Tác động của hoạt động điều tra chống buôn lậu tới kinh doanh thương mại quốc tế của Việt Nam

Tài liệu Tác động của hoạt động điều tra chống buôn lậu tới kinh doanh thương mại quốc tế của Việt Nam: LỜI MỞ ĐẦU Trong xu thế phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, ngoài những thành tựu đáng mừng về sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, chúng ta cũng phải đối mặt với sự gia tăng của tệ nạn buôn lậu và gian lận thương mại. Buôn lậu đang là một trong những trở ngại lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Chính vì vậy, trong những năm gần đây, cuộc đấu tranh chống buôn lậu đã trở nên vô cùng quyết liệt, và luôn là những chủ đề mang tính chất thời sự. Với mong muốn giúp sinh viên T... Ebook Tác động của hoạt động điều tra chống buôn lậu tới kinh doanh thương mại quốc tế của Việt Nam

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1406 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Tác động của hoạt động điều tra chống buôn lậu tới kinh doanh thương mại quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hương mại quốc tế xây dựng được cái nhìn tổng quan về hoạt động buôn lậu và những tác động của hoạt động điều tra chống buôn lậu tới hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế. Từ đó, các sinh viên có thể xây dựng được ý thức của một doanh nhân kinh doanh trong lĩnh vực thương mại quốc tế trong về việc giữ mình để trở thành một nhà kinh doanh đúng pháp luật, và xây dựng ý thức tiềm tàng chống buôn lậu, em đã chọn lựa nghiên cứu đề tài: “Tác động của hoạt động điều tra chống buôn lậu tới kinh doanh thương mại quốc tế của Việt Nam”. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ngoài nhữn khái niệm, lý luận tập trung thì em tập trung nghiên cứu những hiện tượng buôn lậu diễn ra trong thời gian 2005 - 2008, hoạt động điều tra chống buôn lậu được nghiên cứu chủ yếu tại Cục Điều tra chống buôn lậu trực thuộc Tổng cục hải quan. Em xin chân thành cảm ơn tới PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn - Đại học Kinh tế quốc dân, Bác Nguyễn Viết Thanh - Trưởng phòng Tham mưu tổng hợp - Cục Điều tra chống buôn lậu, các thầy cô trong bộ môn Thương mại quốc tế - Khoa Thương Mại - Đại học Kinh tế quốc dân cùng các cán bộ trong Cục Điều tra chống buôn lậu đã giúp em hoàn thiện bài nghiên cứu của mình. Chương I HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CHỐNG BUÔN LẬU VÀ SỰ TÁC ĐỘNG ĐẾN KINH DOANH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ I. HOẠT ĐỘNG BUÔN LẬU 1. Khái niệm, bản chất hoạt động buôn lậu Trong sự phát triển kinh tế toàn cầu, cùng với những khởi sắc về kinh tế do hoạt động thương mại quốc tế mang lại thì các quốc gia trên thế giới đều phải đối mặt với vấn đề buôn lậu và gian lận thương mại. Khi tìm hiểu về khái niệm của buôn lậu ta thường thấy có một khái niệm đi cùng với nó, đó là khái niệm “gian lận thương mại”. Tại Việt Nam trước kia và một số quốc gia thì 2 khái niệm trên chưa được phân định rõ ràng, thậm chí nhiều khi trong cách thức sử dụng còn được gộp vào làm một. Chính vì vậy, để tìm hiểu về hoạt động buôn lậu, ta cần phải tìm hiểu trên cơ sở nắm vững cả hai thuật ngữ và sự khác nhau giữa chúng. Rất nhiều nước coi buôn lậu là hành vi gian lận thương mại đặc biệt. Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 5 về chống gian lận thương mại của tổ chức Hải quan thế giới (WCO), buôn lậu đã được xếp vào trong các hình thức gian lận thương mại và là loại hình gian lận thương mại đặc biệt nguy hiểm. Trong từ điển tiếng Anh, khái niệm buôn lậu (Smuggling) được định nghĩa như sau: Buôn lậu là hành vi mang hàng hóa một cách bí mật và không hợp pháp vào hoặc ra khỏi một nước mà không chịu chi trả thuế quan. Bọn buôn lậu (Smuggler) mang hàng hóa có thể là các loại hàng hóa bị các quốc gia cấm (ma túy, chất nổ, vũ khí và các thứ nguy hiểm khác - nếu bị phát hiện sẽ truy tố tội danh vận chuyển đồ quốc cấm và bị xử phạt hình sự rất nặng tới cả mức chung thân, tử hình), hoặc hàng đắt tiền hơn ở nước thứ 2, hàng có chênh lệch giá lớn qua biên giới mà không chịu thuế hải quan. Việc mang mặt hàng nguy hiểm bị các quốc gia cấm qua biên giới gọi là mang lén, hàng hóa (nhất là rượu) được buôn lậu, sản xuất và bán bất hợp pháp được gọi là bootlegged; còn đĩa hát, phim, sách…bị sao chép và bán bất hợp pháp gọi là bị bị đánh cắp (pirated ). Bọn buôn lậu còn buôn rất nhiều mặt hàng khác như thuốc lá, đồ dùng, động vật quý… tùy theo cung, cầu, giá chênh lệch, điều kiện thực hiện các phi vụ tại nơi chúng hoạt động. Bên cạnh đó, Công ước quốc tế NAIROBI cũng đưa ra khái niệm buôn lậu. Theo NAIROBI, Buôn lậu là gian lận thương mại nhằm che giấu sự kiểm tra, kiểm soát của hải quan bằng mọi thủ đoạn, mọi phương tiện trong việc đưa hàng hóa lén lút qua biên giới. Từ một số khái niệm trên ta thấy, buôn lậu có những khác biệt với gian lận thương mại. Nếu như gian lận thương mại được nêu định nghĩa là việc cố ý làm trái các quy định của pháp luật, chính sách hoặc lợi dụng sự sơ hở, không rõ ràng, không chính xác, không đầy đủ khoa học của luật pháp, sự chưa hoàn thiện chính sách và việc quản lý sơ hở của các cơ quan quản lý chức năng để thực hiện hành vi gian dối, lừa gạt qua cửa khẩu một cách công khai, ngay tại nơi kiểm tra, kiểm soát của hải quan nhằm thu lợi bất chính thì theo Công ước quốc tế NAIROBI: Buôn lậu trước hết phải là hành vi gian lận thương mại nhưng ở mức cao hơn, tính chất phức tạp và nghiêm trọng hơn, nó bao hàm các hành vi giấu giếm để trốn tránh hoàn toàn hoặc một phần kiểm tra của hải quan bằng mọi thủ đoạn, mọi phương tiện. Như vậy phạm vi của khái niệm gian lận thương mại mà Tổ chức Hải quan thế giới WCO đưa ra rộng hơn khái niệm buôn lậu. Tại Việt Nam thì sao? Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam thì khái niệm buôn lậu được định nghĩa như sau: “Buôn lậu là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới những loại hàng hoá hoặc ngoại tệ, kim khí và đá quý, những vật phẩm có giá trị lịch sử, văn hoá, mà nhà nước cấm xuất khẩu hay nhập khẩu hoặc buôn bán hàng hoá nói chung qua biên giới mà trốn thuế và trốn sự kiểm tra của hải quan. Buôn lậu còn là hành vi buôn bán trốn thuế, lậu thuế những hàng hoá ở trong nước mà nhà nước cấm kinh doanh.” Điều 153 và 154 Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố ngày 21/12/1999 đã quy định cụ thể các mức án về về tội buôn lậu và tội vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới. Theo Bộ luật hình sự nước ta, hành vi buôn lậu hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý chỉ cấu thành tội phạm khi giá trị của chúng từ một trăm triệu đồng trở lên hoặc dưới một trăm triệu đồng nhưng trước đó người vi phạm đã bị xử lý hành chính về hành vi quy định về tội buôn lậu hoặc một trong các tội quy định tại điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 162 của Bộ luật Hình sự hặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Nếu đối tượng buôn lậu là những vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa thì hành vi cấu thành tội phạm không phụ thuộc vào giá trị của vật phẩm. Đối tượng buôn lậu là các loại hàng cấm thì phải có số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều này hoặc tại một trong những điều đã nêu trên, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Trong trường hợp đặc biệt, khi hàng hóa là các chất ma túy, vũ khí quân dụng và phương tiện kỹ thuật, vũ khí thô sơ và công cụ hỗ trợ, chất phóng xạ, chất cháy, chất độc thì sẽ bị xử lý theo những quy định tại các điều 193, 194, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật Hình sự. Tội phạm được hoàn thành kể từ khi thực hiện hành vi vận chuyển các loại hàng hóa qua biên giới nêu trên. Trường hợp khi hàng hóa đã vào nội địa mà bị phát hiện thì vẫn cấu thành tội buôn lậu. Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 21/12/1999 đã có những tiến bộ nhất định khi không gộp gian lận thương mại vào buôn lậu như Bộ luật hình sự của nước ta năm 1985. Tuy nhiên Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng chưa thể hiện rõ được sự phân biệt của hai khái niệm này, khung hình phạt ngoài một số đối tượng hàng hoá buôn lậu điển hình thì khung hình phạt chủ yếu dựa vào giá trị hàng hoá. Ví dụ như với mặt hàng thuốc lá nhập lậu thì theo quy định không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (nhưng trong các văn bản pháp luật của Việt Nam thì những lô hàng có giá trị trên 100 triệu đồng thì lại không có khung hình phạt tương ứng) Hành vi buôn lậu rất dễ nhận thấy, đó là những hành động mà chủ hàng thực hiện lén lút, không khai báo. Các trường hợp phổ biến là chủ hàng không đăng ký chính thức việc buôn bán với Nhà nước và xã hội, do đó đội quân buôn lậu còn bao gồm cả cửu vạn vùng biên giới, trong một số các thủy thủ tàu viễn dương, trong các viên chức đi nước ngoài… Buôn lậu trong thời đại hiện nay không còn đơn thuần chỉ là buôn lậu. Đối tượng buôn lậu sẵn sàng chống trả lực lượng chức năng và buôn lậu có thể gắn liền với xã hội đen, với tội phạm hình sự, và một sự kết nối có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, đó là buôn lậu gắn liền với tham nhũng. 2. Những nguyên nhân kinh tế dẫn đến hoạt động buôn lậu Hoạt động buôn lậu ra đời giống như bạn đồng hành với sự phát triển thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự ra đời và gia tăng hoạt động buôn lậu. Trong phần xem xét các nguyên nhân này, ta chỉ đề cập tới những nguyên nhân cốt lõi về mặt kinh tế dẫn đến sự ra đời và phát triển hoạt động buôn lậu. Nguyên nhân đầu tiên chắc chắn là lợi nhuận. Đây là nguyên nhân chủ yếu nhất vì nó là cơ bản để tính toán khi gian lận. Lợi nhuận này được dựa trên cơ sở giá tính thuế, Thuế suất so với giá mua thực tế. Vốn dĩ quy luật của thị trường là có cầu ắt phải có cung và hàng hoá có chất lượng tương đương thì hàng hoá nào có giá thấp hơn sẽ thắng thế, và được tiêu thụ nhanh chóng trên thị trường. Xét về lợi ích kinh tế, việc cung ứng bằng hàng hoá chính nghạch, với Thuế suất cao như đồ điện tử, rượu, điện thoại di động... thì buôn lậu chúng là một phương án được cân nhắc và có thể trở thành tối ưu đối với những đối tượng buôn lậu sẵn sàng làm trái pháp luật - vì trong trường hợp này lợi nhuận thu được sẽ là cao hơn rất nhiều so với nhập khẩu chính ngạch. Nguyên nhân thứ 2 là do một số hàng hoá bị cấm hoặc bị hạn chế nhập khẩu hay xuất khẩu, tiêu biểu với các mặt hàng này là những mặt hàng mà Nhà nước quản lý chặt chẽ không cho nhập khẩu hoặc phải có giấy phép như thuốc lá, tân dược, xăng dầu... hay một số mặt hàng không cho xuất khẩu mà có thể mang lại siêu lợi nhuận như than, xăng dầu, quặng... Với mỗi quốc gia, những chính sách về xuất, nhập khẩu hàng hoá là khác nhau. Chính vì vậy hoạt động buôn lậu ra đời và phát triển như một bộ phận tất yếu, dù là một bộ phận phi pháp của nền kinh tế quốc dân. Việc hình thành buôn lậu và gian lận thương mại cũng là lẽ đương nhiên khi luôn có sự chênh lệch do lợi thế so sánh (về nhân công, vị trí địa lý, ưu đãi..) và do nhu cầu được tiêu dùng những sản phẩm, hàng hoá có chất lượng với giá cả hợp lý. Ngay cả ở Mỹ cũng luôn tìm thấy được các mặt hàng buôn lậu tại các chợ đen với giá cả từ “trên trời” cho tới “dưới biển”, từ những hàng hoá đơn giản đến phức tạp. Tại Việt Nam, chúng ta cũng có thể thấy các mặt hàng buôn lậu như hàng điện tử, điện thoại di động, quần áo, giầy dép... Buôn lậu diễn ra khắp nơi từ sân bay, bến cảng, bưu điện đến biên giới, cửa khẩu...từ các mặt hàng như thuốc lá, rượu ngoại đến điện thoại, vàng bạc, ngoại tệ, kim cương hay tệ hơn nữa là ma tuý, vũ khí... Với các mặt hàng mà thuế xuất/ nhập khẩu lên tới 100% hoặc nhiều hơn nữa thì nguồn lợi thu về đã là vô cùng lớn. Đó là chưa kể tới các ngành hàng bị cấm nhập/ xuất hay cấm lưu hành như ma túy, vũ khí thì những khoản siêu lợi nhuận có thể tạo nên những ông trùm mafia khét tiếng như Frank Costenlo hay Mayer Lenski (Mỹ). Từ đó ta thấy, chỉ có khi nào tất cả các nền kinh tế hợp lại làm một, lợi thế không có, năng suất là tương đương... thì mới không có buôn lậu và gian lận thương mại. Điều đó dường như là một điều quá viễn tưởng, chính vì vậy ta phải nhìn nhận một thực tế rằng buôn lậu đã và sẽ luôn tồn tại trong nền kinh tế. Chúng ta không thể đảm bảo một thị trường không có buôn lậu, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể đấu tranh hạn chế buôn lậu, đưa những đối tượng buôn lậu ra trước pháp luật. 3. Các hình thức buôn lậu tại Việt Nam Một số cách thức phân loại các hình thức buôn lậu Có nhiều cách thức để phân loại các hình thức buôn lậu khác nhau. Nếu phân loại theo các tuyến đường thì ta có 3 loại hình buôn lậu: Buôn lậu theo tuyến đường hàng không, bưu điện Buôn lậu theo tuyến đường biển, viễn dương Buôn lậu theo tuyến đường bộ qua biên giới Nếu phân loại theo các thủ đoạn buôn lậu, ta có thể phân loại làm 2 loại: Buôn lậu có qua cửa khẩu (giấu hàng hoặc giả mạo chứng từ, khai báo sai lệch hàng hoá hoặc cất giữ hàng hoá tinh vi...), xuất hiện ở tất cả các tuyến đường. Buôn lậu trốn tránh sự kiểm soát của hải quan (lén lút mang hàng qua khu vực cánh gà biên giới), chủ yếu xuất hiện ở tuyến đường bộ và xâm nhập qua đường biển. Các thủ đoạn buôn lậu phổ biến Nhóm buôn lậu qua cửa khẩu: Nhóm không có chứng từ: Giấu hàng hoá trong hành lý mang theo hoặc trong một số hàng hoá khác. Điển hình có thể thấy là việc xuất nhập lậu ma tuý thì thường được để trong đế giày, trong va li 2 đáy, được ép vào trong các sản phẩm tranh sơn mài; việc xuất nhập lậu ngoại hối, các tài liệu mật, cổ vật thì thường giấu trong hành lý số lượng lớn. Lợi dụng chế độ miễn thuế khi nhập cảnh, các hành khách mang theo những hàng hoá nhỏ, gọn, nhẹ nhưng trị giá lớn và ra vào nhiều lần, nhờ người khác mang và khai hộ. Bên cạnh đó, bọn buôn lậu có thể thu gom hành lý của khách nhập cảnh, tổ chức nhập hàng theo các tờ khai hành lý của khách nhập cảnh, tổ chức nhập hàng theo các tờ khai này để hưởng tiêu chuẩn miễn thuế. Lợi dụng chế độ quà biếu, gửi tặng có giá trị lớn, gửi nhiều lần, nhiều địa chỉ qua đường bưu điện để buôn bán kiếm lời. Các tàu lớn trên biển thường gia cố thêm các hầm, vách ngăn... để giấu hàng buôn lậu và gây khó khăn cho lực lượng hải quan khi kiểm tra khám xét. Nhóm làm sai lệch chứng từ: Trong phương thức vận chuyển bằng container, đối tượng buôn lậu xếp lẫn hàng cũ vào hàng mới, hàng tốt vào hàng xấu, hàng có giá trị và thuế suất cao vào hàng có giá trị và thuế suất thấp; hàng cấm hoặc hàng quản lý bằng hạn ngạch, hàng định hướng, hàng không khuyến khích nhập lẫn vào hàng xuất nhập khẩu, không khai báo hải quan hoặc khai sai số lượng, chủng loại, chất lượng, xuất xứ để trốn thuế... hay hàng nguyên chiếc tháo rời thì khai là hàng gia công lắp ráp thường lẫn lỗn giữa SKD, CKD và IKD khai báo lấp lửng, chung chung hoặc trưng cầu giám định lấy kết quả lấp lửng Thuê các tàu của doanh nghiệp nhà nước, của lực lượng vũ trang hoặc sơn kẻ và đóng giả tàu của quân đội để chở hàng buôn lậu Bọn buôn lậu móc nối, mua chuộc một số nhân viên cán bộ hải quan thoái hoá biến chất đang làm nhiệm vụ kiểm hoá để kiểm theo yêu câu của chủ hàng, khi bị phát hiện thì được che chắn bằng các biên bản vi phạm đã được chuẩn bị sẵn. Lợi dụng phương thức chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất, đầu tư liên doanh, gia công để buôn lậu hoặc làm hồ sơ giả, kinh doanh sai mục đích. Lợi dụng một giấy phép để đi nhiều chuyến hàng, tẩy xoá, photocopy giấy phép để sử dụng nhiều lần, hoặc giả dấu của cơ quan hải quan. Điển hình là vụ YTECO đã cạo sửa quota 26 loại dược phẩm và vacxin. Cũng bằng việc chỉnh sửa các giấy phép nhập khẩu do Cục Quản lý dược cấp, công ty này đã sửa các toa thuốc và khai gian dối trên các tờ khai nhằm trốn thuế và nhập hơn 56 tấn nguyên liệu dược trái phép (Cục Điều tra chống buôn lậu điều tra) Làm thủ tục xin cho chuyển tiếp hàng hoá từ cửa khẩu và các chi cục Hải quan nội địa về tỉnh để làm thủ tục hải quan, nhưng trên đường đi lợi dụng cơ sở hoặc móc ngoặc, hối lộ nhân viên áp tải để tẩu tán hàng nhập lậu; hoặc làm thủ tục chuyển tiếp nhưng thực chất số hàng đó chẳng chuyển đi đâu cả mà được “giải phóng” ngay tại địa phương có cửa khẩu nhập. Vận chuyển hàng lậu khi bị bắt thì tìm cách trì hoãn để chạy chọt, hợp thức hoá giấy tờ. Nhập hàng lậu, hàng cấm nhưng khai hàng khác rồi chạy chọt hợp thức hoá. Khi không hợp thức hoá được hoặc bị lộ thì từ chối nhận hàng và đổ lỗi cho công ty và cá nhân người nước ngoài nơi gửi hàng Nhóm buôn lậu trốn tránh sự kiểm soát của lực lượng hải quan: Dùng tàu có trọng tải lớn từ 200 - 400 tấn lấy hàng từ Trung Quốc đi sát đảo Hải Nam vào thẳng phía Nam trong khi lực khả năng vươn xa quản lý của Hải quan còn hạn chế. Để trốn tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng, các tàu vận tải buôn lậu thường không thực hiện chế độ ghi chép nhật ký hành trình tàu, nhật ký máy, không liên lạc được với đất liền hoặc thông báo sai thời gian, địa điểm tàu cập cảng làm thủ tục hải quan ở cảng này chuyển đến cảng khác để kiểm hoá và bốc dỡ hàng. Một số tàu viễn dương buôn lậu từ các nước về (chủ yếu từ Nhật, Châu Âu) ghé qua các cảng của Trung Quốc và hẹn điểm sang mạn hàng cho các thuyền tàu nhỏ ngoài khơi (để chuyển hàng vào nhiều địa điểm trên bờ), giải toả xong hàng mới vào nhập cảnh, hoặc chuyển lên bộ phía Trung Quốc, sau đó vận chuyển bằng đường bộ sang Việt Nam qua các đường mòn, lối tắt. Tàu thuyền nhỏ thường lợi dụng luồng lạch, đêm hôm, ngày nghỉ, các ngày mưa bão, sóng to gió lớn (dùng tàu chịu được sóng cấp 5 và cấp 6) vận chuyển hàng vào bờ trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của hải quan và các lực lượng khác. Tại các cánh gà của cửa khẩu đường bộ, hàng hoá thường được cửu vạn vận chuyển vượt qua biên giới theo các đường mòn hai bên cánh gà cửa khẩu bằng phương thức xé lẻ, thu gom nhiều lần, sau đó dùng hoá đơn buôn chuyến, hoá đơn mua hàng để lưu thông hàng hoá nhằm trốn thuế nhập khẩu, thường vào thời điểm đêm khuya. Nhiều khi bị phát hiện sẵn sàng bỏ hàng chạy người Bọn buôn lậu còn tập kết hàng tại địa điểm xa trạm kiểm soát, chờ thời cơ là trà trộn vào các xe hàng đã nộp thuế để vận chuyển vào sâu nội địa, đôi khi còn dùng vũ khí chống lại người thi hành công vụ, dùng cửu vạn với số lượng đông công khai áp đảo lấy lại hàng II. HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CHỐNG BUÔN LẬU VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TỚI KINH DOANH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 1. Khái niệm, bản chất của hoạt động điều tra chống buôn lậu Hoạt động điều tra chống buôn lậu là hoạt động của các cơ quan chức năng Nhà nước sử dụng luật pháp, các công cụ phương tiện nghiệp vụ để điều tra, làm rõ các hoạt động buôn lậu cũng như các đối tượng buôn lậu. Bản chất của hoạt động điều tra chống buôn lậu là một quá trình đấu tranh không khoan nhượng của các cơ quan chức năng với các đối tượng buôn lậu. Trong khái niệm này, các cơ quan chức năng ở đây là các cơ quan được Nhà nước giao nhiệm vụ chống buôn lậu, có thể là Tổng cục hải quan, bộ phận Hải quan các tỉnh (Việt Nam hiện có 33 Cục hải quan tỉnh), bộ đội biên phòng, cảnh sát kinh tế... Phạm vi của bài nghiên cứu tập trung chủ yếu vào công tác chống buôn lậu của Cục Điều tra chống buôn lậu trực thộc Tổng cục Hải quan. Các công cụ, phương tiện nghiệp vụ sử dụng để chống buôn lậu có thể là các biện pháp nghiệp vụ hải quan, trình độ nhân lực của các cán bộ chống buôn lậu, các tàu cao tốc trên biển, phương tiện dò tìm, các dụng cụ nghiên cứu, thí nghiệm để phát hiện hàng lậu... Nó bao gồm tổng thể các phương tiện hữu hình và vô hình để hỗ trợ cho các chiến dịch chống buôn lậu. Luật pháp được sử dụng ở đây là nền tảng, cơ sở cho các hoạt động của cán bộ chống buôn lậu có thể kể ra như Bộ luật Hình sự Việt Nam ban hành năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự ban hành năm 2004, Luật Hải quan ban hành năm 2001, các Nghị Định, Thông tư hướng dẫn liên quan... Dựa vào đó, các cơ quan chức năng mới có cơ sở để đấu tranh chống tội phạm buôn lậu. Trên thế giới, còn một cơ sở khác được nhắc tới ngoài luật pháp, đó là các chuẩn mực đạo đức. Đây là cơ sở mang tính nhân văn hơn, và văn minh hơn so với pháp luật, nhưng để tạo ra được nó, không chỉ về mặt định tính mà còn định lượng được (phải đo được), thì tại Việt Nam cũng cần một khoảng thời gian dài nữa. 2. Những nguy cơ tác hại do hoạt động buôn lậu gây ra đối nền kinh tế - xã hội Đã có rất nhiều bài nghiên cứu, bài báo nói về những nguy cơ, tác hại do hoạt động buôn lậu mang lại. Điều dễ nhận thấy là dù dưới hình thức nào, của loại đối tượng nào, thì nạn buôn lậu cũng đang gây ra những nguy cơ và tác hại lâu dài nghiêm trọng. Tác động của hoạt động buôn lậu tới nền kinh tế quốc dân Như đã phân tích ở trên trong phần các nguyên nhân dẫn đến hoạt động buôn lậu, những hàng hoá nhập lậu trốn thuế thường có lợi thế cạnh tranh - đặc biệt là lợi thế về giá cả - cao hơn hàng sản xuất trong nước hoặc hàng nhập khẩu chính ngạch (nếu không có lợi thế cạnh tranh thì hàng hoá không thể tiêu thụ được, mà không tiêu thu được thì không có lợi nhuận). Khi xuất hiện những hàng hoá như vậy, sự bình ổn giá cả của thị trường sẽ bị phá vỡ. Những sản phẩm sản xuất trong nước hoặc được nhập khẩu chính ngạch đứng trước nguy cơ phải giảm giá để phù hợp với thị trường, nhưng nếu giảm giá thì doanh nghiệp nhập khẩu và doanh nghiệp sản xuất trong nước sẽ giảm sút lớn về lợi nhuận. Sản xuất trong nước có thể bị đình đốn và nhiều công ty đứng trên bờ vực phá sản. Đó là xét về việc nhập lậu các mặt hàng có chất lượng. Còn với việc nhập lậu những mặt hàng chất lượng kém thì sao? Hiện nay trong tuyến biên giới với Trung Quốc, những lô gạo hết hạn sử dụng đang chất cao thành núi bên phía bên kia của biên giới để từng ngày từng ngày một chảy sang Việt Nam. Trong tình hình mất mùa như hiện nay, sản lượng gạo trong nước giảm đáng kể, thì những lô hàng gạo hết hạn sử dụng kia sẽ được tiêu thụ trà trộn vào những lô gạo của Việt Nam. Đó chỉ là một ví dụ cho thấy, khi những mặt hàng kém chất lượng bị nhập lậu, thị trường Việt Nam trở thành một thị trường tiêu thụ hàng hoá đặc biệt là những hàng hoá dư thừa, ế ẩm của nước ngoài. Không chỉ có thế, khi số lượng hàng hoá bị trà trộn, thì chất lượng hàng hoá bị đánh đồng. Đó sẽ là một khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp trong nước, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho những kẻ buôn lậu, làm ảnh hưởng tới các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Với những hàng hoá xuất lậu, thì tình hình cũng không kém phần nghiêm trọng. Hàng hoá xuất lậu ra nước ngoài thường là những sản phẩm mà Việt Nam đang có lợi thế hoặc do chính sách giá trong nước mà xét tương quan giá hàng hoá trong nước nhỏ hơn ở nước ngoài. Những hàng hoá này lại bị cấm xuất khẩu, nên nếu xuất lậu được mang lại lợi nhuận rất cao. Lợi thế so sánh của Việt Nam chủ yếu nằm ở tài nguyên thiên nhiên phong phú. Việc xuất lậu những khoáng sản, nguyên liệu thô, các mặt hàng chiến lược, hàng quốc cấm gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế vĩ mô. Khi tài nguyên bị khai thác thiếu quy hoạch, tài nguyên đất nước sẽ nhanh chóng bị suy kiệt, ảnh hưởng nặng nề tới nền kinh tế đất nước trong tương lai gần. Như tệ nạn xuất gỗ lậu sẽ gắn liền với tệ nạn phá rừng, thậm chí đào cả rễ cây như xuất lậu tinh dầu xá xị trước đây và xuất lậu than đá hiện nay ở khu vực tỉnh Quảng Ninh. Khi các doanh nghiệp, tổ chức nhà nước đứng ra buôn lậu sẽ dẫn đến tình trạng đồng vốn của quốc gia bị sử dụng sai mục đích, không nhằm tạo ra sản phẩm thông qua sản xuất và hiệu quả hợp pháp trong kinh doanh. Nói tóm lại, hoạt động buôn lậu đang làm cho tài nguyên của quốc gia, tiền của và sức lao động của nhân dân bị bóc lột, làm mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, làm lệch hướng phát triển của nền kinh tế quốc dân. Buôn lậu có thể kìm hãm tốc độ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm nản lòng các nhà đầu tư. Tác động của hoạt động buôn lậu tới sự phát triển xã hội Ngoài những hậu quả về kinh tế, buôn lậu còn gây nên những hậu quả phức tạp và nặng nề về mặt xã hội. Đây là yếu tố phi pháp làm tăng vực ngăn cách giữa kẻ giàu và người nghèo, tạo đà cho việc gia tăng bóc lột sức lao động và các tệ nạn xã hội. Một số doanh nghiệp chỉ chú trọng đến lợi nhuận nên mải mê làm giàu thông qua buôn lậu. Từ đó, họ đánh mất đi lương tâm, đạo đức của một doanh nhân, thế thì làm sao có thể nói đến cái gọi là đạo đức, trách nhiệm xã hội của một doanh nhân nữa? Không ít các đối tượng làm việc trong cơ quan nhà nước, các công chức thoái hoá biến chất tiếp tay cho buôn lậu, làm tăng tệ nạn tham nhũng, và hiện nay là cái thời mà tham nhũng thường được nhắc đến bên cạnh buôn lậu. Ngoài ra còn một số lớn khác thuộc các thành phần lao động trong đó có một bộ phận không nhỏ là các trẻ em đang độ tuổi đến trường bỏ học để tham gia vác hàng qua biên giới cho bọn buôn lậu, và coi đó là một nghề kiếm sống. Tương lai của những người dân lao động và các em nhỏ sẽ đi về đâu với đồng tiền bập bõm thu được, với hàng ngày thấp thỏm lo âu khi đang làm việc trái pháp luật? Tệ hơn nữa là một bộ phận lớn trong họ không nhận thức được những điều này. Tệ buôn lậu là một trong những nguyên nhân làm suy thoái đạo đức xã hội, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục và truyền thống văn hoá dân tộc. Đồng tiền bất chính làm hại ngay từ những người đi buôn lậu, làm nảy sinh rượu chè, cờ bạc, tham ô và những tệ nạn xã hội làm suy kiệt giống nòi. Khi cha mẹ là người buôn lậu với những mánh khoé thủ đoạn thì con cái không có gương sáng để soi bởi kẻ xấu không thể dạy được những điều tốt; họ không thể giáo dục về lẽ sống đúng đắn, về đạo lý nhân, lễ, trí tín, trung, hiếu... rất cần thiết cho người chân chính trong xã hội này. Hoạt động buôn lậu tác động tới hệ thống pháp luật và chủ quyền an ninh quốc gia Buôn lậu thách thức và phá hoại hiệu lực pháp luật và năng lực quản lý của bộ máy nhà nước. Nhà nước phát huy năng lực quản lý thông qua hệ thống pháp luật và nếu luật pháp không được tuân thủ thì tình trạng hỗn mang sẽ đưa nhà nước đến chỗ bị suy yếu, mất uy tín. Kẻ có tội không bị trị tội hay không phải chịu hình phạt thích đáng sẽ làm nảy sinh tâm lý coi thường pháp luật, coi thường Nhà nước, làm khủng hoảng cả hệ thống lập pháp - tư pháp và gây phẫn nộ trong công luận. Tác hại của buôn lậu đối với chủ quyền và an ninh quốc gia là một vấn đề cần bàn đến ở đây. Thế giới ngày nay với xu hướng toàn cầu hoá mạnh mẽ và cuộc đấu tranh giành giật, cạnh tranh quyết liệt và ai thắng ai trong chiến tranh thị trường cũng không kém phần cam go khi so sánh với các hình thức chiến tranh khác. Hàng hoá đến đâu là biên giới đến đó có nghĩa là các nước nghèo rời vào tình cảnh phụ thuộc lúc nào không hay.Có những quốc gia coi buôn lậu là một trong những trọng tội. III. SỰ CẦN THIẾT CỦA HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CHỐNG BUÔN LẬU VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 1. Sự cần thiết của hoạt động điều tra chống buôn lậu Với những tác hại của hoạt động buôn lậu như vậy, công tác điều tra chống buôn lậu là hết sức cần thiết. Thể hiện ở những lý do chính sau: Đối với nền kinh tế quốc dân, hoạt động điều tra chống buôn lậu sẽ tạo nên một môi trường kinh doanh trong sạch, bình đẳng hơn cho tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Hoạt động điều tra buôn lậu có thể không quét sạch hết được toàn bộ hàng lậu, nhưng chỉ cần số lượng hàng lậu giảm đi, thì đó đã là một lợi ích rồi. Còn việc hàng lậu trên thị trường giảm nhiều hay ít là do hiệu quả hoạt động chống buôn lậu của mỗi quốc gia. Các doanh nghiệp sẽ có cơ hội bình đẳng với nhau trong cạnh tranh, phát triển. Bên cạnh đó, khi các doanh nghiệp tập trung vào phát triển kinh doanh mở rộng sản xuất chứ không phải chỉ quan tâm tới việc buôn lậu, trốn thuế thì nền kinh tế của quốc gia đó sẽ phát triển đúng hướng. Bên cạnh sự phát triển về kinh tế, việc đẩy mạnh công tác điều tra chống buôn lậu còn giúp cho sự phát triển của xã hội. Thật vậy, khi đó, không chỉ có số lượng những người buôn lậu giảm đáng kể mà còn một số lượng rất lớn những người sống nhờ vào việc vận chuyển hàng hoá buôn lậu cũng sẽ từ bỏ công việc đó. Những người sống nhờ vào việc vận chuyển hàng hoá buôn lậu sẽ tìm những công việc không vi phạm pháp luật mà vẫn có được thu nhập, và thu nhập ổn định (Điều này phụ thuộc rất nhiều vào chính sách nhà nước cho các cư dân vùng biên giới). Các doanh nghiệp kinh doanh đúng pháp luật sẽ có điều kiện phát triển, làm gia tăng số việc làm cho người lao động, và khi doanh nghiệp phát triển thì họ sẽ thể hiện trách nhiệm của mình đối với với xã hội cao hơn (gia tăng những công việc từ thiện, gia tăng việc bảo vệ môi trường thiên nhiên, môi trường lao động...). Qua đó, hoạt động chống buôn lậu đã là tác nhân gián tiếp làm giảm bớt ngăn cách giàu nghèo trong xã hội. Hoạt động điều tra chống buôn lậu phát triển, thì ngoài bảo vệ cho môi trường kinh doanh trong sạch còn có tác dụng rất lớn trong đảm bảo an ninh đất nước. Khi hoạt động buôn lậu bị đẩy lùi, người dân trong nước sẽ thấy họ đang sống trong một đất nước có kỷ cương phép nước, có một nền pháp chế vững mạnh và họ an tâm phát triển kinh tế. Không chỉ có thế, lực lượng chống buôn lậu không chỉ có chống lại những kẻ buôn lậu mà còn chống lại những kẻ khủng bố, những phần tử phản động. Tại sao vậy? Những phần tử khủng bố, phản động muốn thực hiện các hoạt động khủng bố, tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam thì cần phải có ngoại tệ, đơn thư tuyên truyền, vũ khí chuyển về nước ngoài về... Các hoạt động chuẩn bị không thể hoàn thành khi có sự kiểm soát gay gắt của bộ phận hải quan cũng như sự điều tra làm rõ của các bộ phận chống buôn lậu... Chính vì vậy mà an ninh quốc gia được đảm bảo vững vàng hơn. 2. Những tác động của hoạt động điều tra chống buôn lậu tới kinh doanh thương mại quốc tế Như những phân tích ở trên, ta thấy rằng hoạt động điều tra chống buôn lậu có tác động to lớn tới cả nền kinh tế - xã hội và an ninh của một quốc gia. Hoạt động buôn lậu thực ra là đứa con không mong muốn của hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế từ khi hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế có sự quản lý của Nhà nước. Chính vì vậy, hoạt động điều tra chống buôn lậu ra đời ngoài những lý do đã kể trên, còn có tác dụng quan trọng là đảm bảo cho hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế phát triển đúng hướng, đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại quốc tế. Tác động đầu tiên là hoạt động điều tra chống buôn lậu góp phần mang lại một môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp trong ngành. Khi tất cả các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đều đóng thuế xuất nhập khẩu, thì giá trị thuế phải nộp sẽ được đưa vào chi phí kinh doanh, và giá trị thuế là giống nhau với những doanh nghiệp kinh doanh cùng mặt hàng. Khi đó các doanh nghiệp đóng thuế theo quy định của Nhà nước không phải bận tâm, lo lắng tới việc sẽ kém ưu thế cạnh tranh với những hàng hoá nhập lậu, trốn thuế. Điều họ phải bận tâm là làm sao hạ thấp được chi phí xuất nhập khẩu, làm sao phát triển thị trường cho sản phẩm... Chính những điều đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh doanh cho các doanh nghiệp hoạt động trong và ngoài ngành. Bên cạnh đó, Hoạt động điều tra chống buôn lậu làm gia tăng thuế xuất nhập khẩu. Lượng thuế xuất nhập khẩu thu được cho ngân sách sẽ giúp phần phát triển cơ sở hạ tầng để các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này được nhiều thuận lợi hơn, vốn ngân sách sẽ làm gia tăng đầu tư cho ngành. Ngoài ra, việc nhập khẩu những mặt hàng kém chất lượng, hoặc hàng giả còn gây tổn thất lớn cho người tiêu dùng, và doanh nghiệp làm hàng thật rất dễ bị ảnh hưởng tới uy t._.ín và khó khăn hơn trong việc mở rộng thị trường. Khi các hoạt động nhập lậu hàng giả và hàng kém chất lượng này bị đẩy lùi, các Doanh nghiệp sẽ an tâm thực hiện những công việc mở rộng thị trường, chăm sóc khách hàng... nâng cao uy tín của doanh nghiệp với người tiêu dùng. Cuối cùng, công tác điều tra chống buôn lậu hiệu quả sẽ đảm bảo được an ninh kinh tế, bình ổn về chính trị. Các tổ chức phản động không có cơ hội nhận tiền bạc, vũ khí... từ bên ngoài vào để thực hiện hoạt động. Các cá nhân trong nước thu lợi bất chính sẽ không có cơ hội rửa tiền bằng cách chuyển tiền trực tiếp ra nước ngoài qua đường biên giới. Những hàng hoá nhập lậu với mục đích thôn tính thị trường nội địa sẽ không có cơ hội tràn lan vào thị trường trong nước... Tất cả những điều trên góp phần tạo ra một nền kinh tế - xã hội ổn định, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh thương mại quốc tế, các doanh nghiệp trong ngành có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn. Tóm lại Hoạt động buôn lậu gây những tác hại to lớn tới nền kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia với nhiều hình thức hoạt động và những thủ đoạn rất tinh vi. Để phòng chống và ngăn chặn các hoạt động buôn lậu thì cần phải có sự ra đời và phát triển của hoạt động điều tra chống buôn lậu. Hoạt động điều tra chống buôn lậu là hoạt động cần thiết do nhiều cơ quan chức năng khác nhau đảm nhiệm, nó có những tác động mạnh mẽ tới các hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế nói chung và các công ty hoạt động trong lĩnh vực này nói riêng. Chính vì vậy cần phải chú trọng phát triển công tác điều tra chống buôn lậu để đảm bảo cho một môi trường kinh doanh lành mạnh, một xã hội phát triển tốt, và một nền pháp chế vững mạnh. Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CHỐNG BUÔN LẬU VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM I. TÌM HIỂU CƠ BẢN VỀ CỤC ĐIỀU TRA CHỐNG BUÔN LẬU Như đã phân tích ở trên, nhiệm vụ chống buôn lậu không phải là nhiệm vụ riêng của một cơ quan nào, và để có thể thắng lợi trên mặt trận này, thì cần phải có sự phối hợp các cơ quan chức năng cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Trong các cơ quan đó, thì Cục Điều tra chống buôn lậu trực thuộc Tổng cục Hải quan, Cục Điều tra chống buôn lậu đóng vai trò quan trọng nhất và là đầu tàu trong cuộc chiến chống buôn lậu. 1. Lịch sử hình thành và chức năng nhiệm vụ của Cục Điều tra chống buôn lậu trực thuộc Tổng cục Hải quan Lịch sử hình thành của Tổng cục Hải quan và Cục Điều tra chống buôn lậu Cục Điều tra chống buôn lậu là một Cục nghiệp vụ quan trọng của Tổng cục Hải quan nên sự ra đời và phát triển của Cục gắn liền với sự phát triển của Tổng cục Hải quan Việt Nam. Tổng cục Hải quan ra đời với cái tên khai sinh là: “Sở Thuế quan và thuế gián thu” trực thuộc Bộ Tài Chính theo sắc lệnh số 27 vào ngày 10/9/1945. Hải quan Việt Nam đã trải qua 5 giai đoạn phát triển: giai đoạn đầu là 1945 - 1954, giai đoạn thứ 2 là 1954 - 1975, giai đoạn thứ 3 là 1975 - 1986, giai đoạn thứ 4 là 1986 - 2000, giai đoạn thứ 5 là từ 2000 trở đi. Đáng chú ý là giai đoạn 1975 - 1986. Đây là giai đoạn Hải quan thống nhất lực lượng và triển khai hoạt động trên phạm vi cả nước. Khoảng thời gian này, tính chất các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới có biểu hiện phức tạp và phổ biến. Trong hoàn cảnh đó, Cục điều tra chống buôn lậu đã được thành lập vào tháng 2/1985, đây chính là thời điểm mà Tổng cục Hải quan chính thức triển khai hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức mới. Toàn bộ hệ thống tổ chức và công tác Hải quan được chuyển từ Bộ Công thương sang Tổng cục Hải quan trực thuộc Chính Phủ Trong quá trình phát triển của mình với nhiều nhiệm vụ khác nhau, Cục điều tra chống buôn lậu đã trở thành một bộ phận trọng yếu của Tổng cục hải quan. Bảng 2.1: Sơ đồ bộ máy tổ chức của Tổng cục hải quan (Website của Tổng cục Hải quan www.customs.gov.vn) Giai đoạn 1986 - 2000 đánh dấu sự chuyển biến của đất nước trong quá trình đổi mới, bắt đầu chủ trương mở cửa, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong thời gian này, Cục điều tra chống buôn lậu đã được trang bị thêm nhiều thiết bị để thực hiện nhiệm vụ của mình như máy soi nghiệp vụ, máy và chó nghiệp vụ phát hiện ma tuý, tàu cao tốc chống buôn lậu trên biển... Hải quan Việt Nam đã tham gia và chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) từ ngày 01/07/1993. Năm 2001 Luật Hải quan đã ra đời, kể từ đây ngành hải quan đã có cơ sở pháp lý của riêng mình. Năm 2002, Tổng cục Hải quan được Thủ tướng ban hành quyết định là trực thuộc Bộ Tài chính. Từ năm 2006, ngành Hải quan triển khai thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan và Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu sửa đổi bổ sung. Hải quan Việt Nam nói chung và Cục Điều tra chống buôn lậu nói riêng từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức, phương pháp làm việc, công nhận một số công ước quốc tế trong quá trình thực hiện các cam kết gia nhập WTO. Chức năng, nhiệm vụ của Cục Điều tra chống buôn lậu Theo quyết định số 72/2006/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài Chính ngày 13/02/2006: Chức năng của Cục Điều tra chống buôn lậu: Cục Điều tra chống buôn lậu có chức năng giúp Tổng cục Hải quan quản lý, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra các đơn vị trong ngành Hải quan và trực tiếp tổ chức thực hiện công tác thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ Hải quan; áp dụng phương pháp quản lý rủi ro; phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; phòng chống ma túy theo quy định của pháp luật trong phạm vi nhiệm vụ được giao. Nhiệm vụ và quyền hạn của Cục Điều tra chống buôn lậu: Theo quyết định trên thì Cục Điều tra chống buôn lậu có 15 nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau. Cục phải xây dựng, chỉ đạo hoặc phối hợp với các bộ phận khác và hướng dẫn các Cục hải quan tỉnh thực hiện các chương trình về thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan, quản lý rủi ro và Kiểm soát hải quan. Cục tham gia xây dựng bổ sung và lưu trữ các văn bản liên quan, và thực hiện tổng kết đánh giá tình hình thực hiện các công việc trên trong toàn ngành Hải quan. Bên cạnh đó, Cục còn có nhiệm vụ chủ trì xây dựng cơ sở dữ liệu hệ thống thông tin nghiệp vụ, tổ chức nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học cho quản lý hải quan hiện đại;áp dụng biện pháp nghiệp vụ kiểm soát hải quan để thu thập, xử lý thông tin từ các nguồn công khai và bí mật, trong nước và nước ngoài liên quan đến hoạt động hải quan. Cục còn có nhiệm vụ tổ chức công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ, công chức hải quan trong toàn nghành khi có yêu cầu và thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công tác thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan, quản lý rủi ro; kiểm soát hải quan; phòng chống ma tuý. 2. Hệ thống tổ chức của Cục Điều tra chống buôn lậu trực thuộc Tổng cục Hải quan Cục điều tra chống buôn lậu gồm các bộ phận sau: Phòng tham mưu tổng hợp (Phòng 1) Phòng thu thập và xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan còn gọi là tình báo hải quan (Phòng 2) Phòng quản lý rủi ro (Phòng 3) Phòng tham mưu xử lý vi phạm (Phòng 4) Phòng kiểm soát ma túy (Phòng 5) Phòng hành chính, quản trị, Tài vụ và Tổ chức (Phòng 6) Đội kiểm soát hải quan khu vực phía bắc (Đội 1) Đội kiểm soát hải quan khu vực phía nam (Đội 2) Đội kiểm soát ma túy (Đội 3) Hải đội kiểm soát hải quan số 1 (Hải đội 1) Hải đội kiểm soát hải quan số 2 (Hải đội 2) đóng tại thành phố Đà Nẵng Hải đội kiểm soát hải quan số 3 (Hải đội 3) đóng tại Quảng Ninh Trung tâm Huấn luyện chó nghiệp vụ phát hiện ma túy và chất nổ (đơn vị sự nghiệp) Tính đến thời điểm 02/02/2008, cơ cấu tổ chức của Cục Điều tra chống buôn lậu như sau: Cục trưởng Lê Thành Hiện phụ trách chung và phụ trách trực tiếp Phòng 6 và Phòng 2 Phó Cục trưởng Phạm Thanh Bình phụ trách Phòng 1 và Hải đội 2 Phó Cục trưởng Nguyễn Phi Hùng phụ trách Phòng 3 và Đội 1 Phó Cục trưởng Nguyễn Khánh Quang phụ trách Hải đội 3 và Đội 2 Phó Cục trưởng Nguyễn Văn Quý phụ trách Phòng 5 và Đội 3 Phó Cục trưởng Mai Xuân Thành phụ trách Hải Đội 1 và Phòng 6 cùng với Trung tâm Huấn luyện chó nghiệp vụ. Cụ thể tóm tắt một số nội dung chính như sau: Chức năng, nhiệm vụ của các Phòng trong Cục điều tra chống buôn lậu Theo quyết định số 75/QĐ-TCHQ “Về việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của các Phòng thuộc Cục điều tra chống buôn lậu” của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan thì chức năng nhiệm vụ các Phòng đươc quy định như sau: Phòng tham mưu tổng hợp (Phòng 1) Nhiệm vụ chính của phòng là xây dựng chương trình, kế hoạch công tác và đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện của Cục Điều tra chống buôn lậu bên cạnh đó giúp Cục trưởng trong việc chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các Cục Hải quan tỉnh, thành phố và các đơn vị kiểm soát hải quan trực thuộc Cục Hải quan tỉnh thành phố xây dựng và triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và áp dụng các biện pháp nghiệp vụ hải quan. Giúp Cục trưởng trong việc chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra Đề xuất, chủ trì hoặc tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, quy trình, quy chế, văn bản chỉ đạo, hưởng dẫn, kiểm tra việc thực hiện biện pháp nghiệp vụ hải quan theo Quyết định số 65/2004/QĐ-TTg ngày 19/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ, văn bản trả lời các kiến nghị, vướng mắc của các Cục Hải quan tỉnh, thành phố trong công tác phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Giúp Cục trưởng chỉ đạo, kiểm tra hoạt động trinh sát, phát hiện, xác minh, điều tra của các Đội và các Hải đội thuộc Cục. Phòng còn giúp Cục trưởng tổng hợp, báo cáo về hoạt động của Cục, về tình hình, kết quả công tác phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới của Ngành; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách, quy trình thủ tục hải quan. Giúp việc thường trực Ban chỉ đạo của Tổng cục Hải quan về phòng, chống buôn lậu, hàng giả, gian lận thương mại và phòng, chống tội phạm. Tham mưu cho lãnh đạo Cục phối hợp với tổ chức, cá nhân trong và ngoài Ngành theo quy định của pháp luật thực hiện nhiệm được giao của Cục. Phòng lưu trữ hồ sơ, tài liệu nghiệp vụ kiểm soát chống buôn lậu của Cục, phối hợp xây dựng chương trình, nội dung và tham gia giảng dạy nghiệp vụ kiểm soát hải quan và tham mưu về hợp tác quốc tế trong phòng, chống buôn lậu, vận chuyển hàng hóa qua biên giới. Phòng thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan (Phòng 2) Phòng giúp Cục trưởng xây dựng chương trình, kế hoạch, định hướng phát triển, phân cấp nhiệm vụ thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan của Ngành và xây dựng, đề xuất ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, quy trình, quy chế; triển khai ứng dụng các phương tiện kỹ thuật thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan và tham mưu giúp Cục trưởng về công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hợp tác, trao đổi thông tin nghiệp vụ hải quan. Phòng còn có nhiệm vụ áp dụng các biện pháp nghiệp vụ để thu thập thông tin, tài liệu từ các nguồn công khai và bí mật, trong và ngoài Ngành, trong nước và ngoài nước và tổng hợp đánh giá, phân tích chúng kịp thời để phục vụ cho công tác. Phòng có trách nhiệm xử lý thông tin từ các đơn vị nghiệp vụ thuộc Cục, các Cục Hải quan tỉnh, thành phố, từ đường dây nóng tố giác tội phạm và các nguồn khác để tham mưu, đề xuất phương án cho lãnh đạo Cục điều phối hoặc báo cáo lãnh đạo Tổng cục chỉ đạo các hoạt động xác minh, điều tra, bắt giữ, xử lý theo quy định của pháp luật đối với các hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hóa, hàng cấm, hàng hóa vi phạm sở hữu trí tuệ. Phòng Quản lý rủi ro (Phòng 3) Giúp Cục trưởng xây dựng, triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro trong các hoạt động của ngành Hải quan và xây dựng và hoàn thiện bộ tiêu chí quản lý rủi ro, phương pháp quản lý rủi ro áp dụng với các quy trình nghiệp vụ hải quan, trong các hoạt động quản lý nhà nước về hải quan sau đó chủ trì quản lý, vận hành hệ thống thông tin thực hiện kỹ thuật quản lý rủi ro. Bên cạnh đó còn giúp Cục trưởng chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro với Hải quan các nước. Phòng tham mưu xử lý vi phạm (Phòng 4) Giúp Cục trưởng trong việc chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các đơn vị nghiệp vụ thuộc Cục thực hiện trình tự điều tra, xử lý các vụ việc buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới theo quy định của pháp luật và xử lý các vụ việc vi phạm hành chính và hình sự thuộc thẩm quyền xử lý của Cục trưởng. Giúp Cục trưởng giải quyết khiếu nại về các quyết định hành chính và hành vi thuộc thẩm quyền của Cục trưởng. Hướng dẫn cá đơn vị nghiệp vụ thuộc Cục giải quyết khiếu nại về các quyết định hành chính và hành vi hành chính thuộc thẩm quyền của thủ trưởng đơn vị. Ngoài ra còn giúp Cục trưởng trong việc chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn công tác phòng, chống hàng giả, hàng nhái và hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ trong phạm vi thẩm quyền theo quy định pháp luật. Phòng Kiểm soát ma túy ( Phòng 5) Nhiệm vụ chính của phòng là thu thập, phân tích và tổng hợp tình hình buôn bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy qua biên giới; tham mưu, đề xuất giúp Cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu xây dựng phương án, kế hoạch đấu tranh phòng, chống buôn bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy, tiền chất qua biên giới trong phạm vi nhiệm vụ của ngành Hải quan. Phòng Hành chính, Quản trị, Tài vụ và Tổ chức (Phòng 6) Nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, địa bàn hoạt động của các Đội Kiểm soát Hải quan. Những vấn đề này được nêu trong Quyết định số 78/QĐ-TCHQ của Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan ban hành ngày 08/1/07 như sau: Nhiệm vụ và quyền hạn Tiến hành các biện pháp nghiệp vụ kiểm soát hải quan theo quy định của pháp luật để thu thập thông tin công khai và bí mật, trong nước và nước ngoài trong phạm vi nhiệm vụ và địa bàn được phân công; nắm tình hình và phát hiện các phương thức, thủ đoạn hoạt động chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới. Chủ động xây dựng phương án, kế hoạch đấu tranh trình cấp có thẩm quyền và tổ chức thực hiện khi được phê duyệt; Trực tiếp áp dụng hoặc phối hợp với lực lượng kiểm soát hải quan thuộc Cục Hải quan tỉnh, thành phố áp dụng các biện pháp nghiệp vụ trinh sát cần thiết để phát hiện, trực tiếp tiến hành hoặc, điều tra các vụ buôn bán hàng cấm, hàng giả, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ; các vụ buôn lậu lớn, phức tạp, có tổ chức theo đường dây ổ nhóm, có móc nối với nội bộ Hải quan. Đề xuất cung cấp thông tin, bàn giao tình hình, vụ việc thuộc phạm vi, thẩm quyền của Cục Hải quan tỉnh, thành phố. Cơ cấu tổ chức của Đội Kiểm soát hải quan Mỗi đội bao gồm Đội trưởng, phó Đội trưởng và các Tổ công tác do Cục trưởng quy định cụ thể phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ. Địa bàn hoạt động Đội 1: Hoạt động trong khu vực địa bàn phía Bắc bao gồm các tỉnh thành phố từ Quảng Nam trở ra phía Bắc Đội 2: Hoạt động trong khu vực địa bàn phía Nam bao gồm các tỉnh thành phố từ Quảng Ngãi và các Tỉnh Tây Nguyên trở vào phía Nam. Nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Đội Kiểm soát ma tuý trực thuộc Cục Điều tra chống buôn lậu (Tham khảo Quyết định số 76/QĐ - TCHQ của Tổng Cục Trưởng Tổng cục Hải quan) Nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, địa bàn hoạt động của Hải đội Kiểm soát hải quan số 1, số 2, số 3. Theo quyết định số 77/QĐ-TCHQ của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ngày 08/01/2007: Nhiệm vụ và quyền hạn của các Hải đội: Xây dựng Cục trưởng kế hoạch, phương án tuần tra, kiểm soát thường xuyên, đột xuất trên vùng biển được phân công quản lý và tổ chức thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Được tiến hành các biện pháp nghiệp vụ Kiểm soát hải quan theo quy định của pháp luật và quy trình nghiệp vụ do Tổng ccụ Hải quan ban hành để thu thập thông tin nghiệp vụ hải quan; nắm tình hình buôn lậu trên biển thuộc địa bàn được phân công quản lý để lập kế hoạch và xác lập chuyên án đấu tranh và tổ chức thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Tuần tra, kiểm soát, bắt giữ, lập biên bản vi phạm đối với chủ hàng hoá buôn lậu, chủ phương tiện chở hàng hoá buôn lậu, vận chuyểnt trái phép trên biển. Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật hải quan trong vùng nước cảng hoặc trong khu vực địa bàn kiểm soát của Chi cục Hải quan cửa khẩu thì chuyển giao thông tin cho Chi cục Hải quan cửa khẩu thực hiện và phối hợp bắt giữ khi có yêu cầu. Thực hiện xử lý vi phạm hành chính về hải quan theo thẩm quyền. Cơ cấu tổ chức của Hải đội Kiểm soát hải quan gồm: Đội Tham mưu - Nghiệp vụ. Đội Hậu cần, Kỹ thuật và Tài vụ Các tàu trực thuộc Hải đội. Mội Đội có Đội trưởng, Đội phó; Mỗi tàu có Thuyền trưởng, Máy trưởng và Thuyền phó do Cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu bổ nhiệm. Địa bàn hoạt động Hải đội 1: trên vùng biển phía Bắc miền Trung từ vùng biển tỉnh Quảng Bình trở vào đến hết vùng biển tỉnh Khánh Hoà. Hải đội 2: trên vùng biển miền Trung từ vùng biển tỉnh Quảng Bình trở vào đến hết vùng biển Khánh Hoà. Hải đội 3: trên vùng biển phía Nam từ vùng biển tỉnh Ninh Thuận trở vào đến toàn bộ vùng biển tỉnh Kiên Giang. Nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Trung tâm Huấn luyện chó nghiệp vụ phát hiện ma tuý và chất nổ. (Tham khảo Quyết định số 79/QĐ-TCHQ của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ra ngày 08/01/2007) Nhiệm vụ quan trọng nhất là trực tiếp tham gia, phối hợp với các lực lượng chức năng để phát hiện, điều tra bắt giữ các vụ buôn bán, vận chuyển trái phép các chất ma tuý, chất nổ qua biên giới theo sự điều động và quyết định của các cấp có thẩm quyền. II. TÌNH HÌNH BUÔN LẬU TRONG THỜI GIAN QUA TẠI VIỆT NAM VÀ CÁC NGUYÊN NHÂN Trong mỗi khoảng thời gian khác nhau, thì tình hình buôn lậu có nhiều biến động khác nhau. Những số liệu trong phạm vi nghiên cứu tập trung chủ yếu 3 năm trở lại đây 2005, 2006, 2007. 1. Tình hình buôn lậu a. Trên tuyến đường bộ Địa bàn hoạt động trọng điểm của bọn buôn lậu là khu vực cửa khẩu biên giới thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Quảng Ninh, Lào Cai, Cao Bằng, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Long An, Tây Ninh, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang. Trong năm 2005, 2006 các mặt hàng nhập lậu chủ yếu là đường cát trắng do Thái Lan sản xuất, và một số sản phẩm nông nghiệp có nguy cơ dịch bệnh cao như trâu bò, thịt lợn bị nhiễm bệnh, gia súc, gia cầm, trứng gia cầm... có nguồn gốc tư Cambuchia, Trung Quốc và thuốc lá nhập lậu nhiều tại biên giới phía Bắc (riêng tại Cao Bằng, năm 2005 lực lượng kiểm soát hải quan đã bắt giữ và xử lý 101 vụ, tịch thu 13.237 kg thuốc lá)...Năm 2006 xuất hiện hiện tượng nhập ô tô mới 100% do Trung Quốc sản xuất có dấu hiệu gian lận về trị giá tính thuế diễn gia tại địa bàn Hà Giang. Bên cạnh đó các mặt hàng xuất lậu chủ yếu là gạo, dược liệu, động vật hoang dã, các bộ phận của động vật quý hiếm, ngoại tệ, than...Đặc biệt là hiện tượng xuất lậu các loại quặng thô và than ở vùng biển Miền Trung và Đông Bắc; xuất, nhập gỗ không có giấy phép, không rõ nguồn gốc. Cuối năm 2005 bắt đầu diễn ra tình trạng xuất lậu xăng dầu qua biên giới, sang năm 2006 thì gia tăng và phức tạp hơn 2005. Năm 2006, tình trạng xuất khẩu ngoại tệ, vàng, tiền Việt Nam cũng diễn ra phức tạp (Năm 2006, Cục Hải quan An giang đã phát hiện 02 vụ thu giữ 98.069 USD và 04kg vàng). Sang năm 2007, tình hình buôn lậu nổi lên là hành vi lợi dụng chính sách cư dân biên giới, lợi dụng việc tăng tiêu chuẩn miễn thuế theo Quyết định 254/QĐ-TTg cho phép cư dân biên giới được mua bán trao đổi hàng hoá 2.000.00VNĐ/ ngày, bọn đầu nậu thuê cư dân biên giới mua gom, tập kết vận chuyển hàng hoá qua biên giới. Nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng việc tự khai, tự tính, áp dụng trị giá tình thuế theo trị giá GATT để gian lận giá, nhập khẩu hàng hoá sai so với khai báo về tên hàng, chủng loại, nhập hàng không đúng với nội dung giấy phép nhập khẩu, nhập khẩu hàng thừa, xuất khống, gian lận về xuất xứ để hưởng ưu đãi... Đã có vụ việc giả mạo chứng từ, chữ ký và dấu công chức hải quan để đánh tháo hàn lậu, hàng cấm ra khỏi khu vực kiểm soát hải quan. Trong năm 2007, hàng nhập lậu chủ yếu là hàng điện tử, vải, bánh kẹo, giày dép, bát sứ, cốc thuỷ tinh, hàng tạp hoá, điện thoại di động, gia súc, gia cầm, nguyên liệu lá thuốc lá, mỹ phẩm, đường, thuốc lá điếu... Hàng xuất lậu chủ yếu là ngoại tệ, vàng, xăng dầu, động vật hoang dã, gỗ sưa, trắc, cẩm lai, giáng hương, quặng... Các đối tượng chủ yếu thuê mướn dân cư qua biên giới để lợi dụng tiêu hcuẩn miễn thuế (2.000.000 VNĐ/lượt) để vận chuyển hàng lậu qua biên giới. Tại KCN Lao Bảo, lợi dụng quyết định của Thủ tướng cho phép nhập xe ô tô miễn thuế để sử dụng trong Khu kinh tế đặc biệt Lao Bảo, một số doanh nghiệp đã nhập khẩu và đăng ký sử dụng với số lượng lớn, sau đó bán vào thị trường nội địa để trốn thuế với thủ đoạn lập một hợp đồng tài chính là thuê xe. Điển hình là doanh nghiệp Kim Sơn và Minh Hưng nhập lậu 60 xe ô tô Nhật để bán ra ngoài nhằm trốn thuế nhập khẩu và thuế VAT. Trên tuyến đường Hàng không - Bưu điện Năm 2005, xuất hiện thủ đoạn nhập hàng ít nhưng khai báo nhiều với trị giá lớn và xin được nhập khẩu, nghi vấn đây là một trong những thủ đoạn rửa tiền. Một số vụ nghiêm trọng như vụ nhập khẩu không khai báo 33.5 kg vàng nữ trang, nhập tân dược qua đường hành lý cá nhân không có giấy phép (206kgs) trong đó có 8000 viên thuốc gây nghiện... qua cửa khẩu Tân Sơn Nhất. Trong năm 2006 thì hàng hoá tập trung chủ yếu vào những mặt hàng cấm, hàng nhập khẩu có điều kiện, hàng nhạy cảm, gọn nhẹ và có giá trị, thuế suất cao như: tân dược, ma tuý tổng hợp, mỹ phẩm, ngoại tệ, đá quý, cổ vật, văn hoá phẩm nội dung xấu, điện thoại di động, vi tính xách tay, linh kiện điện tử cao cấp, vải, quần áo sẵn cao cấp... Trong năm 2006 xuất lậu ngoại tệ giảm đáng kể do có quy định mới của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Quyết định 921/QĐ-NHNN). Năm 2007 các đối tượng buôn lậu lợi dụng phân luồng kiểm tra để khai báo sai về mặt hàng, số lượng, chủng loại; khai báo nhập khẩu qua loại hình phi mậu dịch, hàng gửi chậm về lưu ở kho để tìm cách rút hàng ra, nếu không được thì xin tái xuất hoặc vận chuyển theo hình thức hành lý xách tay theo người, qua tổ lái, tiếp viên và hướng dẫn viên các đoàn du lịch. Xuất hiện thủ đoạn vi phạm mới là một số doanh nghiệp nhập khẩu phần mềm khai báo giá nhập khẩu với trị giá rất lớn, có dấu hiệu để chuyển tiền ra nước ngoài. Địa bàn trọngd diểm là ga nhập Sân bay Quốc tế Nội Bài, ga nhập sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất, ga nhập sân bay quốc tế Đà Nẵng, chuyển phát nhanh theo Fedex, DHL...Mặt hàng trọng điểm là các loại hàng hoá có giá trị cao, ngoại tệ, vàng, kim loại quý, thuốc lá ngoại, rượu ngoại, tân dược, mỹ phẩm, đồng hồ, máy ảnh, máy quay phim, màn hình thu nhỏ, laptop... Trên tuyến cảng biển Trong năm 2005, tình trạng các đối tượng là thuyền viên Việt Nam làm việc trên các tàu biển hoạt động tuyến hàng hải Quốc tế khi nhập cảnh không khai báo hàng hoá, hành lý mang từ nước ngoài về lợi dụng để buôn lậu có xu hướng gia tăng trở lại. Vẫn bằng các thủ đoạn giấu hàng trong hầm máy, hầm hàng, kho vật tư... các mặt hàng vi phạm chủ yếu là hàng tiêu dùng đã qua sử dụng (TV, máy lạnh, máy in, máy giặt, dàn âm thanh, rượu ngoại, phụ tùng ô tô xe máy...) Các doanh nghiệp kinh doanh thương mại quốc tế thì có thủ đoạn phổ biến là làm hồ sơ khai báo hải quan với trị giá hàng nhập khẩu rất thấp, khai báo chủng loại, mô tả đặc tính kỹ thuật không rõ ràng để được áp vào mã hàng có thuế suất thấp, hàng thành phẩm nhưng được chia nhỏ thành nhiều chi tiết linh phụ kiện, khai báo giá giảm dần (hợp đồng sau thấp hơn hợp đồng trước). Trong năm 2006 hoạt động trên biển tập trung ở khu vực vùng biển Đông Bắc và miền Trung. Hàng xuất lậu chủ yếu là than, quặng thô... Năm 2006 nổi lên mặt hàng gỗ quý, các đối tượng buôn lậu vận chuyển gỗ từ địa bàn ven biển Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh đi Trung Quốc, với các thủ đoạn như sử dụng chứng từ, hoá đơn vận chuyển từ trong nội địa hoặc quay vòng hồ sơ chứng từ để hợp pháp hoá nguồn gốc khai thác. Tại các chi cục Hải quan cửa khẩu cảng biển xảy ra một số vụ vi phạm nghiêm trọng đó là nhập khẩu trái phép rác thải công nghiệp như: tại cảng Hải Phòng phát hiện 09 doanh nghiệp nhập 46 containers thiết bị văn phòng đã qua sử dụng, 500 containers ắc quy chì đã qua sử dụng, vi phạm công ước Basel về quản lý chất thải nguy hại Việt Nam ký kết tham gia. Trong năm 2007 thì nổi cộm là tình hình các đối tượng lợi dụng quy trình quản lý rủi ro, thủ tục hải quan ngày càng đơn giản tạo thuận lợi cho thương mại, tỷ lệ miễn kiểm tra cao để buôn lậu. Phương thức thủ đoạn phổ biến là khai báo sai về tên hàng, chủng loại, xuất xứ; gian lận giá, chính sách mặt hàng; nhập khẩu hàng thừa so với khai báo, không khai báo; nhập khẩu hàng hoá không đạt chất lượng theo quy định; xuất khẩu khai báo khống, không đúng mặt hàng; lợi dụng hình thức chuyển cửa khẩu về ICD để buôn lậu, trốn thuế. Mặt hàng trọng điểm: Gỗ, nguyên phụ liệu may mặc - giày dép, hàng kim khí điện máy, linh kiện điện tử, phụ tùng ôtô, các loại máy móc và hàng điện tử đã qua sử dụng, ôtô đã qua sử dụng, máy in công nghiệp, máy công cụ,… hàng nông ngư cũ có xuất xứ Đài Loan, Nhật, Hàn Quốc các mặc hàng thuộc diện cấm nhập khẩu hoặc mặt hàng thuộc quản lý chuyên ngành,... Trên tuyến biển tình hình xuất lậu than, quặng tại khu vực biển Đông Bắc và Miền Trung diễn ra phức tạp, phương thức thủ đoạn chủ yếu là gian lận, số lượng vận chuyển thực chất vượt rất nhiều so với số lượng ghi trong các chứng từ, hoá đơn hoặc khi bị kiểm tra thì khai vận chuyển trong nội địa, nhưng thực chất là trên hành trình khi gần phần lãnh hải giáp ranh thì đổi hướng vận chuyển trái phép sang Trung Quốc. Trên đường về, chủ tàu thường kết hợp chở về các mặt hàng như: gạch men các loại, bánh kẹo, cốc chén, bát đĩa, quần áo, vải may mặc... Các tàu này không đi qua cửa khẩu để làm thủ tục mà đi theo tuyến xa bờ, nên việc phát hiện và đấu tranh rất khó khăn. Mặt khác, tình trạng vận chuyển, buôn bán thuốc lá ngoại, các đối tượng sử dụng tàu cao tốc chuyển hàng từ biên giới vào trong nội địa để tiêu thụ. Khi bị các lực lượng chức năng bắt giữ, các đối tượng sử dụng vũ khí chống trả quyết liệt. Tại các Khu công nghiệp, Khu chế xuất, đầu tư gia công, tình hình gian lận thương mại, trốn thuế diễn ra phức tạp, phương thức thủ đoạn phổ biến, chủ yếu là gian lận điều chỉnh định mức để thanh khoản; bán nguyên liệu, phụ liệu và sản phẩm ra ngoài thị trường nội địa để trốn thuế sau đó hợp thức hoá bằng cách xuất khống, làm thủ tục tiêu huỷ hàng hoá, nguyên liệu; khai khống giá trị máy móc, thiết bị; nâng giá trị tài sản cố định để khấu hao trốn thuế thu nhập doanh nghiệp; nhập hàng hoá thành phẩm hoặc bán thành phẩm để gian lận xuất xứ Việt Nam (C/O) nhằm hưởng thuế xuất ưu đãi. Ngoài ra còn có hiện tượng doanh nghiệp trong nước khai khống hàng hoá xuất vào khu chế xuất để hưởng hoàn thuế VAT bất hợp pháp 2. Nguyên nhân tình trạng buôn lậu tại Việt Nam Tình hình buôn lậu ở nước ta diễn biến phức tạp như hiện nay là do rất nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trước hết, đó là hậu quả của cuộc đấu tranh gay gắt giữa hàng nội và hàng ngoại trên thị trường nước ta. Thị trường bao giờ cũng tuân theo quy luật cung cầu và giá trị hàng hoá. Hàng tốt giá rẻ sẽ chiến thắng hàng xấu mà giá thành cao. Đây là quy luật phổ biến vận hành trong bất kỳ nền kinh tế hàng hoá nào. Nước ta trong những năm gần đây thì sản xuất phát triển, hàng hoá làm ra nhiều hơn, phong phú hơn phần nào đáp ứng được mặt cung - cầu. Nhưng hệ thống công nghệ trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất còn lạc hậu, chắp vá, không đồng bộ, năng suất và hiệu quả thấp. Vì vậy nhiều mặt hàng chất lượng kém, không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng và do đó chưa đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại ngay trên chính thị trường của mình và cũng rất khó khăn trong việc tìm thị trường của nước ngoài. Nước ta nằm trong khu vực và gần kề với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, Hàn Quốc...hàng hoá của những nước này có chất lượng khá hơn hoặc giá rẻ hơn và đang trong tình trạng dư thừa. Chưa nói đến một số nước thực hiện chính sách bù lỗ, hạ giá thành sản phẩm và bằng con đường tiểu ngạch, con đường buôn lậu, nhằm đẩy hàng hoá ế thừa vào thị trường nước ta để vừa khỏi ứ đọng vốn, vừa giải quyết được vấn đề thất nghiệp. Bên cạnh động cơ kinh tế và thông qua lợi ích kinh tế, việc đẩy hàng hoá vào nước ta bằng con đường này dễ gây cho chúng ta khó khăn về mặt kinh tế; làm mất thế ổn định về chính trị - xã hội, về an ninh - quốc phòng... Vì lợi ích cục bộ, một số địa phương, huyện, tỉnh, đã thu thuế nhẹ hơn thuế nhập khẩu hoặc làm ngơ để cho hàng lậu vào nội địa, tổ chức đón lõng ở tuyến sau để thu thuế buôn chuyến, nhằm tăng và thu hút nguồn thu. Làm như vậy vô hình chung đã hợp thức hoá cho việc vận chuyển hàng lậu vào tiêu thụ trong nội địa. Một số địa phương khác chưa nhận thức đầy đủ nên chưa đặt công tác chống buôn lậu lên ngang tầm với yêu cầu; quản lý còn lỏng lẻo, chưa thật sự chỉ đạo một cách thường xuyên, cấp uỷ, chính quyền quan tâm chỉ đạo công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại thì ở đó tệ buôn lậu giảm; còn nơi nào buông lơi, không quan tâm đúng mức thì nạn buôn lậu ở đó bùng lên rất phức tạp, tạo thành điểm nóng với hậu quả là lượng hàng lậu tuồn vào nội địa rất lớn... Hiện nay, lực lượng chống buôn lậu vẫn còn yếu, thiếu về phương tiện, thiếu sự phối hợp chặt chẽ, chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nên hoạt động chống buôn lậu còn đơn độc, chưa được sự đồng tình ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân. Việc xử lý các vụ buôn lậu chưa nghiêm nên hiệu quả phòng ngừa còn thấp. Ngoài ra chính sách thuế xuất nhập khẩu của nước ta vẫn còn nhiều chỗ bất cập; có những thuế suất cao, trùng lặp, còn nhiều kẽ hở... và việc giáo dục tuyên truyền về đạo đức kinh doanh trong toàn xã hội chưa tốt, chưa thường xuyên, chưa có chiến lược sách lược phù hợp. Bên cạnh đó phải nói tới sự lợi dụng các chính sách của Việt Nam để buôn lậu. Sự không hợp lý về các chính sách là một nguyên nhân lớn dẫn đến tình trạng buôn lậu ngày một gia tăng như hiện nay. Dưới đây là một số chính sách và cách thức lợi dụng của bọn buôn lậu: Theo thông báo của Bộ Công Thương, lợi dụng chính sách trao đổi cư dân biên giới the._.ng biết cách tính toán thì thu nhập ổn định và đời sống nâng cao, con cái được học tập tiến bộ. Ngược lại, điều rất đáng tiếc là nhiều hộ gia đình chuyên nghề buôn lậu thì tuy thu nhập cao hơn nhưng không ổn định, có lúc rủi ro trong buôn bán nên thua lỗ, hàng hoá bị tịch thu. Kết quả cuối cùng của họ là cái nghèo cũng nhanh chóng trở lại, thậm chí có người bị pháp luật nghiêm trị, phải chịu án tù và phạt tiền, danh dự không còn, gia đình tan nát. Chúng ta chấp nhận, mong muốn và khuyến khích mọi người giàu lên, nhưng không chấp nhận làm giàu bằng những thủ đoạn phi pháp, buôn lậu, trốn thuế. Trong tình hình phát triển kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường cũng có thể kinh doanh một cách có văn hoá, kinh doanh có lãi mà vẫn đảm bảo đạo lý con người. Thực tế là trong kinh doanh, doanh nghiệp có thể thu lợi nhuận cao bằng phát minh, sáng chế, đổi mới cơ chế quản lý, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, chiếm lĩnh thị trường bằng mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, giá cả phải chăng... Tiếc rằng vì lợi nhuận cao, nhiều kẻ tán tận lương tâm đã lao vào con đường buôn bán phi pháp, phá hoại nền kinh tế đất nước, phá hoại nền an ninh quốc phòng, làm ô nhiễm môi trường xã hội, môi trường sinh thái, nhập lậu những sản phẩm văn hoá đồi truỵ phá hoại thuần phong mỹ tục của nhân dân ta... Phát triển kinh tế là một giải pháp cơ bản có ý nghĩa toàn diện trong việc giải quyết các vấn đề lớn của quốc gia, trong đó có chống buôn lậu. Xét về mặt kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế làm tăng tổng sản phẩm quốc dân, tăng khối lượng và chất lượng hàng hoá, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của hàng nội địa với hàng ngoại ngay ở thị trường trong nước. Kinh tế trong nước phát triển tạo thế ổn định trên cán cân ngoại thương sẽ làm hạn chế xu thế “nước chảy chỗ trũng” của hàng lậu. Phát triển kinh tế sẽ củng cố những khả năng giải quyết tốt những vấn đề kinh tế - xã hội, càng hoàn thiện phương án toàn dân - toàn diện - tổng lực trên mặt trận chống buôn lậu, đảm bảo cho sự thành công của công tác khó khăn và phức tạp này. 4. Tăng cường hiệu lực của hàng rào hải quan Hình thành hàng rào hải quan Mỗi quốc gia đều hình thành hàng rào hải quan của nước mình nhằm bảo vệ nền kinh tế đất nước và chống các âm mưu phá hoại của kẻ thù bên trong và bên ngoài. Hàng rào hải quan dùng để kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu, bảo vệ cho hàng hoá trong nước cạnh tranh thắng lợi với hàng ngoại mà trước hết là ngay trên thị trường nội địa và hạn chế xuất khẩu những mặt hàng chiến lược để đảm bảo sự cân đối của của thị trường trong nước, cấm xuất những loại hàng chỉ được phép lưu hành trong thị trường nội địa, không cho nhập những loại hàng có hại về kinh tế, chính trị, môi trường sinh thái, văn hoá, xã hội. Hàng rào hải quan nước ta không chỉ hiểu máy móc, đơn thuần là trách nhiệm riêng của ngành hải quan mà là hàng rào hải quan toàn diện, đầy đủ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hàng rào hải quan nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực hải quan, quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu và chống buôn lậu qua biên giới; trong đó, chống buôn lậu là chức năng, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Hàng rào hải quan là một khái niệm rộng, bao gồm hàng rào hải quan vô hình (hay người ta thường gọi là hàng rào phi thuế quan thuế) và hàng rào hải quan hữu hình (còn được gọi là hàng rào quan thuế). Bắt đầu từ hệ thống luật pháp, chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Đây là hệ thống mang tính chất sách lược và chiến lược trong việc bảo vệ nền kinh tế quốc gia, bảo vệ sản xuất và thị trường nội địa. Một trong những nguyên nhân quyết định thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc là Đảng đã đề ra được đường lối, chính sách đúng đắn và biết tổ chức nhân dân thực hiện từng bước vững chắc, chú trọng trước hết vào các nhiệm vụ trọng tâm của đất nước. Ngày nay, trong chính sách, pháp luật liên quan đến vấn đề chống buôn lậu, chúng ta cần đánh giá đúng thực trạng tình hình, nhận thức đúng về quy luật phát triển kinh tế xã hội, về vị trí của nước ta trong nền kinh tế thế giới (đặc biệt là trong khu vực) và trong các quan hệ quốc tế, vừa thống nhất thu cho ngân sách, bảo vệ được sản xuất trong nước, đủ sức thuyết phục, đủ sức xử lý có hiệu quả nhất là các biện pháp hành chính trong chính sách xuất nhập khẩu, các biện pháp kinh tế thông qua chính sách thuế xuất nhập khẩu, các chính sách về tỷ giá hối đoái, sự phân cấp ngân sách, chế độ khen thưởng... và cuối cùng, tất cả những chính sách ấy đều nhằm mục tiêu chống buôn lậu, bảo vệ sản xuất trong nước. Tiếp theo là hàng rào hải quan được hình thành bằng biện pháp tổ chức, quản lý, kiểm tra, kiểm soát. Trước hết tại tất cả các cửa khẩu như sân bay, cảng biển, biên giới đất liền và bất cứ nơi nào có diễn ra hoạt động xuất nhập khẩu đều phải thành lập các đơn vị hải quan đủ mạnh để hoàn thành nhiệm vụ hàng rào quan thuế và các chức năng nhiệm vụ được giao. Trong sự phát triển nhanh chóng của kinh tế và xã hội đất nước hiện nay, với nhiệm vụ chống buôn lậu, các đơn vị hải quna cần phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chống buôn lậu của biên phòng, công an, quản lý thị trường và được sự hỗ trợ của quân đội, nhất là lực lượng cảnh sát biển, bộ đội hải quân và quần chúng nhân dân thì mới hình thành hàng rào hải quan vững chắc với hai thứ quân chủ lực và lực lượng quần chúng nhân dân. Mối quan hệ này, trước đây chúng ta làm chưa tốt nên trên thực tế còn chồng chéo lên nhau, làm hạn chế kết quả công tác đấu tranh chống buôn lậu. Lực lượng chống buôn lậu cần phải được tăng cường phương tiện đầy đủ và hiện đại để đối phó với sự đa dạng, phức tạp và nguy hiểm của loại công tác đặc biệt này. Bên cạnh đó lực lượng còn phải kiện toàn tổ chức, hết sức chú ý đến nhân tố con người, giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi của người làm công tác chống buôn lậu, tăng cường trang thiết bị mới, hiện đại cho họ, để không những đấu tranh có hiệu quả đối với những đối tượng nhỏ và lẻ như hiện nay mà còn đủ sức đối phó với lực lượng buôn lậu mạnh hơn, có tổ chức và mức độ nguy hiểm hơn. Sự kiện quan trọng là....... nhằm tăng cường việc bảo vệ và quản lý vùng lãnh hải và tiếp giáp lãnh hải của Tổ quốc. Quân đội là lực lượng chính quy và hùng mạnh, nơi hội tụ cao trí tuệ, tuổi trẻ, khoa học kỹ thuật và kỷ luật thép. Từ nhận thức chống buôn lậu là một cuộc cách mạng lớn thì quân đội, với chức năng bảo vệ Tổ quốc, cần phải có vai trò tích cực, chủ động trong sự nghiệp đấu tranh chống buôn lậu, bảo vệ tổ quốc về chính trị, văn hoá. Nhiệm vụ chống buôn lậu đối với ngành Hải quan và các lực lượng khác như: biên phòng, công an, quản lý thị trường đã được quy định rõ, nhưng trong giai đoạn mới, Nhà nước nên nghiên cứu, có thể giao thêm những nhiệm vụ cụ thể phù hợp cho một bộ phận quân đội để đáp ứng tình hình hiện nay (Tại một số nước, có bộ phận quân đội được cử đi làm đường sá nơi địa hình phức tạp hoặc đi trấn giữ biên giới kết hợp với sản xuất ở nơi nạn buôn lậu hoành hành...). Biện pháp có tính chiến thuật này cũng phù hợp với tinh thần sẵn sàng nhận nhiệm vụ của quân đội và sự tin cậy của nhân dân. Đất nước ta có đường biên giới dài, trên bộ địa hình phức tạp, trên biển thì thiếu phương tiện, tình hình đó đòi hỏi phải có sự hỗ trợ và hợp đồng tác chiến của quân đội, để lực lượng chống buôn lậu thực sự trở thành một đội quân tổng lực, chuyên nghiệp và có vũ trang. Nhân dân là động lực chính Hiện nay tại một số khu vực nơi bọn buôn lậu hoành hành thì cư dân biên giới không phải là “tai mắt” của Đảng và Nhà nước, mà lại là “tai mắt” của bọn buôn lậu. Để có thể chấm dứt hiện tượng này không phải là điều dễ dàng. Chúng ta đang tiến hành những chiến dịch chống buôn lậu mà trong đó nhân dân là động lực chính. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong” - câu thơ giản dị hàm chứa một tư tưởng lớn đã được lịch sử bao đời chiêm nghiệm qua triết lý “sâu rễ bền gốc” của Trần Hưng Đạo, qua lý tưởng “nhân nghĩa” nổi tiếng của Nguyễn Trãi và qua hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vừa qua của dân tộc. Công tác chống buôn lậu cần có được chỗ dựa vững chắc trong dân, càn có sự đồng tình giúp đỡ của nhân dân, biết nghe và nhìn bằng tai mắt của nhân dân, bởi chỉ có nhân dân mới là lực lượng thường trực tại chỗ, dàn ra một thế trận mà không đối tượng buôn lậu nào qua mắt được. Tăng cường công tác vận động tuyên truyền và giáo dục nhân dân về bản chất chính nghĩa, cấp bách của sự nghiệp chống buôn lậu, để nhân dân đứng hẳn về phía Nhà nước, cách ly bọn buôn lậu là điều tối cần thiết. Thực tiễn cho hay, sự hưởng ứng và tham gia giúp đỡ của nhân dân là một đảm bảo chắc chắn cho thắng lợi của công tác chống buôn lậu. Do đó, chống buôn lậu không chỉ là nhiệm vụ của các ngành chức năng, mà còn là trách nhiệm của nhân dân. Đó là trách nhiệm của người công dân yêu nước trước tình thế Tổ quốc đang phải gồng mình lên chống buôn lậu. Tư tưởng, chiến lược quyết định những biện pháp chiến thuật. Vấn đề lớn cần phải được quán triệt thống nhất là chống buôn lậu phải được tiến hành như một cuộc cách mạng của lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Do đó, chống buôn lậu phải mang tính đồng bộ trên toàn quốc, phương châm chiến lược là tấn công tiêu diệt chứ không phải tấn công xua đuổi. Có làm được như vậy thì bọn buôn lậu mới không có thời gian để phòng thủ, không có địa bàn để nương náu. Hơn nửa thế kỷ của cách mạng Việt Nam để lại cho chúng ta những bài học và kinh nghiệm phong phú: đánh tổng lực bằng chủ lực và lực lượng nhân dân, đánh từ nông thôn đến thành thị, bằng nhiều mũi giáp công, đánh trên mọi phương diện, phát huy cao độ thế mạnh của cuộc chiến tranh toàn dân.Chống buôn lậu phải chống mạnh tay, phải đều đặn và toàn diện để tránh trường hợp bỏ sót các đối tượng tinh vi. Qua mỗi chiến dịch cũng cần có tổng kết, học tập, rút kinh nghiệm, thảo luận và thống nhất biện pháp nhằm phát huy thành quả, khắc phục những mặt chưa làm tốt, đối mặt với tình hình mới nảy sinh. Đấu tranh ngăn chặn những hành vi phi pháp của các đối tượng kinh tế và chống buôn lậu là những công việc phức tạp, nguy hiểm. Nhiều cán bộ chiến sĩ phải đổ máu, gia đình chịu nhiều đau thương mất mát, các cán bộ trực tiếp làm công tác giải quyết, xử lý đe doạ qua thư điện thoại và bằng nhiều phương cách khác...Trước thực tế đó, sức mạnh của lực lượng chống buôn lậu cần phải được củng cố, kiện toàn công tác phối hợp với các ngành chức năng, trước hết là công an, tăng cường sự bảo vệ về pháp lý đối với những người thi hành công vụ. Công tác khen thưởng nên tổ chức kịp thời và đãi ngộ thích đáng, cả về tinh thần và vật chất. Theo ý kiến của PGS Lê Thanh Bình trong cuốn “Chống buôn lậu và gian lận thương mại”, NXB Chính trị quốc gia, 1998 thì nên có danh hiệu “Dũng sĩ chống buôn lậu” dành cho những chiến sĩ có công trong công cuộc chống buôn lậu. Đối với nhân dân tích cực tham gia và có nhiều đóng góp cho công tác chống buôn lậu cần phải có chế độ đãi ngộ, động viên khuyến khích thật tốt.Cần tích cực giác ngộ, khuyến khích các phần tử buôn lậu chuyển sang hợp tác với ngành chức năng chống buôn lậu, thông qua tuyên truyền, giáo dục, sức ép pháp lý và có chế độ động viên thích đáng. Về phương diện tài chính, không nên xem kết quả thu từ chống buôn lậu là một nguồn thu ngân sách, mà dùng số thu đó một phần trích thưởng xứng đáng cho người có công trong việc chống buôn lậu. Phần còn lại để phục vụ cho công tác của các ngành chức năng nhằm tăng cường lực lượng và phương tiện, để lại cho địa phương bồi dưỡng sức dân, tạo thế trận nhân dân trong công tác chống buôn lậu. II. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC CHO CỤC ĐIỀU TRA CHỐNG BUÔN LẬU 1. Các giải pháp nâng cao khả năng nghiệp vụ của Cục Điều tra chống buôn lậu Phải xác định được trọng điểm và có phương án cụ thể cho từng địa bàn, từng chuyên đề, từng lĩnh vực nghiệp vụ. Chống buôn lậu đạt hiệu quả nhất là khi các lực lượng chủ động đấu tranh chống buôn lậu ngay từ khi hình thành. Các đơn vị phải chú ý xây dựng cơ sở bí mật rộng khắp, phải xây dựng được cơ sở của mình trong nội bộ doanh nghiệp, các tập đoàn... nhằm điều tra nắm tình hình phát hiện tin tức tài liệu ngay khi bọn buôn lậu bắt tay vào công tác chuẩn bị. Thực hiện tốt phương châm “phát hiện sâu và đánh tận gốc” thì các hành vi vi phạm mới không còn cơ hội phát triển. Cách thức buôn lậu mỗi nơi một khác nhau, chính vì vậy không thể có một kế hoạch chung cho tất cả các địa bàn và tất cả các chuyên đề. Nên khi xác lập một chuyên án cần phải khảo sát nghiêm túc, thu thập đầy đủ các dữ kiện trên cơ sở khảo sát kỹ ở địa bàn của mình và phương án phối hợp với các bộ phận khác. Có như vậy mới có thể đạt được hiệu quả. Thường xuyên tiến hành công tác điều tra cơ bản, nắm tình hình tại các địa bàn trọng điểm để kịp thời phát hiện những đối tượng trọng điểm, những vụ việc nổi cộm, có rủi ro cao khi áp dụng phương thức quản lý hải quan theo quy trình mới làm cơ sở cho công tác dự báo tình hình và đề xuất các biện pháp xử lý những sơ hở, vướng mắc trong quy trình nghiệp vụ, trong đó tập trung phát hiện: - Các loại ma tuý tổng hợp, tân dược có chứa chất gây nghiện, heroin, tiền chất nhập lậu trong phạm vi địa bàn hoạt động hải quan; phát hiện và ngăn chặn các mặt hàng : ngoại tệ, tiền Việt Nam giả, đồ cổ, văn hoá phẩm có nội dung xấu, rượu, thuốc lá ngoại, đường ăn, hàng điện lạnh cũ/mới, máy tính xách tay, máy ảnh kỹ thuật số, phụ tùng ôtô đã qua sử dụng, máy móc thiết bị đã qua sử dụng, rác thải công nghiệp, tân dựoc, mỹ phẩm, vải, quần áo các loại. Phát hiện và ngăn chặn tình trạng xuất lậu quặng thô, than, gỗ quý hiếm , xăng dầu, vàng, ngoại tệ... - Tăng cường công tác nắm tình hình, tập trung phát hiện và đấu tranh với các đối tượng là các chủ đầu nậu lớn chuyên mua thu gom hàng, các đầu nậu chuyên tổ chức vận chuyển hàng lậu thuê, các doanh nghiệp đã vi phạm pháp luật về Thuế, Hải quan và chuyên kinh doanh những mặt hàng nhạy cảm. có thuế xuất cao; các doanh nghiệp thường xuyên hủy tờ khai khi đã phê duyệt mức độ kiểm tra, các doanh nghiệp thường xuyên đăng ký kiểm tra vào giờ cao điểm; các doanh nghiệp nhập khẩu phần mềm khai báo giá nhập khẩu với trị giá lớn so với thực tế. - Phát hiện các phương thức, thủ đoạn lợi dụng bất cập trong cơ chế chính sách như: khai báo giá tính thuế để trốn thuế, hàng chuyển cửa khẩu, hàng tạm nhập - tái xuất, lợi dụng áp dụng Quản lý rủi ro đưa hàng lậu thông quan qua luồng xanh; chính sách ưu đãi các Khu kinh tế cửa khẩu và các Doanh nghiệp kinh doanh trong Khu kinh tế cửa khẩu, định mức miễn thuế đối với cư dân biên; hàng hoá, nguyên phụ liệu gia công - đầu tư, hàng phi mậu dịch, hàng miễn thuế... Biện pháp vận động quần chúng tham gia chống buôn lậu Thực hiện thường xuyên công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật trong lĩnh vực hải quan và các văn bản pháp luật liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu tới mọi tầng lớp nhân dân, các doanh nghiệp. Quan tâm hơn đối với công tác vận động quần chúng, không buôn lậu và không tiếp tay cho buôn lậu, đặc biệt là đồng bào dân tộc tại khu vực cửa khẩu biên giới. Vận động các doanhnghiệp, các thành phần kinh tế chấp hành nghiêm những chính sách, pháp luật về xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, hiểu được chức năng, nhiệm vụ của hải quan; cộng tác giúp đỡ hải quan hoàn thành nhiệm vụ. Ngoài ra, thông qua hoạt động của mình, lực lượng điều tra chống buôn lậu phải tranh thủ được sự giúp đỡ, phối hợp của các ngành nhất là các ngành cơ quan quân đội, thương mại..., các cơ quan chức năng tại địa phương, chính quyền đoàn thể các cấp nơi có hoạt động hải quan. Biện pháp trinh sát bí mật, tình báo hải quan Các cán bộ làm công tác này cần được đào tạo bài bản hơn bởi đây là biện pháp chủ yếu và mang tính đặc thù của công tác điều tra chống buôn lậu thuộc ngành Hải quan nhằm phát hiện, thu thập tin tức, tài liệu có liên quan đến hoạt động chống buôn lậu làm cơ sở để áp dụng các biện pháp nghiệp vụ khác nhằm đấu tranh có hiệu quả với mọi hành vi và đối tượng buôn lậu. Trong hoạt động này, tình báo hải quan đóng vai trò hết sức quan trọng. Các công tác chủ yếu phải tiến hành bao gồm: Công tác điều tra nghiên cứu để nắm vững thông tin về hoàn cảnh khách quan (bối cảnh quốc tế, tình hình khu vực, tình hình buôn lậu...) Công tác kiểm tra và xác minh đầu mối nghi vấn Công tác cơ sở bí mật bao gồm tuyển lựa, xây dựng, lãnh đạo và sử dụng những người ngoài biên chế ngành Hải quan trong vai trò cộng tác, có thể sử dụng biện pháp mua tin Công tác chuyên án là quá trình bí mật tiếp cận với một cá nhân, hay tổ chức, hay đường dây buôn lậu cụ thể. Công tác trinh sát ngoại tuyến là bố trí theo dõi các hoạt động của đối tượng để phục vụ các yêu cầu cụ thể đặt ra. Công tác trinh sát kỹ thuật là khi có yêu cầu và điều kiện cho phép, lực lượng điều tra chống buôn lậu có thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật như máy ảnh, máy quay phim... để ghi lại hình ảnh âm thanh có liên quan của các đối tượng buôn lậu Công tác xác minh bí mật Hoàn thành việc rà soát, đánh giá thực trạng công tác tuyển chọn, xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở bí mật của lực lượng kiểm soát hải quan và ban hành chế độ hồ sơ, mẫu ấn chỉ cơ sở bí mật. Biện pháp tuần tra kiểm soát công khai Với đặc điểm địa hình của biên giới đường bộ và đường biển nước ta, biện pháp tổ chức lực lượng tuần tra kiểm soát công khai để phát hiện, ngăn ngừa mọi hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới cần phải được coi trọng cả về tổ chức biên chế, chỉ đạo, chỉ huy, đào tạo, huấn luyện, trang bị phương tiện...Một số hình thức như: Tuần tra kiểm soát cơ động thường xuyên và đột xuất trên bộ (trong khu vực dọc biên giới, xã ven biển), trên biển, sông biên giới Chốt chặn, kiểm soát lâm thời hoặc cố định trên các trục đường biên giới, cửa sông, cửa biển, sân bay, bến cảng... Tổ chức mật phục, truy bắt buôn lậu qua các đường mòn biên giới. Chỉ huy chỉ đạo xây dựng lực lượng kiểm soát công khai phải cơ động linh hoạt, chủ động, bí mật, bất ngờ, tránh trường hợp bị theo dõi ngược...Triển khai có hiệu quả các đề án về tổ chức lực lượng, trang thiết bị như trang bị tàu thuyền cho lực lượng kiểm soát chống buôn lậu trên biển... Phương thức bố trí lực lượng hợp lý Ngành Hải quan phải có tổ chức hợp lý, chặt chẽ, thống nhất từ Trung Ương, đến cơ sở và có sự phân công, phân cấp rõ ràng giữa các bộ phận nghiệp vụ. Mỗi lực lượng trong Cục cần phải có trình độ chuyên sâu. Ban hành quy chế điều hành và phối hợp trong hoạt động nghiệp vụ kiểm soát Hải quan và hoàn thành Đề án nâng cao năng lực kiểm soát trong Ngành Hải quan. Rà soát những văn bản pháp quy, quy trình nghiệp vụ liên quan đến hoạt động kiểm soát, để tham mưu, đề xuất với Bộ Tài chính, Chính phủ, các Bộ, Ban Ngành liên quan những bất cập, vướng mắc trong quá trình công tác nhằm đưa ra những giải pháp khắc phục những tồn tại, khó khăn để đáp ứng phù hợp với tiến trình hội nhập mới. 2. Các giải pháp tạo sức mạnh cho lực lượng chống buôn lậu a. Chú ý trong vấn đề kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động của cán bộ trong ngành. Phải tổ chức chặt chẽ, thống nhất từ trung ương đến cơ sở; tạo ra được hành lang thông tin, chỉ huy xử lý chính xác, nhanh nhạy, bí mật kịp thời.Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy lực lượng kiểm soát các cấp, tập trung đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ thu thập xử lý thông tin, quản lý rủi ro, kiểm soát hải quan. Cán bộ Hải quan phải nắm vững luật pháp liên quan đến lĩnh vực quản lý Nhà nước về Hải quan, các cán bộ trong Cục Điều tra chống buôn lậu phải thành thạo nghiệp vụ, không ngừng học hỏi. Các cán bộ cần được chọn lọc để đưa đi đào tạo nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Đặc biệt, cần phải chú trọng làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đã là cán bộ Hải quan thì phải thực hiện 10 Điều kỷ cương của Công chức Hải quan Việt Nam: Đối với doanh nghiệp và khách xuất nhập cảnh, phải: 1. Văn minh, lịch sự khi tiếp xúc. 2. Công tâm, tận tuỵ khi thi hành công vụ. 3. Nhanh chóng, chính xác khi giải quyết công việc. 4. Thấu hiểu, chia sẻ khó khăn. 5. Coi doanh nghiệp và khách xuất nhập cảnh là đối tác hợp tác. Đối với bản thân, phải: 6. Nắm vững pháp luật, thông thạo nghiệp vụ. 7. Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, kỷ luật công tác. 8. Trang phục chỉnh tề, gọn gàng. 9. Không nhận mọi lợi ích bất hợp pháp. 10. Không làm tổn hại đến truyền thống, danh dự của ngành Hải quan. Cần phải xử lý nghiêm minh những cán bộ hải quan , đặc biệt những cán bộ chống buôn lậu có hành vi tiếp tay cho buôn lậu. Bên cạnh đó cần phải có những chế độ, chính sách, mức lương phù hợp hơn cho đội ngũ công chức hải quan. b. Ứng dụng công nghệ vào công tác đấu tranh chống buôn lậu Để đấu tranh với hiện tượng buôn lậu chưa đủ, còn cần tới việc ứng dụng công nghệ cao vào công tác đấu tranh chống buôn lậu. Bởi vì thủ đoạn của bọn buôn lậu thì ngày càng tinh vi. Nếu lực lượng chống buôn lậu không có những phương tiện hiện đại thì không dễ gì phát hiện được. Cần phải có sự hỗ trợ toàn bộ từ những máy bộ đàm, những tàu cao tốc hiện đại, các máy soi nghiệp vụ... Cục cần Tập trung triển khai Đề án nâng cấp hệ thống quản lý rủi ro áp dụng trong lĩnh vực nghiệp vụ Hải quan giai đoạn 2007 - 2010 và những năm tiếp theo theo. Nâng cấp và hoàn thiện hệ thống phần mềm, cơ sở dữ liệu, chuẩn hoá quy trình nghiệp vụ và các điều kiện đảm bảo công tác thu thập, xử lý thông tin và quản lý rủi ro. c. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các lực lượng chống buôn lậu Xây dựng hàng rào chống buôn lậu vững mạnh có sự phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng chuyên môn kiểm soát chống buôn lậu với các lực lượng khác trong và ngoài ngành. Tăng cường hơn nữa công tác phối hợp với các lực lượng chức năng (Công an, Bộ đội biên phòng, Quản lý thị trường...) trong công tác phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại. Sự phân công trách nhiệm phải rõ ràng tránh trường hợp chồng chéo và có thể dẫn đến triệt tiêu lẫn nhau. Thuờng thì Cục điều tra chống buôn lậu phải là cơ quan giữ vai trò tham mưu nòng cốt trong việc phối hợp với các ngành khác. Còn một vấn đề quan trọng nữa chưa thực sự được chú ý, đó là khi Phủ đưa ra những nghị định; các Bộ ngành, các cơ quan chức năng đưa ra những Quyết định, thông tư hướng dẫn... mà Chính phủ, Bộ ngành, các cơ quan chức năng... cho rằng đó là những chính sách có thể giúp kinh tế phát triển, môi trường kinh doanh thông thoáng thì nên có sự tham khảo ý kiến của Tổng cục Hải quan. Vì Hải quan sẽ là cơ quan biết nhiều hơn hết chính sách đó thực sự giúp được kinh tế phát triển hay “giúp” cho buôn lậu gia tăng. Hải quan đặc biệt là bộ phận chống buôn lậu cũng sẽ biết cách phải sửa đổi chính sách thế nào cho hợp lý hơn. Tránh trường hợp đưa ra những chính sách kéo theo phiền hà, ví dụ đơn cử như vụ xe ô tô nhập miễn thuế vào Lao Bảo rồi có tình trạng tiêu thụ trong nội địa, để khắc phục trường hợp như vậy, các cơ quan chức năng ở đó lại đưa thêm một quy định là các xe biển Lao Bảo chỉ được đi công tác tối đa 1 tuần. Đó là điều hết sức nực cười, gây ảnh hưởng tới các doanh nghiệp mua xe về với mục đích sử dụng thực sự, họ không làm sai nhưng vì có những người buôn lậu mà họ bị ảnh hưởng, bị gây phiền hà (vì những chuyến công tác ra bắc vào nam thì đâu phải 1 giới hạn nhất định thời gian là về được, chẳng nhẽ lại cố về qua LB trình diện rồi đi tiếp sao?) Sự phối hợp giữa các bộ phận, các cơ quan chức năng khác nhau không đơn thuần là những sự phối hợp trên văn bản, phải thực sự triển khai trên thực tế. d. Cần có cơ chế tài chính thích hợp cho lực lượng chống buôn lậu Hiện tại, định mức kinh phí chống buôn lậu hiện còn quá thấp. Đại tá Lê Văn Hà, Phó Cục trưởng C15, Bộ Công an nêu ví dụ: trong việc khởi tố hành vi buôn bán gỗ Sưa ở Bắc Ninh, thì riêng mức kinh phí giám định 33 mẫu gỗ phải mất tới 100 triệu đồng. Rồi việc khởi tố điều tra vụ buôn lậu 103 container gỗ trắc ở thành phố Hồ Chí Minh, thì kinh phí vẫn chuyển gỗ lên bờ do đối tượng vi phạm vứt xuống sông cộng với tiền lưu kho, lưu bãi cũng lên tới hàng trăm triệu đồng… Trong khi đó kinh phí điều tra một năm… chỉ được cấp 800 triệu đồng là quá thấp. Còn Phó Tổng cục Trưởng Tổng Cục Hải quan, ông Vũ Ngọc Anh cho biết: Hải quan là lực lượng chống buôn lậu ở mọi địa bàn, nhưng do không đủ kinh phí mua nhiên liệu, nên nhiều khi xuồng của Hải quan chỉ nằm ở căn cứ… chờ tin báo. Chống buôn lậu trên tuyến biển, các lực lượng nói chung rất cần được tập luyện thường xuyên. Nhưng do kinh phí mua nhiên liệu mà Bộ Tài chính quy định cho xuồng chuyên dụng hiện nay quá thấp, nên hầu như tàu, xuồng của lực lượng hải quan chỉ nằm tại căn cứ. Khi nào có thông tin về buôn lậu trên biển thì mới xuất kích. Như vậy hiệu quả của những chuyên án đó khó có thể cao được. Cũng khó khăn về kinh phí chống buôn lậu, nhưng tỉnh Quảng Ninh lại chủ động xuất ngân sách tỉnh. Trong lúc chờ kinh phí của cơ quan Trung ương, thì UBND tỉnh đề xuất với HĐND tỉnh ra nghị quyết hỗ trợ kinh phí cho những chiến dịch cụ thể và bổ sung kinh phí mua sắm trang thiết bị, phương tiện, xăng dầu cho lực lượng chồng buôn lậu. Năm 2007, số tiền phạt mại và tịch hàng hoá buôn lậu của tỉnh lên tới 136 tỉ đồng, tăng 12% so với năm 2006. Từ thực tế vừa nêu, bà Nhữ Thị Hồng Liên, Phó Chủ tịch UBND, kiêm Trưởng Ban Chỉ đạo 127 tỉnh Quảng Ninh đề xuất: “Chúng tôi kiến nghị với Chính phủ sớm thành lập quỹ chống buôn lậu. Mục đích là để tăng cường tính chủ động cho địa phương để điều chỉnh”. Thứ trưởng Bộ Công thương - Nguyễn Cẩm Tú, kiêm Phó Ban Chỉ đạo 127 Trung ương cho biết, để giải quyết các khó khăn trong công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại trong thời gian tới các bộ, ngành liên quan sẽ xây dựng “Chương trình Quốc gia Chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại” từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2015. Trong đó có việc từng bước sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành theo thẩm quyền. Đồng thời đề nghị Chính phủ kiến nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho phép tái lập “Quỹ chống các hành vi kinh doanh trái pháp luật”. Nhưng điều mà các ngành và địa phương mong muốn khắc phục những khó khăn vừa nêu là phải có lộ trình dứt điểm, tránh tình trạng “năm nào cũng kiến nghị giống nhau”. e. Cần chú trọng công tác hợp tác quốc tế Đây là vấn đề thường được ít nói đến nhất về các giải pháp để hoạt động chống buôn lậu có hiệu quả hơn. Thực ra Việt Nam có một thái độ khá dè dặt trong vấn đề hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hải quan. Những lý do chủ yếu nằm ở chính sách bảo hộ trong nước, sự lo ngại trong đảm bảo an ninh kinh tế chính trị... nên việc hợp tác chưa thực sự đi sâu vào hiệu quả, mà còn mang tính chất nửa vời, và trên văn bản giấy tờ. Vấn đề là phải nâng cao khả năng hội nhập trong ngành, nâng cao khả năng hợp tác quốc tế, chú trọng cả việc học hỏi các cách thức chống buôn lậu của các nước. Chống buôn lậu tại Trung Quốc có một số cách thức khiến chúng ta có thể học tập là việc họ thông báo các số điện thoại của Tổng cục hải quan và Hải quan các khu vực khắp đất nước giúp nhân dân thông báo về gian lận giá trị hàng hoá. Hải quan hoan nghênh tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tôn trọng pháp luật, hành động có trách nhiệm cao hơn đối với đất nước và mọi người, tự bảo vệ hoạt động kinh doanh hợp pháp của mình, dũng cảm đứng lên chống lại các hoạt động trái pháp luật, trốn thuế, gian lận giá trị hàng hoá. Tóm lại Nhiệm vụ chống buôn lậu không phải chỉ của các cơ quan chức năng mà đó là nhiệm vụ của toàn dân, trong đó Đảng cộng sản Việt Nam là người đi đầu. Chính vì vậy để có được những biện pháp chống buôn lậu mang lại hiệu quả, thì công tác chống buôn lậu phải được thực hiện toàn diện từ trung ương đến địa phương. Trong đó việc nâng cao năng lực, khả năng của các lực lượng đi đầu trong hoạt động chống buôn lậu là hết sức quan trọng, đặc biệt là Cục Điều tra chống buôn lậu cần phải có những giải pháp mạnh mẽ hơn nữa để đạt hiệu quả cao hơn trong cuộc chiến chống buôn lậu. KẾT LUẬN Buôn lậu và chống buôn lậu đang đặt ra những vấn đề hết sức cấp bách và sống còn của bình ổn chính trị, an ninh kinh tế của nước nhà. Buôn lậu gây nên những nguy cơ nghiêm trọng nên việc nhận thức được tầm quan trọng của công tác chống buôn lậu (không phải là việc của riêng ai mà là việc của toàn dân) là điều kiện tiên quyết để chống buôn lậu đạt được hiệu quả. Ngành Hải quan, Cục Điều tra chống buôn lậu nói riêng với công tác chống buôn lậu trực tiếp là một trong những nhiệm vụ chủ yếu, cần phải được tăng cường về pháp lý, lực lượng, trang bị và cần chủ động tổ chức, triển khai tốt công tác chống buôn lậu với mục đích đảm bảo an ninh kinh tế và an ninh chính trị của quốc gia, góp phần tích cực vào sự phát triển và phồn vinh của đất nước. Trước mắt trong năm 2008 công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan nói chung và Cục Điều tra chống buôn lậu nói riêng phải có biện pháp góp phần kiềm chế lạm phát, kiểm soát tăng giá phục vụ việc đẩy mạnh xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu đảm bảo các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2008 do Quốc Hội và Chính phủ xác định. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ luật Hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Chống buôn lậu và gian lận thương mại, PGS.Lê Thanh Bình, NXB Chính trị quốc gia 1998 Quyết định số 72/2006/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài Chính ban hànhngày 13/02/2006 Quyết định số 75,76,77,78/QĐ-TCHQ của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ban hành ngày 08/01/2007 Quyết định số 45,46,47/QĐ-TCHQ của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ban hành ngày 08/01/2007 Báo cáo công tác năm 2005 và phương hướng công tác năm 2006 của Cục Điều tra chống buôn lậu Báo cáo tổng kết công tác năm 2006 và phương hướng công tác năm 2007 của Cục Điều tra chống buôn lậu Báo cáo tổng kết công tác Kiểm soát Hải quan năm 2007 và phương hướng nhiệm vụ năm 2008 Tài liệu chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ: “Chống buôn lậu qua biên giới” của Tổng cục Hải quan ban hành năm 1996 Tài liệu lưu hành nội bộ: “Hải quan Việt Nam những sự kiện(1945-1995)” ban hành năm 1995 Website Tổng cục Hải quan: www.customs.gov.vn www.chinhphu.vn www.mof.gov.vn www.moi.gov.vn www.tienphongonline.com.vn www.laodong.com.vn www.vnexpress.net Tài liệu tham khảo còn có một số Nghị định, thông tư, báo chí khác... MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11485.doc
Tài liệu liên quan