cá nhân có trách nhiệm thực hiện quyền và phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền: Quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với quy mô gia đình ít con, mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội và chính sách dân số của Nhà nước trong từng giai đoạn; phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cặp vợ chồng, cá nhân trên cơ sở bình đẳng. Lựa chọn, sử dụng biện pháp tránh thai phù hợp với điều kiện kinh tế, sức khỏe, tâm lý và các điều kiện khác. Được cun cấp thông tin và dịch vụ về kế hoạch hóa gia đình. Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có nghĩa vụ: Thực hiện quy mô gia đình ít con- có một hoặc hai con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Sử dụng biện pháp tránh thai, thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Tôn trọng lợi ích của nhà nước, xã hội, cộng đồng và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức trong việc kiểm soát sinh sản và điều chỉnh quy mô dân số. Thực hiện các quy định của pháp luật về dân số; các quy chế, điều lệ hoặc các hình thức khác của cơ quan, tổ chức; quy ước, hương ước của cộng đồng về dân số và kế hoạch hóa gia đình. đ) Thực hiện các nghĩa vụ khác có liên quan đến chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình. Phụ lục 4 Nghị quyết 47- Nq/tw của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách ds& khh gđ Ngày 22 tháng 3 năm 2005 (Trích) Tình hình thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình trong thời gian qua … Kết quả của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đã góp phần rất quan trọng vào sự phát triển kinh tế- xã hội, tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm, xóa đói, giảm nghèo và nâng cao mức sống của nhân dân. Với những thành tựu của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình, năm 1999, Việt Nam đã được nhận Giải thưởng Dân số của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, từ sau năm 2000 đến nay, kết quả việc thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình chững lại và giảm sút. Trong hai năm 2003 và 2004, tỷ lệ phát triển dân số, tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên tăng mạnh trở lại. Đặc biệt là tình trạng cán bộ, đảng viên sinh con thứ ba trở lên tăng nhiều ở hầu hết các địa phương, gây tác động tiêu cực đến phong trào nhân dân thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Tình hình này làm chậm thời gian đạt mức sinh thay thế (trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có hai con) Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do chúng ta chưa nhận thức đầy đủ tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của công tác này trong bối cảnh kinh tế, văn hóa và xã hội của đất nước, dẫn đến chủ quan, thỏa mãn với những kết quả ban đầu, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiên định trong tổ chức thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác dân số thiếu ổn định, qua tải; cơ chế quản lý kém hiệu quả; tổ chức, điều hành chương trình lúng túng, chậm đối mới; việc ban hành Pháp lệnh Dân số và một số chính sách khác thiếu chặt chẽ. Trong hoàn cảnh kinh tế- xã hội nước ta chưa phát triển, tình trạng nghèo đói còn nhiều, tài nguyên thiên nhiên hạn hẹp, quy mô dân số hiện nay khá lớn với hơn 82 triệu người, mật độ dân số vào hàng cao nhất thế giới, chất lượng dân số chưa được cải thiện đáng kể v.v… thì việc dân số tăng nhanh trở lại sẽ phá vỡ những thành quả đã đạt được, cản trở sự phát triển kinh tế- xã hội và việc nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, làm chậm quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đặt nước ta trước nguy cơ tụt hậu xa hơn. Vì vậy, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong thời gian tới. Phụ lục 5 Chương trình hành động số 41- CTr/ TU Của tỉnh ủy hải dương về việc thực hiện công tác ds, gđ, te giai đoạn 2006- 2010 Ngày 01 tháng 07 năm 2005 (Trích) Phần thứ hai Mục tiêu, nhiệm vụ và những giải pháp cơ bản của chương trình dân số, gia đình và trẻ em giai đoạn 2006- 2010. I- Mục tiêu 1- Mục tiêu tổng quát - Thực hiện gia đình ít con (từ 1- 2 con) tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Tạo mọi điều kiện để trẻ em được sống và phát triển toàn diện... 2- Mục tiêu cụ thể Mục tiêu 1: Duy trì vững chắc xu thế giảm sinh hằng năm từ 0,2 %o đến 0,3 %o, ổn định vững chắc mức sinh thay thế để quy mô, cơ cấu dân số và phân bổ dân cư phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh vào năm 2010. Từng bước nâng cao chất lượng dân số, nhằm đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ... Mục tiêu 2: Củng cố, ổn định gia đình trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển, thực hiện gia đình ít con, no ấm, hạnh phúc. Thực hiện quyền và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, đặc biệt với trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi. Mục tiêu 3: Mọi trẻ em đều được hưởng các quyền cơ bản. Quan tâm, bảo vệ, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc về trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. II- Những nhiệm vụ và giải pháp 1- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền. 2- Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động và giáo dục. 3- Củng cố, kiện toàn bộ máy và nâng cao năng lực quản lý của cán bộ dân số, gia đình và trẻ em ở các cấp. 4- Đẩy mạnh việc nghiên cứu, cụ thể hóa hệ thống luật pháp và chính sách nhằm thúc đẩy phong trào toàn dân thực hiện công tác dân số, gia đình và trẻ em. 5- Lồng ghép công tác dân số gia đình và trẻ em với cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. 6- Mở rộng và nâng cao công tác dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản. 7- Tăng cường đầu tư nguồn lực tài chính và cải tiến cơ chế quản lý. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNoi dung 2.doc
  • docbiamucluc.doc
Tài liệu liên quan