TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KẾ HOẠCH VÀ PHÁT TRIỂN
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài: Tác động của Tài chính vi mô tới công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của tài chính vi mô.
Họ và tên sinh viên: Lương Hồng Vân
Lớp: KTPTA-K47QN
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Đặng Thị Lệ Xuân
Hà Nội, Năm 2009
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
WWI
Chiến tranh thế giới I
ADB
Ngân hàng phát triển Châu Á
TCVM
Tài chính vi mô
TCTCVM
Tổ chức tà
90 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2097 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Tác động của Tài chính vi mô tới công tác xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam, và một số giải pháp nhằm..., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i chính vi mô
CEP
Quỹ trợ vốn cho người nghèo tự tạo việc làm
TYM
Quỹ Tình thương
NGO
Tổ chức phi chính chủ
AAV
Tổ chức Hành động viện trợ Anh
NHNo - Agaribank
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
NHCSXH
Ngân hàng Chính sách xã hội
QTDND
Quỹ tín dụng nhân dân
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
HĐND
Hội đồng nhân dân
UBND
Ủy ban nhân dân
BRI
Ngân hàng Rakyat Indonesia
CIDSE
Cơ quan hợp tác quốc tế vì sự phát triển và đoàn kết
MFWG
Nhóm công tác tài chính vi mô
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 1: Chỉ tiêu kinh tế - xã hội 23
Bảng 2: Các nhà cung cấp tài chính vi mô ở Việt Nam 31
Bảng 3: Tổng dư nợ vốn của các tổ chức TCVM (đơn vị: Tỷ VND) 47
Bảng 4: Mức vốn vay và tổ chức tín dụng cho hộ nghèo tại huyện Hương Thuỷ 49
Bảng 5: Số liệu thống kê của một số tổ chức, chương trình tài chính vi mô 51
Bảng 6: Huy động tiết kiệm từ dân cư 2003 -2007 (đơn vị: Tỷ VND) 53
Bảng 7: Thay đổi chính trong Nghị định 165 63
Bảng 8: Các chương trình TCVM đáp ứng được các yêu cầu định lượng của Nghị định số 28 & 165 tính đến ngày 31/12/2007 65
Sơ đồ1: Cơ cấu nghèo trong dân số Việt Nam – khách hàng tiềm năng của các TCTCVM 26
Sơ đồ 2: Phân đoạn thị trường tài chính vi mô................................................... 32
Sơ đồ 3: Sơ đồ biểu hiện thị phần của các tổ chức cho vay ở 60 xã có hoạt động của các tổ chức TCVM 43
Sơ đồ 4: Đầu tư dự án vay vốn của thành viên Quỹ TYM 55
Sơ đồ 5: Tỷ lệ tham gia vào việc ra quyết định của vợ và chồng thành viên TYM (%) 58
Sơ đồ 6: Tiến trình của Nghị định 28&165 và thông tư số 02 .63
MỞ ĐẦU
Tên đề tài
Tác động của Tài chinh vi mô tới công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của tài chính vi mô.
Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam, đói nghèo vẫn đang là vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc. Xóa đói giảm nghèo luôn luôn được Đảng, nhà nước ta hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Hoạt động tài chính vi mô đã xuất hiện hàng chục năm qua ở nước ta và phát triển rộng khắp trên toàn quốc, được coi là nguồn bổ sung tài chính quan trọng bên cạnh nguồn chi từ ngân sách các cấp cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo và phát triển cộng đồng dân cư. Các tỉnh thành, quận huyện đều có hoạt động của các chương trình tài chính vi mô, nhưng phần lớn chương trình này nằm ở tầm dự án qui mô rất nhỏ. Hệ thống tài chính Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển và còn một tỉ lệ lớn người dân Việt Nam chưa được tiếp cận các dịch vụ tài chính chính thức vì họ là người nghèo. Ngành tài chính vi mô đã cung cấp các dịch vụ tài chính cho nhiều người thuộc diện này. Hiện nay, chương trình tài chính vi mô đang cung cấp dịch vụ cho khoảng 550.000 hộ gia đình trên toàn quốc.
Dù thực tiễn đã khẳng định được vai trò to lớn của tài chính vi mô trong công cuộc xoá đói giảm nghèo nhưng hoạt động tài chính vi mô ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế. Ngoài vai trò quan trọng trong việc tăng cường, mở rộng khả năng tiếp cận tài chính cho khu vực nông thôn để xóa đói giảm nghèo hiệu quả, thì phải “làm thế nào để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của tài chính vi mô giúp tài chính vi mô có thể đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước” ? đặc biệt là trong giai đoạn đất nước đang hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế. Với mục đích như vậy, trong nghiên cứu này sẽ cung cấp cho người đọc cái nhìn tổng quan về tài chính vi mô và những tác động của nó tới xóa đói giảm nghèo của đất nước trong thời gian qua.
Mục tiêu nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận về hoạt động và phát triển hoạt động của các TCTCVM; tổng kết kinh nghiệm quốc tế về phát triển hoạt động của các TCTCVM.
Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển hoạt động của các TCTCVM
Việt Nam thời gian qua; tác động đến công tác xóa đói giảm nghèo.
Góp phần đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các TCVM Việt Nam trong thời gian tới.
2. Đối tượng nghiên cứu: Tác động của Tài chinh vi mô tới công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
3. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích, tổng hợp
4. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu sự phát triển hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô
- Thời gian: các số liệu sử dụng trong nghiên cứu đươc thu thập từ năm 2004 - 2008
CHƯƠNG1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TÀI CHÍNH VI MÔ
Khái niệm về tài chính vi mô
Đói nghèo và một số quan điểm về dịch vụ tài chính cho người nghèo
Một số khái niệm về đói nghèo
Nghèo
Đói nghèo không chỉ là nỗi bức xúc của từng quốc gia mà nó còn là mối quan tâm của toàn nhân loại. Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa nghèo theo thu nhập. Theo đó một người là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm (Per Capita Incomme, PCI) của quốc gia. Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 đô la Mỹ/ngày theo sức mua tương đương của địa phương so với (đô la thế giới) để thỏa mãn nhu cầu sống như là chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt đối.
Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á – Thái bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Kốc, Thái Lan (9/1993) đã đưa ra định nghĩa chung như sau: “nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương”. [2]
Như vậy, theo hai định nghĩa cơ bản về “nghèo” ở trên, ta thấy nghèo được nhìn nhận trên nhiều khía cạnh khác nhau. Việc đo lường được từng khía cạnh đó một cách nhất quán là điều rất khó, còn gộp tất cả những khía cạnh đó vào một số chỉ số nghèo hay thước đo nghèo khổ duy nhất là không thể.
Các thước đo đói nghèo
Để tính toán một thước đo đói nghèo, cần có ba yếu tố. Thứ nhất, cần lựa chọn một tiêu chí nghiên cứu và chỉ số phản ánh phúc lợi. Thứ hai, cần lựa chọn một ngưỡng nghèo (chuẩn nghèo). Cuối cùng, phải chọn ra một thước đo đói nghèo được sử dụng để phản ánh cho tổng thể hoặc một nhóm dân cư.
Xác định các chỉ số phúc lợi
Những khía cạnh cơ bản của đói nghèo được nêu ra có thể được chia thành hai khía cạnh là tiền tệ và phi tiền tệ.
Khía cạnh tiền tệ của đói nghèo được phản ánh chủ yếu qua mức chi tiêu bình quân đầu người.
Khía cạnh phi tiền tệ có thể được đo lường bằng chỉ số phát triển con người HDI (human development index–HDI) của Liên Hiệp Quốc. Các chỉ thị cho HDI bao gồm tuổi thọ dự tính vào lúc mới sinh, tỷ lệ mù chữ, trình độ học vấn, sức mua thực lương thực trên đầu người và nhiều chỉ thị khác.
Lựa chọn và ước tính chuẩn nghèo
Chuẩn nghèo là ranh giới để phân biệt người nghèo và người không nghèo. Có hai cách tính để xác định chuẩn nghèo
a, Nghèo tuyệt đối
Là chuẩn tuyệt đối về mức sống được coi là tối thiểu cần thiết để cá nhân hoặc hộ gia đình có thể tồn tại khỏe mạnh. [1]
b, Nghèo tương đối
Được xác định theo phân phối thu nhập hoặc tiêu dùng chung trong cả nước để phản ánh tình trạng của một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng. [1]
Ở nước ta còn đưa ra khái niệm về đói và thiếu đói. Đó là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu, chỉ đủ khả năng đảm bảo có được mức lương thực cần thiết để tồn tại. [1]
c, Ranh giới nghèo tương đối
Các ranh giới nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối đều không có thể xác định được nếu như không có trị số tiêu chuẩn cho trước. Việc chọn lựa một con số phần trăm nhất định từ thu nhập trung bình và ngay cả việc xác định một giỏ hàng đều không thể nào có thể được giải thích bằng các giá trị tự do. Vì thế mà chúng được quyết định qua những quá trình chính trị.
Một con số cho ranh giới của nạn nghèo được dùng trong chính trị và công chúng là 50% hay 60% của thu nhập trung bình. Từ năm 2001 trong các nước thành viên của Liên minh châu Âu những người được coi là nghèo khi có ít hơn 60% trị trung bình của thu nhập ròng tương đương.
d, Chuẩn nghèo của Việt Nam
Ở Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã 4 lần nâng mức chuẩn nghèo trong thời gian từ 1993 đến cuối năm 2005. Hiện nay, Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Tuy nhiên, hiện nay, do tác động của lạm phát và suy thoái kinh tế, khoảng 20% dân số nghèo nhất nước chỉ chiếm 9% tổng thu nhập và chi tiêu của quốc gia. Trong khi đó, 20% người giàu có nhất thì chiếm tới 44% tổng số thu nhập và chi tiêu cả nước. Phụ nữ và trẻ em nghèo là các thành phần đặc biệt có nguy cơ thiếu đói nhất vì giá thực phẩm tăng cao, làm cho các nhu cầu thiết yếu bị giảm xuống. Do đó, chẩn nghèo trên không thể phán ánh hết được thực trạng nghèo đói hiện tại ở Việt Nam.
Các thước đo đói nghèo thông dụng
Sau khi đã xác định được chuẩn nghèo, có thể tính toán một số thước đo mô tả quy mô, độ sâu và độ nghiêm trọng của đói nghèo. Ba thước đo thông dụng nhất thường được sử dụng là tỷ lệ đói nghèo, khoảng nghèo và bình phương khoảng nghèo.
Tỷ lệ đói nghèo cho biết quy mô đói nghèo (hay diện nghèo) của một quốc gia. Đây là chỉ số đánh giá hay được sử dụng nhất.
Khoảng nghèo: được tính là tổng các mức thiếu hụt của tất cả người nghèo trong nền kinh tế. Nó cho biết chi phí tối thiểu để đưa tất cả người nghèo lên mức sống ngang bằng với chuẩn nghèo, trong điều kiện mọi khoản chuyển giao đều được chuyển đến đúng đối tượng.
Bình phương khoảng nghèo thể hiện mức độ nghiêm trọng của đói nghèo. Vì nó làm tăng thêm trọng số cho những nhóm người có khoảng nghèo lớn hơn trong số những người nghèo.
Tuy nhiên cả ba thước đo trên mới chỉ tập trung đo lường khía cạnh thiếu thốn về điều kiện vật chất của người nghèo, chứ chưa phản ánh hết được những thiếu thốn về y tế, giáo dục, nguy cơ dễ bị tổn thương, không có tiếng nói, không có quyền lực của người nghèo.
Một số quan điểm về dịch vụ tài chính cho người nghèo
Tín dụng cho người nghèo theo quan điểm cũ
Tín dụng cho người nghèo là dịch vụ tài chính có tính chất từ thiện, do chính phủ hay các tổ chức xã hội tài trợ. Ở Châu Âu tín dụng cho người nghèo có từ thế kỷ 19. Thời chiến tranh thế giới I thì ở Đức có tới 1.4 triệu người nghèo hưởng lợi từ dịch vụ tài chính này. Ở Ấn Độ thì con số này là 9 triệu vào năm 1946.
Thực tế cho thấy chính phủ phải bỏ tiền rất nhiều vào dịch vụ tài chính này do: chi phí giao dịch cực cao do nhiều lý do khác nhau. Ví dụ như địa bàn rộng, phải quản lý quá nhiều khoản vay nhỏ, và phát sinh hiện tượng xin cho (phải có đút lót quà cáp cho cán bộ tín dụng thì mới được vay nhanh và nhiều), tỷ lệ thu hồi nợ cực thấp (18% ở Bangladesh, 41% ở Ấn Độ).
Đằng sau dịch vụ tài chính cho người nghèo như trên là các quan niệm lạc hậu:
+ Kinh doanh tài chính: tín dụng cho người nghèo không có khả năng sinh lời, do người nghèo không biết làm ăn và hay gặp rủi ro trong cuộc sống.
+ Phương pháp giải quyết vấn đề: coi người nghèo là vấn đề mà chính phủ phải ra tay giải quyết.
+ Chi phí quản lý cao: trước đây do trình độ lạc hậu, và phương tiện thông tin liên lạc còn kém phát triển nên phát sinh nhiều chi phí trong hoạt động và quản lý.
Qua các quan điểm trên đưa ra các kết luận:
+ Người nghèo như củ khoai. Người nghèo vốn ngu dốt, đưa tiền thì cũng tiêu xài hết, tín dụng là không cần thiết. Cách tốt nhất giúp họ là cai trị họ theo kiểu quân phiệt gia trưởng.
+ Dân chủ với người nghèo là không tốt. Cho họ dân chủ (quyền tự quyết cho cuộc sống của họ) tức là thả họ trôi vào ngưỡng chết đói.
+ Người nghèo sẽ mãi mãi nghèo.
Tín dụng cho người nghèo theo quan điểm mới
Việc ngân hàng Grameen của Yunus ra đời ở Bangladesh đã làm thay đổi hoàn toàn quan niệm tín dụng cho người nghèo. Về mặt bản chất, tín dụng cho người nghèo theo quan điểm mới là:
+ Người nghèo quá nhiều (hàng tỷ). Họ vừa là vấn đề phải giải quyết, họ cũng chính là phương tiện giải quyết vấn đề. Hay nói cách khác, họ phải tự giúp họ.
+ Người nghèo, nếu có cơ hội làm ra tiền, sẽ thanh toán nợ (tất nhiên tâm lý xù nợ ở người nghèo là có, nhưng sẽ có cách kiểm soát).
+ Tài chính vi mô (microfinance) sẽ là trung gian tài chính để đưa vốn đến người nghèo.
Và với vai trò trung gian này, tín dụng vi mô phải là dịch vụ tài chính có sinh lời, chứ không phải là làm từ thiện. Ngoài ra tín dụng vi mô nên là tư nhân, tránh sử dụng trợ giá của nhà nước để không sa vào họat động kém hiệu quả do tham nhũng, cho vay nhầm đối tượng để hưởng chênh lệch lãi suất.
Một số vấn đề cơ bản về tài chính vi mô
2.1. Khái niệm tài chính vi mô
Tài chính vi mô là việc cấp cho các hộ gia đình rất nghèo các khoản vay rất nhỏ (gọi là tín dụng vi mô), nhằm mục đích giúp họ tham gia vào các hoạt động sản xuất, hoặc khởi tạo các hoạt động kinh doanh nhỏ. Tài chính vi mô thường kéo theo hàng loạt các dịch vụ khác như tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm, vì những người nghèo và rất nghèo có nhu cầu rất lớn đối với các sản phẩm tài chính, nhưng không tiếp cận được các thể chế tài chính chính thức.
Theo quan điểm của ADB, “Tài chính vi mô là việc cung cấp một phạm vi rộng các dịch vụ như tiền gửi, các tài khoản tiết kiệm, thanh toán, bảo hiểm, chuyển tiền cho người nghèo hoặc các hộ gia đình có thu nhập thấp, những hoạt động kinh doanh cá thể hoặc các doanh nghiệp rất nhỏ”.
Tài chính vi mô khác tín dụng vi mô ở chỗ: tài chính vi mô đề cập đến các hoạt động cho vay, tiết kiệm, bảo hiểm, chuyển giao dịch vụ và các sản phẩm tài chính khác đến cho nhóm khách hàng có thu nhập thấp. Tín dụng vi mô chỉ đơn giản là một khoản cho vay nhỏ, do ngân hàng hoặc một tổ chức nào đó cấp. Tín dụng vi mô thường dành cho cá nhân vay, không cần tài sản thế chấp, hoặc thông qua việc cho vay theo nhóm.
Khái niệm tổ chức tài chính vi mô: Một cách đơn giản nhất, tổ chức tài chính vi mô (microfinance institutions - MFI) là tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính cho những người có thu nhập thấp. Hầu hết các tổ chức tài chính vi mô đều cho vay tín dụng vi mô và chỉ nhận gửi những khoản tiết kiệm rất nhỏ từ người vay chứ không phải từ công chúng. Do đó, một MFI có thể là bất kỳ tổ chức hợp nhất tín dụng, ngân hàng thương mại thu nhỏ, các tổ chức tài chính phi chính phủ hoặc liên kết tín dụng- với vai trò cung cấp các dịch vụ tài chính cho người nghèo. (theo CGAP - Nhóm tư vấn hỗ trợ người nghèo)
"Ngân hàng thế giới ước lượng có hơn 7,000 tổ chức tài chính vi mô, phục vụ hơn 16 triệu người nghèo ở các quốc gia đang phát triển. Tổng doanh thu bằng tiền mặt của TCTCVM trên toàn thế giới ước lượng là 2.5 triệu Mỹ kim và vẫn duy trì phát triển."
2.2. Đối tượng của tài chính vi mô
Theo định nghĩa, thì đối tượng của tài chính vi mô chính là những người nghèo, song tuy nhiên không phải là nhưng người nghèo nhất trong xã hội. Họ là những người có thu nhập thấp nhưng có việc làm cụ thể. Họ chỉ có nhu cầu về quy mô vốn vay nhỏ để mở rộng thêm hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng thêm thu nhập cho gia đình. Người nghèo cũng giống như tất cả mọi người, cần có nhiều loại công cụ tài chính để tích lũy tài sản, bình ổn tiêu dùng và tự bảo vệ mình trước rủi ro.
Ngoài ra, phụ nữ cũng là đối tượng chính của TCVM. Có nhiều nguyên nhân để phụ nữ trở thành mục tiêu đầu tiên của dịch vụ tài chính vi mô. Bởi vì 70% người nghèo trên thế giới là phụ nữ. Phụ nữ thường là người đầu tiên hoặc duy nhất chăm sóc cho gia đình ở nhiều quốc gia đang phát triển. Vì phụ nữ thường đặt nhu cầu của con cái họ lên trên nhu cầu bản thân, việc cho họ khả năng củng cố kinh tế gia đình thường là cách hiệu quả nhất để tác động lên cả gia đình. Đồng thời phụ nữ chiếm tỉ lệ thất nghiệp cao hơn nam giới ở hầu hết các quốc gia và hình thành phần đông của khu vực tự do của hầu hết các nền kinh tế. Việc cấp vốn cho phụ nữ đã mang lại hiệu quả gấp bội. Đồng thời giúp nâng cao vị thế của người phụ nữ trong xã hội. Rất nhiều chương trình quốc tế gắn liền tài chính vi mô với phát triển vai trò và độc lập của phụ nữ.
2.3. Hình thức và nội dung hoạt động của TCVM
Ở Việt Nam, khách hàng của tài chính vi mô là người nghèo tại thời điểm vay vốn có thu nhập dưới 200 nghìn đồng/tháng ở nông thôn và dưới 260 nghìn đồng/tháng ở thành thị, không cần tài sản thế chấp.
Tài chính vi mô cung cấp dịch vụ tín dụng ngay trên địa bàn mà người vay và tiết kiệm sinh sống, thường là ở khu vực nông thôn. Đây là lý do thu hút được nhiều người tham gia, giảm chi phí tín dụng, tăng tính tiết kiệm và tính cộng đồng.
Phương pháp TCVM được xây dựng đáp ứng cho từng cá nhân hay nhóm khách hàng tham gia. Các TCTCVM thường cung cấp tín dụng theo ba hình thức: cho vay cá thể; cho vay theo nhóm tương hỗ và cho vay gián tiếp theo nhóm tương hỗ qua trung gian thứ ba (các đoàn thể xã hội).
Những người nghèo, được tham gia mượn vốn, tiết kiệm, và các dịch vụ tài chính khác. Bên cạnh các dịch vụ về tài chính, các tổ chức tài chính vi mô còn thực hiện nhiều hoạt động phi tài chính vì mục đích phát triển khác. Đồng thời, được tiếp cận với bảo hiểm vi mô, người nghèo có thể đương đầu với sự tăng giá đột ngột, hay tài sản, vật nuôi bị bệnh dịch, chết, hoặc bị mất. Việc được mượn vốn cũng cho phép người nghèo tận dụng được những cơ hội phát triển kinh tế. Theo đó, khi vay vốn những người nghèo này phải có kế hoạch kinh doanh cụ thể để có khả năng trả nợ trong một kỳ hạn được yêu cầu. Nếu không thì các khách hàng có thể sẽ không được lợi từ số tiền mượn và có nguy cơ bị đẩy vào tình trạng nợ nần. Từ đó người nghèo sẽ có nhưng thay đổi trong thói quen tiêu dùng biến đổi từ “kiếm sống hằng ngày” sang “lập kế hoạch cho tương lai”, nhờ đó mà cải thiện dần dần đời sống gia đình.
Một vài đặc điểm riêng của TCVM
Thứ nhất là tài chính vi mô phải tính lãi suất cao, bởi việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho người nghèo rất tốn kém, đặc biệt khi so sánh với quy mô cho vay. Các khoản vay nhỏ thì cũng đòi hỏi chi phí về nhân sự và các nguồn lực khác tương tự như khoản cho vay lớn, thậm chí còn nhiều hơn, cán bộ tín dụng phải đến thăm nhà cửa, cơ sở làm ăn của người vay, đánh giá độ tin cậy của người vay thông qua các cuộc phỏng vấn các thành viên gia đình và những người quen khác của người vay, và có khi còn phải thường xuyên đến gặp người vay để nhắc nhở họ về việc trả nợ. Vì thế, tỷ lệ chi phí giao dịch so với tổng tiền vay của các khoản vay nhỏ thường cao. Điều đó khiến ngân hàng phải tính lãi suất cho vay cao để trang trải chi phí thực hiện việc cho vay. Đồng thời cũng do tín dụng vi mô hoạt động chủ yếu là ở khu vực nông thôn, thường có mật độ dân số phân tán, cơ sở hạ tầng (đường sá, dịch vụ viễn thông) và các dịch vụ xã hội (giáo dục, y tế) có chất lượng thấp. Đây cũng là một trong các lý do quan trọng nhất khiến các ngân hàng thương mại không thực hiện các khoản cho vay nhỏ.
Thứ hai là cơ chế trách nhiệm liên đới áp dụng giữa những người vay. Việc quản lý do một nhóm những người đi vay đảm bảo khả năng thu hồi vốn vay tốt hơn do áp lực nhóm cũng như sự lo sợ về “trừng phạt xã hội” của những người trong nhóm đối với người vay không tuân thủ theo hợp đồng. Phương pháp này đã chứng tỏ rất thành công ở nhiều quốc gia khác nhau áp dụng mô hình ngân hàng Garmeen Bank. Ở Việt Nam, mô hình này cũng đã được nhiều tổ chức ứng dụng như NHNo (thử nghiệm từ năm 1998), NHCS (2005), quỹ TYM (1999), quỹ CEP (2004), tuy nhiên mức độ ứng dụng là khác nhau đối với từng tổ chức.
Thứ ba là các khoản vay tuần hoàn: Việc thanh toán đầy đủ một khoản vay sẽ tạo cơ hội cho lần vay tiếp theo. Cho vay tuần hoàn cho phép hỗ trợ về quản lý tài chính, tạo động lực cho khách hàng vay vốn tuân thủ theo các điều khoản trong hợp đồng.
2.4. Vai trò của tài chính vi mô
Những nghiên cứu về tác động toàn diện của TCVM cho thấy rằng:
- TCVM giúp những hộ nghèo vươn lên trong cuộc sống và tự bảo vệ trước những rủi ro. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ rõ khả năng dễ bị tổn thương của những người sống dưới ngưỡng nghèo trước những cú sốc như ốm đau, thiên tai, mất cắp và các sự cố khác. Nguồn tài chính hạn hẹp của các hộ gia đình chính là nguyên nhân gây ra sự tổn thương trước các cú sốc này, và do thiếu các dịch vụ tài chính hữu hiệu, các gia đình bị đẩy vào tình trạng nghèo cùng cực hơn và phải mất nhiều năm để khắc phục. Các dịch vụ tài chính là một giải pháp đệm trong những trường hợp như người nghèo đột nhiên bị rơi vào tình trạng quẫn bách, rủi ro trong kinh doanh, lũ lụt, nhà có người ốm đau, tai nạn, lao động chính bị chết hay kinh doanh trì trệ theo mùa vụ thường đẩy các gia đình nghèo vào cảnh khốn cùng. Họ có thể rút tiền tiết kiệm hoặc vay để chi tiêu thay vì bán một tài sản có thể sinh lời, việc bán tài sản này sẽ làm giảm khả năng tạo thu nhập của họ trong tương lai. Việc sử dụng các dịch vụ tài chính này cho phép dân cư nông thôn tiếp tục tăng thu nhập và gây dựng tài sản.
- Việc các hộ có thu nhập thấp sử dụng dịch vụ tài chính sẽ kết hợp với sự cải thiện đời sống kinh tế và công việc kinh doanh ổn định, phát triển. Bên cạnh đó còn khuyến khích phát triển khả năng kinh doanh của người nghèo.
- Bằng việc hỗ trợ cho sự tham gia làm kinh tế của phụ nữ, TCVM giúp trao quyền cho phụ nữ, từ đó thúc đẩy bình đẳng giới cải thiện đời sống hộ gia đình.
Quá trình phát triển của tài chính vi mô
1. Trên thế giới
Dịch vụ tài chính vi mô được F.W. Raiffeisen nghĩ ra và áp dụng đầu tiên ở Đức vào những năm 1860 để đối phó với vấn đề tín dụng trong nông nghiệp, các nghề thủ công và các công nghiệp nhỏ ở các vùng nông thôn Đức đúng vào thời công nghiệp hoá diễn ra nhanh chóng gây áp lực lớn đối với hàng nông sản do nhập khẩu giá thấp, trong khi lãi suất thương mại thì lại cao. Các hội hợp tác cho vay nhỏ dựa trên những nguyên tắc tự giúp đỡ lẫn nhau, tự chịu trách nhiệm và tự quản đã hình thành: khoản tiền gửi của các thành viên là cơ sở để cho các thành viên vay, và lợi nhuận được tái đầu tư hoặc chia. Vì các hiệp hội riêng rẽ quá yếu khi đứng một mình, năm 1872, Raiffeisen đã lập nên Hội Liên hiệp cấp quốc gia, kết hợp cấu trúc theo hàng ngang với cấu trúc theo chiều dọc.
Sau đó, những nguyên tắc cơ bản của Raiffeisen tiếp tục là bài học cho việc thành lập các tổ chức hợp tác tín dụng trên toàn thế giới và được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng nước. Những kiến thức và kinh nghiệm đó đã được lan rộng và phổ biến khắp nơi ở châu Âu, Châu Á - Philippines, Trung Quốc, Bangladesh, và Việt Nam tạo ra nhiều mô hình tài chính vi mô thích hợp hơn với người nghèo. Hiện nay, có khoảng trên 100 triệu hộ gia đình ở Châu Á được tiếp cận với dịch vụ TCVM với trên 100 ngàn tổ chức cung cấp TCVM dưới nhiều dạng khác nhau. Đặc biệt là mô hình ngân hàng Grameen do Muhammad Yunus sáng lập ở Bangladesh, Ngân hàng Grameen cũng đi theo con đường tương tự là hoạt động tài chính vi mô theo mô hình truyền thống của Raiffeisen, đã có tác động mạnh mẽ đến công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Bangladesh. Ngày nay, ngân hàng Grameen có hơn 58,9 triệu khách hàng và đã chi ra hơn $5.4 tỷ với tỉ lệ thu lại là 98%. Grameen Bank đã mở rộng các hoạt động của mình đến hãng điện thoại di động (GSM) - Hãng viễn thông Grameen. Cổ phần đa số và việc quản lý hãng này thuộc về Telenor của Na-Uy. Một trong những vấn đề chủ yếu của dịch vụ tài chính vi mô thành công là yếu tố văn hoá. Những điều kiện pháp lý và xã hội ở Bangladesh khác với những nơi khác. Vì Grameen bây giờ là một ngân hàng chính quy, nên nó được coi như là một mô hình phát triển lý tưởng cho một tổ chức tài chính vi mô học tập. Mô hình này đã trở thành mẫu hình cho 23 quốc gia trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam.
Ở Việt Nam
Năm 1986, Chính phủ Việt Nam quyết định thực hiện chính sách quốc gia về xóa đói giảm nghèo thông qua việc thúc đẩy các hoạt động sản xuất của người nghèo. Cùng với đó, với sự hỗ trợ của các tổ chức NGO quốc tế, các chương trình hỗ trợ phát triển chính thức song phương và đa phương; các cơ quan đoàn thể xã hội và chính quyền địa phương, các chương trình tài chính vi mô ở Việt Nam đã được hình thành và phát triển với mục đích chính là nhằm giảm nghèo cho phụ nữ, nam giới, trẻ em thông qua các việc đảm bảo các quyền và điều kiện sống công bằng và đảm bảo công lý. Tuy nhiên, ban đầu không có một khung pháp lý nào cho sự hoạt động của các tổ chức tài chinh vi mô và đa số các tổ chức tài chính đều nhận hỗ trợ vốn và kỹ thuật từ các tổ chức NGO nước ngoài. Cho đến năm 1998, Ngân hàng Nhà nước mới cấp vốn cho các ngân hàng như Ngân hàng Chính sách xã hội và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để thực hiện hoạt động tài chính vi mô. Đến 9/3/2005, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nghị định số 28/2005/NĐ-CP của chính phủ về tổ chức và hoạt động của các Tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại Việt Nam. Nghị định này là nền tảng pháp lý quan trọng giúp những cơ sở tài chính và tín dụng vi mô vững tâm triển khai những thành quả đã gặt hái được và tiếp tục nỗ lực giúp đỡ người nghèo tại Việt Nam. Quan trọng hơn nữa, bản văn pháp luật này nay cho phép tư nhân đứng ra làm công việc giúp đỡ người nghèo. Tiếp sau đó là ban hành nghị định 165/2007/NĐ-CP của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều Nghị định số 28/2005/NĐ-CP và Thông tư hướng dẫn thực hiện trong lĩnh vực tài chính vi mô tại Việt Nam. Hiện nay, cùng với các ngân hàng chính thức, ở Việt Nam có cả ngàn tổ chức tài chính vi mô đang hoạt động, trong đó có khoảng 60 là tổ chức phi chính phủ tham gia trong cuộc chiến chống đói nghèo. Vào năm cuối 2005, Việt nam đã giảm một nửa số hộ nghèo so với năm 1993.
Một số mô hình tài chính vi mô trên thế giới, kinh nghiệm cho Việt Nam
Mô hình ngân hàng Grameem
Mô hình này do ngân hàng Grameen tại Băngladet phát triển, được
thành lập chính thức năm 1976, và đến năm 1983 thì chuyển đổi thành một ngân hàng chính thống theo một đạo luật đặc biệt của Chính phủ dành cho ngân hàng này. Đây là một mô hình đặc biệt bởi 94% vốn của nó là của chính những khách hàng. Họ chủ yếu là phụ nữ. Phần còn lại, 6% cổ phần, thuộc sở hữu của nhà nước. Với mục đích chính là nhằm phục vụ những người phụ nữ nông thôn, không có ruộng đất, mong muốn tài trợ cho các hoạt động thu nhập.
Bắt đầu bằng thử nghiệm nhỏ (bỏ 27 dollar tiền túi cho 42 hộ gia đình nghèo vay) thành công, Yunus đã thành lập ngân hàng Grameen. Hiện nay ngân hàng này có tới 2100 chi nhánh.
Phương pháp thực hiện:
Phân người vay thành hai nhóm rõ ràng: nhóm đầu tư rủi ro cao và nhóm đầu tư an toàn.
Sẽ không cho vay theo cá nhân mà vay theo nhóm (cluster): Các nhóm thành viên không có quan hệ huyết thống hay hôn nhân được tự thành lập và tập trung thành các “trung tâm” gồm khoảng 8 nhóm. Các thành viên bắt buộc phải tham dự các buổi sinh hoạt hàng tuần và đóng góp tiền tiết kiệm, đóng góp vào quỹ nhóm và đóng tiền bảo hiểm. Đóng góp tiền tiết kiềm được thực hiện từ bốn đến năm tuần trước khi nhận được món vay và phải tiếp tục trong thời gian vay vốn. Quỹ nhóm được nhóm tự quản lý và có thể được sử dụng để cho vay đến các thành viên trong nhóm. Các thành viên trong nhóm cùng bảo lãnh những món vay của nhau và chịu trách nhiệm liên đới về pháp luật về việc hoàn trả nợ của các thành viên khác trong cùng nhóm. Bất kỳ thành viên nào cũng không được vay thêm nếu các thành viên khác trong nhóm không trả hết nợ. Không cần tài sản thế chấp.
Sản phẩm : Các món vay thường có kỳ hạn từ 6 tháng đến 1 năm và việc hoàn trả được thực hiện hàng tuần. Số tiền vay thường dao động từ $100 đến $300 với lãi suất khoảng 20% năm. Tiết kiệm là hoàn toàn bắt buộc.
Tác động và hiệu quả:
Người vay của Grameen hiện phục vụ hơn 58 triệu khách hàng với số lượng 5,4 tỷ USD có tới 97% là phụ nữ, tỷ lệ trả nợ rất cao (98%). Lý do cũng không phải đơn giản là phụ nữ ít trốn nợ hơn mà là do họ được gia đình cử đi vay và đứng sau họ (lao động để trả nợ) chính là chồng và con họ. Tác động xấu của việc này là nhiều trường hợp hộ sản xuất nhỏ đã phải cho con nghỉ học để ở nhà làm thêm.
Tín dụng vi mô còn có tác động tích cực đến việc kích thích năng khiếu kinh doanh nhỏ của người vay, đặc biệt là phụ nữ. Để sử dụng vốn vay thành công, tự thân người vay phải tìm tòi cách tính toán đồng tiền cho hiệu quả, nâng cao các kỹ năng sản xuất hộ gia đình (chăn nuôi, làm hàng thủ công, gia công), các kỹ năng bán hàng (tiếp thị, mở rộng quan hệ ra vùng xung quanh hoặc vùng xa)
Mô hình này được áp dụng: Grameen Bank và ủy ban vì sự tiến bộ ở nông thôn Bangladesh, Tulay sa Pag – Unlad, Inc; Dự án Dungganon ở Philippines; ở Việt Nam có các tổ chức áp dụng mô hình này là TYM, dự án Việt-Bỉ, CIDSE (cơ quan hợp tác quốc tế vì sự phát triển và đoàn kết) …
Mô hình ngân hàng làng
Mô hình này được Tổ chức trợ giúp cộng đồng quốc tế (FINCA) phát triển vào giữa thập kỷ 80.
Phương pháp: khách hàng lập thành các nhóm tối thiểu từ 15 – 20 thành viên, đa số là phụ nữ, vốn vay được chia đều cho các thành viên, và mỗi thành viên đều sở hữu một “cổ phần” của ngân hàng. Tất cả các thành viên đều phải ký một thảo ước vay vốn nhằm đưa ra sự bảo đảm chung. Số tiền cho ngân hàng làng xã vay thường dựa trên tổng tất cả các yêu cầu vay của các thành viên. Các món vay với ngân hàng làng xã thường được cung ứng theo chu kỳ cố định, thường từ 10 đến 12 tháng, với việc thanh toán toàn bộ số tiền vào cuối kỳ. Số tiền vay tiếp sau có liên hệ với số tiền tổng cộng được tiết kiệm bởi các thành viên ngân hàng. Các ngân hàng lãng xã có mức độ kiểm soát dân chủ cao và độc lập. Các cuộc họp hàng tháng nhằm thu các khoản tiền tiết kiệm, giải ngân các món vay, tham dự các vấn đề về quản lý vầ nếu có thể, tiếp tục các khoá đào tạo với cán bộ tổ chức tài chính vi mô.
Sản phẩm: Các món vay có lãi suất thương mại (1 – 3%/tháng) và lãi suất sẽ cao hơn nếu nguồn cho vay xuất phát từ một khoản tài trợ nội bộ. Một vài ngân hàng đã mở rộng cung cấp dịch vụ bao gồm cả giáo dục về đổi mới nông nghiệp, dinh dưỡng và y tế. Tiết kiệm của các thành viên gắn liền với số tiền vay và được sử dụng để tài trợ cho những món vay mới hoặc cho những hoạt động tạo thu nhập.
Mô hình tài chính vi mô đã được áp dụng: Tổ chức phát triển Hà Lan (SNV), Tầm nhìn thế giới (WVI), CARE ở Guatermala.
Nhóm._. đoàn kết
Mô hình này được ACCION International tại Châu Mỹ Latinh phát triển
Phương pháp thực hiện: Vốn vay được cung cấp cho các nhóm từ 4-7 thành viên hơn là cho cá nhân, tự các thành viên sẽ chia đều vốn cho nhau. Khách hàng thường là những doanh nghiệp nhỏ thuộc khu vực phi chính thức, chẳng hạn những nhà buôn hoặc người kinh doanh cần một lượng vốn hoạt động nhỏ. Các thành viên trong nhóm cùng bảo đảm việc hoàn trả món vay, và việc tiếp cận các món vay tiếp theo phụ thuộc vào sự hoàn trả thành công của tất cả các thành viên trong nhóm. Các khoản thanh toán được thực hiện hoàn toàn tại trụ sở của chương trình. Mô hình cũng kết hợp sự hỗ trợ kỹ thuật tối thiểu tới người vay, chẳng hạn huấn luyện và xây dựng tổ chức. Các khoản tiết kiệm thường được đòi hỏi nhưng nhiều khi được khấu trừ số tiền vay vào thời điểm giải ngân món vay chứ không nhất thiết đói hỏi khách hàng phải tiết kiệm trước khi nhận được món vay. Số tiện tiết kiệm về cơ bản phục vụ nhu một số dư bù đắp, bảo đảm cho một phần của số tiền vay.
Sản phẩm: Số tiền vay ban đầu thường nằm trong khoản $100 đến $200. Những món vay sau đó không có giới hạn trên. Lãi suất thường khá cao và dịch vụ cũng được tính gộp. Các khoản tiết kiệm thường được yêu cầu như một phần của món vay. Một vài tổ chức khuyến khích việc thiết lập các quỹ cứu trợ khẩn cấp trong nội bộ nhóm để hoạt động như một phương tiện bảo đảm an toàn. Có rất ít sản phẩm tiết kiệm tự nguyện được cung cấp.
Mô hình này được áp dụng: BancoSol ở Bolivia; các chi nhánh của ACCION; Asociacion Grupos Solidarios de Colombia …Ở Việt Nam các tổ chức áp dụng mô hình này có Tổ chức cứu trợ trẻ em Mỹ và Cơ quan cứu tế và phát triển dòng Adventis (ADRA).
Ngân hàng Rakyat Indonesia (BRI)
Ngân hàng Rakyat Indonesia (BRI) là một Ngân hàng Nhân dân Indonesia, một ngân hàng nông thôn thuộc sở hữu nhà nước đã ngừng hẳn việc cung cấp tín dụng bao cấp và tiến hành một phương pháp vận hành theo các nguyên tắc thị trường. Đặc biệt, ngân hàng Nhân dân Rakyat Indonesia (BRI) đã phát triển một hệ thống khuyến khích người vay (những nông dân nghèo) và nhân viên của mình một cách rất rõ ràng, khen thưởng với những người trả nợ đúng hạn, và hoạt động dưạ trên huy động tiết kiệm cũng như nguồn vốn của ngân hàng.
BRI với hơn 4.500 văn phòng tại Indonesian Archipelago và 30.000 nhân viên, ngân hàng này phục vụ một số tài khoản đáng kinh ngạc: 35 triệu tài khoản. Thông qua mạng cục bộ tại nhiều tỉnh thành ở Indonesia, cho vay những nguồn vốn nhỏ, thường là vài trăm USD cho những nông dân nghèo và những nhà buôn nhỏ. Mỗi chi nhánh nhỏ được uỷ quyền hoạt động độc lập với trách nhiệm cân đối tài sản và lợi nhuận độc lập. Tiền vốn cho vay tại các chi nhánh nhỏ của Ngân hàng BRI tạo lợi nhuận tới 7% hàng năm. Các chi nhánh này hoàn toàn dựa vào nguồn vốn vay của địa phương và lãi suất cho vay ở mức cao. Chi phí cho vay 100 USD tương tự như chi phí dùng để thực hiện việc cho vay những khoản vốn lớn hơn nhiều. Thu nhập trung bình các khách hàng của Bank Rakyat Indonesia tăng 112%, và 90% hộ thoát nghèo. Các chuyên gia tín dụng vi mô đều cho rằng giữ mức lãi suất ổn định và giảm chi phí là cách duy nhất để duy trì chương trình cho người nghèo vay vốn, những người thường trả lãi suất cao hơn nhiều khi vay vốn bên ngoài.
Đây là mô hình ngân hàng thuộc khu vực chính thức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô. Thành công của BRI chỉ ra rằng cho vay tín dụng vi mô có thể giúp duy trì sự ổn định dài hạn của ngân hàng, kể cả trong thời gian có khủng hoảng (1997 – 1998). Vào thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng Châu Á, Ngân hàng BRI vẫn tổng kết có lãi trước thuế 89 triệu USD trong mảng cho vay tín dụng, trong khi bộ phận hợp tác và cho vay vốn khác đã chịu lỗ 3.4 tỷ USD. Kinh nghiệm của BRI cho thấy, cho vay vốn tín dụng vi mô là một phương pháp hiệu quả để thử nghiệm vào một thị trường còn chưa được khai thác hết – thị trường tín dụng cho người nghèo. BRI đưa ra bài học cho những ngân hàng thương mại lớn nhất Châu Á vẫn chưa thu hồi được những nguồn vốn cho vay lớn, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á (1997 – 1998). Với hầu hết các Ngân hàng Thương mại, cho người nghèo vay vốn không phải là giải pháp kinh doanh tốt. Nhưng Ngân hàng Rakyat Indonesia (BRI) đã chứng tỏ rằng tín dụng vi mô có thể tạo ra lợi nhuận cao ít rủi ro, thậm chí còn giúp duy trì sự ổn định dài hạn cho ngân hàng. BRI là một ngân hàng được xếp loại là ngân hàng tốt nhất thế giới. Đây cũng là một điển hình khuyến khích các ngân hàng thương mại tham gia vào hoạt động tài chính vi mô.
Đặc điểm chung của các mô hình trên, trừ mô hình ngân hàng BRI
- Đa số khách hàng của các mô hình tổ chức trên đều là phụ nữ nông thôn hoặc thành thị gặp khó khăn về kinh tế, thỏa mãn các điều kiện của tổ chức vi mô đã đề ra.
- Các mô hình tổ chức TCVM trên đều cung cấp nhiều loại hình sản phẩm tín dụng, hầu hết các khách hàng bắt đầu với sản phẩm tín dụng cơ bản – vốn vay sản xuất ngắn hạn, không cần tài sản thế chấp. Mức vốn từ 6,5$ đến 300$, lãi suất từ 0,9% đến 3%/tháng, kỳ hạn vốn từ 6 tháng đến 12 tháng nhưng không bao giờ quá 24 tháng. Sau khi trả hết khoản vay và lãi lần đầu, các khách hàng có thể được vay số tiền lớn hơn ở các vòng vay kế tiếp. Có thể trả hàng tuần, 2 tuần một lần hoặc hàng tháng.
- Các mô hình tổ chức trên đều áp dụng hình thức nhóm, các thành viên trong nhóm có trách nhiệm và bảo lãnh cho nhau trước các khoản vay trong các buổi sinh hoạt cụm, nhóm được tổ chức thường xuyên, nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng.
- Yêu cầu về tiết kiệm bắt buộc như một điều kiện để vay vốn.
- Đa số các mô hình trên đều có sự gắn kết mật thiết với các đoàn thể xã hội, chính quyền địa phương, tạo thuận lợi trong việc hiểu rõ được đời sống, nhu cầu cũng như nguồn thu nhập chính của khách hàng.
- Hệ thống kiểm soát nghiêm ngặt và có kỷ luật nhằm kiểm soát việc sử dụng vốn và đảm bảo việc hoàn trả đầy đủ và đúng hạn của thành viên.
Bài học kinh nghiệm
Hoạt động tài chính vi mô ở các nước đã mang lại nhiều bài học quý giá về những phương thức thực hiện cũng như các thông lệ cần tuân thủ. Kinh nghiệm tốt về hoạt động cộng đồng các tổ chức tài chính vi mô có thể liệt kê như sau. (Các tổ chức tài chính vi mô Việt Nam cũng có thể học tập kinh nghiệm).
Xác định sản phẩm cho thị trường dựa trên phân tích tình hình kinh tế, chính trị - xã hội trong nước.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ và khu vực tư nhân trong cải cách ngành TCVM. Nhận thức rõ ràng hoạt động TCVM không giống như hoạt động ngân hàng thương mại truyền thống, do vậy chú trọng việc xây dựng một khung pháp lý riêng cho loại hoạt động này.
Thế chấp và bảo lãnh chủ yếu chỉ là động cơ thúc đẩy và niềm tin, ít ý nghĩa về mặt kết quả thu hồi vốn.
Nguyên tắc tuần tự: việc hoàn trả đúng thời hạn sẽ mở ra cơ hội cho vay thêm (nhiều hơn, lâu hơn, lãi suất thấp hơn).
Thực hiện theo cách cho vay phi chính thức (“bên cho vay”): nhân viên cho vay có trách nhiệm đối với toàn bộ quy trình vay, thẩm định vốn vay, giám sát, đôn đốc khách hàng trả nợ.
Phi tập trung hoá, kiểm soát hiệu quả và có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin trong hoạt động và quản lý.
Kết hợp các dịch vụ tín dụng với các hoạt động xã hội, nâng cao khả năng sử dụng nguồn vốn vay có hiệu quả cho khách hàng.
Tối đa hoá lợi ích của khách hàng, cách tiếp cận lấy khách hàng làm trung tâm (tiện lợi, trình tự thủ tục không mất thời gian).
Kinh nghiệm từ ngân hàng Rakyat Indonesia: không phải tín dụng vi mô cho người nghèo đối với các ngân hàng thương mại lớn là khó thực hiện.
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH VI MÔ TỚI CÔNG TÁC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
Bối cảnh kinh tế trong nước những năm gần đây
Bảng 1: Chỉ tiêu kinh tế - xã hội
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
2008
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%)
7,7
7,5
8,2
8,5
6,23
Tỷ lệ lạm phát (%)
9,7
8,8
7,7
12,63
22,97
Kim ngạch xuất – nhập khẩu (tỷ USD)
57,5
69,1
84,2
109,3
158,29
Dân số (triệu người)
82,07
83,12
84,11
85,19
86,16
Tỷ lệ hộ đói nghèo (%)
8,3
26,7
15,47
14,75
13,5
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
5,6
5,3
4,82
4,64
4,65
Nguồn: Tổng cục thống kê
Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã tăng lên liên tục. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), GDP chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân 4,4%/năm, thì trong 5 năm tiếp theo (1991 - 1995), tăng trưởng GDP bình quân là 8,2%, cao hơn so với kế hoạch đề ra là 5,5% - 6,5%, và thuộc vào loại cao trong số các nước đang phát triển. Trong giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng GDP bình quân của Việt Nam là 6,9%, tuy có thấp hơn nửa đầu thập niên 90 thế kỷ XX do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á, nhưng vẫn vào loại cao trong khu vực. Năm 2001, tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 6,9%, năm 2002: 7%, năm 2003: 7,3%, năm 2004: 7,7%, năm 2005: 7,5%, năm 2006: 8,2% và năm 2007: 8,5%. So với các nước trong khu vực, Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng rất cao. Theo số liệu thống kê bảng 1, ta thấy cùng với tăng trưởng kinh tế cao, chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng đang được cải thiện. Đến nay ở Việt Nam có 89,4% xã đã có điện, 94,6% xã có đường trải nhựa, 98,9% xã có trường tiểu học và 99% các xã có trạm y tế. Nhiều mục tiêu đề ra đã đạt được hoặc vượt mức như tỷ lệ chết ở trẻ em dưới 1 tuổi chỉ còn 2,1%, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn 25%, tỷ lệ thôn bản có cán bộ y tế cộng đồng đạt 79,8%. Tuổi thọ của người dân (năm 2006) đạt 71,3 tuổi. Phần lớn người dân Việt Nam đã có những tiện nghi tối thiểu cho sinh hoạt hằng ngày như điện, nước sạch, ti vi... Trên cơ sở kinh tế tăng trưởng nhanh, mức độ nghèo đói của dân cư giảm mạnh. Năm 2006, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã công bố và áp dụng chuẩn nghèo mới. Theo mức chuẩn mới được đề xuất, hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân mỗi tháng từ 300.000 đồng/ người trở xuống, tại khu vực nông thôn và mức từ 390.000 đồng/ người trở xuống, tại đô thị. Theo chuẩn mới này đã làm tăng số hộ nghèo của Việt Nam lên 4,6 triệu hộ vào cuối năm 2005 thay vì 1,1 triệu hộ nghèo với chuẩn trước đó, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam là 18,1% (tính theo chuẩn nghèo quốc tế). Thu nhập bình quân đầu người năm 2007 của người dân Việt Nam đã đạt 820 USD/năm. So với năm 1995, mức thu nhập bình quân đầu người hiện nay của Việt Nam đã tăng khoảng 2,8 lần. Theo số liệu của Tổng cục thống kê qua các cuộc khảo sát về mức sống dân cư Việt Nam thì tỷ lệ nghèo của cả nước từ 58% năm 1993 giảm xuống còn 14,75% năm 2007 (khoảng 13 triệu người). Trong vòng 14 năm đã giảm 35 triệu người nghèo, trung bình mỗi năm giảm từ 300.000 đến 375.000 hộ.
Năm 2008, do những biến động kinh tế thế giới và trong nước, tốc độ tăng GDP của Việt Nam giảm xuống còn 6,23%, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt 158,29 tỷ USD cao hơn năm 2007, song lạm phát tăng cao (22,97%), đầu tư và tiêu dùng thu hẹp, giá cả hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng tăng cao và sản xuất một số ngành chậm lại, thiên tai năm 2008 gây ra thiệt hại ước tính gần 12 nghìn tỷ đồng... đã ảnh hưởng đến đời sống của đại bộ phận dân cư, đặc biệt là những người có thu nhập thấp. Theo Tổng cục thống kê, năm 2008, cả nước có 957,5 nghìn lượt hộ thiếu đói và 4 triệu lượt nhân khẩu thiếu đói. So với năm 2007, số lượt hộ thiếu đói tăng 32,3%, số lượt nhân khẩu thiếu đói tăng 32,7%. Tình trạng thiếu đói tập trung nhiều ở các tỉnh vùng Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên. Tuy nhiên tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước năm 2008 ước tính 13,5%, thấp hơn với mức 14,75% của năm 2007. Hiện có hơn 1,25 triệu người đang hưởng trợ cấp xã hội với tổng kinh phí 2.035 tỷ đồng. Tỷ lệ thất nghiệp so với năm 2005 tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao.
Năm 2009, dưới tác động của tình hình kinh tế khó khăn, lạm phát tăng cao, giá cả lương thực có nhiều biến động, nhiều người bị mất việc làm. Quý I/2009, số hộ thiếu đói trên cả nước là 202.000 lượt hộ, giảm 28,3% so với cùng kỳ năm 2008.
Qua sự phân tích các số liệu ở trên, ta có thể thấy nền kinh tế nước ta luôn duy trì được mức tăng trưởng cao và tương đối ổn định. Song tỷ lệ đói nghèo trong nước còn cao, tập trung chủ yếu ở nông thôn, đồng bào dân tộc, nhiều địa phương tỷ lệ hộ nghèo cao lên tới 40-50%, kết quả xóa đói giảm nghèo chưa bền vững.
Theo báo cáo của WB cũng nêu bật thực tế là nghèo đói ở Việt Nam tập trung chủ yếu trong khu vực nông thôn, và quá trình giảm nghèo đối với các dân tộc thiểu số khá chậm chạp. Dân cư thuộc dân tộc thiểu số chiếm 13% tổng dân số, nhưng chiếm tới 39% tổng số người nghèo của quốc gia.
Sơ đồ1: Cơ cấu nghèo trong dân số Việt Nam – khách hàng tiềm năng của các TCTCVM
Nguồn: báo cáo của WB 2006 [11]
Tuy nhiên, do ổn định về chính trị đã tạo ra một môi trường có tiềm năng lớn về TCVM ở Việt Nam nhằm hỗ trợ cho các hộ gia đình nghèo có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn tín dụng nhỏ để bắt đầu những kế hoạch kinh doanh nhỏ, cải thiện nhà ở và trang trải các chi phí liên quan đến sức khoẻ và giáo dục. Nguồn tín dụng này ngoài mục tiêu cải thiện thu nhập, còn tạo ra thêm nhiều việc làm cho người lao động ở khu vực nông thôn, nơi mà tỉ lệ thất nghiệp chiếm tỷ lệ tương đối lớn. Từ những công việc kinh doanh nhỏ, người vay vốn biết cách đầu tư vào những công việc kinh doanh có vốn cao hơn và cũng thông qua đó học cách làm kinh tế, thực hiện tiết kiệm, cải thiện vị thế của người phụ nữ trong gia đình, góp phần vào nỗ lực chung của công cuộc xoá đói giảm nghèo tại Việt Nam.
Tác động của tài chính vi mô tới công tác xóa đói giảm nghèo trong thời gian qua
1. Các đặc điểm riêng của tài chính vi mô tại Việt Nam
Do ở Việt Nam, không giống như nhiều nước khác là đa số dân số nghèo sống ở các vùng nông thôn và vùng sâu vùng xa, đồng thời cũng do đặc điểm phát triển kinh tế chính trị xã hội của Việt Nam, nên ngành tài chính vi mô ở Việt Nam có một vài đặc điểm riêng sau khác với các nước.
Sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội vào hoạt động tài chính vi mô
Ở hầu hết các nước, các tổ chức phi chính phủ là những người tiên phong trong công nghệ tín dụng vi mô. Tại Việt Nam, phong trào này được triển khai thông qua bộ máy của các tổ chức đoàn thể đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản như Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam hay Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân... Những tổ chức chính trị xã hội này đã kết hợp với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài triển khai hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam nhằm mở rộng cơ hội tiếp cận với các dịch vụ tài chính cho người nghèo. Trong giai đoạn đầu, sự gắn kết giữa các tổ chức tài chính vi mô với các tổ chức chính trị xã hội đã mang lại nhiều cơ hội phát triển cho tài chính vi mô, bởi chính mạng lưới rộng khắp của các tổ chức đoàn thể này, đã giúp cho các tổ chức tài chính vi mô tiếp cận dễ dàng hơn với người nghèo, hiểu được khách hàng của mình là ai, đời sống của họ ra sao, từ đó đưa ra các hình thức dịch vụ tín dụng thích nghi, làm cho tài chính vi mô vươn rộng tới những xã nghèo nhất. Bên cạnh đó, các tổ chức tài chính vi mô cũng tận dụng được nguồn nhân lực dồi dào và nhiều kinh nghiệm từ các tổ chức đoàn thể như cán bộ Hội Phụ nữ địa phương hiểu rất rõ về địa phương mình, lại có uy tín và luôn quan tâm, đôn đốc, tới khách hàng; sự gắn kết này còn giúp các tổ chức tài chính vi mô mở những khóa học hướng dẫn kỹ thuật, phổ biến kinh nghiệm làm ăn hiệu quả cho người nghèo.
Tuy nhiên, cũng chính bởi sự liên kết chặt chẽ giữa các tổ chức tài chính vi mô và các tổ chức đoàn thể khiến cho tổ chức tài chính vi mô đã gặp nhiều khó khăn trong việc tách ra trở thành tổ chức tài chính tín dụng độc lập, nền tảng thể chế của họ (xét về cán bộ và cấu trúc tổ chức) kém linh hoạt, khiến họ chưa đáp ứng được với các quy định pháp lý mới và chưa sẵn sàng để đối mặt với những thách thức trong tương lai, như TYM thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, được coi như là một “Ban” riêng nằm trong cơ cấu tổ chức của Hội, do đó các hoạt động về cơ cấu tổ chức hay chính sách hoạt động, chiến lược của TYM đều phải được sự phê duyệt của lãnh đạo Trung ương Hội, điều này khiến cho TYM bị thụ động trong chính các hoạt động phát triển của mình, thiếu sự linh hoạt trong cải tiến sản phẩm và đáp ứng các nhu cầu của khách hàng và không có khả năng huy động các nguồn lực cần thiết đủ để đầu tư vào cơ sở hạ tầng về vật chất và con người của tổ chức. Việc sử dụng những cán bộ Hội trong thời kì đầu đã mang lại hiệu quả cao trong việc tiếp cận khách hàng, song những cán bộ này thường không có chuyên môn về lĩnh vực tài chính, ngân hàng hay tài chính vi mô, họ thiếu những kỹ năng phù hợp để điều hành, quản lý một tổ chức tín dụng vi mô, nên xét về lâu dài, để có thể trở thành một định chế độc lập thì các tổ chức tín dụng vi mô cần có các cán bộ có năng lực, chuyên trách và có nghiệp vụ chuyên ngành phù hợp với tài chính vi mô. Một điều nữa là, sự gắn kết chặt chẽ với các tổ chức chính trị - xã hội đồng nghĩa với việc các hoạt động tài chính vi mô thường được xem là các chương trình phúc lợi xã hội do chính phủ hỗ trợ hơn là các tổ chức hoạt động theo định hướng kinh doanh và phát triển kinh tế. Kể cả những người làm chính sách vẫn coi tài chính vi mô là hoạt động nhân đạo chứ chưa nhận thức đúng nó là một phần của ngành tài chính, vì thế chưa tạo điều kiện để TCVM hoạt động mang tính thể chế, không mang tính chuyên nghiệp.
1.2.Tài chính vi mô tập trung ở nông thôn hơn là thành thị
Đặc trưng thứ hai của tài chính vi mô Việt Nam là đại đa số khách hàng ở vùng nông thôn. Điều này không giống với các quốc gia khách có lĩnh vực tài chính vi mô phát triển và năng động, nơi mà đa số các tổ chức đóng ở các trung tâm đô thị. Bởi ở nước ta, nghèo đói phổ biến là trong những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh. 75% số người nghèo đói ở nước ta sinh sống ở nông thôn và hơn 30% các hộ nông dân nghèo sinh sống ở các vùng nghèo nhất của đất nước. Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp với điều kiện nguồn lực (đất đai, lao động...) rất hạn chế, trình độ tay nghề thấp, ít có khả năng tiếp cận các nguồn lực trong sản xuất như vốn kỹ thuật, công nghệ... không có điều kiện tiếp cận với hệ thống thông tin nên rất khó có khả năng chuyển đổi về việc làm sang các ngành nghề phi nông nghiệp để có thu nhập cao hơn. Phụ nữ nông dân ở vùng sâu, vùng xa, nhất là nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những nhóm nghèo dễ bị tổn thương nhất. Phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian hơn, nhưng ít thu nhập hơn, họ ít có quyền quyết định trong gia đình và cộng đồng do đó ít có cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách mang lại. Hiện nay, người nông dân đã tiếp cận vốn vay dễ dàng hơn từ các dịch vụ tín dụng chính thức. Tuy nhiên, người nghèo, nhất là những hộ gia đình nghèo không có tài sản thế chấp, vẫn khó tiếp cận với hệ thống tín dụng chính thức này. Với tâm lý em ngại, ít va chạm và nhiều trường hợp không biết chữ, nên người nghèo, đặc biệt là nữ chủ hộ, rất ngại tiếp xúc với các ngân hàng. Thêm vào đó, việc các ngân hàng đặt ở trung tâm huyện thị càng làm cho những người nghèo, nhất là những người không có và/hoặc không biết sử dụng phương tiện giao thông, hiếm khi ra khỏi làng xã của mình khó có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ tài chính chính thức. Chính bởi sự liên kết với các tổ chức đoàn thể đã giúp các tổ chức tài chính vi mô giảm thiểu được chi phí hoạt động thông qua việc sử dụng cơ cấu hiện hành thay vì xây dựng một mạng lưới chi nhánh hoặc mạng lưới phân phối có chi phí cao, do đó dễ tiếp cận hơn với những đối tượng khó khăn này.
1.3.Ngân hàng cho vay chính sách được nhà nước tài trợ
Quyết định thành lập Ngân hàng Chính sách đã tạo ra một ngân hàng phi lợi nhuận cung cấp đầy đủ các loại hình sản phẩm và dịch vụ tài chính ở mức giá bao cấp. Ngoài ra ngân hàng còn được miễn trừ đối với nhiều điều khoản quy định khác về điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) và sẽ không chịu tác động của khung điều tiết được đề xuất dành cho các tổ chức tài chính quy mô nhỏ. Kể từ khi được thành lập vào năm 2003 theo quyết định số 131/2002/QĐ-TTg, nguồn vốn của NHCS ngày càng được mở rộng, đa số được cấp từ ngân sách nhà nước, ngoài ra còn được bổ sung bởi nguồn đóng góp bắt buộc với tỉ lệ 2% tiền gửi VND từ các NHTMNN. Với cơ sở vốn dồi dào, NHCSXH được đặt vào vị trí chiếm thị phần thống trị trong thị trường tài chính vi mô.
Chính bởi đặc điểm này đã tạo nên sự méo mó về lãi suất và tạo ra một thị trường phi cạnh tranh trong việc cung cấp vốn cho người nghèo ở Việt Nam dẫn đến việc phân bổ nguồn lực thiếu hiệu quả.
Những nhà cung cấp tài chính vi mô chính ở Việt Nam
Tại Việt Nam, các nhà cung cấp tài chính vi mô có thể được nhóm lại thành 3 khối chính sau:
Bảng 2: Các nhà cung cấp tài chính vi mô ở Việt Nam
Chính thức
Bán chính thức
Phi chính thức
- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHNoVN)
- Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam (NHCSXH).
- Các Quỹ tín dụng Nhân dân.
- Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện Việt Nam.
- - 57 - 58 Tổ chức Phi chính phủ Quốc tế.
- 4 tổ chức TCVM được chính phủ công nhận:
+ Quỹ tình thương (TYM).
+ Quỹ trợ vốn cho người nghèo tự tạo việc làm (CEP).
+ Trung tâm phát triển vì Người nhèo (PPC).
+ Quỹ hỗ trợ Phát triển Phụ nữ Uông Bí.
Họ/Hụi
Họ hàng, bạn bè, hàng xóm
Người cho vay lãi
Tuy nhiên, khách hàng của các khu vực này cũng rất khác nhau, tùy theo thu nhập của người vay. Theo sơ đồ 1 dưới đây thì ta thấy thị trường chính của NHNo và QTDND tập trung vào nhóm khách hàng ở phân đoạn thị trường khách hàng thu nhập trung bình và thu nhập cao, trong khi đó NHCSXH và các tổ chức tài chính vi mô bán chính thức tập trung nhiều hơn vào phân đoạn khách hàng có thu nhập thấp, khách hàng nghèo đói. Sở dĩ có sự phân đoạn thị trường này là do lịch sử hình thành của các tổ chức, quy định của nhà nước và chiến lược, mục tiêu của tổ chức.
Sơ đồ 2: Phân đoạn thị trường tài chính vi mô
Doanh nghiệp trung bình và lớn
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp siêu nhỏ
Hộ gia đình không nghèo
Hộ nghèo và hộ đói
Ngân hàng
Chính sách Xã hội
Mức thu nhập/ quy mô doanh nghiệp
Các Quỹ tín dụng nhân dân
Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Các tổ chức, chương trình tài chính vi mô bán chính thức
Ngưỡng đói
Ngưỡng nghèo
Thông qua hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô lớn này ở cả khu vực chính thức và bán chính thức, ta sẽ có cái nhìn tổng quan vào sự đóng góp của các tổ chức này tới công tác xóa đói giảm nghèo qua quy mô cho vay, địa bàn hoạt động và các hoạt động tới người nghèo của các tổ chức.
Khu vực chính thức
Ở khu vực này đang có hai tổ chức tài chính nổi trội đang cung cấp TCVM ở Việt Nam là NHNo và NHCSXH
Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam
NHCSXH được thành lập năm 2003, tiếp nhận chương trình cho vay món nhỏ cho đối tượng chính sách và các chương trình cho vay trực tiếp của giai đoạn trước được quản lý bởi các ngân hàng thương mại thuộc sở hữu nhà nước (NHTMNN) và các tổ chức khác, trong đó có Ngân hàng phục vụ người nghèo trước đây. Chiến lược phát triển tổ chức của NHCSXH lấy mô hình phát triển của Ngân hàng Rakyat Indonessia làm bài học kinh nghiệm. Tính đến nay, Ngân hàng đã thiết lập 64 chi nhánh cấp tỉnh,thành phố và 608 Phòng giao dịch cấp huyện, hơn 8.500 điểm giao dịch tại xã, phường. Mục tiêu chủ yếu của NHCS là cung cấp tín dụng ưu đãi cho các hộ nghèo và những đối tượng xã hội và chính sách theo quy định. Hiện nay, NHCSXH đang thực hiện 2 phương thức cho vay: (1) Phương thức cho vay ủy thác qua các tổ chức chính trị xã hội. (2) Phương thức cho vay trực tiếp đến khách hàng.
Tổng dư nợ của Ngân hàng Chính sách xã hội năm 2005 đạt 18.426 tỷ đồng, tăng 28,8% so với năm 2004 và tăng gấp 3,9 lần so với năm 2000. Tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân 5 năm (giai đoạn 2000 - 2005) đạt 31,9%/năm. Đến 31/12/2005, tổng nguồn vốn đạt 20.241 tỷ đồng tăng 30,20% so năm 2004 và tăng gấp 2,85 lần so với 2002, mức tăng trưởng vốn bình quân hàng năm đạt trên 41%. Ngân hàng Chính sách xã hội đã đầu tư cho vay 8 chương trình với tổng dư nợ đạt 18.355 tỷ đồng tăng 28,62% so với 31/12/2004 tăng gấp 2,61 lần so với 31/12/2002, mức tăng trưởng hàng năm đạt 38%. Trong đó, cho vay hộ nghèo và cho vay giải quyết việc làm chiếm tỷ trọng trên 90%. Dư nợ cho vay bình quân một hộ nghèo là 4,6 triệu đồng/hộ tăng 1 triệu đồng/hộ so với năm 2004 và tăng 2,1 triệu đồng so với năm 2002. Đến nay, chính sách tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác đã đến với 100% số xã trong cả nước. Vốn tín dụng đã góp phần giúp 773.139 hộ vay vốn thoát ngưỡng nghèo, thu hút 1.062.764 người lao động có việc làm, xây dựng hơn 100.000 công trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Số hộ nghèo và đối tượng chính sách đang có quan hệ vay vốn là 4.125.264 khách hàng tăng 1.365.158 khách hàng so với thời điểm nhận bàn giao (2002). Theo Bộ Lao động – Thương Binh và Xã hội, chỉ riêng trong hai năm 2006 – 2007, đã có 2,86 triệu hộ nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi từ ngân hàng chính sách xã hội.
Tuy nhiên, do NHCSXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bản thân cán bộ ngân hàng cũng không có động cơ phát triển hoạt động này, và các chính sách lãi suất cũng như marketing của ngân hàng đối với các hoạt động này cũng không hấp dẫn. Do đó, vẫn có rất nhiều hộ nghèo chưa tiếp cận được với NHCSXH. Điều này được lý giải một phần do chi phí giao dịch cao đối với khách hàng, gây khó khăn trong việc tiếp cận với đối tượng là khách hàng nằm dưới ngưỡng nghèo.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
NHNo được thiết lập năm 1988. Trước đó ngân hàng này chỉ là một bộ phận của Ngân hàng Nhà Nước. Từ năm 2003, ngân hàng đã chuyển giao việc cho vay hộ nghèo cho NHCS, mặc dù họ vẫn đang thực hiện tín dụng do các tổ chức quốc tế tài trợ thông qua nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cùng với các chương trình tín dụng khác do chính phủ chỉ đạo. Vốn vay của NHNo chủ yếu cung cấp cho những người nông dân ở khu vực nông thôn. Mức vốn cho vay dưới 10 triệu đồng không đòi hỏi thế chấp nếu như được các đoàn thể như Hội Phụ nữ , Hội Nông dân... bảo lãnh, mức vốn trên 10 triệu đồng cần phải có thế chấp. Ngân hàng ít có đại diện xuống đến mức làng nhưng thường có văn phòng ở cấp quận. Đến cuối năm 2007, tổng tài sản đạt 325.802 tỷ đồng tương đương với 20 tỷ USD gấp gần 220 lần so với ngày đầu thành lập. Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 242.102 tỷ đồng trong đó cho vay nông nghiệp nông thôn chiếm trên 70% với trên 10 triệu hộ gia đình, cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm trên 36% với gần 3 vạn doanh nghiệp dư nợ, tỷ lệ nợ xấu theo chuẩn mực mới, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế là 1,9%. NHNo hiện có hơn 2200 chi nhánh và điểm giao dịch được bố chí rộng khắp trên toàn quốc với gần 30.000 cán bộ nhân viên.
Trong số các TCTCVM, chỉ NHNo có hoạt động thanh toán tương đối phát triển. Hiện nay NHNo là TCTCVM lớn nhất liên kết với mạng chuyển tiền quốc tế Western Union, thực hiện chuyển tiền trong nước, phát hành và quản lý thẻ ATM với hơn 400 máy ATM trên toàn quốc.
Tuy là ngân hàng lớn nhất cho nông dân vay tiền, số tín dụng vi mô do ngân hàng này cung cấp tương đối giới hạn vì hai lý do: thứ nhất, ngân hàng này tuy do trung ương kiểm soát nhưng không được ủy nhiệm phục vụ dân nghèo và thứ hai, chính ngân hàng không khuyến khích phát triển tín dụng vi mô – vì hoạt động chính của ngân hàng là cung cấp tín dụng thương mại cho giới không nghèo.
Các quỹ tín dụng Nhân dân
Quỹ TDND Trung ương được thành lập lần đầu tiên vào năm 1993. Mô hình này dựa trên hệ thống Caisse Populaire của Quebec, Canada. Quỹ TDND là tổ chức tín dụng nông thôn thành lập tại xã để cung cấp dịch vụ tài chính cho các hộ nông dân tại địa phương. Đến nay, hệ thống Quĩ TDND có 1.018 quĩ ở các cấp cơ sở, vùng và trung ương, tổng nguồn vốn hoạt động 6.352 tỷ đồng, tăng 1,7% so với năm 2007; vốn điều lệ đạt 612,5 tỷ đồng; tổng số các quỹ tích lũy từ lợi nhuận ròng là 111 tỷ đồng, tăng 18%. Số dư nguồn vốn huy động đạt 3.985,4 tỷ đồng, chiếm 62,7% tổng nguồn vốn. Dư nợ cho vay trong hệ thống 2.238 tỷ đồng… Riêng năm 2008, quỹ đạt lợi nhuận 160 triệu đồng. QTD Long Vân (Thanh Hóa) đã cho 1.369 hộ vay khoảng 18 tỷ đồng, trong đó có khoảng 60% hộ vay đầu tư phát triển chăn nuôi, trồng trọt, 40% đầu tư vào kinh doanh, dịch vụ.
QTDND được đánh giá cao về khả năng tiếp cận khách hàng và độ tiện ích của dịch vụ, nhưng bị giới hạn ở phạm vi hoạt động trong cấp xã. do đặc điểm là tổ chức tín dụng phi ngân hàng, hoạt động của QTDND chỉ bó hẹp trong phạm vi cung cấp các dịch vụ tài chính cho các thành viên của quỹ. Hiện nay, chỉ mới có 2 quỹ được phép tiến hành thử nghiệm dịch vụ chuyển tiền, trong khi nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng ở nông thôn đang ngày càng tăng trưởng mạnh mẽ, đẩy vị thế hoạt động của các quỹ ngày càng eo hẹp.
Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện Việt Nam
Công ty dịch vụ TKBĐ (VPSC) được thành lập vào năm 1999 và hoạt động dưới quyền của Tổng cục Bưu chính viễn thông Việt Nam. Là một mạng những hợp tác xã tài chính hoạt động độc lập vừa nhận tiền tiết kiệm của dân vừa phát hành tín dụng vi mô cho bộ phận dân cư Việt Nam chưa được phục vụ đầy đủ. Theo Quyết định 215/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, VPSC được phép huy động tiền nhàn rỗi trong dân cư thông qua các dịch vụ tiết kiệm bưu điện (TKBĐ) để chuyển giao cho Quỹ Hỗ trợ phát triển – đây là Quỹ huy động vốn trung và dài hạn, tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn của Nhà nước dành cho tín dụng đầu tư phát triển, hiện nay đã được chuyển đổi thành ngân hàng Phát triển Viển Nam (VDC); ngoài ra VPSC không được phép cung cấp dịch vụ gì khác. Đến nay tổng số vốn Công ty Dịch vụ Tiết kiệm bưu điện chuyển giao cho Quỹ Hỗ trợ Phát triển đã lên tới 8.500 tỷ đồng.Vốn điều lệ của Công ty Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện do Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam VNPT cấp hiện nay là 163 tỷ đồng. Hiện nay, công ty đã có 803 chi nhánh hoạt động trên 63 tỉnh thành.
Khu vực bán chính thức
Các tổ chức bán chính thức không hoạt động theo các qui định về tài chính giống như các chương trình của chính phủ, bao gồm các chương trình do các tổ chức phi chính phủ (quốc tế và trong nước) tài trợ và các quỹ hoạt động chuyên lãnh vực tài chính vi mô liên quan đến các tổ chức đoàn thể (._.tiếp cận, phục vụ khách hàng và tạo ra khả năng huy động vốn và vay vốn thương mại từ nguồn trong nước và quốc tế cho các tổ chức TCVM bán chính thức nhằm tăng vốn để tiếp tục tăng trưởng và mở rộng. Nghị định cũng mở ra cơ hội cho các tổ chức mới tham gia vào thị trường.
Sơ đồ 6: Tiến trình của Nghị định 28&165 và thông tư số 02/2008/TT-NHNN.
Một chương trình tài chính vi mô có nguyện vọng đăng kí trở thành tổ chức tài chính vi mô độc lập cần phải đáp ứng đầy đủ các quy định của hai Nghị định và Thông tư nói trên. Các qui định này bao gồm: Có đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, có kế hoạch kinh doanh khả thi, có báo cáo tài chính được kiểm toán, điều lệ hoạt động của tổ chức, và tham khảo ý kiến của chính quyền địa phương.
Bảng 7: Thay đổi chính trong Nghị định 165
Nghị định số 28
Nghị định số 165
2 mức vốn pháp định
- Được phép chấp nhận tiết kiệm tự nguyện, mức vốn pháp định phải > 5 tỷ đồng.
- Không được nhận tiết kiệm tự nguyện, vốn pháp định > 500 triệu đồng.
1 mức vốn pháp định
Có thể nhận tiết kiệm tự nguyện. Mức vốn pháp định > 5 tỷ đồng.
Nếu không được cấp phép phải ngừng hoạt động
Nếu không được cấp phép, các chương trình TCVM có thể tiếp tục hoạt động với điều kiện:
- Không được huy động tiết kiệm tự nguyện.
- Dư nợ tiết kiệm chiếm dưới 50% vốn tự có.
Bên cạnh đó, các tổ chức TCVM bán chính thức còn phải đảm bảo đáp ứng được các tiêu chuẩn sau về vốn và tiết kiệm: Vốn điều lệ (vốn tự có) ít nhất là 5 tỷ đồng (tương đương khoảng 310.000 USD). Dư nợ cho vay TCVM ít nhất chiếm 65% tổng dư nợ cho vay, theo đó một khoản vay TCVM phải nhỏ hơn 30 triệu đồng (khoảng 1.800 USD). Dư nợ rủi ro phải dưới 5% tổng dư nợ cho vay. Tổ chức TCVM phải có khả năng tự trang trải mọi chi phí trong thời gian ít nhất là một năm liền trước khi đăng ký, bao gồm cả chi phí dự phòng mất vốn (nghĩa là tỷ lệ tự vững về hoạt động > 100%).
Nghị định số 28 & 165 quy định loại hình và số tiền tiết kiệm mà các chương trình TCVM không đăng kí theo nghị định được phép huy động (các tổ chức được cấp phép gặp ít hạn chế hơn nhiều vì đã chịu sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước). Những hạn chế chính đối với các tổ chức TCVM chưa đăng ký bao gồm: Không được phép huy động tiết kiệm tự nguyện và Tổng dư tiết kiệm phải nhỏ hơn 50% vốn tự có. Vì không được phép huy động tiết kiệm tự nguyện, điều này có nghĩa là số dư tiết kiệm bắt buộc phải nhỏ hơn 50% vốn tự có. Nên nhiều chương trình có thể sẽ phải hoặc giảm số dư tiết kiệm hoặc tăng vốn tự có. Một chương trình có tỷ lệ tiết kiệm/vốn tự có cao cho biết họ sẽ giải quyết vấn đề này bằng cách chuyển vốn vay ưu đãi thành vốn tự có, nhờ đó dễ dàng giảm tỷ lệ số dư tiết kiệm/vốn tự có xuống chính xác 50%. Đối với hầu hết các chương trình TCVM, việc này sẽ ít ảnh hưởng đến hoạt động của chương trình, vì số dư tiết kiệm tự nguyện chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với tổng dư nợ... Khoảng một nửa các chương trình TCVM Việt Nam đã đạt số dư tiết kiệm lớn hơn 50% vốn tự có, và một phần ba các chương trình huy động tiết kiệm tự nguyện.
Tuy nhiên, việc chuyển đổi trong mỗi một tổ chức tài chính vi mô để trở thành định chế độc lập, hoạt động bền vững hơn theo các nghị định nêu trên còn gặp nhiều khó khăn do chính bản thân của tổ chức. Một số chương trình tài chính vi mô đã gặp phải khó khăn trong việc hoàn tất điều lệ như M7 và một số tổ chức TCVM bán chính thức khác về nội bộ tổ chức: ai là chủ sở hữu vốn? Quỹ xã hội, Hội Phụ nữ hay là UBND? Nguồn vốn tài trợ ban đầu hay thu nhập tích lũy? Góp bao nhiêu? Lấy từ nguồn nào? Cấu trúc bộ máy nhân sự sẽ ra sao? Nhân sự cho bộ máy là ai? Lương thưởng thế nào? Trụ sở đặt ở đâu? Chi phí cho bộ máy trên lấy từ đâu?.... Hiện tại, có rất nhiều tổ chức TCVM bán chính thức do ban đầu liên kết với các cấp đoàn thể và nhận nguồn vốn tài trợ của các tổ chức phi chính phủ trong thời gian đầu hoạt động nên có cấu trúc tổ chức cồng kềnh, quản lý chưa có sự phối hợp, vai trò trách nhiệm chưa rõ ràng. Do đó, việc tái cơ cấu để được chuyển đổi thành tổ chức độc lập gặp rất nhiều khó khăn.
Bảng 8 liêt kê một số tổ chức tài chính vi mô bán chính thức lớn ở Việt Nam có khả năng và đáp ứng đủ điều kiện của hai Nghị định và Thông tư nói trên. Trong số các chương trình ở bảng 7, TYM và CEP dường như chắc chắn sẽ là hai tổ chức TCVM đầu tiên được cấp phép theo Nghị định.
Bảng 8: Các chương trình TCVM đáp ứng được các yêu cầu định lượng của Nghị định số 28 & 165 tính đến ngày 31/12/2007
Các chương trình TCVM
đáp ứng được yêu cầu về vốn (vốn tự có lớn hơn 5 tỷ đồng)
Các khoản
vay nhỏ > 65%
tổng dư nợ cho
vay
Dư nợ rủi ro
< 5% tổng dư nợ cho vay
Khả năng tự
vững về hoạt
động >100%
Bình Minh CDC
Có
Có
Phần lớn (95%)
CEP Bà Rịa Vũng Tàu
Có
Có
Có
CEP
Có
Có
Có
WU Hà Tĩnh
Có
Có
Có
NMA
Có
Có
Có
SNV NAPA
Có
Có
Có
TCVM Thanh Hóa
Có
Có
Có
TYM
Có
Có
Có
Dự án tín dụng Việt - Bỉ
Có
Có
Có
Nguồn: Bản tin TCVM số 11
Sự ra đời của thông tư 02/TT-NHNN ngày 2/4/2008 hướng dẫn thực hiện nghị định số 28 và 165 chắc chắn đã tạo nên hành lang pháp lý cụ thể cho hoạt động của khu vực này bằng việc chỉ rõ cái gì là được phép và cái gì là không được phép. Điều rõ ràng đây là bước đi quan trọng của Chính phủ nhằm phát triển hoạt động tài chính vi mô. Mở rộng khả năng tiếp cận tài chính chính thức cho người nghèo không chỉ tạo điều kiện cho việc huy động và trung gian vốn cho nền kinh tế, mà còn cho phép người nghèo bảo vệ, đa dạng hóa và tăng nguồn thu nhập của mình. Tuy nhiên, nghị định vẫn để ngỏ rất nhiều các chi tiết cho Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức khác tự quyết định bằng việc ban hành rất nhiều thông tư, hướng dẫn, quy định chỉnh lý,… để thực hiện nghị định. Với sự giúp đỡ của Ngân hàng nhà nước, Cơ quan Phát triển Pháp (AFP) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã cam kết hỗ trợ 3 triệu USD giúp ngành tài chính vi mô Việt Nam có được những tổ chức chuyên nghiệp, đủ năng lực hoạt động thông qua việc đào tạo nguồn nhân lực.
Các tổ chức tài chính vi mô nhận được sự hỗ trợ từ các tổ chức đoàn thể và các NGO
Như đã nói ở trên, tác động của các tổ chức đoàn thể đến các tổ chức TCVM đã tạo ra nhiều thuận lợi cho sự phát triển của các tổ chức vi mô này ở nhân sự và địa bàn hoạt động. Do đa số các quỹ, chương trình TCVM đều thuộc các hội đoàn thể trong nước, và cũng nhận hỗ trợ từ các NGO nên có chuyên môn về lĩnh vực xã hội và phi tài chính tạo điều kiện thuận lợi trong việc hiểu rõ địa bàn hoạt động, nắm bắt nhu cầu khách hàng.
Điển hình như Hội phụ nữ là một tổ chức chính trị xã hội, thành viên của Mặt Trận tổ quốc Việt Nam. Hội phụ nữ có một mạng lưới cơ sở rộng khắp tại các làng xã tại Việt Nam do đó họ thường là một đối tác hết sức tích cực của các hương trình TCVM tại địa phương. Thậm chí, một số chương trình mặc dù không sử dụng cán bộ Hội cấp xã làm cán bộ tín dụng nhưng vẫn sử dụng họ trong vai trò cán bộ giám sát. Các chương trình TCVM có sử dụng cán bộ của Hội phụ nữ làm cán bộ tín dụng có tổng chi phí và chi phí hoạt động chỉ bằng khoảng một phần ba so với các chương trình TCVM không sử dụng cán bộ của Hội phụ nữ. Bởi những cán bộ này hiểu khách hàng và những khó khăn của họ. Nắm bắt được những rủi ro môi trường nằm ngoài khả năng kiểm soát của khách hàng như thiên tai, dịch bệnh, thiếu điều luật, chỉ thị… Tuỳ từng trường hợp cụ thể, cân nhắc một số phương pháp tiếp cận quen thuộc với khách hàng như đưa ra thời gian ân hạn hợp lý trước khi tính tiền phạt, và lên lại kế hoạch vay vốn. Và những chương trình này cũng nhận được rất nhiều trợ cấp không chính thức từ Hội phụ nữ. Cấu trúc chi phí thấp hơn đồng nghĩa với việc những chương trình TCVM sử dụng cán bộ của Hội phụ nữ có thể áp dụng lãi suất thấp hơn một phần ba so với những chương trình TCVM không sử dụng cán bộ của Hội phụ nữ - doanh thu sẽ ít hơn một phần ba - mà vẫn trang trải được các chi phí.
Bên cạnh Hội Phụ nữ, còn có các đoàn thể khác như Hội Nông Dân, Hội Cựu Chiến Binh, Liên Hiệp Thanh Niên... cũng đóng vai trò tích cực. Các tổ chức, chương trình tài chính vi mô ở Việt Nam thành công một phần cũng là nhờ sự tham gia của một mạng lưới các đoàn thể xã hội có mặt khắp nơi.
Khó khăn, nguyên nhân
Thiếu các quy định quản lý TCVM một cách rõ ràng
Không có khung pháp lý rõ ràng khiến cho TCVM thường được nhìn nhận là một công cụ xã hội hơn là một phần của khu vực tài chính.
Trong một thời gian dài chính phủ ở cấp trung ương và địa phương đã nhìn nhận TCVM là một công cụ xã hội và nhân đạo để xóa đói giảm nghèo thay vì coi đây là một công cụ kinh tế để tăng trưởng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của người nghèo. Do đó, thiếu các thông tin hướng dẫn hoạt động như xác định đối tượng, mục tiêu, phương pháp cho vay, cơ cấu thể chế cho các tổ chức TCVM.
Về cơ cấu tổ chức của các tổ chức tài chính vi mô
Những tổ chức TCVM bán chính thức được Chính phủ công nhận nhưng nó vẫn chưa được thể chế hóa và quản lý bởi Ngân hàng Nhà nước trong thực hiện chức năng tài chính. Khu vực bán chính thức thường là nhỏ và chỉ chiếm khoảng 5% thị phần tín dụng nông thôn. Đa số các tổ chức TCVM được tài trợ bởi các NGO... Do vây, đa số các tổ chức tài chính vi mô bán chính thức có những hạn chế sau – Đây cũng là những hạn chế lớn nhất của các tổ chức này.
Những dự án của các NGO quốc tế thường là phục vụ cho những mục tiêu xã hội ngắn hạn trong đó có kết hợp với dịch vụ tài chính. Sau khi dự án cho tài chính vi mô hoàn thành thì họ lại chuyển sang những dự án mới vì vậy tài chính vi mô thiếu sự bền vững.
Các NGO quốc tế không có những chiến lược dài hạn cho khu vực tài chính vi mô.
Thiếu sự rõ ràng trong việc sở hữu nguồn vốn
Cơ chế tài chính vi mô thiếu những kỹ năng chuyên nghiệp, nhân viên thường là làm việc bán thời gian.
Thiếu cơ cấu rõ ràng
Thiếu hệ thống kiểm soát nội bộ
Thiếu khung pháp lý để phát triển tổ chức và huy động vốn
Khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay còn hạn chế
Hiện nay, các tổ chức TCVM bán chính thức không được phép vay vốn từ các ngân hàng thương mại hoặc từ các ngân hàng đầu tư nước ngoài. Trên thực tế, các tổ chức này đã phải dựa chủ yếu vào cá khoản đóng góp và viện trợ của các tổ chức NGO hoặc các tổ chức đoàn thể trong nước và điều đó làm hạn chế rất lớn khả năng của các tổ chức này.
Tất cả các tổ chức tài chính vi mô đang thiếu sự hiểu biết về tài chính và tài chính vi mô.
Sự kết hợp giữa các tổ chức tài chính vi mô và các dịch vụ khuyến nông là chưa hiệu quả. Sau 10 năm hoạt động, hầu hết cac tổ chức tài chính vi mô vẫn chưa đạt tới trình độ chuyên môn cần thiết về tài chính vi mô. Một vấn đề nghiêm trọng hơn là tổ chức tài chính vi mô đang thiếu văn hóa cho vay thương mại: nó cung cấp những vốn vay ưu đãi từ chính phủ đến các hộ gia đình nghèo thông qua các đoàn thể địa phương (như Hội Nông dân và Hội Phụ nữ), và được Chính phủ bao cấp hết mọi khoản mất mát và rủi ro của vốn vay
Phần lớn các chương trình TCVM quá nhỏ và phân tán nên không tạo được tác động lớn và bền vững
Do hầu hết các tổ chức cung cấp TCVM là tổ chức phi chính phủ đa mục đích, trọng tâm ban đầu của họ là phát triển cộng đồng địa phương chứ không phải là phát triển một mạng lưới cấp quốc gia các tổ chức tài chính phục vụ người nghèo. Do vậy, tài chính vi mô Viêt Nam đã phát triển một cách rời rạc, mỗi tỉnh hoặc địa phương hoạt động một cách riêng rẽ với những mục đích và mục tiêu của mình. Thiếu sự liên kết mang tính mạng lưới giữa các tổ chức cung cấp tài chính vi mô ở Việt Nam.
Thiếu nguồn nhân lực tổng hợp về TCVM và đơn vị chuyên trách theo dõi, giám sát hoạt động của các tổ chức TCVM
Do đặc điểm hoạt động riêng biệt của các TCTVM bán chính thức không chuyên môn hóa trong lĩnh vực tài chính nông thôn, nhiều tổ chức không thực hiện thu thập và quản lý dữ liệu thường xuyên. Trong số 44 TCTCVM bán chính thức gửi báo cáo cho nhóm công tác tài chính vi mô MFWG, 70% có tỷ lệ tự vững cao hơn 100%. Do thiếu tính chuẩn hóa trong tính toán, các TCTCVM bán chính thức quản lý tài chính không theo một khuôn mẫu nhất định, các chi phí tài chính hạn chế (rất ít vốn đi vay), năng lực và kỹ năng quản lý dựa chủ yếu vào các tổ chức quần chúng hợp tác như hội phụ nữ và hội nông dân. Do vậy hiệu quả và tính chuyên nghiệp cũng như sự minh bạch không cao.
Thách thức trong thời gian tới
Tình hình kinh tế không ổn định
Thâm hụt ngân sách trong 2007 là 5.9% là một trong những lý do làm làm phát tăng cao trong quý 1 năm 2008 đã gây lo ngại cho việc duy trì phát triển kinh tế bền vững. Chỉ số tiêu dùng CPI của năm 2007 đã chạm mức 10.95% so với mức tăng trưởng GDP là 8.5%. Chỉ số tiêu dùng năm 2008 là 22,97% đã kéo theo sự gia tăng các giá cả khác, như giá đầu vào nông nghiệp (phân bón, giống, xăng v.v). Khủng hoảng kinh tế thế giới và trong nước làm tăng nguy cơ gia tăng số lượng người nghèo và từ đó sẽ gây ra những tác động bất lợi lên ngân sách quốc gia và ổn định xã hội. Kinh tế thị trường không có trợ giá cho hàng nông sản và nông nghiệp làm cho nông dân và người đi vay vốn khó khăn hơn với việc cân bằng giá cả đầu vào và giá trị nông sản bán được. Ảnh hưởng đến tâm lý của khách hàng, đồng việc giao dịch với các nhà tài trợ cung cấp vốn nước ngoài gặp khó khăn do tỷ giá hối đoái không ổn định.
Các nhà tài trợ đưa ra các chuẩn mực ưu tiên cấp vốn
Gần đây, các nhà tài trợ dường như đã chuyển trọng tâm can thiệp của mình sang hỗ trợ các hiệp hội quốc gia hoặc các hoạt động xây dựng ngành thay vì các hoạt động phát triển thể chế. Một số nhà tài trợ khác lại chuyển dần các quỹ vốn vay và các khoản tài trợ không hoàn lại của họ sang thành lập hệ thống TCVM của riêng họ. Do đó, sẽ có lợi và hiệu quả hơn khi các tổ chức TCVM này chuyển các yêu cầu xin tài trợ thông qua một tổ chức của gành TCVM như một Hiệp hội quốc gia hoặc một Nhóm công tác.
Lãi suất trong nước có nhiều biến động
Thủ tướng chính phủ ngày 17 tháng 5 năm 2008 đã ra quyết định bỏ mức lãi suất cho vay trần đối với các tổ chức tín dụng, nhưng lại quyết định diện mức lãi suất tiết kiệm mới. Tuy nhiên, sau khi bỏ quy định về mức lãi suất tiết kiệm, các ngân hàng, bao gồm cả các ngân hàng vốn nhà nước và ngân hàng thương mại bắt đầu chạy đua lãi suất để cạnh tranh. Trong tình huống hiện tại, các tổ chức tài chính vi mô sẽ khó cạnh tranh hơn với ngân hàng thương mại khi họ khó đưa ra được các giải pháp đối với việc thay đổi mức lãi suất nhanh chóng như các ngân hàng đưa ra. Do đó ảnh hưởng tới tâm lý và niềm tin của khách hàng.
Nhiều kênh dịch vụ tài chính, cạnh tranh hơn
Sự hiện diện của hai tổ chức tài chính chính thức là NHCS và NHNo đã đẫn đến một thị trường phi cạnh tranh, đẩy các tổ chức TCVM bán chính thức ra ngoài lề. Song với các nghị định và thông tư đã nêu ở trên, các tổ chức TCVM bán chính thức hoàn toàn có tư cách pháp nhân và hoạt động độc lập, được thừa nhận như là một “doanh nghiêp” cạnh tranh bình đẳng.
Bên cạnh đó đã xuất hiện nhiều nhà đầu tư tài chính vi mô chuyên nghiệp của nước ngoài tìm đến Việt Nam để đầu tư vào lĩnh vực tài chính vi mô nhưng với điều kiện về khung pháp lý, hệ thống chính sách chưa hoàn chỉnh như hiện nay đã khiến các tổ chức này còn ngần ngại tiếp cận thị trường
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH VI MÔ
Phương hướng hoạt động của tài chính vi mô trong thời gian tới
Dưới tác động của những nghị định đã được ban hành, trong thời gian tới, các tổ chức tài chính tài chính vi mô có phương hướng hoạt động cụ thể như sau
Chuyển đổi các chương trình, tổ chức tài chính vi mô bán chính thức trở thành định chế có tư cách pháp nhân để TCVM có thể trở nên chuyên nghiệp, bền vững, và hiệu quả.
Phát triển mạng lưới dịch vụ ngân hàng cho người nghèo (Hiệp hội TCVM). Mang lại sự tiếp cận ổn định của các hộ có thu nhập thấp và hộ nghèo và các doanh nghiệp nhỏ đến các dịch vụ tài chính chính thức là trọng tâm của chiến lược phát triển thị trường tài chính vi mô. Hiệp hội sẽ là đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức tài chính vi mô, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước có những đề xuất với Chính phủ liên quan đến hoạt động tài chính vi mô.
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của tài chính vi mô hiện nay
Đối với chính phủ
Một trong bốn mục tiêu quan trọng của phát triển nông thôn trong thời gian 5 năm tới là “cải thiện mức sống và điều kiện sống của dân cư nông thôn, đặc biệt là người nghèo thông qua tăng cường vai trò của người dân”, tiếp tục duy trì công cuộc giảm nghèo ấn tượng trong thời gian qua. Để đạt được mục tiêu này, có tám chiến lược chính, trong đó có chiến lược “tăng khả năng tiếp cận đến các dịch vụ tài chính ở nông thôn để hỗ trợ cho các hộ gia đình ổn định thu nhập của họ bằng tiết kiệm, bảo hiểm cây trồng vật nuôi, bình ổn giá”. [13]. Do đó, tài chính vi mô đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện chiến lược trên. Nhằm thúc đẩy hơn nữa sự hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô, chính phủ nên có những chính sách khuyến khích, đồng thời tạo ra một thị trường cạnh tranh công bằng và minh bạch hoạt động cho các tổ chức này,
Xây dựng chiến lược quốc gia về TCVM
Một ngành TCVM bền vững và hiệu quả cần phải có một môi trường chính sách để thực thi. Từ đó sẽ tạo ra môi trường thuận lợi để TCVM phát triển đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước. Hệ thống chính sách này giúp cân bằng lợi ích giữa các bên; phát triển hoạt động trên nguyên tắc thị trường, theo hướng hiện đại đáp ứng yêu cầu hội nhập và các điều kiện môi trường vĩ mô đồng bộ cũng sẽ tạo điều kiện, tạo sân chơi công bằng cho các TCTCNT phát triển.
Kinh nghiệm từ nhiều nước còn cho thấy, vai trò của Chính phủ là tạo môi trường thuận lợi cho tài chính vi mô phát triển chứ không phải là trực tiếp tham gia vào công tác quản lý các khoản vay này. Song, hiện nay không có chính sách hay chiến lược toàn diện nào đề ra tầm nhìn và định hướng phát triển cho ngành TCVM trong 10 năm tới. Để đảm bảo có sự tiếp cận thống nhất trong việc đối phó với những thách thức mà ngành TCVM phải đối mặt, khuyến khích một thị trường cạnh tranh bình đẳng và minh bạch cho TCVM, cần xây dựng một chính sách hoặc chiến lược toàn diện cho sự phát triển của ngành TCVM, có sự đồng thuận của các bên liên quan, đồng thời xác định được các nhiệm vụ cụ thể và các mốc quan trọng cần đạt được.
Các chiến lược nên tập trung vào: (1) tạo môi trường pháp lý cho tài chính vi mô; (2) phát triển các cơ sở nền tảng về tài chính; (3) xây dựng các thể chế cần thiết; (4) ủng hộ việc cải cách hướng về người nghèo; (v) hỗ trợ những tác nhân xã hội; và (6) xây dựng năng lực cho nguồn nhân lực.
1.2. Xây dựng hệ thống giám sát kiểm tra cho hoạt động tài chính vi mô
Cần có một tổ chức như Hiệp hội tiến hành thống kê toàn diện về các chương trình TCVM ở Việt Nam nhằm cải thiện tông tin về ngành TCVM. Đồng thời giám sát hoạt động và đưa ra các chuẩn mực so sánh. Thông tin thu nhập được sẽ góp phần hỗ trợ NHNN và Bộ Tài chính trong việc soạn thảo các thông tư hướng dẫn. Đồng thời đó cũng là cơ sở để xây dựng hệ thống chính sách, chiến lược phát triển cho nhành TCVM.
Ngân hàng Nhà nước cũng nên có các hoạt động tăng cường quản lý và giám sát hoạt động của các TCVM ở các cấp
- Mỗi huyện cử 1 người phụ trách các hoạt động TCVM trong huyện.
- Hoàn thiện các quy trình và mẫu biểu chung cơ bản cho các tổ chức TCVM
1.3. Chính phủ và ngân hàng Chính sách xã hội nên tập trung đầu tư có trọng điểm vào những khu vực thực sự khó khăn
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng, các hoạt động nâng cao dân trí cho các địa phương, đặc biệt là vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn… sẽ tạo điều kiện để nhiều người nghèo có thể biết đến và tham gia các dịch vụ TCVM nhiều hơn.
Do vậy, bất cứ một chương trình nào hỗ trợ người nghèo ở những vùng nông thôn đều đòi hỏi phải đánh giá đầy đủ về các yếu tố xã hội (bao gồm cả quyền sở hữu đất đai), cơ sở hạ tầng, chính trị và kinh tế (bao gồm sản phẩm, dịch vụ và thị trường vốn). Đánh giá này cho phép chương trình có thể đáp ứng được các vấn đề ở địa phương - những vấn đề có tác động đến khả năng giúp đỡ những người cần đến chương trình, đặc biệt là những người rất nghèo, và giúp họ thoát khỏi cảnh nghèo.
Đối với các tổ chức TCVM
2.1. Tăng cường đầu tư phát triển hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D).
Hiện nay, các tổ chức tài chính vi mô cung cấp các loại hình tín dụng, tiết kiệm còn kém đa dạng, đa số các khoản vay đều là vay ngắn hạn cho sản xuất, để phát triển tổ chức bền vững thì các tổ chức này cần nghĩ đến các loại sản phẩm phù hợp hơn với nhiều đối tượng. Các TCTCVM cần phát triển hệ thống dịch vụ tài chính đa dạng hơn, đa tiện ích, được định hướng theo nhu cầu của nền kinh tế. Tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả các dịch vụ tài chính truyền thống, đồng thời tiếp cận nhanh các dịch vụ tài chính ngân hàng hiện đại có hàm lượng công nghệ cao. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các dịch vụ tài chính theo nguyên tắc thị trường, minh bạch, hạn chế bao cấp và chống độc quyền cung cấp dịch vụ tài chính.
Phát triển các sản phẩm, dịch vụ tài chính bền vững, nhất là các hình thức tiết kiệm để có thể phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu của khách hàng là người dân nghèo Việt nam
Tăng mức hoạt động: số lượng khách hàng và lượng tiền cho vay, sao cho không làm ảnh hưởng đến chất lượng và danh mục đầu tư;
Quản lý các chi phí giao dịch để không ảnh hưởng đến chất lượng chung của các dịch vụ và trách nhiệm của khách hàng;
Tăng phạm vi thu nhập từ các khoản vay bằng cách đảm bảo trả vốn đúng kỳ và tăng danh mục đầu tư vay;
Triển khai các hoạt động phát triển cộng đồng do những người có kỹ năng thực hiện và đồng thời có thể đào tạo lại cho các cán bộ cộng đồng, đây là hoạt động có ảnh hưởng tích cực lâu dài đối với những giải pháp phát triển tiềm năng có sự tham gia của người dân. Các dịch vụ trợ giúp và chương trình xã hội là rất cần thiết ngay từ ban đầu, và luôn luôn là cần thiết, chỉ có khoảng 10% người dân là thực sự có thể chuyển sang các hoạt động tín dụng và kinh doanh.
Đào tạo nhân lực có chuyên môn về tài chính ngân hàng, quản lý tài chính, chuyên nghiệp hóa cán bộ.
Nhân lực chuyên trách chính là một yếu tố quan trọng giúp các tổ chức tài chính vi mô hoạt động bền vững. Do đó, việc đào tạo nhân lực là hết sức quan trọng, đặc biệt là trong quá trình chuyển đổi tổ chức thành định chế độc lập. Một số cách thức sau có thể nên được thực hiện tại các tổ chức TCVM.
Xây dựng một chế độ quản lý tốt bằng việc tuyển vào tổ chức những thành viên có năng lực và chuyên môn, có kinh nghiệm và đồng ý cam kết lâu dài với tổ chức;
Xây dựng một nhóm quản lý mạnh (không phải chỉ là 1 người) và đội ngũ cán bộ có năng lực;
Xây dựng cơ chế thẩm định cán bộ;
Đảm bảo kế hoạch và phân bổ ngân sách cho các khoá định hướng lần đầu và cho đào tạo cán bộ định kỳ. Các đối tượng được đào tạo nên tập trung vào (i) các cán bộ liên quan trực tiếp tới các dịch vụ tài chính ở tất cả các cấp (như cán bộ tín dụng, kế toán, cán bộ huy động vốn…), và (ii) đội ngũ lãnh đạo, tập trung vào ban giám đốc và chủ tịch hội đồng quản trị.
Nâng cao khả năng quản lý vốn và điều hành tổ chức
Như đã nói ở trên, hạn chế lớn nhất của các chương trình, tổ chức tài chính vi mô này được chỉ ra là hoạt động thiếu chuyên nghiệp, năng lực quản trị điều hành yếu và quy mô vốn nhỏ do mới dừng lại ở các tổ chức phi chính phủ, chưa huy động được từ các tổ chức kinh tế có nguồn tài chính dồi dào hơn. Do đó, cần xác định cụ thể tính chất sở hữu và mô hình hoạt động của tổ chức. Một vài biện pháp sau có thể sẽ cải thiện được phần nào hạn chế đó.
Xây dựng một kế hoạch thực tiễn để nâng cao hiệu quả, chú trọng vào lợi nhuận của các hoạt động tài chính vi mô;
Xây dựng các hệ thống thể chế mạnh – sách hướng dẫn về chính sách và hoạt động của tổ chức (điều lệ hoạt động);
Xây dựng một kế hoạch dài hạn nhằm giảm bớt tính phụ thuộc vào các nhà tài trợ; Tuy nhiên sau khi được chuyển đổi thành định chế độc lập, các tổ chức TCVM bán chính thức sẽ được vay vốn từ các ngân hàng trong nước, do đó sẽ tăng khả năng thanh khoản.
Đối với cá tổ chức TCVM không được thừa nhận theo hai nghị định đã nêu trên thì nên tập hợp các nguồn vốn lại để có thể quản lý hiệu quả hơn
Xin ý kiến đồng thuần từ cá nhà tài trợ để tập hợp các nguồn vốn ở cấp huyện và cấp tỉnh.
Đồng thời hoàn thiện chính sách vốn ở cấp huyện, mục tiêu là có ít nhất 1 cán bộ chuyên trách cho TCVM tại địa bàn.
Tối ưu hóa việc sử dụng thông tin và hệ thống thông tin quản lý, quản lý rủi ro
Để có thông tin với chất lượng cao, tránh tình trạng thông tin không cân xứng và mất thông tin, các TCTCVM cần chú ý tới việc thu thập thông tin thường xuyên, cập nhật thông tin về khách hàng hiện tại cũng như khách hàng tiềm năng; thu thập thêm thông tin về các yếu tố môi trường kinh tế, chính trị, xã hội nông thôn. Mở rộng đầu tư phát triển hệ thống thông tin liên lạc tại các cơ sở chi nhánh, tránh xảy ra rủi ro do bị mất thông tin
Bên cạnh đó, quản lý rủi ro là công việc chung của cả tổ chức, trong đó các mảng hoạt động tín dụng đóng vai trò quan trọng. Do đó, để phòng ngừa rủi ro chưa xảy ra trong quá trình thực hiện nghiệp vụ; nhận diện các rủi ro tiềm ẩn các TCTCVM cần tăng cường kiểm tra kiểm soát nội bộ nhằm phòng ngừa rủi ro, nhận diện rủi ro; đa dạng hóa danh mục đầu tư để chia sẻ rủi ro (điều này là khá khó khăn ở khu vực nông thôn).
Mở rộng các hoạt động quảng bá sản phẩm tín dụng
Tuyên truyền, quảng bá về các sản phẩm của mình là điều cần thiết nhất là trong tình hình kinh tế cạnh tranh và có nhiều biến động. Tuyên truyền về các sản phẩm, dịch vụ tài chính, chính sách, tăng cường các hoạt động phát triển dựa vào địa phương và cộng đồng bằng cách tăng cường các tờ rơi, quảng cáo về các sản phẩm, dịch vụ cũng như chính sách của tổ chức, được phát cho khách hàng tại các buổi họp cụm, nhóm. Kết hợp với các tổ chức đoàn thể trong huyện, xã mở các lớp học về chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi...Mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay cho người nghèo.
Tóm lại: Mục tiêu cuối cùng của tất cả các giải pháp và kiến nghị này là tạo điều kiện và giúp các TCTCVM Việt Nam phát triển hoạt động mạnh mẽ hơn, xứng đáng với tiềm năng và đạt yêu cầu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Từ đó, sẽ giúp những người nghèo có khả năng tiếp cận được với các dịch vụ tài chính và phi tài chính nhiều hơn, qua đó nâng cao thu nhập và đời sống gia đình, giảm đói nghèo và bất bình đẳng.
KẾT LUẬN
Với những điều đã được trình bày ở trên, tôi hi vọng đã mang đến một cái nhìn tương đối hoàn chỉnh về vấn đề họat động tài chính vi mô tại Việt Nam. Mặc dù, như đã trình bày, trong quá trình phát triển, tài chính vi mô có những điểm mạnh, khuyết điểm, cản trở cần khắc phục, nhưng các kết quả đạt được cho đến nay cho thấy đấy là một phương thức xoá đói giảm nghèo có hiệu quả, đáng được quan tâm đúng mức. Hiện nay tài chính vi mô còn gặp rất nhiều khó khăn. Để giải quyết những khó khăn này là vấn đề được các nhà thực thi chương trình và các nhà soạn lập chính sách bất đồng quan điểm nhiều nhất trong suốt lịch sử của hoạt động tài chính vi mô. Chính vì vậy mà trong thời lượng nghiên cứu của mình, tôi thấy rằng vẫn chưa có thể nào truyền tải hết được.
Bên cạnh đó, do thiếu một vài số liệu cần thiết nên tôi chỉ có thể nêu ra được một số ít những chương trình tài chính vi mô đặc thù nhất trong số rất nhiều các chương trình đã được thực hiện.
Bởi bản chất của người nghèo là các kỹ năng, kiến thức cũng như là sự liên kết là rất yếu. Dẫn tới việc tiếp cận và triển khai mô hình là không hề đơn giản. Hy vọng là cùng với các chính sách của nhà nước, các bộ cũng như các dự án nước ngoài, trong thời gian tới, sẽ tiếp tục thúc đẩy và phát triển mô hình tới nhiều thành phần đối tượng nghèo hơn nữa. Với những giải pháp được nêu ra, tôi hi vọng chúng sẽ là những gợi ý hữu ích cho những người liên quan trong công tác của họ. Tất nhiên là đối với những tổ chức khác nhau thì tính khả thi của các giải pháp này sẽ có những tác động khác nhau.
Xin chân thành cảm ơn!
NHẬN XÉT CỦA CƠ SỞ THỰC TẬP
(Về tinh thần, thái độ , ý thức chấp hành kỷ luật tại cơ sở thực tập)
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Hà Nội, ngày tháng năm
Trưởng đơn vị
(Ký tên, đóng dấu)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách giáo trình công cộng
Sách giáo trình kinh tế phát triển
Báo cáo nghiên cứu tác động của Quỹ TYM tới phụ nữ nghèo
Trang web của Ngân hàng Chính sách:
Trang web của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triền nông thôn:
Kết quả khảo sát các chương trình TCVM của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. 12/2008
Hướng tới một ngành tài chính vi mô tự vững ở Việt Nam – Lê Thị Lan & Trần Như An 2005
Báo cáo tài chính vi mô số 11 tháng 7/2008
Định nghĩa và phương pháp xác định chuẩn đói nghèo:
Nghị định 28/2005 của Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng thế giới WB 2006, Việt Nam: Phát triển một chiến lược toàn diện để mở rộng tiếp cận [của hộ nghèo] đối với các dịch vụ tài chính vi mô. Tăng cường tiếp cận, hiệu quả và bền vững.
Đỗ Tuyết Khanh,2004, Vi tín dụng: một phương pháp xóa đói giảm nghèo
Tài chính vi mô và tiếp cận tín dụng vi mô của người nghèo ở nông thôn - TS. Hà Hoàng Hợp
Lê Thanh Tâm (2007), “Xây dựng khung pháp lý cho tài chính vi mô- Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển số chuyên san, tháng 4.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21442.doc