Tác động của Luật hải quan Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may VN sang Mỹ - Thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU Những năm gần đây, thị trường Việt Nam được chứng kiến nhiều thành công phát triển rực rỡ của các sản phẩm trong nước và việc đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu nhiều loại hàng hoá như : dầu thô, dệt may, nông sản, thuỷ hải sản, da giày, thủ công mỹ nghệ…sang thị trường Hoa Kỳ, các nước Châu Âu, …đã đem lại những nguồn lợi to lớn.Một trong những mặt hàng xuất khẩu mang lại những đóng góp rất lớn trong kim ngạch xuất khẩu chính là mặt hàng dệt may. Hiện nay, ngành này có kim ngạch xuất khẩu

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1567 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tác động của Luật hải quan Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may VN sang Mỹ - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đứng thứ 2 sau dầu thô. Đồng thời đây cũng là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta giai đoạn 2001 – 2010. Tuy nhiên, bên cạnh việc hoàn thiện và thúc đẩy thì xuất khẩu dệt may còn gặp rất nhiều những khó khăn, thách thức do các rào cản thương mại phía chính phủ Hoa Kỳ đưa ra mà chúng ta còn phải tìm hiểu, nghiên cứu và tìm ra những giải pháp nhằm hạn chế, khắc phục và giảm thiểu những khó khăn đó. Chính vì lẽ đó mà em quyết định lựa chọn đề tài : “Tác động của luật Hải quan Hoa Kỳ đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ: Thực trạng và giải pháp” Em lựa chọn đề tài này với mong muốn được hiểu biết thêm về tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam nói chung và tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ nói riêng. Mặc dù em được rất cố gắng hoàn thành đề án này, nhưng do hạn chế về trình độ và thông tin cùng với thời gian có hạn nên không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo hướng dẫn TS . Tạ Văn Lợi đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề án này. CHƯƠNG I: TÌNH HUỐNG TÁC ĐỘNG CỦA LUẬT HẢI QUAN HOA KỲ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG HOA KỲ I. Các rào cản Hoa Kỳ áp dụng nhằm hạn chế xuất khẩu đối với hàng dệt may Việt Nam 1. Hạn ngạch và thuế quan nhập khẩu Mới đây Bộ thương mại Mỹ được dựng lên “rào cản” kỹ thuật mới, đó chính là cơ chế giám sát nhập khẩu hàng dệt may vào nước này. Trước đây khi nói đến rào cản thương mại các doanh nghiệp Việt Nam chỉ biết đến thuế quan và hạn ngạch. Quá trình tự do hoá thương mại mang đến thành quả là việc dỡ bỏ những biện pháp bảo hộ truyền thống, đặc biệt là khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO và hưởng quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn thì hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, trong đó có dệt may, sẽ có cơ hội tăng trưởng cao hơn. Về tính pháp lý của cơ chế này, ông Lê Quốc Ân, chủ tịch hiệp hội dệt may Việt Nam, chủ tịch tập đoàn dệt may(Vinatex) cho rằng cơ chế này không phù hợp với WTO. Bởi vì, cơ chế này chỉ nhằm giám sát riêng hàng dệt may Việt Nam, điều này trái với tinh thần chống phân biệt đối xử của WTO dành cho tất cả các thành viên của mình. 2. Tiêu chuẩn xanh - sạch (Greentrade Barrier) Trong xu thế hội nhập cạnh tranh gay gắt khi đưa hàng ra các thị trường lớn,đặc biệt la Hoa Kỳ,dệt may Việt Nam cũng đang gặp phải không ít khó khăn trước những rào cản thương mại, những tiêu chuẩn mà đối tác đặt ra. Trong số hàng loạt các tiêu chuẩn bắt buộc đặt ra đối với hàng dệt may, các nhà nhập khẩu hiện quan tâm nhiều đến tiêu chuẩn xanh, sạch đối với sản phẩm ngay từ khâu nguyên liệu đến thành phẩm... 3. Áp đặt thuế chống bán phá giá Trong bối cảnh tranh chấp thương mại đang trở nên một “đặc trưng” của hội nhập,việc Hoa Kỳ đưa ra các cơ chế giám sát chống bán phá giá các mặt hàng nhập khẩu vào nước này trong đó có hàng dệt may của Việt Nam là một điều dễ hiểu. Nhưng để đảm bảo cạnh tranh thật công bằng, trong suốt 8 tháng qua, hầu hết đối với các mã hàng nhạy cảm, sản phẩm Dệt may của Việt Nam vào Mỹ không những không tăng về số lượng, không hạ giá bán mà còn duy trì như trước thời điểm quốc gia này áp dụng cơ chế giám sát. 4. Các quy định khác cuả hải quan Hoa Kỳ 4.1. Những quy định về các sản phẩm dệt Tem, mark, mã theo quy định tại "Texxtile Fiber Products Identification Act", trừ khi được miễn trừ. 4.2.Quy định về thương hiệu,nhãn hiệu và bản quyền Hàng hoá mang nhãn hiệu gi hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã đăng ký bản quyền của một công ty Mỹ hoặc nước ngoài, sẽ bị cấm nhập khẩu vào Mỹ. Một bản sao đăng ký nhãn hiệu ở Mỹ sẽ phải nộp cho Uỷ ban Hải quan và được lưu giữ theo quy định. 4.3. Quy chế nhập khẩu đối với vải dệt kim,vải đan,quần áo và phụ kiện dệt kim, đan Đó là các qui định cụ thể của Hải quan Hoa Kỳ đối với các loại vải dệt kim, vải đan, quần áo và phụ kiện dệt kim, đan được nhập khẩu vào nước này, trong đó có hàng dệt may của Việt Nam. II. Tác động của luật Hải quan Hoa Kỳ tới tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này Tuy hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chiếm tới 50% tổng số hàng dệt may của Việt Nam xuất đi các nước, nhưng so với tổng khối lượng mà Mỹ nhập khẩu từ các nước khác trên thế giới thì hàng dệt may Việt Nam chỉ chiếm khoảng 3%. Đặc biệt, các nước này lại chưa bị áp đặt cơ chế này. Rõ ràng đây là 1 điều không hợp lý. Mặc dù phải đến đầu tháng 8, phía Mỹ mới công bố những kết quả đầu tiên về việc giám sát hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, nhưng từ mấy tháng trước đó, ngành dệt may Việt Nam được phải hứng chịu nhiều tác động tiêu cực của cơ chế này. Các đơn đặt hàng cho quý 3 và những tháng cuối năm 2007 sụt giảm đáng kể. Theo ông Lê Hồng Phoa, Giám đốc công ty may mặc Bình Dương, đơn hàng xuất khẩu sang Mỹ hiện được giảm 50% với cùng kỳ năm trước, do các đối tác lo ngại khả năng hàng dệt may của Việt Nam sẽ bị đánh thuế cổ phần hoá. Theo Vinatex, do ảnh hưởng của việc giám sát tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam từ phía Chính phủ Mỹ, mục tiêu xuất khẩu 7,35 tỷ USD hàng dệt may trong năm 2007 sẽ khó có thể hoàn thành bởi trong 5 tháng đầu năm, kim ngạch chỉ tăng có 24,3%, giá trị bình quân tháng khoảng 537 triệu USD/tháng. Với mức bình quân như vậy, kim ngạch cả năm chỉ có thể đạt khoảng 6,5 tỷ USD. Hiện, khách hàng Mỹ chưa ký hợp đồng cho quý III do còn theo dõi diễn biến của Chính phủ Mỹ. Nếu trong tháng 8 tới có những nhận xét bất lợi từ Bộ Thương mại Mỹ thì các nhà nhập khẩu có thể sẽ rút Việt Nam khỏi danh sách các nước xuất khẩu. Trong khi chờ đợi kết quả chính thức của đợt đánh giá đầu tiên, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn phải nỗ lực để duy trì và tăng trưởng xuất khẩu trên thị trường Mỹ bởi đây là 1 thị trường lớn đầy tiềm năng. Thêm vào đó hàng hoá được thị trường Mỹ chấp nhận sẽ như được cấp 1 tấm giấy thông hành để hàng hoá đi vào các thị trường khác 1 cách dễ dàng hơn. Với những nỗ lực không ngừng đó, thời gian gần đây đơn hàng được trở lại với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp của Agtek cũng được nhận được đơn hàng của các nhà nhập khẩu Mỹ cho quý 4 năm nay và những tháng đầu năm 2008. Riêng công ty cổ phần may Sài Gòn 3 của ông Hồng được nhận được số lượng đơn hàng khá lớn. “ Bình thường chúng tôi nhận được đơn đặt hàng khoảng 150.000 sản phẩm mỗi tháng, những tháng bị ảnh hưởng số lượng giảm xuống còn 120.000 sản phẩm, còn từ tháng 9 trở đi số lượng tăng khoảng 200.000 sản phẩm/tháng” - ông Hồng nói. Tuy nhiên, cơ chế giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam của Bộ thương mại Mỹ chưa được gỡ bỏ, do vậy dù hợp đồng đang có xu hướng tăng lên nhưng các nhà xuất khẩu luôn phải dặn dò nhau vừa làm vừa…đếm. CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG I. Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu Xuất khẩu là động lực tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Xét 1 cách cụ thể, xuất khẩu có vai trò rất lớn trong nền kinh tế. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước…Do đó việc xuất khẩu được càng nhiều hàng hoá sẽ tạo điều kiện thu được nhiều nguồn vốn nhằm phát triển đất nước. Đồng thời, xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Xuất khẩu góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại. Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể được nhìn nhận theo các hướng sau : Xuất khẩu các sản phẩm của nước ta ra nước ngoài, xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho những ngành liên quan phát triển, xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, khai thác tối đa sản xuất trong nước, cung cấp đầu vào cho sản xuất. Xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nước ta. Thông qua xuất khẩu, hành hoá của Việt Nam sẽ được tiếp xúc và tăng được khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới cả về giá cả, chất lượng. Xuất khẩu còn giúp các doanh nghiệp có động lực tự phấn đấu vươn lên hoàn thiện chất lượng và hạ giá thành cho các sản phẩm của mình. Từ đó, sản phẩm của họ có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế đầy khốc liệt, với sức đào thải lớn đối với những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. II. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ thời gian qua dưới sức ép của luật hải quan nước này 1. Đặc điểm và vai trò của ngành dệt may Việt Nam 1.1. Đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam Ngày nay, khi đời sống con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu thẩm mỹ ăn mặc cũng được nâng cao theo đó. Và các sản phẩm hàng dệt may chính là biểu tượng của trình độ và tình trạng tiêu dùng của xã hội. 1.2. Vai trò của ngành dệt may Việt Nam Ngành dệt may Việt Nam cũng như nhiều ngành kinh tế khác đã có những đóng góp to lớn trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu ngoại tệ…thông qua đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước có nền kinh tế phát triển. Hiện nay, dệt may đứng ở vị trí thứ 2 sau dầu thô về giá trị xuất khẩu. Sau Hiệp định thương mại Việt Mỹ, việc xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ gặp nhiều thuận lợi hơn. Do đó, hoạt động xuất khẩu mặt hàng này được thu hút được nhiều ngoại tệ đẩy mạnh phát triển kinh tế xược hội. Có thể nói thông qua việc xuất khẩu dệt may sang thị trường thế giới được và đang đem lại cho chúng ta cơ hội phát triển nền kinh tế, giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân. 2. Phân tích các tác động của luật Hải quan Hoa Kỳ áp dụng đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 2.1. Hạn ngạch nhập khẩu Theo quy định của hải quan Hoa Kỳ,phần lớn các quota nhập khẩu do Cục hải quan Mỹ(US Customs Service) quản lý. Hội đồng hải quan (Commissioner of Customs) kiểm soát việc nhập khẩu hàng theo quota nhưng không có quyền cấp, hay thay đổi quota. Quota nhập khẩu của Mỹ có thể chia thành 2 loại: - Hạn ngạch giảm thuế (Tariff - rate quota): quy định số lượng của mặt hàng đó được nhập vào với mức thuế giảm trong một thời gian nhất định. Không có hạn chế về số lượng nhập vào đối với mặt hàng này, nhưng số lượng nhiều hơn mức quota cho thời gian đó sẽ bị đánh thuế nhập khẩu cao hơn. - Hạn ngạch tuyệt đối (Absolute quota) là hạn ngạch về số lượng, tức là số lượng vượt quá hạn ngạch cho phép sẽ không được nhập vào Mỹ trong thời hạn của quota. Một số quota là áp dụng chung, còn một số thì chỉ áp dụng riêng đối với một số nước. Hàng nhập quá số lượng theo quota sẽ phải tái xuất hoặc lưu kho trong suốt thời hạn của quota. Các điều khoản vi phạm luật lệ trong thương mại: - Người vi phạm luật pháp về nhập khẩu hàng hoá, kể cả hàng giả sẽ bị phạt tù hoặc phạt tiền. Hàng hoá của người vi phạm có thể bị tịch thu, hoặc bị tạm giữ để đảm bảo việc nộp phạt. - Luật Mỹ quy định các vi phạm việc kê khai sai lệch với Hải quan Mỹ có thể bị tù tối đa 2 năm, hoặc 5000 USD hoặc cả hai loại cho mỗi lần vi phạm hoặc cố tìm cách vi phạm. -Các vi phạm về nhập khẩu hàng hoá trái phép có thể bị xử tù đến 20 năm hoặc phạt tiền đến 500.000 USD hoặc cả hai, cho mỗi lần vi phạm. Chính điều này đã gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi muốn xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.Rất nhiều doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ Việt Nam mới chỉ chân ướt chân ráo làm quen với thị trường Hoa Kỳ đã vấp phải những cú sốc về hạn ngạch nhập khẩu và thuế của nước này.Chính cú sốc đó đã khiến nhiều doanh nghiệp đang hăm hở với dự định xâm nhập vào thị trường tiềm năng này đành phải rút lui trong luyến tiếc.Có hiện tượng này là do,các doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ của Việt Nam có lượng vốn thấp,ít kinh nghiệm cạnh tranh trên thị trường quốc tế,nên chưa kịp thu lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ thì đã bị những khó khăn về thuế nhập khẩu quá cao,hạn ngạch nhập khẩu thì quá chặt chẽ đánh gục. 2.2. Tiêu chuẩn xanh - sạch (Greentrade Barrier) Từ trước những năm 1980, cách tiếp cận và ứng phó với các vấn đề ô nhiễm theo hướng chính “kiểm soát ô nhiễm" hay còn gọi là “phản ứng và xử lý”. Trên thực tế mọi giải pháp xử lý chất thải trên được thực hiện sau khi đã có chất thải, là hình thức chuyển trạng thái ô nhiễm từ dạng này sang dạng khác sao cho giảm về lượng cũng như mức độ ô nhiễm và độc hại. Các công nghệ kiểm soát ô nhiễm (các nhà máy xử lý nước thải, thiết bị xử lý khí thải như lọc ướt, cyclon lọc bụi, lò đốt, bãi chôn lấp) được triển khai ở các nhà máy. Trong vòng những năm 80 trở lại đây, “sản xuất sạch hơn” được áp dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới với mục đích giảm phát thải vào môi trường tại nguồn trong các quá trình sản xuất, sản xuất sạch hơn là cách tiếp cận chủ động, theo hướng “dự đoán và phòng ngừa” ô nhiễm từ chất thải phát sinh trong các hoạt động sản xuất công nghiệp. Ở nước ta, sản xuất sạch hơn được đưa vào áp dụng từ năm 1996 và triển khai từ năm 1998 tập trung ở một số ngành công nghiệp như giấy, dệt - nhuộm, thực phẩm (chế biến thuỷ sản và bia), vật liệu xây dựng và gia công kim loại với trên 130 doanh nghiệp thuộc 28 tỉnh và thành phố và bước đầu mang lại những lợi ích kinh tế và môi trường thông qua tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, hoá chất, nước, giảm thiểu chất thải trong sản xuất Thực chất, tiêu chuẩn Greentrade Barrier - tiêu chuẩn thương mại “xanh”, cũng chính là một rào cản thương mại xanh. Rào cản thương mại xanh được áp dụng đối với hàng may mặc là đòi hỏi các sản phẩm phải đáp ứng được các tiêu chuẩn sinh thái quy định, an toàn về sức khỏe đối với người sử dụng, không gây ô nhiễm môi trường trong sản xuất, bắt buộc các nhà xuất khẩu phải tuân thủ. Một liên hệ thực tế, tình trạng trên đã xảy ra đối với hàng dệt may của Trung Quốc, thì tất yếu sẽ xảy ra đối với ngành Dệt May của Việt Nam và các nước châu Á khác. Như vậy là, trong cuộc cạnh tranh quyết liệt sau khi hạn ngạch dệt may được rỡ bỏ và một số tiêu chuẩn được các thị trường EU, Mỹ, Nhật... áp dụng, thì rào cản thương mại “xanh” là một thách thức, trở ngại lớn đối với tất cả các nước xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường nói trên. Đối với quá trình sản xuất, sản xuất sạch hơn bao gồm giảm tiêu thụ nguyên liệu, năng lượng cho 1 đơn vị sản phẩm, loại bỏ tối đa các vật liệu độc hại, giảm lượng và mức độ độc hại của tất cả các dòng thải trước khi ra khỏi quá trình. Đối với sản phẩm, sản xuất sạch hơn tập trung làm giảm các tác động tới môi trường trong suốt vòng đời của sản phẩm kể từ khi khai thác nguyên liệu thô đến khi thải bỏ cuối cùng. sản xuất sạch hơn yêu cầu từng bước cải tiến công nghệ hiện có và dần thay thế bằng những công nghệ tốt và công nghệ sạch. Trong ngành dệt nhuộm, 12 doanh nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn với khoản đầu tư 2 tỷ đồng đã tiết kiệm 12 tỷ đồng/năm thông qua việc giảm tiêu thụ tài nguyên và nhiên liệu hàng năm như điện 7.750 Mwh; dầu FO 7.327 tấn; nước 971.000m3, hoá chất và chất trợ 380 tấn và thuốc nhuộm giảm 45 tấn; lượng nước thải giảm 971.000m3. Có thể nói con số 130 doanh nghiệp triển khai sản xuất sạch hơn là quá nhỏ so với số doanh nghiệp hiện có trong cả nước.Trong khi ấy, tiềm năng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp Việt Nam là rất lớn và tiềm năng giảm lượng chất thải và chất ô nhiễm môi trường cũng rất cao: tiết kiệm điện năng 20 – 50%, tiết kiệm nước 40 – 70%, giảm hiệu ứng nhà kính 20 – 25%, giảm các chất độc hại tạo thành chất thải nguy hiểm 50 – 100%… Một thực tế đặt ra đối với ngành Dệt May Việt Nam là cho đến nay, việc sản xuất các sản phẩm “xanh” chưa được quan tâm áp dụng đúng mức. Một số nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp còn chưa được trang bị kiến thức hoặc hiểu biết còn hạn chế về những yêu cầu “xanh” đối với các sản phẩm dệt may xuất khẩu. Ngoài ra, phần lớn các công ty, xí nghiệp trong dây chuyền nhuộm-hoàn tất vẫn còn sử dụng một số hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm và các hóa chất gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái, sức khỏe người lao động và thậm chí đến cả người sử dụng sản phẩm. Có thể nêu lên vài ví dụ nổi bật sau. Trong hồ sợi, ngày càng sử dụng nhiều hóa chất độc hại đến nguồn nước, làm tăng tải lượng COD (nhu cầu oxy hóa học) trong nước thải khó xử lý vi sinh. Nước thải rũ hồ thông thường chứa 4000-8000 mg/l COD. Kỹ thuật “giảm trọng” polieste bông kiềm được áp dụng phổ biến làm sản sinh một lượng lớn terephtalat và glycol trong nước thải sau sử dụng 5-6 lần, đưa COD có thể lên tới 80.000 mg/l. Trong thành phần nước thải của các công ty, nhà máy dệt-nhuộm hiện nay, có khoảng 300-400 mg/l COD (đã vượt tiêu chuẩn nước thải loại B 3-4 lần) dự đoán sẽ tăng lên mức 700-800 mg/l và có thể còn tăng hơn nữa trong tương lai. Nếu như tình hình ô nhiễm môi trường, trước hết là “nhiễm nước thải không được kiểm soát, thì các doanh nghiệp dệt-nhuộm phải đương đầu với nhiều vấn đề nghiêm trọng, phải tốn rất nhiều kinh phí cho việc xử lý môi trường, mới đáp ứng được các tiêu chuẩn quy định về môi trường, cũng như để phát triển sản xuất, xuất khẩu bền vững, đáp ứng các yêu cầu của tiêu chuẩn thân thiện về môi trường. Để giải quyết được tình trạng trên, đòi hỏi trước tiên vẫn là ý thức của nhà sản xuất trong việc thực hiện các tiêu chuẩn về vệ sinh xanh sạch trong sản xuất. Các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu cần rà soát một cách kỹ lưỡng, cẩn thận những hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm đang sử dụng (bao gồm cả hàng nhập khẩu và sản xuất trong nước), phải biết rõ nguồn gốc, xuất xứ của chúng và cần có “hồ sơ” của từng loại hóa chất, chất trợ, từng mẫu thuốc nhuộm. Đó là “Phiếu các số liệu an toàn” (safety data sheets) mà các hãng sản xuất hóa chất, thuốc nhuộm đều có. Thay thế vào đó là những hóa chất , chất phụ trợ thân thiện với môi trường, các thuốc nhuộm biết rõ nguồn gốc xuất xứ, chất lượng tốt, loại mới, không độc hại và ít ô nhiễm môi trường. Song song với hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm (dùng cả trong nhuộm và in hoa) là công nghệ áp dụng và máy móc thiết bị tương ứng. Mặc dù, trong một vài năm gần đây, trong chiến lược tăng tốc, nâng cao chất lượng hàng dệt may, tạo vị thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, ngành dệt may nước ta đã chú trọng đáng kể đầu tư vào khâu nhuộm-hoàn tất. Nhiều loại máy móc, thiết bị tốt, mới, hiện đại đã được đầu tư có chiều sâu, như các máy văng sấy Monforts, máy nhuộm liên tục Monforts ở Công ty Dệt Việt Thắng; các máy in lưới quay Stork, máy in lưới phẳng Buser ở hai Công ty Dệt May Thắng Lợi và Dệt 8/3; các máy nhuộm khí động lực” (Air-Jet) do được chế tạo ở Dệt kim Đông Xuân và Dệt 8/3; máy làm bóng trục mới của Công ty Dệt Nam Định, hệ thống máy xử lý trước - xử lý hoàn tất vải pha len của Công ty Dệt lụa Nam Định và Công ty 28 (Bộ Quốc phòng). Song nhìn một cách tổng thể, phần lớn ngành nhuộm-in hoa-xử lý hoàn tất của các sản phẩm dệt may Việt Nam vẫn còn đang áp dụng các công nghệ và máy móc thiết bị cũ, lạc hậu, theo lối thủ công -“truyền thống”. Do đó, năng suất chưa cao, chất lượng chưa thật tốt và sử dụng nhiều hóa chất, thuốc nhuộm, tốn nhiều nước và năng lượng, giá thành cao đã làm giảm tính cạnh tranh trên thương trường. Đồng thời, còn để lại hậu quả là lượng nước thải nhiều và bị ô nhiễm nặng nề đến môi trường, gây rất tốn kém về tiền của khi phải xử lý nước thải. Để phát triển bền vững, tăng trưởng mạnh, tạo sức mạnh cạnh tranh với các nước xuất khẩu hàng dệt may trên thị trường rộng lớn và “khó tính” như: Mỹ,đã đến lúc ngành dệt may Việt Nam cần chuyển mạnh từ các công nghệ và thiết bị truyền thống sang loại hình sản xuất “thân thiện với môi trường”, sản xuất sạch hơn, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và đạt hiệu quả cao các hóa chất – chất phụ trợ, thuốc nhuộm, hơi, điện, nước với các máy móc thiết bị phù hợp, nhất là các loại mới tiên tiến, hiện đại... Ngoài ra, các vấn đề tiêu chuẩn hàng hóa và môi trường cũng cần được ưu tiên lên hàng đầu trong chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh không chỉ của doanh nghiệp mà phải phát động ra toàn ngành, trong tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất. Căn cứ vào các tiêu chuẩn và các yêu cầu sinh thái của hàng dệt may nhập khẩu vào các thị trường EU, Nhật Bản và Bắc Mỹ, ngành Dệt May Việt Nam cần xây dựng ngay những tiêu chuẩn cấp nhà nước, cấp Bộ, cấp ngành để làm cơ sở phấn đấu cho các doanh nghiệp xuất khẩu, để nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của hàng hóa. Những tiêu chuẩn như thế sẽ tạo ra những sức ép “bên trong” nhằm tạo ra các sản phẩm “xanh” phù hợp. Việc làm này, nước láng giềng Trung Quốc bắt đầu đặc biệt quan tâm đến đầu tư chuyển hướng sản xuất gắn với bảo vệ môi trường sau hàng loạt các đơn hàng bị từ chối và phải bồi thường gây tốn kém. Đối với ngành Dệt May Việt Nam, cho đến nay vấn đề này vẫn còn coi nhẹ, các doanh nghiệp vẫn còn thờ ơ với các tiêu chuẩn mà đối tác nhập khẩu đặt ra. 2.3. Áp đặt thuế chống bán phá giá Trong những ngày gần đây, các doanh nghiệp và cơ quan quản lý đang đau đầu trước quyết định mới của phía Mỹ về việc sẽ theo dõi lượng hàng dệt may nhập khẩu từ VN và tiến hành điều tra nếu thấy có dấu hiệu bán phá giá. Động thái này nhằm dỡ bỏ đề nghị ngừng đưa ra dự luật về Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với VN ra xem xét của hai Thượng Nghị sỹ Mỹ Elizabeth Dole và Lindsey Graham.Theo bình luận của Hiệp hội Dệt may thì “quy định này còn tệ hơn là áp dụng hạn ngạch”. Nhưng theo ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) cho biết: Số liệu 6 tháng do phía Hoa Kỳ ghi nhận cho thấy, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ không có đột biến về số lượng và giá bán. Đây là cơ sở để khẳng định: hàng dệt may không bán phá giá vào thị trường Hoa Kỳ. Cụ thể, trong 6 tháng đầu năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành ước đạt 3.488 triệu USD, tăng 26,3% so với cùng kỳ, trong đó, theo số liệu của hải quan Mỹ, hàng dệt may Việt Nam nhập vào nước này đạt trị giá 1.973 triệu USD, tăng 20,7% so với cùng kỳ. Đơn giá bình quân của sản phẩm (giá 1m2 quy đổi khi nhập khẩu vào Mỹ) của 6 tháng qua cũng chỉ đạt 3 USD/m2, cao gấp 2 lần so với mức 1,5 USD/m2 từ Trung Quốc và mức 1,8 USD/m2 từ các thị trường còn lại trên thế giới nhập khẩu vào Mỹ. Điều này phản ánh rằng, doanh nghiệp Việt Nam không giảm giá để bán phá giá. Vừa qua, Bộ Công thương Việt Nam đã có quyết định không cho tạm nhập tái xuất hàng để hạn chế tiêu cực về chuyển tải bất hợp pháp. Điều này chứng tỏ với phía Mỹ rằng, Việt Nam quản lý chặt và đúng đắn, để họ có thể yên tâm. Bộ Công thương cũng cho biết sẽ cùng với VITAS tăng cường tiếp cận mạnh hơn nữa với các giới chức Mỹ, với Bộ Thương mại Mỹ, nhất là trong chuyến thăm của Bộ trưởng Bộ Thương mại Mỹ dự kiến vào tháng 10 đây để tiếp tục vận động họ bỏ cơ chế giám sát, hoặc giảm số lượng nhóm giám sát… đối với hàng dệt may Việt Nam. 2.4. Các quy định khác của hải quan Mỹ 2.4.1. Những quy định về những sản phẩm là hàng dệt Các sản phẩm sợi dệt nhập khẩu phi có tem, mark, mã theo quy định tại "Texxtile Fiber Products Identification Act", trừ khi được miễn trừ theo như điều khoản 12 của luật này: - Tên và tỷ lệ trọng lượng của các thành phần sợi lớn hơn 5% trong sản phẩm, các thành phần sợi nhỏ hơn 5% được ghi là "các sợi khác". - Tên hãng sản xuất và tên hoặc số đăng ký do Federal Trade Commission (FTC) cấp, của một hoặc nhiều người bán các sản phẩm sợi này. Tên nhãn hiệu đã được đăng ký tại Mỹ có thể được ghi trên nhãn mark, nếu nhãn mark này được gửi đến FTC. - Tên của nước nơi đã gia công hoặc sản xuất. Chính vì những quy định khắt khe này nên các doanh nghiệp Việt Nam đôi khi vì thiếu hiểu biết,hay ít cập nhật thông tin,hoặc do đơn đặt hàng của các đối tác Hoa Kỳ không yêu cầu rõ ràng về mẫu mã,bao gói của sản phẩm,dẫn đến hàng loạt các sản phẩm dệt may của Việt Nam bị hải quan Mỹ trả về.Và người chịu mọi thiệt thòi ở đây không ai khác chính là các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.Đây cũng là những hiện tượng thường thấy,khi các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm nói chung và hàng dệt may nói riêng sang thị trường Hoa Kỳ. 2.4.2. Quy định về thương hiệu,nhãn hiệu và bản quyền Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã đăng ký bản quyền của một công ty Mỹ hoặc nước ngoài, sẽ bị cấm nhập khẩu vào Mỹ. Một bản sao đăng ký nhãn hiệu ở Mỹ sẽ phảii nộp cho Uỷ ban Hải quan và được lưu giữ theo quy định. Cục Hải quan Mỹ cũng có những quy định tương tự đối với các chuyến hàng mang các tên thương mại trái phép. Các thương hiệu phải được đăng ký tại Hải quan theo quy định. Việc nhập khẩu hàng hoá có nhãn hiệu thương mại gốc thuộc sở hữu của một công dân hoặc một công ty Mỹ bị coi là trái phép nếu không được sự đồng ý của người chủ sở hữu nhãn hiệu đó. Hoặc không phải là công ty chính hay chi nhánh của công ty đó, hoặc có chung quyền sở hữu nhãn hiệu đó, tuy nhiên nhãn hiệu này, phải được đăng ký với Hải quan. "Nhãn hiệu giả" là một nhãn hiệu giống hệt hoặc gần giống hệt với một nhãn hiệu đã đăng ký. Hàng nhập khẩu có nhãn hiệu giả sẽ bị tịch thu sung công quỹ liên bang hoặc chính quyền địa phương, hoặc chuyển cho các cơ quan từ thiện, hoặc bán đấu giá nếu trong vòng một năm không có cơ quan nào cần sử dụng. Tuy nhiên, luật pháp cũng châm chước cho một số mặt hàng nhất định đi theo người vào Mỹ là hàng cá nhân sử dụng, không phải hàng để bán. Phần 602 (a) thuộc Copyright Act năm 1976 quy định rằng nhập khẩu vào Mỹ các bản sao chép từ nước ngoài mà không được phép của người có bản quyền và vi phạm luật bản quyền sẽ bị bắt giữ và tịch thu,các bản sao sẽ bị huỷ.Tuy nhiên các hàng hoá này có thể được trả lại nước xuất khẩu nếu chứng minh thích đáng cho cơ quan hải quan là hàng không phải cố tình vi phạm. Các chủ sở hữu bản quyền muốn được cơ quan hải quan Mỹ (US Custom Service) bảo vệ quyền phải tới văn phòng bản quyền (US copyright Offfice) và đăng ký với hải quan theo các quy định hiện hành. Hiện nay,khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO thì những vấn đề liên quan đến thương hiệu,nhãn hiệu và bản quyền mới được các doanh nghiệp quan tâm đến một cách nghiêm túc. Tuy nhiên,sự chú ý này chỉ thường diễn ra ở các doanh nghiệp lớn có thị trường xuất khẩu rộng.Còn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam những hiểu biết về thương hiệu,về bản quyền vẫn còn là một khái niệm khó hiểu và vẫn còn rất xa vời.Chính những nhận thức sai lệch,chủ quan đó mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn thường xuyên phải gánh chịu những thiệt thòi không đáng có. Rất nhiều các sản phẩm dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ dưới một cái tên rất Việt Nam.Nhưng khi các sản phẩm ấy được bày bán trên thị trường lại dưới một cái tên khác hoàn toàn.Như vậy trong trường hợp này phía Việt Nam sẽ đương nhiên phải chấp nhận cái danh là nhà gia công,chứ không còn là người sản xuất và cung ứng chính thức của mặt hàng này. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam muốn lấy lại thương hiệu đó thì trước hết phải được sự chấp nhận của phía doanh nghiệp Mỹ.Đương nhiên,sau đó phải kèm sẽ theo là một khoản tiền không nhỏ.Những cái mất không đáng mất ấy đôi khi cũng khiến nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải nhiều phen khốn đốn. 2.4.3. Quy chế nhập khẩu đối với vải dệt kim, vải đan,quần áo và phụ kiện dệt kim ,đan * Bao gồm: các loại vải dệt kim, đan, vải dệt có các sợi đàn hồi, sợi cao su, v.v...và các loại vải đan móc. Việc nhập khẩu phải: ·      Phù hợp quy chế hạn ngạch và visa nhập khẩu theo Hiệp định Đa sợi (Multi –Fibber Arangements) do Bộ Thương mại (DOC) quản lý. ·      Xuất trình tờ khai hải quan về nước xuất xứ. ·      Phù hợp các quy định về lập hoá đơn nhập khẩu. ·      Phù hợp với quy định về nhãn mác theo Luật về phân biệt các sản phẩm sợi dệt (TFPIA) và Luật về nhãn hiệu sản phẩm len (WPLA). ·      Phù hợp các tiêu chuẩn chống cháy của Uỷ ban An toàn tiêu dùng (CPSC) theo đạo luật về vải dễ cháy (FFA). Những văn bản pháp luật điều tiết chế độ nhập khẩu hàng hoá. Số văn bản Loại biện pháp sử dụng Các cơ quan nhà nước điều hành 15 USC 1191-1204 Luật về hàng dệt may dễ cháy DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury 15 USC 68-68J WPLA- Luật về nhãn sản phẩm len DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury 15 USC 70-77 TFPIA- Luật về hàng dệt may DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury 16 CFR 1610,1611,1615, 1616,1630-1632 Tiêu chuẩn hàng dệt may dễ cháy DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury 16 CFR 423 Hướng dẫn giặt là hàng dệt may DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury 19 CFR 11.12, 16 CFR 300 et seq Quy chế về nhãn mác hàng dệt may DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury 19 CFR 11.12b, 16 CFR 303 et seq Quy chế về nhãn mác hàng dệt may DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury 19 CFR 12.130 et seq Quy chế về thủ tục nhập khẩu hàng dệt may DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury 7 USC 1854 luật đàm phán về Hiệp định dệt may DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury * Bao gồm quần aó dệt kim, đan các loại cho người lớn và trẻ em, kể cả áo khoác, jacket, comple, quần, sơmi, váy, đồ thể thao, đồ bơi, tất, áo len, găng tay dệt kim, đan các loại, đồ lót, T-shitrt, v.v...Việc nhập khẩu phải: ·      Phù hợp quy chế hạn ngạch và visa nhập khẩu theo Hiệp định Đa sợi (Multi – Fibber Arangements) do Bộ Thương mại (DOC) quản lý. ·      Xuất trình cho Hải quan về tờ khai về nước xuất xứ. ·      Phù hợp các quy định về lập hoá đơn nhập khẩu. ·      Phù hợp với quy định về nhãn mark theo Luật về phân biệt các sản phẩm sợi dệt (TFPIA) và Quy tắc về nhãn hiệu (Care Labeling Rule). ·      Phù hợp các tiêu chuẩn chống cháy của Uỷ ban An toàn tiêu dùng (CPSC) theo đạo luật về vải dễ cháy (FFA). ·      Phù hợp với yêu cầu về giấy phép xuất khẩu (nếu nhập hàng may đo từ Hong Kong). ·      Phù hợp với thủ tục nhập khẩu hàng đặc biệt (Special Access) hoặc Nhập khẩu có điều kiện (Regime Entry) đối với hàng may, tẩy, nhuộm hoặc hồ ép ở nước ngoài bằng các phụ kiện làm hoặc cắt ở tại Hoa Kỳ. ·      Nhập khẩu hàng dệt may nói chung thuộc hàng nhạy cảm. Các chuyến hàng không phù hợp với các quy định ở trên sẽ bị tịch thu và phạt. Cần tuân theo quy định về xác định nước xuất xứ. Những văn bản pháp luật điều tiết chế độ nhập khẩu hàng hoá Số văn bản Loại biện pháp sử dụng Các cơ quan nhà nước điều hành 15 USC 1191-1204 Luật về hàng dệt may dễ cháy DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury 15 USC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35994.doc
Tài liệu liên quan