Tác động của rào cản trong cạnh tranh đối với khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam

Tài liệu Tác động của rào cản trong cạnh tranh đối với khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam: LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế cùng với xu thế toàn cầu hoá tiến tới nền kinh tế tri thức, cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt và có xu hướng chuyển từ cạnh tranh theo chiều rộng (cạnh tranh trên toàn bộ các mặt hàng) sang cạnh tranh theo chiều sâu(cạnh tranh dựa trên những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao). Cùng với việc lợi thế cạnh tranh chuyển từ lợi thế cạnh tranh tĩnh (lợi thế cạnh tranh của sản phẩm chủ yếu có được từ việc sở hữu và sử dụng tài nguyên thiên nhiê... Ebook Tác động của rào cản trong cạnh tranh đối với khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tác động của rào cản trong cạnh tranh đối với khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n phong phú, lao động rẻ) với giá trị gia tăng thấp sang lợi thế cạnh tranh động (lợi thế cạnh tranh của sản phẩm có được chủ yếu từ các yếu tố then chốt như công nghệ, tri thức, tư bản) với giá trị gia tăng cao. Môi trường kinh doanh của các doanh nhiệp Việt Nam cũng đang có những thay đổi theo xu hướng chung đó cùng với sự hội nhập một cách đầy đủ hơn nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế khu vực và thế giới ( thực hiện hiệp định thương mại Việt - Mỹ, lộ trình AFTA và đang đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới - WTO). Trong bối cảnh đó rào cản phát sinh ngày càng nhiều biểu hiện đa dạng, phong phú và có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhận thức, điều kiện, phương thức kinh doanh và đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Nhận thức được vấn đề trên, cùng với sự giúp đỡ của tiến sĩ Trần Việt Lâm đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài tác động của rào cản trong cạnh tranh đối với khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam để làm rõ hơn một số biểu hiện cụ thể của những rào cản chủ yếu đang có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, định hướng một số giải pháp, kiến nghị cơ bản để xử lý rào cản trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đề tài gồm có ba phần: I Một số khái niệm II . Tác động của rào cản cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam 1. Những rào cản thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp 2. Những rào cản thuộc môi trường nội bộ doanh nghiệp III. Một số kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh Do hạn chế về mặt thông tin và kiến thức nên đề án không tránh khỏi những sai sót . Do đó em mong được sự góp ý của thầy giáo và mọi người để đề án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! I.MỘT SỐ KHÁI NIỆM : 1.Năng lực cạnh tranh Quốc gia: Là tổng hợp khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong một Quốc gia và được hiểu là năng lực của một nền kinh tế có thể tạo ra tăng trưởng bền vững trong môi trường kinh tế đầy biến động của thị trường Thế giới. Theo “ báo cáo cạnh tranh toàn cầu năm 2002” của diễn đàn kinh tế Thế giới năng lực cạnh tranh Quốc gia của Việt Nam cho tới nay luôn có thứ hạng ở mức thấp. Năng lực cạnh tranh Quốc gia được đánh giá qua hai chỉ số cơ bản sau: -Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng - GCI (Growth Competiveness Index) được thể hiện qua mức thay đổi của GDP/đầu người. Nó bao gồm ba chỉ số : trình độ công nghệ, chất lượng của thể chế công cộng và các điều kiện kinh tế vĩ mô. -Chỉ số năng lực cạnh tranh vi mô - MICI (Microeconomic Competiveness Index) cho biết các yếu tố làm nền tảng của năng suất và hoạt động của nền kinh tế hiện thời, được đo bởi mức GDP/đầu người với hai chỉ số : chất lượng các hoạt động, chiến lược của các doanh nghiệp và chất lượng của môi trường kinh doanh Quốc gia. Bảng 1: Năng lực cạnh tranh Quốc gia của Việt Nam năm 2002 Quốc gia hay lãnh thổ Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng - GCI Chỉ số năng lực cạnh tranh vi mô - MICI 2001 2002 2001 2002 Singapo Đài Loan Hồng Kông Hàn Quốc Malaixia Thái Lan Trng Quốc Philippin Việt Nam Inđônêxia 4 7 13 23 30 33 39 48 60 64 4 3 17 21 27 31 33 61 65 67 9 21 18 37 38 43 43 62 53 55 9 16 19 23 26 35 38 61 60 64 Đã nhiều năm nay năng lực cạnh tranh Quốc gia của Việt Nam có đặc điểm chính sau : Năng lực cạnh tranh Quốc gia Việt Nam luôn có thứ hạng ở mức thấp và có xu hướng đi xuống : chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng - GCI đứng thứ 65/80 nước giảm 5 bậc so với năm 2001 (60/75 nước). Chỉ số năng lực cạnh tranh vi mô - MICI đứng thứ 60/80 nước giảm 7 bậc so với năm 2001 (53/75 nước). 2.Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp : Có thể được hiểu là khả năng tồn tại, duy trì hay gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trường của các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Giữa năng lực cạnh tranh quốc gia với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ, nhân quả với nhau . Về tổng thể, số lượng các doanh nghiệp Việt Nam tăng nhanh trong những năm gần đây nhưng nhìn chung có quy mô nhỏ và tiềm lực yếu, Cả nước hiện có tới 97,8% tổng số doanh nghiệp có quy mô dưới 300 lao động và 95,6% tổng số doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng túc là hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp có quy mô lớn chỉ chiếm rất ít %, loại doanh nghiệp có 1000 lao động trở lên chỉ chiếm 0,6% và loại có vốn 500 tỷ đồng trở lên chiếm 0,4% tổng số doanh nghiệp . Với tiềm lực đó sẽ rất khó khăn cho các doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế .Điều đó sẽ được chứng minh qua hai nhóm chỉ tiêu đánh giá chính sau : -Hiệu quả sản kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp ở mức thấp ( bảng 2 ) nên việc tích luỹ để phát triển và phòng chống rủi ro cũng thấp. Bảng 2 : Một số chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Chỉ tiêu hoạt động Kết quả Doanh nghiệp Nhà nước Tập thể Tư nhân Có vốn ĐTNN 1.Tỷ suất lợi nhuận /vốn (%) 2.Tỷ suất lợi nhuận/DT (%) 3.Nộp ngân sách/DT (%) 5,45 5,28 8,42 4,41 4,23 8,81 4,06 3,39 3,02 1,51 0,85 2,98 8,87 13,15 14,42 Khả năng chiếm lĩnh thị trường của đa số các doanh nghiệp là yếu . Ví dụ đối với các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp ( bảng 3 ). Bảng 3 : Tỷ lệ doanh nghiệp công nghiệp phân theo khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước và xuất khẩu ( năm 1998 ) Tổng số Toàn ngành Chia ra (%) Công nghiệp Khai thác Chế biến SX năng lượng 1.Khả năng chiếm lĩnh thị trường nội địa : - Giành đựơc ưu thế - Chưa vững chắc - Không có khả năng cạnh tranh 2. Khả năng xuất khẩu - Đã xuất khẩu - Triển vọng sẽ xuất khẩu - Không có khả năng xuất khẩu 26,9 58,8 14,3 23,8 13,7 62,5 28,9 59,2 11,9 15,9 14,4 69,7 26,3 59,2 24,3 24,3 13,8 61,9 85,2 13,6 2,5 2,5 1,2 96,3 3. Tình hình chung : Kết quả nghiên cứu điều tra cho thấy có 5 nhóm yếu tố chính ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp , đó là : -Chính sách và biện pháp quản lý vĩ mô : Về tổng thể các chính sách và biện pháp điều tiết vĩ mô của nhà nước đã đạt được những tiến bộ nhất định, bước đầu cải thiện điều kiện hoạt động của các doanh nghiệp về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, thực thi pháp luật và chính sách nhà nước về thương mại và đầu tư. + Các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế đó thực chất là các định hướng phát triển, định hướng phân bổ nguồn lực, trong đó chủ yếu là đầu tư theo ngành kinh tế, vùng lãnh thổ . Đối với chính sách khuyến khích đầu tư trong nước đã có những cải thiện hơn, thông thoáng hơn. Tổng vốn đầu tư phát triển của năm 2002 đã tăng lên 10% so với năm 2001, cũng cao hơn so với kế hoạch đề ra. Vốn đầu tư phát triển cũng tăng đều ở cả ba khu vực : kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài . trong đó vốn đầu tư trong dân tăng mạnh nhất, tăng tới 35% so với năm trước chiếm 28,8% trong tổng vốn đầu tư phát triển. Có sự đóng góp tích cực của khu vực vốn đầu tư trực tiếp - FDI vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp, nguồn vốn FDI vào lĩnh vực công nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng cao, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. -Môi trường kinh doanh : Trên thực tế môi trường kinh doanh vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu “minh bạch, rõ ràng, công khai và phù hợp với thông lệ quốc tế “ . Môi trưòng kinh doanh và thủ tục hành chính tiếp tục là những cản trở lớn đến sản xuất kinh doanh . Hỗ trợ của Nhà nước về công tác phát triển thị trường và thông tin trong bối cảnh cạnh tranh Quốc tế còn ở mức hạn chế, đặc biệt là các thông tin dự báo dài hạn hoặc thông tin chuyên đề . -Công tác quản lý ở doanh nghiệp : Các nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam hiện nay có một số đặc điểm chung là: + Chưa coi trọng và quan tâm thực sự đến công tác hoạch định và chất lượng chiến lược kinh doanh . + Chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp . + Kinh nghiệm cạnh tranh còn yếu . -Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp : Đa số các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh thấp chưa thực sự đảm bảo do: + Giá đầu vào của các yếu tố sản xuất cao + Năng lực công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu + Trình độ quản lý và chất lượng nguồn nhân lực ở mức thấp khó đảm bảo khả năng cạnh tranh thành công trên thị trường Thế giới . + Việc huy động vốn rất khó khăn -Các công cụ cạnh tranh chính của doanh nghiệp : + Chính sách sản phẩm + Giá và chính sách giá + Phương thức phục vụ + Dịch vụ sau bán hàng chưa được tận dụng và phát huy hiệu quả theo như yêu cầu mong muốn. II. THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA NHỮNG RÀO CẢN CHỦ YẾU TRONG CẠNH TRANH : 1.Những rào cản thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp : 1.1Rào cản pháp lý : -Hệ thống pháp luật đang trong quá trình hoàn thiện, còn thiếu và còn có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật chưa phù hợp với các nguyên tắc kinh doanh thương mại Quốc tế . Tuy đã có nhiều nỗ lực đổi mới chính sách theo hướng thực hiện quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế nhưng đến nay vẫn còn tồn tại một số quan hệ độc quyền gây cản trở đối với việc mở rộng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp . Một mặt bảo hộ còn tràn lan, vô thời hạn, vô điều kiện, Đối với những hàng hoá trong nước đã sản xuất được nhà nước quy định mức thuế nhập khẩu cao hơn hoăc đối với một số mặt hàng còn áp dụng cả biện pháp nhập khẩu bằng kim ngạch ( chẳng hạn như thông tư số 82/1997/TT- BTC ngày 11/11/1997 của bộ tài chính về áp giá để tính thuế nhập khẩu của mặt hàng linh kiện xe gắn máy nhập khẩu ) . Mức độ bảo hộ chưa được phân theo ngành dựa trên lợi thế cạnh tranh Mặt khác chúng ta còn chậm chuyển đổi các biện pháp bảo hộ phi thuế quan sang biện pháp bảo hộ bằng thuế quan . Hiện vẫn còn duy trì nhiều biện pháp bảo hộ phi thuế quan như : tạm thời cấm nhập khẩu, kiểm soát ngoại tệ nhập khẩu, hạn định khối lượng nhập khẩu. Rõ ràng chính sách bảo hộ không hợp lý đang cản trở các doanh nghiệp Việt Nam hướng tới cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập Quốc tế . Trong khi đó hoạt động “ngầm” vẫn ở quy mô lớn, xu hướng cấu kết và buôn lậu gia tăng tác động tiêu cực đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp . Điều này cho thấy chúng ta còn thiếu nhiều công cụ pháp lý, chế tài cần thiết trước những hành vi cạnh tranh không hợp pháp và độc quyền. Một trong những công cụ đó là luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, nhưng chưa được thông qua. Thủ tục hành chính nhà nước vẫn là một trong những cản trở làm tăng chi phí cho các doanh nghiệp. Đối với việc đăng ký kinh doanh cho các hộ kinh doanh cá thể và hợp tác xã mặc dù luật đã quy định cụ thể, song trên thực tế chưa có quận huyện nào thành lập phòng đăng ký kinh doanh, việc đăng ký kinh doanh thường giao cho một cán bộ đảm nhận gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Hoặc như doanh nghiệp muốn xây dựng nhà xưởng thì phải có đủ 19 chữ ký của các cơ quan có thẩm quyền thì mới có thể đựoc phép xây dựng . Với một thủ tục hành chính rườm rà như vậy nhiều khi đã làm mất đi cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Những bất cập về thuế, về thủ tục hải quan đối với các doanh nghiệp cũng đang được coi là điểm nóng. Trong hệ thống thuế hiện tại các mức thuế suất vẫn còn quá nhiều, phức tạp làm cho việc áp dụng rất khó thực hiện. Trước hết đó là luật thuế VAT với bốn mức thuế suất khác nhau, bên cạnh đó còn có những thay đổi về thuế suất tuỳ thuộc vào đối tượng khách hàng, có nghĩa là những loại hàng hoá và dịch vụ chịu thuế sẽ được miễn giảm VAT nếu được cung cấp cho một loại khách hàng nhất định . Với một hệ thống thuế suất gồm nhiều tầng lớp như vậy thì cách hiểu và tính biểu thuế khác nhau giữa đối tượng đóng thuế và cơ quan thuế là điều không thể tránh khỏi . Đồng thời nhiều khi các nhà sản xuất và các nhà cung cấp dịch vụ không rõ hàng hoá của mình và dịch vụ của mình phải chịu thuế suất là bao nhiêu, hay không phải chịu thuế .Trong dự thảo sửa đổi luật thuế VAT lần này đã giảm số lượng thuế suất xuống còn ba loại nhưng vẫn còn phức tạp ,còn có quá nhiều điểm chưa rõ ràng trong các luật thuế và văn bản dưới luật gây nhiều tranh cãi giữa các DN và cơ quan thuế . Trong luật thuế thu nhập doanh nghiệp cũng như trong luật thuế VAT những quy định về các loại chi phí được coi là hợp lý hợp lệ để tính toán thu nhập doanh nghiệp hoặc tính để khấu trừ giá trị gia tăng hiện nay cũng như trong quy định của dự thảo sửa đổi luật thuế vẫn còn tình trạng đơn giản hoá không tính đến thực tiễn kinh doanh Quốc tế gây thắc mắc cho DN. Thiếu một cơ chế kiểm tra, giải quyết khiếu nại, kiến nghị có hiệu quả : Trong quy định hiện hành cũng như trong dự thảo sửa đổi các luật thuế vẫn chưa có quy định rõ cơ chế thanh tra kiểm tra nhằm hạn chế tình trạng thanh tra tuỳ tiện gây phiền nhiễu cho DN. Đến năm 2004 luật cạnh tranh - đạo luật cạnh tranh đầu tiên về lĩnh vực này mới được Quốc hội thông qua, do đó trên thị trường những hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh vẫn diễn ra như : sự đàm phán để thoả thuận, cấu kết, lợi dụng vị thế để “ phân chia” thị trường,khống chế giá cả, quảng cáo tiếp thị thiếu trung thực, sản xuất hàng giả, vi phạm bản quyền hệ quả của vấn đề này là làm giảm uy tín, giảm sức cạnh tranh của các DNVN. Hầu hết chi phí đầu vào của một số yếu tố sản xuất - dịch vụ là cao so với các nước trong khu vực . Thực hiện nghị quyết 05/2002/NQ-CP của Chính Phủ về đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác xuất nhập khẩu và chỉ thị 08/2003/CT- TTg ngày 4/4/2003 của thủ tướng Chính Phủ về nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của DN. Đến nay bộ Tài chính đã thực hiện rà soát và xác định được 140 khoản phí và lệ phí ở cấp trung ương đã ban hành phải bãi bỏ, ở cấp địa phương tính đến tháng 10/2003 đã có 48 tỉnh thành thực hiện rà soát và bãi bỏ 203 khoản phí, lệ phí . Việc thực hiện pháp lệnh phí và lệ phí đã được xã hội đồng tình . Các DN không những giảm được chi ohí trung gian mà còn rút ngắn được thời gian, giảm thiểu được các thủ tục hành chính rườm rà, phiền hà không đáng có . Theo số liệu khảo sát thống kê việc bãi bỏ các khoản phí, lệ phí ở cả cấp trung ương và địa phương đã làm giảm chi phí đầu vào cho DN mỗi năm khoảng 150 tỷ đồng . Lĩnh vực thu phí cầu đường bộ đã giảm từ 35 khoản thu khác nhau xuống còn 7 khoản thu thống nhất, bình quân các mức thu phí giảm 20% so với trước khi thực hiện pháp lệnh phí, lệ phí . Đối với các DN mỗi tháng giảm được 20 tỷ đồng tiền phí cầu đường, đường bộ. Tuy việc thực hiện pháp lệnh phí, lệ phí đã làm giảm chi phí đầu vào của DN nhưng so với các nước trong khu vực chi phí đầu vào của các DNVN vẫn còn ở mức cao .Chi phí trung gian trong công nghiệp chiếm tới 60% trong đó 80% là chi phí vật chất , những con số tương ứng trong nông nghiệp là 40% và 70%. Chi phí phục vụ sản xuất - kinh doanh cũng pử mức cao như giá điện của Việt Nam từ 0.07 - 0.11 USD/kwh trong khi giá điện trung bình của các nước trong ASEAN nàm trong khoảng từ 0.025 - 0.05 USD/kwh. 1.2 Rào cản văn hoá - xã hội : Các doanh nghiệp đều quan tâm đến nhóm yếu tố văn hoá xã hội (như phong tục tập quán , tôn giáo , ngôn ngữ, trình độ phát triển văn hoá, khoảng cách giàu nghèo, tỷ lệ phát triển dân số, chỉ số phát triển con người …) -Khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị với nông thôn ngày càng gia tăng một cách đáng lo ngại ( vì dân số sống ở nông thôn chiếm đến 75% dân số cả nước) thu nhập bình quân người/tháng (giá trị thực tế ) thấp, ở thành thị khoảng 600.000 đ/người/tháng, ở nông thôn khoảng 200.000 đ/người/tháng . -So với các nước trong khu vực thì chỉ số phát triển con người của Việt Nam tính đến năm 2001 vẫn ở mức thấp, chỉ số HDI của Việt Nam xếp thứ 109/175 nước, chỉ số nghèo khổ xếp thứ 47/85 nước, chỉ số GDP xếp thứ 130/175 nước , đây là một trong những cản trở đến trình độ văn hoá và chất lượng nguồn nhân lực . Bảng 4 : Một số chỉ số của Việt Nam Quốc gia Chỉ số tuổi thọ Chỉ số giáo dục Chỉ số GDP HDI Xếp hạng GDP Xếp hạng HDI Malaixia Thái Lan Philippin Trung Quốc Việt Nam Inđonêxia Lào 0.8 0.73 0.74 0.76 0,73 0.69 0.16 0.83 0.88 0.9 0.79 0.83 0.8 0.63 0.75 0.69 0.61 0.62 0.51 0.56 0.46 0.79 0.768 0.751 0.72 0.688 0.682 0.525 56 72 19 102 130 114 145 58 74 85 104 109 112 135 + Trong năm 2001 - 2005 bình quân mỗi năm nước ta có 1,5 triệu người bước vào độ tuổi lao động trong khi chỉ có 0,36 triệu người ra khỏi tuổi lao động. Trên phạm vi toàn quốc cơ cấu dân số biến đổi tạo cơ hội thuận lợi cho phát triển kinh tế, lực lượng lao động dồi dào vừa là tiềm năng nhưng cũng là thách thức đối với nước ta trong vấn đề giải quyết việc làm . Hiện tại sức ép về quy mô dân số lên diện tích đất đai làm cho lao động nông thôn tiếp tục dư thừa, trong khi đó trình độ phát triển công nghiệp còn thấp không đủ sức thu hút lao động tham gia mạnh vào sản xuất công nghiệp và xây dựng . Lực lượng lao động tiếp tục tăng và dư thừa nhưng lại yếu về thể lực, trình độ tay nghề và còn thiếu nhiều tố chất cần thiết trong quá trình cạnh tranh trong thị trường và hội nhập phát triển kinh tế . + Các số liệu thống kê gián tiếp cho thấy hiện tại cứ 3,2 trẻ em dưới 5 tuổi thì có một cháu suy dinh dưỡng, cứ 3 bà mẹ mang thai thì một người bị thiếu máu . Tình trạng nhiễm HIV/ADIS trong thanh thiếu niên tiếp tục tăng và có xu hướng lây lan mạnh trong cộng đồng . Trong số những người nhiễm HIV/ADIS hiện có 74.45% ở độ tuổi 20- 39 độ tuổi có tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế và năng suất lao động cao nhất . 1.3Rào cản khoa học - công nghệ : Công nghệ là yếu tố cốt lõi đảm bảo cạnh tranh hiệu quả trên thị trường . Tuy nhiên kinh phí đầu tư cho công tác này từ phía nhà nước còn thấp chưa đáp ứng yêu cầu . Bảng 5 cho thấy vốn đầu tư phát triển cho hoạt động khoa học và công nghệ thấp, chiếm khoảng 0,5% giá trị tổng sản phẩm trong nước ( hoặc dưới 2% tổng ngân sách nhà nước ) tỷ lệ này thấp so với nhu cầu thực tế và so với bình quân của các nước trong khu vực . Bảng 5 : Năm GDP theo giá so sánh 1994(tỷ đồng) Vốn đầu tư phát triển cho khoa học và công nghệ (tỷ đồng) Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển khoa học và công nghệ so với GDP(%) 1999 2000 2001 2002 256272 273666 292376 312959 1221,2 1433,3 1518,6 1670,5 0.48 0.52 0.52 0.53 -Hiện trạng ứng dụng công nghệ thông tin(CNTT) Trong những năm qua là kém do các nguyên nhân : + Nhà nước chưa mặn mà tuyển lao động CNTT . Về môi trường hoạt động của sinh viên tốt nghiệp (SVTN) ngành CNTT báo cáo cho các tỷ lệ : cơ quan nhà nước 45,29% ND tư nhân 32,73% còn lại thuộc các thành phần kinh tế khác . So với 14 ngành đào tạo, tỷ lệ SVTT ngành CNTT đươc thu nhận vào cơ quan nhà nước là thấp nhất ( các ngành khác : giao thông91,67%, xây dựng 78,01%, du lịch 76,65% …). Có một thực tế là 61 tỉnh thành và 20 bộ, 17 cơ quan thuộc chính phủ khi lập dự án triển khai chương trình 112( chương trình tin học hoá quản lý hành chính nhà nước ) đều ghi rõ sự thiếu hụt nghiêm trọng nhân lực CNTT . Họ đều lập tiểu dự án đào tạo nhân lực CNTT riêng cho ngành, địa phương mình nhưng lại không tuyển dung nhiều hơn số 45,29% SVTN ngành CNTT. -Môi trường ứng dụng CNTT chưa tốt : Nó thể hiện ở trình độ quản lý của lãnh đạo các cấp không cao . Do trình độ hạn chế nhiều cán bộ lãnh đạo ngại ứng dụng CNTT . Các cấp lãnh đạo nhận thức chưa đúng mức vai trò của CNTT trong việc nâng cao năng sất lao động và chất lượng sản phẩm . Tuy nói CNTT là quan trọng nhưng phần lớn lãnh đạo các tổ chức đều không giành đủ thời gian không giành đủ tiền bạc cho CNTT, không trực tiếp chỉ đạo hay tham gia ý kiến. Cán bộ phụ trách CNTT tại các đơn vị hầu như không được trao quyền hạn gì đáng kể. Họ không được tham gia vào định hướng chiến lược ứng dụng CNTT, không được tham gia vào tái cấu trúc các quy trình nghiệp vụ. Các tổ chức và các DNVN chưa cảm thấy nguy cơ mất năng lực cạnh tranh khi Việt Nam tham gia vào các khối kinh tế thương mại khu vực và thế giới. -Các đề cương dự án CNTT chất lượng kém nhưng vẫn được triển khai. Rất ít dự án ứng dụng CNTT bắt đầu bằng những đánh giá chính xác nhu cầu thực tế . Thiếu việc xác định và đánh giá nhu cầu một cách nghiêm túc sẽ dẫn đến tình trạng nhiều nhu cầu cấp thiết hơn không được đấp ứng, trong khi những nhu cầu không quan trọng và tốn kém lại được phục vụ . Hầu hết các dự án có mục tiêu chung chung, các sản phẩm của dự án không được mô tả đầy đủ mặc dù tiền, nhân lực, thời gian phải bỏ ra là cụ thể và kết quả của dự án lại rất chung chung dẫn đến hiệu quả đầu tư kém. Rất ít dự án có hệ thống chỉ tiêu đánh giá định lượng chính vì vậy khi dự án kết thúc cũng khó có câu trả lời rằng dự án có mang hiệu quả đầu tư hay không và nếu có thì hiệu là bao nhiêu . Vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nhân lực có trình độ trong DN đến chi phí đầu vào của DN. -Nhân lực CNTT của ta quá mỏng kém xa cả Philippin, Inđônêxia, Thái Lan… Một thực tế là số lượng hồ sơ dang ký tuyển sinh ngành CNTT vào các trường đại học, cao đẳng năm 2002 so với năm 2001 giảm nhiều . Bên cạnh đó khi tốt nghiệp ra trường cũng ít được làm công việc đúng ngành học của mình. Theo một số chuyên gia : khoảng 50% kỹ sư hoặc cử nhân CNTT ra trường đi vào các ngành không CNTT để làm các ứng dụng CNTT, 5% được bổ sung làm công tác giảng dạy , nghiên cứu chỉ có khoảng 20 - 25% tham gia vào các đơn vị sản xuất kinh doanh CNTT, số còn lại làm các việc hoàn toàn không CNTT hoặc không có việc làm . 1.4Rào cản kinh tế : -Mặc dù có tốc độ tăng trưởng GDP cao, nhưng hiệu quả tổng hợp giữa đầu tư và tăng trưởng biểu hiện bằng hệ số ICOR (Investment Capital Output Rate) được đo bằng tỷ lệ giữa vốn đầu tư phát triển với tốc độ tăng GDP trong giai đoạn 2000 - 2002 là chưa thoả đáng. Xem bảng 6 Bảng 6 Năm Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển trong GDP(%) Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%) Hệ số ICOR 1995 1998 1999 2000 2001 2002 33 37 39 40 42 44 9.54 5.76 4.77 6.79 6.84 7.04 3.5 6.4 8.2 5.9 6.0 6.3 Nguyên nhân chính là do tình trạng lựa chọn cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tình trạng thất thoát và lãng phí còn phổ biến, chưa quan tâm thực sự đến hiệu quả và lợi ích lâu dài của các dự án, làm ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng bền vững của nền kinh tế và của các DN. Riêng về vốn đầu tư, hiệu quả đầu tư và sử dụng vốn đầu tư phát triển bị giảm do hiệu quả đầu tư còn thấp : đầu tư vào những dự án cần nhiều vốn nhưng cần ít lao động, đầu tư phân tán, dàn trải do bị co kéo - hậu quả của cơ chế xin - cho . Việc giải phóng măt bằng kéo dài tốn kém nay lại do giá đất tăng vọt làm cho nhiều công trình dở dang. Lãng phí, thất thoát trong đầu tư khá lớn nhất là nguồn ngân sách nhà nước và ngay cả nguồn vốn ODA. Từ năm 1995 trở lại đây cơ cấu đầu tư toàn xã hội có xu hướng dựa nhiều hơn vào nguồn lực trong nước, chủ yếu từ nguồn đầu tư nhà nước ( vốn nhà nước tăng từ 42% năm 1995,lên 58.1% năm 2000 trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội ). Trong khi đó tỷ trọng nguồn vốn tư nhân và dân cư giảm liên tục (từ 49% năm 1990 trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội xuống 27.6% năm 1995, năm 2000 chỉ còn 23,6%) đó là một điều bất hợp lý vì trong thực tế đây là nguồn vốn có hiệu quả kinh tế cao nhất và là nguồn nội lực quan trọng của đất nước . Hiệu quả đầu tư không cao còn do sự phân bổ nguồn vốn đầu tư không hợp lý giữa các ngành : đầu tư cho nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm tỷ trọng nhỏ và không ổn định, ttrong khi đâylà ngành có hệ số ICOR thấp nhất và sử dụng nhiều lao động nhất . Một nguyên nhân quan trọng khác đó là do khu vực dịch vụ tăng trưởng chậm . Cơ cấu kinh tế của nước ta tuy chuyển dịch theo hướng tiến bộ và tích cực nhưng nhìn chung vẫn chưa ra khỏi cơ cấu ngành truyền thống với tỷ trọng tương đối cao của khu vực sản xuất vật chất nói chung và của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản nói riêng . Trong chiến lược đổi mới cơ cấu ngành chúng ta không coi nhẹ khu vực dịch vụ nhưng chưa tập trung đầu tư thích đáng trí lực, vật lực, tài lực cho những ngành dịch vụ có khả năng tạo ra bước đột phá nên tốc độ tăng của khu vực này thường thấp hơn tốc độ tăng chung của nền kinh tế(năm 2001 tổng sản phâmt trong nước tăng 6,89% nhưng giá trị gia tăng của khu vực dịch vụ chỉ tăng 6,1% chỉ tiêu tương ứng của năm 2002 là 7,04%) Chi phí đầu vào quá cao là một trong những yếu tố làm giảm lợi nhuận của DN, có đến 37,4% ý kiến cho rằng cơ sở hạ tầng quốc gia chưa đáp ứng nhu cầu cho sự phát triển của DN và có đến 54,2% ý kiến cho rằng lãi suất ngân hàng quá cao trong khi đó việc huy động ở thị trường vốn cũng khó khăn. Thực tế lãi suất ngân hàng đã trở thành một khoản chi phí lớn của DN làm cho lợi nhuận còn lại ít, tốc độ tích luỹ không đáp ứng được nhu cầu phòng chống rủi ro. 2.Những rào cản thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp : -Quy mô hoạt động của DN nhỏ : Kết quả điều tra cho thấy đa số các DN có quy mô hoạt động nhỏ, có khoảng 30% số DN được điều tra có doanh thu hàng năm ở mức dưới 10 tỷ đồng, 30% ở mức từ 10 - 15 tỷ đồng và 30% ở mức từ 50 - 200 tỷ đồng, chỉ có khoảng 10% DN có doanh thu lớn hơn 200 tỷ đồng/năm. -Vấn đề tài chính của DN : Vấn đề tài chính luôn là một trong những trở ngại chính của DNVN hiện nay . Có đến 67,3% ý kiến cho rằng họ rất thiếu vốn lưu động trong khi cơ cấu nguồn vốn không hiệu quả, các quy định về thủ tục vay vốn rất phức tạp . Lãi suất vay quá cao cũng dẫn đến hiệu quả kinh doanh của đa số các DN là thấp Theo ngân hàng nhà nước (NHNN), mặc dù NHNN đã tạo tín hiệu giảm lãi suất(LS) thị trường và đã cung ứng một lượng tiền tương đối lớn (khoảng 9000 tỷ đồng trong 6 tháng đầu 2003) nhưng LS huy động và cho vay đồng Việt Nam (VND) của các tổ chức tín dụng đều tăng : LS huy động vốn tăng khoảng 0,02% - 0,06%/tháng; LS cho vay tăng khoảng 0,02% - 0,04%/tháng. Hiện LS huy động vốn nội tệ - VND kỳ hạn 1 năm của các ngân hàng thương mại phổ biến ở mức 8% - 8,4%/năm,so với mức lạm phát chỉ co 3% - 3,5%, làm cho LS thực của lợi tức gửi ngân hàng lên tới 4% - 4,5%/năm.Đây là mức LS thực cao nhất trong 10 năm qua và quá cao so với mức kỳ vọng trong điều hành vĩ mô là 2% - 3%/năm.LS huy động và cho vay hiện nay đã ở mức khá cao so với mức lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này có thể làm cho các DN chần chừ không dám vay vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. -Trình độ quản lý của các DN chưa đáp ứng được các yêu cầu kinh doanh hiện nay. Việc sử dụng nguồn lực có hiệu quả hay không phụ thuộc vào phương thức tổ chức quản lý. Có rất nhiều ý kiến cho rằng họ gặp khó khăn trong việc định hướng chiến lược kinh doanh và công tác quản lý chất lượng sản phẩm. Các DNVN chưa xác định được chất lượng kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh trong điều kiện hội nhập quốc tế và tập trung phát triển kinh doanh dài hạn tại các thị trường trọng điểm. Một tâm lý phổ biến la DN rất tự ty và cái gì cũng muốn “ăn chắc”. Họ thường nghĩ không biết có làm ăn được ở thị trường đó hay không mà lại bỏ ra một khoản tiền để đăng ký thương hiệu. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản của các DNVN khi có hàng hoá có tính chất cạnh tranh đưa vào thị trường nước ngoài đã bị lấy mất thương hiệu. Trong xu thế hội nhập đòi hỏi DN phải có cách nhìn mới, cách làm ăn có tầm nhìn xa trông rộng, như vậy nếu các DN muốn làm ăn lớn, muốn có thị trường xuất khẩu thì đăng ký thương hiệu phải đi trước một bước trong chiến lược kinh doanh. Do tình hình thực tế như vậy số nhãn hiệu hàng hoá được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá cho người Việt Nam chỉ có 43% vẫn thấp hơn so với cấp cho người nước ngoài là 57%. Bảng 7 : Tổng số nhãn hiệu hàng hoá đã đăng ký : Năm Số nhãn hiệu hàng hoá đã đăng ký Người Việt Nam Người nước ngoài Tổng số 1999 2000 2001 1299 1423 2085 2499 1453 1554 3798 2876 3639 Việc thiếu chứng chỉ đạt tiêu chuẩn quốc tế về quản lý và chất lượng sản phẩm cũng đang là trở ngại đối với khả năng cạnh tranh của các sản phẩm của DNVN. Bảng 8 cho thấy số DN có chứng chỉ chiếm 18% và chỉ có 32% số DN có thương hiệu mà chủ yếu là các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Việc thiếu chứng chỉ đạt tiêu chuẩn quốc tế làm cản trở việc “lưu hành” các sản phẩm của ta trên thị trường quốc tế. Bảng 8 : Kết quả điều tra khả năng thực tế về trình độ quản lý của DN(năm 2003) Nội dung DN Tỷ lệ (%) 1.Có chứng chỉ ISO 9000, ISO 14000 2.Có thương hiệu(chưa xác định giá trị tiền) 3.Có hệ thống thông tin QL(ở mức độ thấp) 19/107 34/107 55/107 18 32 50 -Chất lượng nguồn nhân lực nói chung là thấp và việc thiếu lao động có trình độ chuyên môn cao Là một trong những rào cản lớn nhất đối với các DNVN hiện nay. Có đến 67% số DN thiếu cán bộ chuyên môn nghiệp vụ và có 12% ở thiếu trầm trọng, 60% số DN có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công việc ở mức hạn chế và rất hạn chế. Bảng 9 : Kết quả điều tra về chất lượng nguồn nhân lực có chuyên môn của DN(năm 2003) : Nội dung DN Tỷ lệ(%) 1.Số lượng cán bộ chuyên môn nghiệp vụ: - Đủ -Thiếu -Thiếu trầm trọng 23/107 72/107 12/107 21 67 12 2.Khả năng thực tế đáp ứng công việc ở mức : -Rất tốt -Tốt -Hạn chế -Rất hạn chế 2/107 41/107 60/107 4/107 2 38 56 4 Nguyên nhân của tình trạng trên một phần quan trọng do chính sách nguồn nhân lực ở các DN không hợp lý, không thực sự là động lực khuyến khích nười lao động. Có đến 43,9% ý kiến cho rằng gặp khó khăn về ngân sách đào tạo và khó khăn cho việc tìm được nguồn nhân lực có chuyên môn cao. Đây là những cản trở chính đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của DN. -Đa số ý kiến cho rằng DN chưa phát huy được những yếu tố nền tảng đảm bảo cho cạnh tranh dài hạn như chất lượng sản phẩm, trình độ công nghệ…vì vậy chưa tạo được lợi thế cạnh tranh riêng dựa trên sự khác biệt của sản phẩm. Thực tế trong thời gian qua khi nói đến năng lực cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới chúng ta thường chỉ nhấn mạnh đến khả năng cạnh tranh về giá. Các DNVN chưa chú ý đến hay chưa có một chiến lược kinh doanh dựa trên sự khác biệt sản phẩm, yếu tố này rất quan trọng trên những thị trường người tiêu dùng có thu nhập cao. -Năng lực công nghệ là một yếu tố then chốt tạo nên năng lực cạnh tranh của các DN trong dài hạn. Tuy nhiên ở bảng 10 cho thấy đa số các DN sử dụng công nghệ lạc hậu nhiều thế hệ so với khu vực và thế giới, hàm lượng khoa._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc14076.doc
Tài liệu liên quan