më ®Çu
Trong gần 20 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu khá thuyết phục về kinh tế và xã hội. Việt Nam luôn được xếp vào nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời có thành tích giảm nghèo nhanh trên thế giới. Đây là dầu hiệu tốt của quá trình chuyển đổi kinh tế và là kết quả của các chính sách mà Việt Nam đã và đang thực hiện trước những thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là xu thế toàn cầu hóa. Bên cạnh mở cửa cho thương mại, Việt Na
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1599 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tác dộng của nguồn vốn trực tiếp nước ngoài (FDI) tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ năm 1993 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m đã và đang tích cực cải thiện môi trường đầu tư, thu hút nguồn vốn trực tiếp từ nước ngoài. Nguồn vốn trực tiếp nước ngoài (FDI) có thể ảnh hưởng tới nền kinh tế ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam thì kỳ vọng lớn nhất của việc thu hút FDI chủ yếu nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. FDI góp phần vào tăng thặng dư của tài khoản vốn, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo cơ hội cho các nước tiếp nhận vốn có cơ hội tiếp cận công nghệ tiên tiến hơn, nâng cao kỹ năng quản lý và trình độ lao động…
Ở phạm vi là một đề án em xin được nghiên cứu tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở một giai đoạn cụ thể trong cả quá trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Đề tài em chọn là:’’ Tác dộng của nguồn vốn trực tiếp nước ngoài (FDI) tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ năm 1993 đến nay’’.
Kết cấu nội dung của đề án gồm hai phần chính
Chương I: Cơ sở lý luận
Chương II: Thực trạng tác động của nguồn vốn trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam qua các thời kỳ.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Tăng trưởng kinh tế
1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về thu nhập của nền kinh tế trong một thời kì nhất định (thường là một năm).
Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ.
Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá trị.
1.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế
Theo mô hình kinh tế thị trường, thước đo tăng trưởng kinh tế được xác định theo các chỉ tiêu của hệ thống tái sản quốc gia (SNA).
1.2.1. Tổng giá trị sản xuất (GO- Gross output):
là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia (thường là một năm).
1.2.2. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP – Gross domestic product):
là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do kết quả hoạt động kinh tế trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo nên trong một thời kỳ nhất định.
1.2.3. Tổng thu nhập quốc dân (GNI – Gross national income):
GNI là tổng thu nhập từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công dân của một nước tạo nên trong một khoảng thời gian nhất định.
1.2.4. Thu nhập quốc dân (NI – National Income):
Là phân giá trị sản phẩm vật chất va dịch vụ mới sáng tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định.
NI = GNI – Dp
Dp: khấu hao vốn cố định của nền kinh tế
GNI: tổng thu nhập quốc dân
1.2.5. Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI – National Disposable Income):
là phần thu nhập của quốc gia dành cho tiêu dung cuối cùng và tích lũy thuần trong một thời kỳ nhất định.
NDI = NI + chênh lệch về chuyển nhượng hiện hành với nước ngoài
Chênh lệch về chuyển thu chuyển chi chuyển
Nhượng hiện hành = nhượng hiện hành - nhượng hiện hành
Với nước ngoài từ nước ngoài ra nước ngoài
1.2.6. Thu nhập bình quân đầu người:
Với ý nghĩa phản ánh thu nhập, chỉ tiêu GDP và GNI còn được sử dụng để đánh giá mức thu nhập bình quân trên đầu người của mỗi quốc gia (GDP/người, GNI/người). Chỉ tiêu này phản ánh tăng trưởng kinh tế có tính đến sự thay đổi dân số. Quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người là những chỉ báo quan trọng phản ánh và là tiền đề để nâng cao mức sống dân cư nói chung.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
1.3.1. Nhân tố kinh tế
Các nhân tố kinh tế tác động đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế bao gồm: vốn, lao động, tiến bộ công nghệ và tài nguyên.
- Vốn là yếu tố đầu vào quan trọng, có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Lưu ý rằng, vốn sản xuất có liên quan trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế được hiểu vốn vật chất, đó là toàn bộ tư liệu vật chất được tích lũy lại của nền kinh tế, bao gồm: nhà máy, thiết bị, máy móc, nhà xưởng và các trang thiết bị được sử dụng như những yếu tố đầu vào trong sản xuất.
- Lao động là yếu tố đầu vào không thể thiếu của sản xuất. Trước đây người ta chỉ quan niệm lao động là yếu tố vật chất giống như vốn và được xác định bằng số lượng lao động của mỗi quốc gia (có thể tính bằng đầu người hay thời gian lao động). Những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến khía cạnh phi vật chất của lao động là vốn con người, đó là lao động có kỹ năng sản xuất, lao động có thể vận hành máy móc thiết bị, phức tạp, lao động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế... Hiện nay tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển được đóng góp bởi quy mô (số lượng) lao động, còn yếu tố vốn con người có vị trí chưa cao do trình độ và chất lượng nguồn nhân lực của các nước này còn thấp.
- Tiến bộ công nghệ là nhân tố tác động ngày càng mạnh đến tăng trưởng ở các nền kinh tế ngày nay. Yếu tố công nghệ cần được hiểu đầy đủ theo hai dạng: Thứ nhất, đó là những thành tựu kiến thức, tức là nắm bắt kiến thức khoa học, nghiên cứu đưa ra những nguyên lý, thử nghiệm và cải tiến sản phẩm, quy trình công nghệ hay thiết bị kỹ thuật; Thứ hai, là sự áp dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất.
- Tài nguyên được đưa vào sử dụng để tạo ra sản phẩm cho xã hội càng nhiều càng tốt nhưng phải đảm bảo chúng được sử dụng có hiệu quả, không lãng phí. Việc sử dụng tài nguyên là vấn đề có tính chiến lược, lựa chọn công nghệ để có thể sử dụng hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên của quốc gia là vấn đề sống còn của phát triển. Sử dụng lãng phí tài nguyên có thể được xem như sự hủy hoại môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên.
1.3.2. Nhân tố phi kinh tế
- Văn hóa - xã hội là nhân tố quan trọng, tác động nhiều tới quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Nhân tố văn hóa - xã hội bao trùm nhiều mặt, từ tri thức phổ thông đến những tích lũy tinh hoa của văn minh nhân loại về khoa học, công nghệ, văn học, lối sống, phong tục tập quán… Trình độ văn hóa cao đồng nghĩa với trình độ văn minh cao và sự phát triển cao của mỗi quốc gia. Nhìn chung trình độ văn hóa của mỗi dân tộc là nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố về chất lượng lao động, kỹ thuật, trình độ quản lý. Xét trên khía cạnh kinh tế hiện đại thì nó là nhân tố cơ bản của mọi nhân tố dẫn đến quá trình phát triển.
Các thể chế chính trị - xã hội được thừa nhận có tác động đến quá trình phát triển đất nước, đặc biệt thông qua việc tạo dựng hành lang pháp lý và môi trường đầu tư. Vì nền tảng của kinh tế thị trường là dựa trên trao đổi giữa các cá nhân và các nhóm người với nhau, bởi vậy nếu không có thể chế thì các hoạt động này không thể diễn ra bởi vì người này không thể tương tác với người kia mà không có chế tài nào đó ngăn cản người kia hành động tuỳ tiện và ngược lại với thoả thuận.
Về nhân tố dân tộc và tôn giáo, nói chung một đất nước càng đa dạng về các thành phần tôn giáo và sắc tộc thì đất nước đó càng tiềm ẩn bất ổn về chính trị và xung đột trong nước. Những xung đột và bất ổn chính trị trong nước này có thể dẫn đến các xung đột bạo lực và thậm chí là các cuộc nội chiến, dẫn tới tình trạng lãng phí các nguồn lực quý giá đáng ra phải sử dụng để thúc đẩy các mục tiêu phát triển khác.
Sự tham gia của cộng đồng cũng là một yếu tố phi kinh tế tác động tới tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế. Dân chủ và phát triển là hai vấn đề có tác động tương hỗ. Sự phát triển là điều kiện làm tăng thêm năng lực thực hiện quyền dân chủ của cộng đồng dân cư trong xã hội. Ngược lại, sự tham gia của cộng đồng là nhân tố đảm bảo tính chất bền vững và tính động lực nội tại cho phát triển kinh tế, xã hội.
Nhà nước và khung khổ pháp lý không chỉ là yếu tố đầu vào mà còn là yếu tố của cả đầu ra trong quá trình sản xuất. Rõ ràng cơ chế chính sách có thể có sức mạnh kinh tế thực sự, bởi chính sách đúng có thể sinh ra vốn, tạo thêm nguồn lực cho tăng trưởng. Ngược lại, nhà nước quyết sách sai, điều hành kém, cơ chế chính sách không hợp lý sẽ gây tổn hại cho nền kinh tế, kìm hãm tăng trưởng cả về mặt số lượng và chất lượng. Như vậy, có thể nhận thấy tăng trưởng kinh tế phụ thuộc nhiều vào năng lực của bộ máy Nhà nước, trước hết là trong việc thực hiện vai trò quản lý của nhà nước.
2. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
2.1. Tổng quan chung về vốn đầu tư
2.1.1. Khái niệm vốn đầu tư
Vốn đầu tư sản xuất là toàn bộ các khoản chi phí nhằm duy trì hoặc gia tăng mức vốn sản xuất.
Hoạt động đầu tư thường được tiến hành dưới hai hình thức là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
+ Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động và quản lý đầu tư, họ biết được mục tiêu đầu tư cũng như phương thức hoạt động của các loại vốn mà họ bỏ ra.
+ Đầu tư gián tiếp là hình thức bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đem lại hiệu quả cho bản thân người có vốn cũng như cho xã hội, nhưng người có vốn không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Các nguồn hình thành vốn đầu tư
2.1.1.1. Tiết kiệm trong nước
Tiết kiệm của Chính phủ:
Theo tính chất sở hữu, tiết kiệm của Chính phủ bao gồm tiết kiệm của ngân sách nhà nước và tiết kiệm của các công ty nhà nước. Theo tổ chức kinh tế, tiết kiệm của các công ty nhà nước và tiết kiệm của các công ty tư nhân được kết hợp chung là tiết kiệm của các công ty.
Tiết kiệm của các công ty:
Được xác định trên cơ sở doanh thu của công ty và các khoản chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí được gọi là lợi nhuận của công ty trước thuế
Pr trước thuế = TR – TC
TR: doanh thu của công ty; TC: tổng chi phí
Lợi nhuận trước thuế sau khi đóng thuế lợi tức sẽ còn lại lợi nhuận của công ty sau thuế.
Pr sau thuế = Pr trước thuế - T de
Tde: thuế thu nhập của công ty.
Tiết kiệm của dân cư
Tiết kiệm của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình. Thu nhập của hộ gia đình bao gồm thu nhập có thể sử dụng (DI) và các khoản thu nhập khác.
Chi tiêu của hộ gia đình gồm:
Các khoản chi mua hàng hóa và dịch vụ
Chi trả lãi suất các khoản tiền vay
2.1.1.2. Tiết kiệm ngoài nước
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Nguồn vốn FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây là nguồn vốn lớn, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển.
Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA)
Nguồn vốn ODA là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền nhà nước hay địa phương) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này.
Nguồn vốn các tổ chức phi Chính phủ (NGO)
Phương thức viện trợ đa dạng, có thể là vật tư, thiết bị hoặc lương thực, thực phẩm, thuốc men…
Quy mô viện trợ nhỏ, từ vài ngàn đến vài trăm ngàn USD, nhưng thủ tục đơn giản, thực hiện nhanh, đáp ứng kịp thời những yêu cầu khẩn cấp.
Khả năng cung cấp viện trợ và thực hiện viện trợ thất thường và nhất thời.
Ngoài mục đích nhân đạo, trong một số trường hợp còn mang màu sắc tôn giáo, chính trị khác nhau nên khó quản lý.
Viện trợ NGO thường là viện trợ không hoàn lại
Nguồn vốn tín dụng thương mại
Tín dụng thương mại là nguồn vốn mà các nước nhận vốn vay sau một thời gian phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho các nước vay.
2.2. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
2.2.1. Khái niệm
Nguồn vốn FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây là nguồn vốn lớn, có ý nghĩa quan trọng trong phất triển kinh tế ở các nước đang phát triển.
2.2.2. Các hình thức đầu tư vốn FDI
Đầu tư FDI tồn tai dưới nhiều hình thức, song hình thức chủ yếu là hợp đồng hợp tác kinh doanh; doanh nghiệp lien doanh; doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên (gọi là bên hợp doanh) quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư mà không thành lập một pháp nhân.
Doanh nghiệp liên doanh là loại hình do hai bên hoặc các bên nước ngoài hợp tác với nước tiếp nhận đầu tư cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước tiếp nhận đầu tư, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, kinh doanh.
2.2.3. Vai trò của vốn FDI
Đối với các nước đi đầu tư
Thông qua đầu tư FDI, các nước đi đầu tư tận dụng được những lợi thế về chi phí sản xuất thấp của các nước nhận đầu tư (giá nhân công rả, chi phía khai thác nguyên, vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí vận chuyển đối với sản xuất hàng thay thế nhập khẩu ở các nước tiếp nhân đầu tư. Nhờ đó mà nâng cao hiệu quả hiệu quả của vốn đầu tư.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoaid cho phép các công ty có thể kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm đã được sản xuất và tiêu thụ ở thị trường trong nước.
Giúp các công ty chính quốc tạo dựng được thị trường cung cấp nguyên, vật liệu dồi dào, ổn định với giá rẻ.
Cho phép chủ đầu tư bành trướng sức mạnh về kinh tế, tăng cường khả năng ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước nhận đầu tư, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với các hàng hóa nhập từ các nước khác.
Đối với các nước tiếp nhận đầu tư
FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế xã hội do tích lũy nội bộ thấp, cản trở đầu tư và đổi mới kỹ thuật trong điều kiện khoa học, kỹ thuật trên thế giới phát triển mạnh.
Cùng với việc cung cấp vốn, thông qua FDI các nước tiếp nhận đầu tư có thể nhận được những công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại, những kinh nghiệm quản lý, năng lực maketing, đội ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về mọi mặt.
Đầu tư FDI làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát triển, thúc đẩy tính năng động và khả năng cạnh tranh trong nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các tiềm năng của đất nước. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực.
Với việc tiếp nhận FDI, không đẩy các nước vào cánh nợ nần, không chịu những rang buộc về chính trị, xã hội. FDI góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc đánh thuế vào các công ty nước ngoài.
2.2.4. Đặc điểm của vốn FDI ở Việt Nam
Về quy mô trên 1 dự án: Nhìn chung các dự án FDI vào Việt Nam thường có quy mô vừa và nhỏ.
Về hính thức sở hữu: Do nhiều lý do trong đó có việc hạn chế thành lập doanh nghiệp FDI 100% vốn đầu tư nước ngoài nên các dự án FDI đăng ký ở Việt Nam thường là hình thức liên doanh giữa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và nhà đầu tư nước ngoài.
Về cơ cấu đầu tư theo ngành: các dự án FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, góp phần không nhỏ vào quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa.
Về địa bàn đầu tư: cho đến nay FDI đã có mặt ở 62/64 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Tuy nhiên giai đoạn vừa qua cơ cấu dự án FDI theo vùng thay đổi rất chậm, phần lớn các dự án FDI tập trung ở các đô thị lớn và các khu công nghiệp tập trung, nơi có điều kiện hạ tầng thuận lợi, nguồn lao động dồi dào và có trình độ kỹ năng.
Theo đối tác đầu tư: đến nay đã có 74 nước và vùng lãnh thổ có dự án FDI tại Việt Nam, trong đó Singapo, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc là những nhà đầu tư lớn nhất, chiếm 63,3% tổng số dự án và 63% tổng vốn đăng ký, trong khi các đối tác từ Châu Âu chỉ giữ vị trí khiêm tốn với tỷ lệ tương ứng là 16% và 24%.
3. Tác động của vốn FDI tới tăng trưởng kinh tế
3.1. Phân tích mô hình
3.1.1. Mô hình Harrod- Domar
Công thức:
Trong đó:
S : Tỷ lệ tiết kiệm
K : Hệ số ICOR
Mô hình cho thấy mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa tăng trưởng kinh tế và vốn, tỷ lệ nghịch giữa tăng trưởng và hệ số ICOR.
3.1.2. Hàm sản xuất Cobb- Douglas
Công thức:
Y = A. Kα.Lβ
Trong đó:
A : Công nghệ
K: Vốn
L: Lao động
a, b: hệ số co giãn của đầu ra (sản lượng) theo vốn, lao động.
Mô hình cho ta có thể xem xét, nghiên cứu nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế (xem xét mối quan hệ đầu ra- đầu vào và mức độ đóng góp của các yếu tố đầu vào).
3.2. Tác động của nguồn vốn FDI tới tăng trưởng kinh tế
FDI tác động tới tăng trưởng kinh tế thông qua nhiều kênh khác nhau. Theo cách tiếp cận hẹp, tác động đối với tăng trưởng của FDI thường được thông qua kênh đầu tư và gián tiếp thông qua các tác động tràn. Theo cách tiếp cận rộng, FDI gây áp lực buộc nước sở tại phải nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia mà trước hết là cải thiện môi trường đầu tư, qua đó làm giảm chi phí giao dich cho các nhà đầu tư nước ngoài, tăng hiệu suất của vốn và rốt cuộc là tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy, ở đây tác động tới tăng trưởng kinh tế thông qua kênh đầu tư và kênh tác động tràn được xem là hai kênh chính ở các nước đang phát triển và ở Việt Nam
3.2.1. Thông qua kênh đầu tư
Tăng trưởng của nền kinh tế được xác định bởi nhiều yếu tố khác nhau. Song yếu tố quan trọng nhất là mối quan hệ trực tiếp giữa FDI và tăng trưởng kinh tế. Thông qua FDI, không những nhiều hàng hóa vốn mới được tạo ra (tăng tài sản vốn vật chất của nền kinh tế) mà chi phí để sản xuất ra chúng còn giảm đi, qua đó tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, tốc độ này còn tỷ lệ nghịch với mức chênh lệch về công nghệ và được đo bằng tỷ lệ giữa số hàng hóa vốn mới sản xuất trong nước và hàng hóa vốn sản xuất ở các nước đang phát triển- giữa nước nhận FDI và các nước phát triển. Tác động này biểu thị cho hiện tượng ‘’bắt kịp’’ về tăng trưởng kinh tế của nước nghèo hơn so với nước giàu hơn. Tất cả các tác động trên là lý do khiến tất cả các nước đều rất nỗ lực thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là các nước nghèo.
3.2.2. Tác động tràn
Bên cạnh tác động trực tiếp tới tăng trưởng của cả nền kinh tế, sự có mặt của các doanh nghiệp FDI còn tác động gián tiếp tới các doanh nghiệp trong nước như tăng áp lực cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp trong nước phải tăng hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy quá trình phổ biến và chuyển giao công nghệ… Các tác động này còn được gọi là tác động tràn của FDI. Sự xuất hiện của tác động tràn của FDI có thể lý giải qua sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp trong nước.
Có bốn loại tác động tràn:
Tác động có liên quan tới cơ cấu đầu ra- đầu vào của doanh nghiệp xuất hiện khi có sự trao đổi hoặc mua bán nguyên vật liệu hoặc hàng hóa trung gian giữa doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong nước. Loại tác động này có thể sinh ra theo hai chiều: tác động xuôi chiều (forward effect) xuất hiện nếu doanh nghiệp trong nước sử dụng hàng hóa trung gian của doanh nghiệp FDI và ngược lại tác động ngược chiều (backward effect) có thể xuất hiện khi các doanh nghiệp FDI sử dụng hàng hóa trung gian do các doanh nghiệp trong nước sản xuất. Và tác động ngược chiều này là mong muốn và rất có ý nghĩa đối với các nước chậm phát triển.
Tác động liên quan đến phổ biến và chuyển giao công nghệ thường được coi là một mục tiêu quan trọng của các nước nghèo. Thông qua FDI, các công ty nước ngoài sẽ đem công nghệ tiên tiến hơn từ công ty mẹ vào sản xuất tại nước sở tại thông qua thành lập các công ty con hay chi nhánh.
Tác động liên quan đến thị phần trong nước hay tác động cạnh tranh được coi là rất quan trọng đối với các nước chậm phát triển, là sự có mặt của doanh nghiệp FDI tạo ra tác động cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước. Loại tác động này phụ thuộc vào cấu trúc thị trường và trình độ công nghệ của nước nhận đầu tư. Đối với các nước chậm phát triển, trong nhiều trường hợp tác động cạnh tranh của FDI là rất khốc liệt trước khi nó mang lại tác động tràn tích cực khác.
Liên quan đến trình độ lao động (hay vốn con người). Ngoài việc tạo việc làm, FDI còn là một tác nhân truyền bá kiến thức quản lý và kỹ năng tay nghề cho lao động của nước nhận FDI. Tác động tràn này xuất hiện khi các doanh nghiệp FDI tuyển dụng lao động nước sở tại đảm nhận các vị trí quản lý, các công việc chuyên môn hoặc tham gia nghiên cứu và triển khai.
Các tác động nêu trên có thể ảnh hưởng tới năng suất của các doanh nghiệp trong nước. Do giá trị gia tăng của cả nền kinh tế được tạo ra chủ yếu bởi các doanh nghiệp, nên có thể hình dung ra mối quan hệ gián tiếp giữa tăng trưởng và tác động tràn của FDI.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA VỐN FDI ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
TỪ 1993 ĐẾN NAY
1. Thực trạng vốn FDI
Thời kỳ 1993-1997, vốn FDI đổ vào Việt Nam liên tục tăng với tốc độ nhanh cả về số dự án, số vốn đăng ký mới tăng và đạt mức đỉnh điểm gần 9,8 tỷ USD vào năm 1996. Kết quả này cho thấy sự kỳ vọng của các nhà đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế mới mở cửa, thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng như Việt Nam. Ở giai đoạn này, vốn thực tế giải ngân tăng về tuyệt đối và tương đối, nhưng tỷ lệ giải ngân thấp.
Luật đầu tiên về Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài đã được ban hành ngày 29/12/1987. Kể từ dó đến nay Luật này đã được sửa đổi nhiều lần vào năm 1990, 1992, và trước khi Luật mới về Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài được Quốc hội Việt nam thông qua vào tháng 6/2000. Các tổ chức tư nhân được phép thành lập liên doanh với nhà đầu tư nước ngoài kể từ năm 1992. Các thủ tục cấp giấy phép đầu tư dần dần được hoàn thiện, thời gian để nhận được giấy phép đầu tư ngắn hơn từ một vài năm xuống còn một vài tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ xin cấp đầy đủ. Nhằm thu hút nhiều hơn FDI, nhiều cản trở đối với nhà đầu tư nước ngoài đã được dỡ bỏ và môi trường đầu tư thuận lợi hơn. Do đó, Việt nam đã thu hút được một lượng đáng kể dòng FDI chảy vào Việt nam. FDI ở Việt nam đã tăng trưởng rất nhanh từ năm 1988 đến năm 1995. Vào năm 1997, khủng hoảng tài chính Châu Á xảy ra, dòng FDI chảy vào Việt Nam giảm. Chúng ta có thể thấy điều này dưới hình sau:
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam
Năm 1997, do chịu sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á và do môi trường đầu tư ở Việt Nam kém hấp dẫn hơn so với các nước trong khu vực, nhất là Trung Quốc nên có sự giảm sút mạnh của dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam. Vốn FDI đăng ký mới giảm trung bình tới 24%/năm, trong khi vốn gải ngân giảm với tốc độ chậm hơn, trung bình khoảng 14%, góp phần thay đổi sự tương quan giữa vốn giải ngân và vốn đăng ký. Từ năm 1999 trở đi, vốn giải ngân luôn vượt vốn đăng ký mới.
Theo điều tra của UNDP, Việt Nam lọt được vào trong số 10 nước hàng đầu khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhận được nhiều FDI nhất trong thời gian 2001-2002. Tổng vốn FDI thực hiện tại Việt Nam năm 2002 đạt 2,5 tỷ USD, cao hơn so với mức 2,3 tỷ USD của năm 2001. Qua 8 tháng đầu năm 2003, tổng vốn FDI đã được cam kết là khoảng 1,6 tỷ USD, cao hơn cùng kỳ 2002. Trong đó, 554 triệu thuộc dự án từ các năm trước và 1 tỷ USD là số vốn được đăng ký mới của 389 dự án. Bình Dương và Đồng Nai, TP.HCM chiếm 54% số vốn đăng ký.
FDI vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, nhờ đó, trong hơn một thập kỷ qua Việt Nam đã cải thiện được nhiều ngành kinh tế quan trọng như thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, điện tử, xây dựng hạ tầng... Năm 2004, khu vực có vốn FDI đóng góp tới 35,68% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, trong khi tỷ lệ này chỉ là 25,1% năm 1995. Đến nay, khu vực có vốn FDI đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công nghiệp như dầu khí, ô tô, máy giặt, điều hoà, tủ lạnh, thiết bị máy tính; 60% cán thép; 28% xi măng; 33% máy móc thiết bị điện, điện tử; 76% dụng cụ y tế chính xác; 55% sản lượng sợi; 49% sản lượng da giày... Nhìn chung, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn FDI luôn duy trì ở mức cao, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung toàn ngành trong suốt giai đoạn 1995 – 2003, trừ năm 2001. Năm 2004, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực này tuy cao, đạt 15,7% nhưng thấp hơn mức chung toàn ngành, chủ yếu do tốc độ tăng rất cao của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước (22,8%).
Trong một thập kỷ trở lại đây, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI luôn cao hơn so với tốc độ tăng trung bình của cả nước. Năm 1991, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 2 tỷ USD, trong khi đó năm 2004 con số này đã là 26,5 tỷ đô la, tăng gấp 13,5 lần so với năm 1991. Khu vực FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng giá trị xuất khẩu, từ 4% năm 1991 lên 54,6% năm 2004. Mặc dù FDI có tỷ trọng xuất khẩu cao song giá trị xuất khẩu ròng của khu vực có vốn FDI không cao. Sở dĩ như vậy vì các dự án FDI trong công nghiệp vẫn chủ yếu sử dụng các dây chuyền lắp ráp có quy mô nhỏ và sử dụng nguồn đầu vào từ nhập khẩu là chính.
Đến giữa năm 2005, tổng vốn đăng ký tăng trên 30% so với năm 2003 (của riêng phía nước ngoài tăng 28,4%), tổng vốn thực hiện tuy nhiên chỉ tăng 7,6%. Tốc độ tăng nhanh vốn FDI năm 2004 và 6 tháng đầu năm 2005 do kết quả cải thiện môi trường đầu tư bằng việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, Chính phủ còn cho phép đầu tư gián tiếp vào 35 ngành, đồng thời mở cửa hơn một số ngành do Nhà nước độc quyền nắm giữ trước đây như điện lực, bảo hiểm, ngân hàng, viễn thông cho đầu tư nước ngoài và cho phép chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang công ty cổ phần.
Năm 2007, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào VN đã vượt con số 15 tỷ USD, vượt 15% kế hoạch dự kiến. Tổng số dự án cấp trong năm 2007 đạt khoảng 1300 dự án, với tổng vốn 14 tỷ USD. Công nghiệp vẫn đang là ngành thu hút lượng vốn lớn nhất, với 7,55 tỷ USD, chiếm 56,4% tổng vốn đầu tư đăng ký. Sau công nghiệp là các ngành dịch vụ, với 5,65 tỷ USD. Doanh thu của các DN có vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2007 ước đạt gần 40 tỷ USD, tăng 25% so với năm 2006. Các DN này cũng đã thu hút thêm 13.000 lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lên 1,25 triệu người. Hàn Quốc tiếp tục là nhà đầu tư số 1 tại VN với 3,68 tỷ USD vốn đăng ký, chiếm 29% về số dự án và 28% về tổng vốn đăng ký. Xu hướng đầu tư vào lĩnh vực bất động sản của các nhà đầu tư Hàn Quốc ngày càng rõ nét, trải rộng tại các tỉnh thành trong cả nước, đáng chú ý là các dự án của tập đoàn Keangnam và Charmvit tại Hà Nội với tổng trị giá 1,5 tỷ USD, và dự án khu đô thị mới 250 triệu USD tại Đà Nẵng. Trong số những dự án mới được cấp phép, đáng chú ý có nhà máy lọc dầu Vũng Rô 1,7 tỷ USD của British Virgin Islands tại Phú Yên, 2 dự án khu nghỉ mát cao cấp Laguna và Chân Mây của Singapore, mỗi dự án có số vốn 276 triệu USD tại Thừa Thiên - Huế. TP HCM cũng có hàng loạt dự án địa ốc lớn, như Yon Woon-Vạn Phúc 250 triệu USD, GS Nhà Bè 189 triệu USD. Singapore là nhà đầu tư đứng thứ hai vào VN với 534 dự án, tổng vốn đăng ký 9,86 tỷ USD, đã có 3,8 tỷ USD vốn đưa vào thực hiện. Nhật Bản đứng thứ 3 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư cao nhất vào VN và dẫn đầu về vốn FDI thực hiện tại VN, có 591 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt trên 6,2 tỷ USD.
Theo dự báo, triển vọng thu hút FDI đăng ký cả năm 2008 có thể đạt trên 50 tỷ USD, với số vốn thực hiện đạt hơn 10 tỷ USD. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã liên tiếp đạt mức kỷ lục và được coi là điểm sáng nổi bật trong bức tranh toàn cảnh nền kinh tế từ đầu năm. Số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy trong 8 tháng đầu năm 2008, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp mới và tăng thêm đạt 47,158 tỷ USD. Cụ thể, có 772 dự án được cấp giấy phép đầu tư, với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 46,324 tỷ USD và 210 lượt dự án tăng vốn có tổng số vốn tăng thêm là 833,6 triệu USD.Chỉ riêng tháng 8/2008, cả nước có 118 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký là 1,827 tỉ USD và 22 lượt dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm là 45 triệu USD.
Trong tháng 8 năm 2008, vốn FDI thực hiện là 1 tỷ USD, đưa tổng số vốn thực hiện 8 tháng đầu năm lên 7 tỷ USD.
Đáng chú ý là FDI có xu hướng chuyển dịch từ lĩnh vực dịch vụ sang lĩnh vực công nghiệp nhờ hai "siêu dự án" có tổng vốn đăng ký là 14,097 tỷ USD, đó là: Công ty Gang thép Hưng Nghiệp Formosa do Tập đoàn Formosa (Đài Loan) đầu tư gần 7,9 tỷ USD tại Vũng Áng, Hà Tĩnh và liên doanh giữa Công ty Lọc dầu Nghi Sơn với các tập đoàn của Nhật Bản và Kuwait đầu tư 6,2 tỷ USD tại Thanh Hoá.
2. Thực trạng tăng trưởng kinh tế
Thời kỳ 1993-1995 thể hiện những bước chuyển đầu tiên của nền kinh tế sang cơ chế thị trường. Nếu như từ năm 1991, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu có những khởi sắc với tốc độ tăng trưởng 8,7% và đạt mức cao nhất vào năm 1995 với tốc độ tăng trưởng là 9,5%. Sự tăng trưởng nhanh trong giai đoạn này là do tác động của nhiều cải cách lớn như: ban hành và sửa chữa những bộ luật liên quan đến ngân sách nhà nước, doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh, tín dụng và ngân hàng, khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài, và mở rộng các quan hệ thương mại và tài chính với cộng đồng quốc tế thông qua đàm phán và tự do hóa cao hơn, thể hiện qua việc Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1994 và AFTA năm 1995.
Bảng 3 : Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô giai đoạn (1993 – 1997)
1993
1994
1995
1996
1997
Tốc độ tăng GDP (%)
8,1
8,6
9,5
9,3
8,1
Lạm phát (%)
5,2
14,4
12,7
4,5
3,6
FDI (tỷ USD)
2,4
5,15
6,9
11
8,09
Nguồn: “Exchange rate arrangement in Vietnam: Information content and policy options”
Thời kỳ 1997-2000 là khoảng thời gian tốc độ tăng trưởng kinh tế có chiều đi xuống, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á. Nền kinh tế Việt Nam tuy không chịu ảnh hưởng trực tiếp do có mức kiểm soát tài khoản vốn cao, nhưng việc nguồn vốn FDI suy giảm và sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên các thị trường xuất khẩu thực sự tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng giảm đáng kể trong giai đoạn này, từ 8,2% năm 1997 xuống 4,8% năm 1999. Bình quân cả thời kỳ, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7%, không đảm bảo kế hoạch 5 năm đã đề ra. Tăng trưởng GDP, nếu năm 1998 chỉ đạt 5,76%, năm 1999 giảm xuống còn 4,77% - là tốc độ chạm đáy trong thời kỳ 1991 - 1999 - năm 2000 đạt 6,79%.
Thời kỳ 2001-2005 chứng kiến đà tăng trưởng trở lại của nền kinh tế. Sau khi cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á đ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6004.doc