Mục lục
Lời Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ qua giai đoạn đàm phán 5 năm đã được hai bên ký kết, hoàn thành thủ tục pháp lý cần thiết và có hiệu lực từ 10/12/2001. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có phạm vi rộng và có nhiều vấn đề mới. Đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, những qui định đưa ra không chỉ mới đối với Việt Nam mà còn mới và phức tạp đối với hệ thống qui định thương mại quốc tế nói chung. Trên cơ sở đó việc đánh giá tác
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1355 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tác động của hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa kỳ đến dịch vụ tài chính Kế toán tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đối với ngành dịch vụ tài chính của Việt Nam là rất cần thiết, từ đó xây dựng kế hoạch thực hiện Hiệp định cũng như xây dựng hệ thống chính sách mới phù hợp với các luật lệ, qui định được thoả thuận trong Hiệp định.
Ngoài ra, Việt Nam đang trong tiến trình ra nhập WTO mà các vấn đề được qui định trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ còn phản ánh trực tiếp các qui định trong hệ thống thương mại đa phương (WTO). Do đó, nghiên cứu này cũng góp phần phục vụ cho quá trình ra nhập WTO của Việt Nam nói chung.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu một số các lĩnh vực dịch vụ tài chính ở Việt Nam được cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, đó là các dịch vụ sau:
1. Dịch vụ bảo hiểm
2. Dịch vụ kiểm toán, kế toán
3. Dịch vụ tư vấn thuế.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài áp dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích và so sánh, ngoài ra còn có các số liệu thực tiễn từ các đối tượng trực tiếp chịu ảnh hưởng.
4. Kết cấu khoá luận:
*Tên đề tài: “ Tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đến dịch vụ tài chính kế toán tại Việt Nam”.
*Kết cấu: Khoá luận gồm 84 trang, ngoài lời mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Khoá luận kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Khái quát về Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ
Chương II: Đánh giá tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
đến các dịch vụ tài chính.
Chương III: Các giải pháp nhằm tuân thủ các cam kết trong Hiệp định
Trong đó:
Chương I: Nêu khái quát bối cảnh của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và cấu trúc của Hiệp định và các lĩnh vực được điều chỉnh.
Chương II: Nêu đánh giá tác động của Hiệp định đối với các dịch vụ phân tích, đây là phần quan trọng của đề tài. Tuy nhiên, đề tài sẽ thuyết phục, rõ ràng hơn khi có phần thực trạng thị trường các dịch vụ này trước khi Hiệp định có hiệu lực.
Chương III: Nêu ra các giải pháp, khuyến nghị cần thay đổi cả về các văn bản pháp luật và cả hoạt động của các doanh nghiệp để phù hợp với các cam kết trong Hiệp định.
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo, thạc sĩ Bùi Ngọc Sơn đã tận tình hướng dẫn tôi về cách thức nghiên cứu và đóng góp nhiều ý kiến về bài khoá luận. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các đơn vị trong Bộ Tài chính, nơi tôi thực tập, đã giúp đỡ tôi có được tài liệu. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.
chương I:khái quát về hiệp định thương mại Việt nam – hoa kỳ
I. Vài nét về quan hệ thương mại Việt nam - Hoa kỳ
1. Vài nét về quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ
Sau 17 năm thực hiện lệnh cấm vận, từ tháng 12/1992 Chính phủ Hoa Kỳ đã từng bước điều chỉnh quan hệ với Việt Nam trên nhiều phương diện, cụ thể như bằng quyết định của Tổng thống cho phép các doanh nghiệp Mỹ mở văn phòng đại diện tại Việt Nam, tuyên bố ngừng phản đối các nước giúp Việt Nam trả nợ cho IMF, chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam (3/2/1994), bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam (11/7/1995) và hai bên thoả thuận đàm phán một Hiệp định thương mại song phương kể từ 1996. Sau năm 1998, hàng năm tổng thống Mỹ gia hạn miễn áp dụng luật bổ sung Jackson - Vanik với Việt Nam.
Xác định lấy thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại làm trọng tâm quan hệ giữa hai nước, trong 7 năm kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, hai bên đã thoả thuận về xử lý, cơ cấu lại số nợ cũ (1997), thiết lập quan hệ quyền tác giả (1997), hoạt động của Tổ chức đầu tư tư nhân nước ngoài – OPIC (1998), ký kết hai Hiệp định với ngân hàng xuất nhập khẩu Mỹ (EXIMBANK), bảo lãnh khung và khuyến khích các dự án đầu tư của Mỹ vào Việt Nam (1999). Trong thời gian qua, Mỹ là một trong những bạn hàng và là nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Nhờ cố gắng của cả hai bên, quan hệ về kinh tế và thương mại giữa hai nước đều đã có những bước phát triển đáng khích lệ.
2. Sự cần thiết phải có Hiệp định thương mại song phương
Tuy hai nước đã phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế thương mại, những kết quả đạt được vẫn chưa tương xứng với mong muốn của nhân dân hai nước. Do đó cả hai nước đều mong đạt được một thoả thuận song phương bằng Hiệp định với mục đích là Hiệp định thương mại này sẽ đảm bảo cho những luật lệ thương mại được rõ ràng, kích thích và làm gia tăng thương mại giữa hai nước.
Ngoài ra, theo luật của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ không thể trao quy chế Quan hệ thương mại bình thường với những nước đang trong thời kỳ chuyển tiếp như Việt Nam mà không có Hiệp định thương mại song phương (gọi tắt là BTA). Để có cái nhìn xác đáng về bối cảnh đàm phán, ký kết Hiệp định, chúng ta hãy lần lượt xem xét quan điểm của phía Việt Nam và phía Mỹ đối với vai trò của Hiệp định thương mại.
- Về phía Việt Nam: Trong bối cảnh đàm phán sau 21 năm chiến tranh chấm dứt, sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều biến đổi tích cực.
+Trên cơ sở đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng quan hệ đa phương, đa dạng với tất cả các nước trên thế giới và Nghị quyết Đại hội Đảng VIII về “ đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước..., đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”, trong thập kỷ 90 Việt Nam đã chủ động tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác kinh tế á - Âu (ASEM) và đẩy mạnh quan hệ quan hệ hợp tác song phương sâu rộng với nhiều nước.
+ Việc ký kết Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ nằm trong quá trình nước ta từng bước hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, nhằm mở rộng thị trường, có thêm đối tác, tranh thủ vốn và công nghệ từ bên ngoài phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước trong bối cảnh mới.
Tại sao Hiệp định thương mại sẽ có lợi cho Việt Nam?
* Tăng trưởng kinh tế:
Các ngành công nghiệp mới sẽ phát triển nhảy vọt để đáp ứng nhu cầu của thị trường Hoa Kỳ khổng lồ. Các dự báo trình lên Ngân hàng thế giới cho rằng Việt Nam có thể tăng số lượng hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ lên gần tám trăm triệu đô la. Ngoài ra còn có tác động tích cực khác đối với nền kinh tế Việt Nam bằng cách khuyến khích cạnh tranh và các cải cách trong nước kèm theo, Hiệp định sẽ giảm chi phí và khuyến khích hiện đại hoá.
* Việc làm:
Các ngành công nghiệp mới sẽ tạo ra nhiều việc làm. Hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện vẫn là một phần nhỏ trong nền kinh tế. Do đó, tiềm năng phát triển sẽ rất lớn.
* Giáo dục và đào tạo:
Người lao động Việt Nam sẽ được tiếp xúc với công nghệ và phương pháp quản lý tiến tiến. Họ sẽ có nhiều cơ hội hơn về đào tạo nghề cũng như phát triển nghề nghiệp.
* Đầu tư nước ngoài:
Việc ký kết Hiệp định thương mại song phương sẽ thu hút sự quan tâm của toàn thế giới và nó sẽ được coi là cam kết hội nhập kinh tế của Việt Nam. Việt Nam sẽ giành được thêm cơ hội tiếp cận với nguồn tài chính, phương thức quản lý hiện đại, thông tin thị trường và công nghệ tiên tiến. Hiệp định thương mại song phương sẽ giúp tạo lập một sân chơi công bằng cho tất cả các doanh nghiệp tận dụng thị trường ASEAN rộng lớn.
* Công nghệ:
Đầu tư nước ngoài và sự cải thiện về bảo vệ sở hữu trí tuệ được tăng cường sẽ khuyến khích công nghệ đổ vào Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ sử dụng công nghệ hiện đại hơn trong các qui trình sản xuất.
* Phát triển nông thôn:
Hiệp định thương mại song phương sẽ khuyến khích nông nghiệp và tăng thu nhập nghề nông. Ví dụ: hạ thấp mức thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu sản xuất thức ăn gia súc tăng cường sản xuất và hạ giá thành sản phẩm gia súc. Xuất khẩu nông sản sẽ tăng.
* Chất lượng cuộc sống sẽ được nâng cao:
Giống như mọi quốc gia tham gia mậu dịch khác, ở Việt Nam, khi thu nhập tăng thì tỷ lệ chi phí mua hàng hoá và dịch vụ sẽ giảm đối với một người có thu nhập bình thường. Ví dụ: 10 kg gạo tương đương với 20% thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam nhưng chỉ là 3% thu nhập bình quân đầu người ở Thái Lan. Thu nhập từ thuế sẽ tăng lên khi buôn bán tăng lên.
- Về phía Hoa Kỳ: Kinh tế và khoa học kỹ thuật của Hoa Kỳ luôn phát triển ở trình độ cao nhất thế giới. Đồng USD của Hoa Kỳ luôn là đồng tiền mạnh nhất, chi phối hoạt động mậu dịch thế giới và các nền tài chính tiền tệ quốc tế và là một thị trường lớn hàng đầu thế giới.
- Về bối cảnh quốc tế: Tổ chức thương mại thế giới WTO ra đời đánh dấu một sự biến đổi lớn của tiến trình tự do hoá thương mại thế giới. Đối tượng của thương mại không chỉ giới hạn ở hàng hoá vật chất mà còn bao hàm cả các sản phẩm thuộc sở hữu trí tuệ và dịch vụ. Chính vì vậy, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ tuy là Hiệp định song phương nhưng được đàm phán, ký kết trên nền tảng đa phương nên nội dung của Hiệp định được mở rộng hơn so với các Hiệp định song phương trước đây Việt Nam đã từng ký kết và tuân thủ nguyên tắc của WTO.
Trong bối cảnh như vậy, việc Việt Nam đàm phán ký kết Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ hứa hẹn sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cả hai phía nhưng đồng thời cũng đặt Việt Nam trước những thách thức mới về việc đổi mới, cải cách trong nước để thực hiện các cam kết trong Hiệp định thương mại song phương và xu hướng đa phương hóa các cam kết song phương, tiến tới gia nhập WTO.
II. Kết cấu hiệp định thương mại việt nam - hoa kỳ và những nội dung chính
Kể từ ngày 10/12/2001, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ bắt đầu có hiệu lực, đánh dấu một giai đoạn mới trong việc phát triển kinh tế thương mại giữa hai nước. Do Hiệp định được xây dựng trên các tiêu chuẩn của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), nên tuy gọi là Hiệp định thương mại, song nội dung bao gồm cả 4 lĩnh vực là: Thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư , quyền sở hữu trí tuệ. Phù hợp với thông lệ quốc tế hiện đại sau khi WTO đi vào hoạt động từ 1/1/1995, cốt lõi của các cam kết trong bản Hiệp định này là các bên dành cho nhau Quy chế tối huệ quốc (MFN), từng bước giảm thuế nhập khẩu, mở cửa thị trường cho nhau, từng bước tạo sự bình đẳng giữa các công ty trong và ngoài nước, phù hợp với yêu cầu của Chế độ đãi ngộ quốc gia (NT), bảo vệ bản quyền tác giả, sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu trí tuệ. Vì Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp, lại đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế nên Hiệp định qui định lộ trình thực hiện cam kết từ 3 - 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. Nói cách khác Hoa Kỳ chấp nhận Việt Nam có một lộ trình chuẩn bị mở cửa dài ngắn tuỳ thuộc theo từng lĩnh vực.
Việc ký kết và thực thi Hiệp định thể hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế và chính sách nhất quán về chủ động hội nhập của Đảng là Nhà nước ta.
1. Kết cấu Hiệp định
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ gồm 7 chương, 72 điều, kèm theo 9 phụ lục và thư trao đổi giữa Đại diện thương mại Hoa Kỳ và Bộ trưởng thương mại Việt Nam. Trong đó:
Chương I: Về thương mại hàng hoá gồm 9 điều và 5 phụ lục chính
Chương II: Về quyền sở hữu trí tuệ gồm 18 điều
Chương III: Về thương mại dịch vụ gồm 11 điều và 2 phụ lục chính
Chương IV: Về các vấn đề liên quan đến sự phát triển của việc đầu tư gồm 15 điều và 2 phụ lục chính
Chương V: Về việc tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh thương mại gồm 3 điều
Chương VI: Về vấn đề minh bạch hoá các chính sách, chế độ của mỗi bên và quyền khiếu nại của mỗi bên gồm 3 điều
Chương VII: Về việc thi hành và thực hiện Hiệp định gồm 8 điều
2. Khái quát một số nội dung chính
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã được ký kết dựa trên một số nguyên tắc sau:
- Tôn trọng độc lập chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước, bình đẳng cùng có lợi;
- Việt Nam tôn trọng các luật lệ và tập quán quốc tế, từng bước điều chỉnh, bổ sung các luật lệ, cơ chế của mình theo hướng đó, phù hợp với mức độ phát triển của nền kinh tế, hoàn cảnh, điều kiện của Việt Nam;
- Việt Nam chấp nhận và tuân thủ các qui định của GATT/WTO nhưng sẽ thực hiện từng bước phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế có vận dụng những ngoại lệ dành cho một nước đang phát triển ở trình độ thấp;
- Ghi nhận “Việt Nam là một nước đang phát triển, có trình độ phát triển thấp, đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế và đang tiến hành các bước hội nhập”, do đó Việt Nam có quyền được hưởng sự hỗ trợ của các nước phát triển (trong đó có Hoa Kỳ). Những nội dung mà Hoa Kỳ không đặt ra đối với các nước khác thì không được đòi hỏi Việt Nam phải đáp ứng. Ngoài ra, Mỹ ủng hộ Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Trên cơ sở một số các nguyên tắc đã được hai bên chấp thuận, Hiệp định này đã tập trung vào một số nội dung chính sau:
Chương I: Về thương mại hàng hoá
Hiệp định này theo sát nghĩa vụ của các thành viên WTO liên quan đến những hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với thương mại hàng hoá nhằm mở rộng và thúc đẩy tự do hoá thương mại hàng hoá. Theo đó Việt Nam cho phép tất cả các công ty Việt Nam, và dần dần là các công ty Hoa Kỳ quyền tự do xuất, nhập từ phạm vi biên giới của mình. Giảm 244 dòng thuế đối với hàng nhập khẩu công nghiệp và nông nghiệp từ Mỹ, dần dần bỏ các biện pháp phi thuế quan và tuân thủ các tiêu chuẩn của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong việc áp dụng thủ tục hải quan, cấp giấy phép nhập khẩu, doanh nghiệp thương mại Nhà nước, các tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp kiểm dịch và vệ sinh thực vật.
Về hàng dệt may, Mỹ và Việt Nam tiến hành đàm phán, ký kết một Hiệp định về hàng dệt may riêng. Ngoài ra, Mỹ sẽ xem xét việc dành cho Việt Nam hưởng qui chế thương mại bình thường vĩnh viễn sẽ gắn với quá trình Việt Nam đàm phán ra nhập WTO.
Chương II: Về quyền sở hữu trí tuệ
Chương này được xây dựng trên mô hình của Hiệp định về những khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ của WTO (Hiệp định TRIPS) và bao gồm những tiêu chuẩn tối thiểu đối với việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, cùng với những vấn đề khác như sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá và quyền tác giả. Trong nhiều trường hợp chương này phản ánh những thay đổi của sở hữu trí tuệ trên thế giới diễn ra kể từ khi Hiệp định TRIPS được ký kết. Tuy vậy, chương này không sao chép lại tất cả các nghĩa vụ trong Hiệp định TRIPS.
Việt Nam đồng ý thi hành các tiêu chuẩn WTO về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ sau 18 tháng kể từ khi Hiệp định có hiệu lực và áp dụng thêm các biện pháp trong một số lĩnh vực khác như bảo vệ tín hiệu vệ tinh.
Chương III: Về thương mại dịch vụ
Chương này của Hiệp định đề cập đến thương mại dịch vụ dựa theo mô hình của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ của WTO (GATS). Trong Hiệp định thương mại, Hoa Kỳ dành cho thành viên của các tổ chức thương mại thế giới (WTO) như được thể hiện trong lộ trình của Hiệp định GATS. Việt Nam lần đầu tiên đồng ý tự do hoá một loạt các ngành dịch vụ trong đó bao gồm các dịch vụ viễn thông, kế toán, ngân hàng, phân phối và các ngành dịch vụ khác.
Hai bên cho phép các cá nhân và các công ty bên kia tham gia vào thị trường dịch vụ của mình theo nguyên tắc tối huệ quốc. Tuy nhiên, do đây là một số lĩnh vực mới đối với Việt Nam nên ta chỉ đưa ra cam kết theo lộ trình đối với 53 trong số 155 phân ngành dịch vụ theo qui định của WTO, trong đó có lộ trình dài nhất là 10 năm trong lĩnh vực ngân hàng.
Chương IV: Về các vấn đề liên quan đến sự phát triển của việc đầu tư
Hiệp định này bao gồm một tập hợp các qui định thúc đẩy đầu tư qua biên giới giữa hai lãnh thổ, tuy nhiên hai bên bảo lưu đối với một số qui định của Hiệp định. Chương này điều chỉnh các vấn đề như đối xử quốc gia, qui chế tối huệ quốc, bảo hộ đối với các dự án đầu tư theo HIệp định, loại bỏ các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại theo qui định của Hiệp định TRIMS của WTO theo lộ trình 5 năm và một số ngoại lệ khác, theo đó Việt Nam sẽ bỏ dần chế độ cấp giấy phép đầu tư đối với nhiều ngành, bỏ yêu cầu về tỉ lệ nội địa hoá và tỉ lệ xuất khẩu sản phẩm sau 5 năm.
Chương V: Về việc tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh thương mại
Hiệp định bao gồm một tập hợp các cam kết phát triển quan hệ đầu tư và tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh đối với hàng hoá và dịch vụ. Các cam kết này thúc đẩy việc tạo ra các cơ hội kinh doanh có giá trị cho các công ty và nhà đầu tư Hoa Kỳ và Việt Nam quan tâm đến thị trường của nhau. Cả hai quốc gia đồng ý cho phép các hoạt động như quảng cáo, nghiên cứu thăm dò thị trường, và bán trực tiếp hàng hoá sản phẩm đến người tiêu dùng. Tương tự như vậy, cùng với các vấn đề khác, các đơn vị kinh doanh có thể nhập khẩu các thiết bị văn phòng, dự trữ hàng mẫu và phụ tùng thay thế, và tiếp cận các tiện ích công cộng.
Chương VI: Về vấn đề minh bạch hoá các chính sách, chế độ của mỗi bên và quyền khiếu nại của mỗi bên
Hai bên nhất trí thực hiện một chế độ công khai, minh bạch, tôn trọng đối với các nội dung đã được thoả thuận bằng cách đảm bảo rằng các dự luật, qui định, qui chế sẽ được tham khảo ý kiến đầy đủ của công chúng và những tài liệu này sẽ được công bố rộng rãi. Để thực hiện yêu cầu này, các bên chỉ định một số tạp chí chính thức đăng tất cả các biện pháp có tính áp dụng chung và điều hành các biện pháp đó một cách thống nhất, vô tư và hợp lý. Đồng thời, các bên duy trì các các cơ quan tài phán hành chính và tư pháp nhằm xem xét một cách nhanh chóng các quyết định hành chính liên quan đến Hiệp định, và các bên cho phép quyền khiếu kiện các quyết định bất lợi. Cuối cùng các bên đồng ý đảm bảo rằng tất cả các thủ tục cấp phép nhập khẩu được thực hiện phù hợp với các chuẩn mực được quốc tế công nhận của Hiệp định về thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu của WTO. Tóm lại Hiệp định dựa trên các nghĩa vụ của các nước thành viên WTO về các luật lệ, qui định, và thủ tục hành chính minh bạch công khai rõ ràng, từ đó củng cố khả năng có thể dự đoán trước và thúc đẩy hoạt động thương mại.
Chương VII: Về việc thi hành và thực hiện Hiệp định
Những điều khoản chung liên quan đến các vấn đề áp dụng cho tất cả các chương của Hiệp định, như các giao dịch và chuyển tiền qua biên giới, các qui định về an ninh quốc gia, các ngoại lệ chung, thuế, thời hạn của Hiệp định, và thực thi Hiệp định.
III. Những nội dung của hiệp định liên quan đến dịch vụ tài chính kế toán.
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đề cập đến lĩnh vực thương mại dịch vụ bởi vì Hiệp định này được đàm phán dựa vào củng cố tiêu chuẩn từ các Hiệp định của WTO, cho nên giữa các văn bản qui định về thương mại dịch vụ của WTO và Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có rất nhiều điểm giống nhau. Hơn thế nữa vai trò của hoạt động thương mại dịch vụ ngày càng tăng đối với sự phát triển và mở rộng hoạt động thương mại. Tuy nhiên các ngành dịch vụ mà Việt Nam cam kết với Hoa Kỳ còn rất nhỏ bé, khoảng 50 ngành dịch vụ trong đó có dịch vụ bảo hiểm, kiểm toán và tư vấn thuế.
1. Đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm:
Theo tinh thần của Hiệp định nêu trong phụ lục G thì các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ được phép kinh doanh các loại hình bảo hiểm sau: Bảo hiểm nhân thọ và tai nạn (trừ bảo hiểm sức khoẻ); Bảo hiểm phi nhân thọ; Tái bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm; Các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động bảo hiểm (bao gồm dịch vụ môi giới và đại lý). Các qui định trong phụ lục cũng khuyến khích phía Hoa Kỳ kinh doanh các loại hình dịch vụ bảo hiểm: Dịch vụ bảo hiểm cho các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và người nước ngoài tại Việt Nam; Các dịch vụ tái bảo hiểm; Các dịch vụ bảo hiểm trong vận tải quốc tế; Các dịch vụ tư vấn, giải quyết khiếu nại, đánh giá rủi ro.
Cũng ở phụ lục G của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, sự hoạt động các cơ sở dịch vụ bảo hiểm có vốn đầu tư của Hoa Kỳ có những qui định và hạn chế đáng chú ý sau đây:
- Việc thành lập chi nhánh dịch vụ bảo hiểm của các công ty Hoa Kỳ tại Việt Nam phụ thuộc vào việc tiến hành xây dựng Luật kinh doanh bảo hiểm;
- 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực được lập liên doanh với với đối tác được phép kinh doanh dịch vụ bảo hiểm của Việt Nam. Phần góp vốn của Hoa Kỳ không quá 50% vốn pháp định của liên doanh, 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực được lập công ty 100% vốn Hoa Kỳ;
- Các công ty cung cấp dịch vụ có vốn đầu tư Hoa Kỳ không được kinh doanh các dịch vụ đại lý bảo hiểm ;
- Các công ty cung cấp dịch vụ có vốn đầu tư Hoa Kỳ không được kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc là bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; bảo hiểm trong xây dựng và lắp đặt; bảo hiểm đối với công trình dầu khí và các công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường. Hạn chế này sẽ được bãi bỏ đối với liên doanh là 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực, và đối với công ty 100% vốn Hoa Kỳ là 6 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực;
- Đối với việc tái bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh, công ty 100% vốn Hoa Kỳ và chi nhánh các công ty bảo hiểm bảo hiểm Hoa Kỳ phải tái bảo hiểm với công ty Tái bảo hiểm Việt nam một tỷ lệ tối thiểu là 20% và 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực hạn chế này sẽ được bãi bỏ.
2. Đối với lĩnh vực kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế
Phụ lục G của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ nêu rõ:
- Các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ được phép thực hiện các dịch vụ kiểm toán và kế toán trên lãnh thổ Việt Nam, không bị các giới hạn về khả năng tiếp cận thị trường;
- Được hưởng nguyên tắc đối xử quốc gia;
- Cho phép thành lập công ty kiểm toán và dịch vụ kế toán 100% vốn Hoa Kỳ, số lượng các công ty được phép hoạt động do Bộ tài chính Việt Nam quyết định căn cứ vào tình hình phát triển của thị trường tài chính Việt Nam. Tuy nhiên, không cho phép các công ty Mỹ được lập các chi nhánh hoạt động kiểm toán tại Việt Nam;
- Các công ty dịch vụ kiểm toán và kế toán của Hoa Kỳ để được cấp giấy phép phải có ít nhất 5 người (người nước ngoài hay Việt Nam) có chứng chỉ kiểm toán viên do Bộ tài chính Việt Nam cấp hoặc do các tổ chức nghề nghiệp nước ngoài cấp được Bộ tài chính Việt Nam thừa nhận, và đã đăng ký hành nghề kiểm toán ở Việt Nam trên 1 năm;
- Trong vòng 2 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các công ty kiểm toán có vốn đầu tư Hoa Kỳ, sau khi được cấp giấy phép, chỉ được cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các dự án có sự tài trợ của nước ngoài ở Việt Nam, sau đó không giới hạn đối tượng dịch vụ.
Cũng tại phụ lục G của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có qui định về việc công ty của Hoa Kỳ được phép thực hiện các dịch vụ tư vấn về thuế cho các đối tượng trên lãnh thổ Việt Nam như sau:
- Về nguyên tắc các công ty của Mỹ được phép thực hiện các dịch vụ tư vấn về thuế ở Việt Nam. Tuy nhiên, sự xét duyệt theo từng trường hợp và số lượng sẽ do Bộ tài chính quyết định căn cứ vào tình hình phát triển của thị trường Việt Nam;
- Trong vòng 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các công ty cung cấp dịch vụ có vốn đầu tư Hoa Kỳ chỉ được cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các dự án có sự tài trợ của nước ngoài ở Việt Nam. Sau đó, không giới hạn về đối tượng dịch vụ.
Trong số các ngành, nghề đầu tiên được các Hiệp định, Thoả thuận đa biên như Hiệp định chính về thương mại dịch vụ (GATS) trong khuôn khổ WTO, và Hiệp định khung về dịch vụ của ASEAN (AFAS) xem xét là nghề kiểm toán, kế toán và tư vấn thuế. Nghề kiểm toán, kế toán và tư vấn thuế Việt Nam cũng không đứng ngoài xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay. Lịch trình hội nhập trong ngành dịch vụ kế toán và kiểm toán (kể cả tư vấn tài chính) do Chính phủ thông qua cũng được chia làm 3 giai đoạn (cụ thể:...2000; 2001-2010; 2011-2020) với mục tiêu cuối cùng là tiến tới hội nhập hoàn toàn vào năm 2020.
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được hai nước thông qua và sẽ sớm đi vào thực thi bao gồm các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ kiểm toán - kế toán và tư vấn thuế của hai nước. Vấn đề đặt ra hiện nay đối với các cơ quan hoạch định chính sách và quản lý là phải đánh giá một cách chính xác những tác động tích cực và tiêu cực và tối đa hoá tác động tích cực.
Các cam kết về dịch vụ của Việt Nam trong Hiệp định được thể hiện tại Phụ lục G (Lộ trình các cam kết dịch vụ cụ thể - Việt Nam), cụ thể các cam kết về dịch vụ kế toán, kiểm toán:
Bảng 1: Cam kết của Việt Nam về dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế trong Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
các lĩnh vực-ngành
các giới hạn về tiếp cận thị trường
Các giới hạn về đối xử quốc gia
I. Các dịch vụ kinh doanh
A. Các dịch vụ nghề nghiệp
(b) Các dịch vụ kế toán,kiểm toán (PCPC 862)
(1) Không hạn chế
(2) Không hạn chế
(3) Không hạn chế trừ việc lập chi nhánh và:
Trong vòng 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực việc cấp giấy phép sẽ được cấp duyệt theo từng trường hợp và số lượng sẽ do Bộ tài chính quyết định căn cứ vào tình hình phát triển của thị trường Việt Nam.
Các công ty dịch vụ kiểm toán và kế toán của Hoa Kỳ để được cấp giấy phép phải có ít nhất 5 người (người nước ngoài hay Việt Nam) có chứng chỉ kiểm toán viên do Bộ tài chính Việt Nam cấp hoặc do các tổ chức nghề nghiệp nước ngoài cấp được Bộ tài chính Việt Nam thừa nhận, và đã đăng ký hành nghề kiểm toán ở Việt Nam trên 1 năm.
Trong vòng 2 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các công ty kiểm toán có vốn đầu tư Hoa Kỳ, sau khi được cấp giấy phép, chỉ được cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các dự án có sự tài trợ của nước ngoài ở Việt Nam.
(4) Chưa cam kết ngoài các cam kết nền chung
(1) Không hạn chế
(2) Không hạn chế
(3) Không hạn chế
(4) Chưa cam kết ngoài các cam kết nền chung
Các dịch vụ tư vấn về thuế (CPC 863)
(1) Không hạn chế
(2) Không hạn chế
(3) Không hạn chế trừ việc lập chi nhánh là không được phép và:
Trong vòng 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực việc cấp giấy phép sẽ được cấp duyệt theo từng trường hợp và số lượng sẽ do Bộ tài chính quyết định căn cứ vào tình hình phát triển của thị trường Việt Nam.
Trong vòng 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các công ty cung cấp dịch vụ có vốn đầu tư Hoa Kỳ chỉ được cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các dự án có sự tài trợ của nước ngoài ở Việt Nam.
(4) Chưa cam kết ngoài các cam kết nền chung
(4) Chưa cam kết ngoài các cam kết nền chung
Trích Hiệp định thương mại Việt Mỹ
Trong đó: (1) Qui định về hình thức cung cấp qua biên giới
(2) Qui định về hình thức tiêu dùng nước ngoài
(3) Qui định về hiện diện thương mại
(4) Qui định về hiện diện thể nhân.
Như vậy, các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định mở cửa hoàn toàn đối với hình thức cung cấp dịch vụ kiểm toán - kế toán qua biên giới và tiêu dùng dịch vụ tại nước ngoài. Đối với các hình thức cung cấp dịch vụ có hiện diện thương mại, sau 3 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực sẽ bãi bỏ việc cấp giấy phép hoạt động trên cơ sở đánh giá nhu cầu của nền kinh tế, sau 2 năm sẽ bãi bỏ các hạn chế về phạm vi kinh doanh.
chương II:Đánh giá tác động của hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đến dịch vụ tài chính kế toán
I. Khuôn khổ phân tích tác động
1. Sự cần thiết phải xây dựng khuôn khổ phân tích tác động
Việc xây dựng khuôn khổ phân tích tác động sẽ cho thấy rõ hơn phạm vi phân tích tác động và điều này là rất cần thiết do tính chất nhiều mặt của các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Khuôn khổ phân tích tác động sẽ giới hạn ở một số lĩnh vực tài chính: kiểm toán - kế toán, tư vấn thuế và bảo hiểm.
Khuôn khổ phân tích tác động sẽ xác lập mối quan hệ lô-gic của quá trình gây tác động và đối tượng chịu tác động, điều này góp phần giảm thiểu tối đa những phần không được nhìn nhận và phân tích đúng mức.
2. Nội dung phân loại các khu vực chịu tác động
Đối tượng chịu tác động được phân thành 2 nhóm: nhóm nhân tố vĩ mô và nhóm nhân tố vi mô.
Nhóm các nhân tố vĩ mô: Bao gồm các đối tượng có vai trò và ảnh hưởng mang tính toàn cục. Cụ thể là: Hệ thống pháp luật, chính sách và công tác quản lý nhà nước.
Nhóm các nhân tố vi mô: Gồm các đơn vị kinh tế nhỏ nhất, đại diện cho các nhóm dân cư khác nhau trong xã hội. Cụ thể là: Doanh nghiệp tư nhân, người tiêu dùng, doanh nghiệp Nhà nước (chỉ thể hiện phần lợi ích kinh tế của Nhà nước tại các doanh nghiệp mà thôi). Các nhân tố thuộc nhóm vi mô sẽ chịu hai loại tác động là trực tiếp từ môi trường pháp lý, chính sách có thay đổi nhất định và gián tiếp thông qua điều kiện thị trường thay đổi.
II. Hiện trạng các dịch vụ bảo hiểm, kiểm toán kế toán và tư vấn thuế ở Việt Nam
1. Đối với dịch vụ bảo hiểm
1.1. Sơ lược về quá trình hình thành hệ thống pháp luật đối với ngành bảo hiểm ở Việt Nam và nội dung cơ bản của hệ thống văn bản pháp quy.
1.1.1. Sơ lược về quá trình hình thành hệ thống pháp luật đối với ngành bảo hiểm ở Việt Nam
Do tính chất nền kinh tế tập trung bao cấp nên trước năm 1993, ngành bảo hiểm Việt Nam vẫn mang tính chất bảo hiểm “Nhà nước”, từ sau năm 1993, trong giai đoạn đổi mới, bảo hiểm có vai trò quan trọng góp phần ổn định, phát triển kinh tế xã hội và đời sống nói chung. Trên cơ sở đó, ngày 18/12/1993 Chính phủ ban hành Nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm, tạo môi trường pháp lý đảm bảo cho sự phát triển ổn định của thị trường bảo hiểm Việt Nam. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên cho ngành bảo hiểm của Việt Nam với những chính sách của Nhà nước nhằm phát triển ngành bảo hiểm với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong đó doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Tuy nhiên để đáp ứng được nhu cầu phát triển thị trường bảo hiểm nhằm tạo điều kiện cho phát triển kinh tế quốc gia nói chung đã trở nên ngày càng cấp thiết, Bộ tài chính là cơ quan chủ quản của lĩnh vực bảo hiểm được chỉ đạo của Chính phủ đã dự thảo Luật kinh doanh bảo hiểm nhằm nâng cao hơn nữa hiệu lực pháp lý của các quy định quản lý ngành bảo hiểm. Tháng 12/2000, Quốc hội khoá X, Kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật kinh doanh bảo hiểm đánh dấu một bước tiến mới của hệ thống pháp lý quản lý ngành bảo hiểm.
Ngoài ra còn một số các văn bản cụ thể hóa hơn nữa Luật kinh doanh bảo hiểm như Nghị định 42/2001/NĐ - CP ngày 1/8/2001 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm; Nghị định 43/2001/NĐ-CP ngày 1/8/2001 quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; Thông tư 71/2001/TT-BTC ngày 28/8/2001 và Thông tư 72/2001/TT-BTC ngày 28/8/2001. Như vậy hệ thống văn bản của Việt Nam đối với ngành bảo hiểm đã khá hoàn chỉnh.
1.1.2. Nộ._.i dung cơ bản của hệ thống văn bản pháp quy
Nghiên cứu hệ thống Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam so sánh với các nước khác cho thấy về căn bản là có sự tương đồng.
Nhận định về vai trò của quản lý Nhà nước của Việt Nam được nêu trong Luật kinh doanh bảo hiểm “Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm; đẩy mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm; góp phần duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân;...”
Có thể nói rằng việc bảo vệ khách hàng tham gia bảo hiểm là rất cần thiết bởi vì trong quá trình hoạt động, nhiều doanh nghiệp bảo hiểm rất có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, khi đó công tác quản lý của Nhà nước ở đây là phải can thiệp ở mức độ hợp lý đồng thời phải thiết lập được hệ thống đảm bảo lợi ích của khách hàng.
Theo như Luật về bảo hiểm thì các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên cơ sở các cam kết tài chính có thời hạn mà phần lớn là các cam kết dài hạn, vì vậy để đảm bảo thực hiện được các cam kết thì bản thân các doanh bảo hiểm phải nằm trong trạng thái an toàn và bền vững. Đây cũng là mục tiêu của Nhà nước về quản lý bảo hiểm, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm phải thay đổi cách suy nghĩ từ trường hợp doanh nghiệp có thể bị phá sản và Nhà nước sẽ tiếp quản sang một cách suy nghĩ mới, đó là các doanh nghiệp bảo hiểm phải coi mình như là một thực thể kinh tế đơn thuần tức là phải chịu trách nhiệm về hoạt động của mình, và như vậy cũng phải tuân thủ quy định về phá sản và giải thể doanh nghiệp. Tuy nhiên cách nhìn nhận mới cũng đòi hỏi phải có những cơ chế phù hợp, song hành với nó để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng được bảo hiểm.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm được coi là một bộ phận của hệ thống tài chính, là cơ sở của hoạt động huy động vốn và phân phối nguồn nhân lực trong nền kinh tế. Bởi vậy đảm bảo hoạt động ổn định, bền vững của đối tượng này là yêu cầu quan trọng nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế nói chung.
Bảng 2: So sánh cụ thể về các quy định của hệ thống văn bản pháp quy đối với ngành bảo hiểm hiện nay ở Việt Nam với các nước khác.
Nhóm nội dung được quy định chặt chẽ tại các nước.
Tương ứng trong pháp luật, quy định tại Việt Nam.
I. Quy định cho phép tham gia thị trường :
1. Quy định về mức vốn pháp định: Thường được xác định ở mức cao nhằm hạn chế các đối tượng không đủ năng lực hoạt động ổn định đồng thời tránh tình trạng thị trường quá phân mảnh.
2. Giám sát mức cổ phần của các chủ đầu tư và đội ngũ cán bộ lãnh đạo công ty.
3. Yêu cầu đệ trình kế hoạch kinh doanh trong đó nêu rõ dự trù kinh phí, doanh thu, phương pháp tính phí bảo hiểm, công tác kiểm toán.
4. Yêu cầu cấp giấy phép cho các trung gian bảo hiểm.
1. Vốn pháp định: Điều 4 - NĐ43 quy định mức vốn pháp định đối với các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ (70tỷ đồng); nhân thọ (140 tỷ đồng); môi giới bảo hiểm (4 tỷ đồng).
2. Không có quy định
3. Kế hoạch kinh doanh:
- Điều 18-NĐ43 qui định: Đối với các sản phẩm bảo hiểm không phải là bảo hiểm bắt buộc, doanh nghiệp bảo hiểm phải đăng ký với Bộ tài chính quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm
- Điều 32.2- NĐ43 qui định: Báo cáo tài chính hàng năm phải được tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động hợp pháp tại Việt Nam kiểm toán và xác nhận trước khi nộp Bộ tài chính.
1. Hệ thống thông tin giám sát hiệu quả (chế độ kế toán và báo cáo đầy đủ kịp thời).
2. Quy định về khả năng thanh toán tài chính bao gồm mức vốn cần duy trì, biên khả năng thanh toán, mức dự trữ và quy định đầu tư.
1. Điều104 - Luật KDBH: Sau khi kết thúc năm tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải công bố các báo cáo tài chính.
Chưa có chế độ kế toán và báo cáo đầy đủ kịp thời.
2. Điều 14-NĐ43: Doanh nghiệp bảo hiểm phải duy trì khả năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt động (trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ và đảm bảo biên khả năng thanh toán tối thiểu).
III. Giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm bao gồm:
1. Theo dõi hoạt động khai thác bảo hiểm, xác định phí bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm.
2. Theo dõi hoạt động tiếp thị và khâu trung gian bảo hiểm.
3. Theo dõi kế hoạch tái bảo hiểm và độ an toàn của hoạt động tái bảo hiểm.
IV. Xây dựng hệ thống bảo vệ khách hàng
1. Thủ tục xử lý khiếu nại, củng cố kiến thức cho khách hàng.
2. Thành lập quỹ bảo đảm để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
1. Điều 46.10-NĐ42: Bộ tài chính thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh bảo hiểm; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
2. Điều 80 – Luật KDBH qui định khi doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán: Bộ tài chính ra quyết định thành lập Ban kiểm soát thanh toán để áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Ban kiểm soát có thể yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chuyển giao toàn bộ hợp đồng bảo hiểm của một hoặc một số nghiệp vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm khác.
Ngoài những quy định chung, hệ thống văn bản pháp quy của Việt Nam cũng cho thấy quan điểm về xu hướng hội nhập là tất yếu ”trước nhu cầu phát triển mạnh mẽ của ngành bảo hiểm để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, việc từng bước hội nhập trong lĩnh vực bảo hiểm là một tất yếu khách quan...”. Hơn thế nữa, Hệ thống văn bản pháp quy Việt Nam cũng nêu rõ chính sách phát triển ngành bảo hiểm với vai trò chủ đạo của doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước” Nhà nước đầu tư vốn và các nguồn lực khác để doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh bảo hiểm phát triển, giữ vai trò chủ đạo trên thị trường bảo hiểm” (Điều 4 - “Bảo đảm của Nhà nước đối với kinh doanh bảo hiểm’’- Luật kinh doanh bảo hiểm).
1.2. Kết cấu thị trường bảo hiểm theo thành phần kinh tế
Trước năm 1993, thị trường bảo hiểm Việt Nam chỉ có một doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước. Nhưng kể từ khi có sự nhìn nhận lại vai trò của ngành bảo hiểm cũng như định hướng phát triển thị trường bảo hiểm thể hiện bằng sự ra đời của Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993, đã có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm với hình thức sở hữu đa dạng ra đời. Đến thời điểm 12/2001 đã có 20 doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, bao gồm: 4 doanh nghiệp Nhà nước, 5 công ty cổ phần, 6 công ty liên doanh và 5 công ty 100%vốn nước ngoài.
Bảng 3: Vốn kinh doanh, dự phòng nghiệp vụ và bồi thường bảo hiểm gốc
Đơn vị : Tỷ VN đồng
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
I. Vốn kinh doanh
Khối DNNN
Khối CTCP
DN có vốn ĐTNN
3.1. Cty liên doanh
3.2. Cty 100% vốn NN
150
150
-
-
-
-
358
216
55
87
87
-
397
255
55
87
87
-
420
278
55
87
87
-
580
322
113
145
145
-
979
346
116
517
232
285
1398
694
117
587
232
355
II. Dự phòng nghiệp vụ
1. Khối DNNN
2. Khối CTCP
3. DN có vốn ĐTNN
3.1. Cty liên doanh
3.2. Cty 100% vốn NN
198
198
-
-
-
-
595
590
5
-
-
-
740
719
20
1
1
-
883
845
35
3
3
-
1322
1252
61
9
9
-
2019,5
1898
104
17,5
17
0,5
3102
2845
124
133
30
103
III. Bồi thường nghiệp vụ
1. Khối DNNN
2. Khối CTCP
3. DN có vốn ĐTNN
3.1. Cty liên doanh
3.2. Cty 100% vốn NN
430
430
-
-
-
-
682
678
4
-
-
-
760
738
22
-
-
-
630
589
40
1
1
-
698
600
48
50
50
-
788
708
74
6
6
-
833
728
85
20
14
6
Nguồn: Dự thảo “Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2001-2010”.
Bảng 4: Tỷ trọng vốn kinh doanh, dự phòng nghiệp vụ và bồi thường bảo hiểm gốc
(Tính trên cơ sở Bảng 4)
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
I. Vốn kinh doanh
1. Khối DNNN
2. Khối CTCP
3. DN có vốn ĐTNN
3.1. Cty liên doanh
3.2. Cty 100% vốn NN
100%
100%
0,0%
0,0%
0,0%
0,0%
100%
60,3%
15,4%
24,3%
24,3%
0,0%
100%
64,2%
13,9%
21,9%
21,9%
0,0%
100%
66,2%
13,1%
20,7%
20,7%
0,0%
100%
55,5%
19,5%
25,0%
25,0%
0,0%
100%
35,3%
11,8%
52,8%
23,7%
29,1%
100%
49,6%
8,4%
42,0%
16,6%
25,4%
II. Dự phòng nghiệp vụ
1. Khối DNNN
2. Khối CTCP
3. DN có vốn ĐTNN
3.1. Cty liên doanh
3.2. Cty 100% vốn NN
100%
100%
0,0%
0,0%
0,0%
0,0%
100%
99,2
0,8%
0,0%
0,0%
0,0%
100%
97,2%
2,7%
0,1%
0,1%
0,0%
100%
95,7%
4,0%
0,3%
0,3%
0,0%
100%
94,7%
4,6%
0,7%
0,7%
0,0%
100%
94,0%
5,1%
0,9%
0,8%
0,0%
100%
91,7%
4,0%
4,3%
1,0%
3,3%
III. Bồi thường bảo hiểm
1. Khối DNNN
2. Khối CTCP
3. DN có vốn ĐTNN
3.1. Cty liên doanh
3.2. Cty 100% vốn NN
100%
100%
0,0%
0,0%
0,0%
0,0%
100%
99,45
0,6%
0,0%
0,0%
0,0%
100%
97,1%
2,9%
0,0%
0,0%
0,0%
100%
93,5%
6,3%
0,2%
0,2%
0,0%
100%
86,0%
6,9%
7,2%
7,2%
0,0%
100%
89,8%
9,4%
0,8%
0,8%
0,0%
100%
87,4%
10,2%
2,45
1,7%
0,7%
Bảng 5: Doanh thu phí bảo hiểm phân theo khu vực giai đoạn 1994-2000
Đơn vị : Tỷ VN đồng
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
I. Bảo hiểm phi nhân thọ
1. Khối DNNN
2. Khối CTCP
3. DN có vốn ĐTNN
3.1. Cty liên doanh
3.2. Cty100% vốn NN
741
741
-
-
-
-
1.026
1.010
15
-
-
-
1.263
1.190
71
2
2
-
1.406
1.286
100
20
20
-
1.869
1.677
137
55
55
-
1.606
1.384
163
59
58
1
1.765
1.439
196
130
94
36
II. Bảo hiểm nhân thọ
1. Khối DNNN
2. Khối CTCP
3. DN có vốn ĐTNN
3.1. Cty liên doanh
3.2. Cty100% vốn NN
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
1
1
-
-
-
-
17
17
-
-
-
-
207
207
-
-
-
-
485
482
-
3
-
3
1.285
920
-
365
9
356
III. Tổng doanh thu phí bảo hiểm
1. Khối DNNN
Tốc độ tăng trưởng(%)
Thị phần(%)
2. Khối CTCP
3. DN có vốn ĐTNN
3.1. Cty liên doanh
3.2. Cty100% vốn NN
Tốc độ tăng trưởng(%)
Tỷ trọng GDP(%)
741
741
-
100
-
-
-
-
-
0,44
1.026
1.010
36
98
16
-
-
-
38
0,45
1.264
1.191
18
94
71
2
2
-
23
0,46
1.423
1.303
9
91
100
19
19
-
12
0,45
2.076
1.884
44
90
137
55
55
-
46
0,57
2.091
1.866
-1
89
163
62
58
4
0,72
0,52
3.051
2.358
26
77
196
496
103
393
45,9
0,68
Nguồn: Dự thảo “Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2001-2010”.
Qua bảng số liệu trong các bảng 3, 4 và 5 trên đây cho thấy khu vực doanh nghiệp bảo hiểm thuộc sở hữu Nhà nước hiện vẫn nắm giữ vai trò chủ đạo trên thị trường (năm 2000, các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước chiếm 77% thị phần, xem Bảng 5). Tuy nhiên kể từ khi có chủ trương cho phép thêm các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài thì thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước giảm dần, trong khi thị phần của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên nhanh chóng.
Xét từ khía cạnh vốn kinh doanh, từ năm 1994 đến năm 2000 số vốn kinh doanh của khu vực doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước tăng gấp 4 lần song so với tổng vốn kinh doanh của ngành bảo hiểm thì giảm đáng kể (Bảng 4). Đến năm 2000, số vốn kinh doanh của khu vực doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước chỉ còn chiếm 50% tổng số vốn kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam.
Xét từ khía cạnh dự phòng nghiệp vụ và mức bồi thường bảo hiểm, khu vực doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ gần như tuyệt đối. Sở dĩ như vậy là do tính chất của các con số này thường phản ánh công tác khai thác bảo hiểm trong một quá trình nhiều năm trước, mà các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước thì có lợi thế trong giai đoạn kinh doanh độc quyền 1994 (Bảng3). Song cũng phải lưu ý rằng, các khu vực khác, mà đặc biệt là khu vực doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng có vai trò lớn hơn xét trên hai khía cạnh này, thể hiện qua tỉ trọng các giá trị này của họ đang tăng lên (Bảng4).
1.3. Trình độ phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam
Nhìn chung thị trường bảo hiểm Việt Nam so với các thị trường bảo hiểm phát triển thì vẫn còn lạc hậu, số lượng tổ chức bảo hiểm ít, qui mô bảo hiểm nhỏ, kết cấu thị trường không cân bằng. Tuy nhiên, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể và có một số đặc điểm sau:
- Khu vực doanh nghiệp Nhà nước hiện chiếm vai trò chủ đạo trên thị trường một cách toàn diện về vốn, thị phần, dự phòng nghiệp vụ cũng như mức bồi thường.
- Cơ cấu thị trường bảo hiểm Việt Nam theo thành phần kinh tế đang có sự thay đổi đáng kể, đặc biệt đáng chú ý là sự phát triển nhanh và mạnh của khu vực doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài.
- Hoạt động cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra dưới hình thức sơ khai, hiện chủ yếu tập trung vào việc hạ phí bảo hiểm, tăng mức chi hoa hồng để giành dịch vụ mà chưa quan tâm đúng mức đến phát triển và khai thác các khu vực thị trường tiềm năng khác.
- Phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm chủ yếu tập trung ở một số thành phố lớn.
- Các sản phẩm bảo hiểm tuy đa dạng nhưng chưa phát triển đầy đủ về chiều sâu thiếu tính nhạy bén với nhu cầu thị trường.
- Hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhìn chung chưa cao một phần do công tác quản lý chưa đạt hiệu quả cao.
- Khâu đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm còn hạn chế do điều kiện thị trường tài chính cũng như thị trường bất động sản ở Việt Nam còn đang ở giai đoạn phát triển ban đầu.
- Trình độ đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh bảo hiểm còn nhiều hạn chế và bất cập trước yêu cầu đổi mới và phát triển thị trường bảo hiểm.
- Hoạt động trung gian bảo hiểm còn chưa phát triển về qui mô cũng như trình độ.
- Hiểu biết của khách hàng về lợi ích và sự cần thiết của công tác bảo hiểm còn nhiều hạn chế.
1.4. Quan điểm mở cửa và triển vọng phát triển của thị trường bảo hiểm.
Quan điểm về mở cửa thị trường bảo hiểm của Việt Nam được thể hiện trong dự thảo chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm 10 năm từ 2001- 2010 như sau:
- “Giai đoạn 2001-2005:
Nâng cao năng lực hoạt động kinh doanh có hiệu quả của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, phát triển kỹ năng, chú trọng công tác đào tạo cán bộ chuyên môn, giảm tối đa chi phí trung gian nâng cao tính hiệu quả nhằm mở rộng quy mô bảo hiểm và xây dựng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước trong môi trường mới, đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đủ mạnh để làm nòng cốt cho sự phát triển chung của thị trường.
Củng cố, nâng cao năng lực cơ quan quản lý bảo hiểm Nhà nước. Thay đổi cách thức quản lý, giám sát bằng việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tiến tới tạo lập môi trường bình đẳng về quyền kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước.
- Giai đoạn 2006-2010:
Trên cơ sở thị trường bảo hiểm đã phát triển, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đã được củng cố và đủ mạnh để sẵn sàng với việc tự do hoá trong lĩnh vực bảo hiểm, thị trường bảo hiểm Việt Nam đáp ứng tốt hơn nhu cầu bảo hiểm ngày càng tăng trong nền kinh tế quốc dân và từng bước phát triển ra thị trường bảo hiểm nước ngoài, phù hợp với quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam tham gia vào hội nhập quốc tế.”
(Để phần nào minh hoạ mối liên hệ giữa các cam kết mở cửa thị trường và mức độ quản lý thị trường bảo hiểm tại thời điểm trước và sau khi đưa ra cam kết, đề nghị xem bảng 6).
Bảng 6: Mức độ mở cửa trước khi đưa ra cam kết và mức cam kết trong WTO tại một số nước đang phát triển.
Nước
Hiện trạng mở cửa tại thời điểm 1997
Cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm trong WTO
Brazil
- Cho phép liên doanh bảo hiểm với 50% vốn nước ngoài, với điều kiện cổ đông nước ngoài có cổ phần lớn nhất không quá 30%. Cấm hoàn toàn hình thức chi nhánh và 100% vốn nước ngoài ngoại trừ đối với kinh doanh bảo hiểm sức khỏe. Tái bảo hiểm do Nhà nước độc quyền.
- Cho phép thành lập doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài trên cơ sở phê duyệt theo từng trường hợp cụ thể của cơ quan quản lý chuyên ngành.
- Bảo lưu quyền cấm chi nhánh.
Trung Quốc
- Quá trình xin cấp giấy phép kéo dài 3 năm. Chỉ cho phép liên doanh với 49% vốn nước ngoài. Tính đến 1997, chỉ có 3 giấy phép liên doanh được phê duyệt. Hạn chế đối với việc chuyển lợi nhuận về nước của bên liên doanh nước ngoài. Các doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh với nước ngoài chỉ được kinh doanh các lĩnh vực không cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước.
- Cho phép thành lập doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh và 100% vốn nước ngoài và cho phép mở chi nhánh.
- Cam kết xoá bỏ các hạn chế về phạm vi địa lý cũng như phạm vi sản phẩm được phép kinh doanh.
- Nới lỏng dần yêu cầu về mức vốn pháp định ban đầu
Malaisia
- Cho phép liên doanh với 49% vốn nước ngoài. Không bảo lưu giấy phép cho các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài lớn hơn 49% được thành lập trước 1997. Không cho phép thành lập thêm chi nhánh mới (ngoại trừ tái bảo hiểm). Năm 1998 không chấp nhận hình thức chi nhánh mà yêu cầu chuyển đổi thành doanh nghiệp. Các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài không được cung cấp dịch vụ bảo hiểm tàu, hàng không và tài sản.
- Tăng tỉ lệ vốn nước ngoài lên 51%.
- Không áp dụng điều khoản bảo lưu điều kiện ưu đãi hơn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trước ngày thức hiên cam kết.
ấn Độ
- Không mở cửa
- Không cam kết
Inđônêxia
- Cho phép liên doanh với 80% vốn nước ngoài. Chỉ có các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn nước ngoài thành lập ở Inđônêxia trước năm 1972 mới có thể chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài. Các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài phải có vốn pháp định ban đầu cao hơn so với doanh nghiệp trong nước. Chỉ có liên doanh mới được cung cấp dịch vụ cho người Inđônêxia.
- Cho phép doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài
- Bảo lưu quyền không cho phép mở chi nhánh
- Xoá bỏ dần phân biệt đối xử về vốn pháp định.
Mêxicô
- Cho phép liên doanh với 49% vốn nước ngoài.
- Cho phép thành lập doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Philippines
- Cho phép liên doanh với 40% vốn nước ngoài.
- Tăng tỷ lệ vốn nước ngoài lên 51% trong liên doanh.
- Cho phép 100% vốn nước ngoài.
- Bảo lưu quyền không cho phép mở chi nhánh.
Thái Lan
- Cho phép liên doanh với 25% vốn nước ngoài đối với dịch vụ bảo hiểm trực tiếp. Cho phép liên doanh với 49% vốn nước ngoài đối với dịch vụ phụ trợ. Cho phép mở chi nhánh.
- Cam kết giữ nguyên mức mở cửa tại thời điểm 1997.
Đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay đang ở giai đoạn phát triển ban đầu, có tốc độ tăng trưởng cao và tiềm năng lớn trên cơ sở tốc độ tăng trưởng kinh tế nói chung khá cao (trung bình 7,5%) và quy mô dân số tương đối đáng kể.
Một đặc điểm nổi bật về triển vọng thị trường bảo hiểm Việt Nam trong vòng 10 năm tới là thị trường bảo hiểm nhân thọ sẽ tạo ra nguồn phí bảo hiểm chính yếu trong tổng phí bảo hiểm.
2. Dịch vụ kiểm toán và tư vấn thuế
Đối với Việt Nam khái niệm về dịch vụ kế toán, kiểm toán còn khá mới mẻ. Có nhiều cách hiểu trái ngược nhau, có người quá đề cao vai trò của kiểm toán, coi kết quả kiểm toán như là những kết luận cuối cùng hoàn thiện, tròn trĩnh, nhưng cũng có ý kiến cho rằng kiểm toán làm tăng thêm thủ tục phiền hà. Bên cạnh đó, dịch vụ kế toán vẫn chưa được định nghĩa rõ ràng trong các văn bản Luật cũng như các văn bản pháp quy.
Ba năm kể sau khi ra đời doanh nghiệp kiểm toán đầu tiên, Việt Nam mới có một văn bản pháp quy về quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân - Ban hành kèm theo nghị định số 07/CP ngày 29/1/1994 của Chính phủ, trong đó kiểm toán được định nghĩa “ Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thuộc các tổ chức kiểm toán độc lập về tính đúng đắn, hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo kết toán của các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội (gọi tắt là các đơn vị kế toán) khi có yêu cầu của các đơn vị này...” (Điều 1). Cũng theo quy chế này các công ty kiểm toán và kiểm toán viên nước ngoài được phép cung cấp các dịch vụ “ giám định tài chính, kế toán các dịch vụ tư vấn về quản lý tài chính, kế toán, thuế theo yêu cầu của khách hàng’’ (Điều 13). Tuy nhiên dịch vụ tư vấn thuế chỉ được đề cập đến chứ chưa được định nghĩa một cách rõ ràng trong hệ thống các văn bản hiện hành. Tóm lại cũng như thông lệ phổ biến tại các nước khác trên thế giới, công ty kiểm toán Việt Nam không chỉ cung cấp các dịch vụ kiểm toán mà còn cung cấp các dịch vụ khác như kế toán, tư vấn thuế và tư vấn quản lý... Trên thực tế, theo báo cáo tổng kết 10 năm hoạt động kiểm toán độc lập và định hướng phát triển đến năm 2010 (Báo cáo của Vụ chế độ kế toán - Bộ tài chính phục vụ hội nghị tổng kết 10 năm hoạt động kiểm toán độc lập), hoạt động dịch vụ kế toán và tư vấn thuế chiếm tỷ trọng 18,3% năm 1999 và 19,2% năm 2000 trong hoạt động của các công ty kiểm toán. Do đó đối tượng của việc nghiên cứu đánh giá tác động của các cam kết về dịch vụ kiểm toán và tư vấn thuế trong Hiệp định thương mại Việt Mỹ sẽ là hoạt động của các công ty kiểm toán và các kiểm toán viên.
2.1. Quá trình hình thành của ngành và một số văn bản pháp luật, chính sách điều chỉnh hoạt động của ngành
Ngành dịch vụ kế toán, kiểm toán của Việt Nam bắt đầu ngày 15/4/1991 khi hội thảo đầu tiên về kiểm toán do Bộ tài chính tổ chức dưới sự tài trợ của một tổ chức quốc tế. Ngay sau đó, Bộ tài chính quyết định thành lập Công ty kiểm toán kiểm toán Việt Nam (VACO), tổ chức đầu tiên hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán độc lập, và sau đó là Công ty dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán AASC. Đến 30/11/2001 đã có 34 công ty thuộc đủ mọi thành phần kinh tế (Theo báo cáo của tổng kết 10 năm hoạt động kiểm toán độc lập và định hướng phát triển đến năm 2010).
Trong đó hoạt động của dịch vụ kế toán và kiểm toán chịu sự điều chỉnh của một số các văn bản sau:
- Pháp lệnh Kế toán và Thống kê ban hành theo lệnh số 06-LCT/HĐNN ngày 10/5/1988 của Hội đồng Nhà nước.
- Luật doanh nghiệp công bố ngày 12/6/1999 và các Nghị định hướng dẫn Luật doanh nghiệp.
- Nghị định số 07/CP của Chính phủ ngày 29/1/1994 ban hành Quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân.
- Thông tư số 22-TC/CĐKT của Chính phủ ngày 19/3/1994 hướng dẫn thực hiện quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế Quốc dân ban hành kèm Nghị định số 07/CP ngày 29/1/1994.
- Thông tư số 107/ 2000/TT-BTC của Bộ tài chính ngày 25/10/2000 hướng dẫn đăng ký hành nghề kiểm toán.
- Quyết định số 237/TC/QĐ/CĐKT của Bộ tài chính ngày 19/3/1994 ban hành quy chế thi tuyển và cấp chứng chỉ kiểm toán viên.
- Qui trình xây dựng, ban hành và công bố chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (Ban hành kèm theo Quyết định số 489/QĐ-BTC ngày 10/5/2000 của Trưởng ban chỉ đạo), nghiên cứu soạn thảo chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.
- Quyết định số 38/2000/QĐ/BTC ngày 14/3/2000 của Bộ tài chính về việc ban hành và công bố áp dụng Hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam.
- Quyết định số 120/1999/QĐ-BTC ngày 27/9/1999 của Bộ tài chính về việc ban hành và công bố 4 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (đợt 1).
- Quyết định số 219/2000/QĐ-BTC ngày 29/12/2000 Bộ tài chính về việc ban hành và công bố 6 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (đợt 2).
2.2. Tổng quan dịch vụ kiểm toán kế toán và tư vấn thuế
(Theo báo cáo tổng kết 10 năm hoạt động kiểm toán độc lập và định hướng phát triển đến năm 2010).
- Cho đến 30/11/2001 đã có 34 công ty thuộc mọi thành phần kinh tế với 58 chi nhánh và văn phòng tại các địa phương, gồm có 7 công ty Nhà nước, 20 công ty TNHH, 5 công ty 100% vốn nước ngoài, 1 công ty liên doanh và 1 công ty cổ phần. Trong đó có 3 công ty kiểm toán Việt Nam đã được các công ty kiểm toán Quốc tế lớn công nhận là thành viên: Công ty kiểm toán Việt Nam (VACO) là thành viên của Hãng kiểm toán Deloite Touche Tohmatsu: Công ty TNHH kiểm toán và dịch vụ tư vấn tài chính kế toán Thuỷ Chung là thành viên của công ty Marison Intertional: Công ty kiểm toán và tư vấn Tài chính kế toán Sài Gòn AFC là thành viên của tập đoàn BDO quốc tế. 5 Công ty 100% vốn nước ngoài: Công ty TNHH KPMG Việt Nam (KPMG): Công ty TNHH PriceWaterhouseCoopers Việt Nam (PwC): Công ty TNHH Arthur Andersen Việt Nam (A.A); Công ty TNHH Grant Thorton Việt Nam (G.T); Công ty TNHH Tư vấn quản lý, Tài chính, Kế toán, Kiểm toán Ernst & Young Việt Nam (E&Y). 1 Công ty liên doanh là công ty TNHH pricewaterhousecoopers-aisc (PwC-aisc).
- Đội ngũ kiểm toán viên chuyên nghiệp: Cho đến nay Bộ tài chính đã tổ chức 8 kỳ thi tuyển kiểm toán viên cho người Việt Nam và 3 kỳ sát hạch cho người nước ngoài và cấp 531 chứng chỉ kiểm toán viên. Tổng số nhân viên và kiểm toán viên tại các công ty kiểm toán :
Tổng số lao động : 2127 người , trong đó :
+ Nhân viên chuyên nghiệp : 1735 người chiếm 81,6%
Trong đó số người có chứng chỉ kiểm toán viên : 487 chiếm 28%
số người chưa có chứng chỉ kiểm toán viên : 1248 chiếm 72%
+ Nhân viên khác : 392 người chiếm 18,4%
- Các hình thức dịch vụ của các công ty kiểm toán, kế toán :
Cùng với sự phát triển về số lượng các công ty kiểm toán, các loại hình dịch vụ cũng ngày càng đa dạng hơn theo hướng mở rộng loại dịch vụ kiểm toán và mở rộng dịch vụ tư vấn.
Bảng 7: Tỷ trọng các loại hình dịch vụ.
Các loại hình dịch vụ
Năm 1999
Năm 2000
Kiểm toán báo cáo tài chính
62,0%
59,6%
Kiểm toán báo cáo quyết toán XDCB
9,7%
11,3%
Tư vấn tài chính , kế toán , thuế
18,3%
19,2%
Dịch vụ đào tạo
3,0%
5,2%
Dịch vụ khác
7,0%
4,7%
Nguồn: Báo cáo tổng kết 10 năm hoạt động kiểm toán độc lập và định hướng phát triển đến năm 2010.
Nhìn chung đối tượng khách hàng của các công ty kiểm toán cung cấp dịch vụ trong giai đoạn hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp Nhà nước. Công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty tư nhân, các đơn vị hành chính sự nghiệp và các tổ chức quốc tế là không đáng kể.
Trong đó các doanh nghiệp Nhà nước là có khách hàng đa dạng nhất, những năm qua đã cung cấp dịch vụ cho cho tất cả các đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp Nhà nước, công ty TNHH, cổ phần, tư nhân, tổ chức, đơn vị hành chính sự nghiệp, các dự án quốc tế.
Các công ty kiểm toán nước ngoài và công ty liên doanh chủ yếu phục vụ khách hàng là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các dự án quốc tế.
Tình trạng trên là do uy tín và điều kiện hoạt động của các công ty kiểm toán còn khác nhau. Các doanh nghiệp Nhà nước thường chọn các công ty kiểm toán thuộc Bộ tài chính vì giá phí vừa phải, am hiểu các vấn đề liên quan đến thông lệ Việt Nam. Trong khi đó khách hàng chưa yên tâm về tính khách quan khi thuê các công ty kiểm toán là các doanh nghiệp Nhà nước thuộc Bộ Tài chính.
2.3. Phạm vi và quy mô của thị trường kiểm toán Việt Nam.
Theo báo cáo tổng kết 10 năm kiểm toán độc lập và định hướng phát triển đến năm 2010 đánh giá phạm vi và qui mô của thị trường kiểm toán Việt Nam thông qua các chỉ tiêu sau:
-Về doanh thu:
Bảng 8: Doanh thu trong những năm gần đây:
Năm thực hiện
Tổng doanh thu
Công ty KT có vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp KT Nhà nước
Công ty KT trách nhiệm hữu hạn
Doanh thu (tỷ đồng)
Phần trăm (%)
Doanh thu (tỷ đồng)
Phần trăm (%)
Doanh thu (tỷ đồng)
Phần trăm (%)
1997
144,083
105,673
73,3
36,686
25,4
1,679
1,3
1998
232,702
169,493
72,8
60,137
23,6
3,072
1,6
1999
278,020
208,382
75
65,705
23,6
3,933
1,4
2000
281,701
201,906
72,8
72,582
25,8
4,151
1,6
Nguồn: Báo cáo tổng kết 10 năm hoạt động kiểm toán độc lập và định hướng phát triển đến năm 2010.
Trong các năm 1998, 1999 do đầu tư nước ngoài tăng mạnh nên doanh thu của ngành kiểm toán có tốc độ tăng lớn nhất (năm 1998 tăng 61,55%: năm 1999 tăng chậm hơn đáng kể là 19,48%). Từ năm 1999 tốc độ doanh thu của ngành dịch vụ kế toán, kiểm toán chậm lại so với trước do một số nguyên nhân sau đây:
+ Cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ ở các nước Đông Nam á
+ Những khó khăn trong quá trình thực hiện Luật thuế GTGT từ năm 1999, như thuế suất thuế GTGT 10% thay cho thuế suất thuế doanh thu 4% đã ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu.
+ Số lượng các dự án mới của đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng ít, nhiều dự án đã đầu tư phải tạm ngừng hoạt động và giải thể làm số lượng khách hàng của các công ty kiểm toán 100% vốn nước ngoài và các doanh nghiệp Nhà nước giảm.
- Về kết quả kinh doanh:
Toàn ngành kiểm toán năm 1998 lỗ 1,6 tỷ đồng, năm 1999 lỗ 84 tỷ đồng, tăng 18 tỷ đồng so với số lỗ năm năm 1998. Kết quả kinh doanh của các công ty kiểm toán cũng rất khác nhau, biểu hiện:
+ Tất cả các công ty kiểm toán là DNNN đều có lãi : Năm 1998 lãi 9,8 tỷ đồng; năm 1999 lãi 10,4 tỷ đồng tăng 0,6 tỷ đồng (6,12%).
+ Tất cả các công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài và công ty liên doanh đều bị lỗ và số lỗ năm sau tăng hơn năm trước, cụ thể : năm 1998 lỗ 76 tỷ đồng; năm 1999 lỗ 95 tỷ đồng tăng 19 tỷ đồng so với năm 1998.
+ Công ty TNHH có doanh nghiệp lãi có doanh nghiệp lỗ với mức tăng, giảm không đáng kể giữa các năm.
Nguyên nhân dẫn đến kết quả kinh doanh rất khác nhau giữa các loại hình doanh nghiệp chủ yếu là do chưa có chính sách chung về tiền lương và chi phí đào tạo giữa các doanh nghiệp, và quan trọng hơn đây cũng là nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán và gây xáo trộn nhân viên giữa các công ty kiểm toán.
- Về tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước:
Toàn ngành kiểm toán năm 1998 là: 22.366 triệu đồng; Năm 1999 là: 63.133 triệu đồng, tăng 40.767 triệu đồng (182%) so với năm 1998. Trong đó, các công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài và công ty liên doanh có số nộp ngân sách Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhất, và có số nộp ngân sách Nhà nước tăng nhanh nhất qua các năm.
Bảng 9:Tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Đơn vị tính: triệu đồng
Doanh nghiệp
Năm 1998
Năm 1999
Chênh lệch
1/ Doanh nghiệp FDI
14.573
51.490
36.917
2/ Doanh nghiệp NN
7.763
11.466
3.703
3/ Công ty TNHH
64
197
133
Nguồn: Báo cáo tổng kết 10 năm hoạt động kiểm toán độc lập và định hướng phát triển đến năm 2010.
Qua xem xét các thành phần tham gia thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế về các mặt: nhân sự, loại hình dịch vụ cung cấp, đối tượng khách hàng, doanh thu, tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách..., có thể rút ra một số đánh giá chung như sau: Các doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 2 khu vực có khả năng cạnh tranh cao nhất trên thị trường ở qui mô vốn, đội ngũ lao động có nghiệp vụ chuyên môn cao, khách hàng đa dạng và ổn định, đạ._.tin thị trường đầu tư.
2.2. Khuyến nghị đối với công tác quản lý Nhà nước về bảo hiểm
- Tăng cường năng lực cho cơ quan quản lý Nhà nước về bảo hiểm
Trên cơ sở thực trạng về cơ quan quản lý bảo hiểm đã trình bày ở trên, cần áp dụng kết hợp giữa các biên pháp nâng cao năng lực ngắn hạn và dài hạn. Cụ thể như cần tiến hành ngay việc bổ sung cán bộ đồng thời nâng cao trình độ của các cán bộ quản lý ngành bảo hiểm song song với việc nghiên cứu đề xuất cơ cấu tổ chức phù hợp cho một cơ quan quản lý bảo hiểm Nhà nước.
- Phát triển hệ thống thông tin giám sát hiện đại và hữu hiệu
Thực tế trên thế giới cho thấy, một hệ thống thông tin giám sát hiện đại và hữu hiệu là công cụ rất mạnh cho công tác quản lý Nhà nước về bảo hiểm, vì vậy Nhà nước cần xem xét đầu tư và triển khai ngay, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cơ quan quản lý bảo hiểm.
Tăng cường quan hệ hợp tác với cơ quan quản lý bảo hiểm Hoa Kỳ nói riêng và cơ quan quản lý bảo hiểm của các nước có quan hệ thương mại dịch vụ.
Như đã phân tích ở phần đánh giá tác động, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý bảo hiểm trong giám sát hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại nhiều quốc gia là hết sức cần thiết. Hiện nay, nhiều cơ quan quản lý bảo hiểm tại các nước khác nhau đã thiết lập những mối quan hệ này dưới hình thức những biên bản thoả thuận hay biên bản ghi nhớ về hợp tác.
Vì vậy cơ quan quản lý bảo hiểm tại Việt Nam cần phối hợp ngay với các cơ quan quản lý bảo hiểm tại các bang của Hoa Kỳ xây dựng kế hoạch thiết lập quan hệ hợp tác chính thức nhằm tăng cường tính hữu hiệu của hoạt động quản lý Nhà nước và giám sát đối với hoạt động bảo hiểm.
3. Giải pháp từ phía doanh nghiệp bảo hiểm
Ngoài các giải pháp từ phía hệ thống văn bản pháp qui và công tác quản lý Nhà nước, không thể không đề cập đến các giải pháp từ phía các doanh nghiệp bảo hiểm vì đây là thành tố quan trọng nhất quyết định việc thực hiện hiệu quả các cam kết về mở cửa thị trường bảo hiểm trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
Cụ thể các doanh nghiệp bảo hiểm đã chú trọng tới các vấn đề sau:
- Tăng số vốn kinh doanh
- Tăng số lượng sản phẩm
- Mở rộng địa bàn hoạt động
- Đào tạo chuyên gia đánh giá rủi ro, tính phí bảo hiểm, trích lập dự phòng nghiệp vụ
- Hiện đại hoá công nghệ thông tin, công nghệ quản lý như công nghệ thông tin tính phí bảo hiểm, trích lập dự phòng nghiệp vụ, theo dõi quản lý hợp đồng bảo hiểm.
Có thể thấy các doanh nghiệp đã có những bước chuẩn bị về cả biện pháp tăng cường qui mô cũng như nâng cao chất lượng của hoạt động kinh doanh. Đây là biểu hiện tích cực cho sự sẵn sàng thích ứng với điều kiện mới của thị trường khi các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được đưa vào thực hiện.
II. Giải pháp đối với dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế
Trên cơ sở phân tích các cam kết trong Hiệp định liên quan đến dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế; hệ thống pháp luật, chính sách hiện hành; phân tích tác động của Hiệp định tới ngành dịch vụ kế toán, kiểm toán nguồn vốn và tư vấn thuế phát triển một cách lành mạnh theo đúng định hướng.
1. Những khuyến nghị sửa đổi hệ thống khuôn khổ pháp lý nhằm điều chỉnh hoạt động cung cấp dịch vụ kiểm toán kế toán
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp lý nhằm thực hiện các cam kết về dịch vụ kế toán, kiểm toán trong Hiệp định.
+ Bổ sung vào dự án Luật kế toán các nước qui định diều chỉnh hoạt động cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán nguồn vốn và tư vấn thuế theo các phương thức cung cấp qua biên giới, tiêu dùng nước ngoài, hiện diện thương mại và hiện diện thể nhân. Ban cán sự Đảng bộ Bộ Tài chính đã thông qua Nghị quyết về chương thình hành động của Ngành Tài chính thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó một hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu hoàn thiện cơ sở pháp lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kế toán, kiểm toán các hoạt động của nền kinh tế quốc dân là xây dựng Pháp lệnh về Kiểm toán. Đây là một văn bản có tính pháp lý cao để thể chế hoá các quy định nêu trên và nó không chỉ nhằm mục đích thực hiện cam kết trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ mà còn nhằm tạo lập một khung pháp lý phù hợp với vị trí, vai trò ngày càng cao của ngành dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế trong điều kiện nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển một cánh sâu rộng hơn.
+ Bổ sung, sửa đổi Nghị định 07/CP và hệ thống văn bản hướng dẫn theo hướng thể chế hoá các cam kết về dịch vụ kế toán, kiểm toán nguồn vốn và tư vấn thuế trong Hiệp định mà các qui định hiện hành chưa có hoặc chưa phù hợp. Những sửa đổi và bổ sung đã được thể hiện trong phần đánh giá tác động của Hiệp định lên khung thể chế, cụ thể: bổ sung qui định đối với hình thức cung cấp qua biên giới, tiêu dùng nước ngoài; qui định không cho phép thành lập chi nhánh đối với các công ty nước ngoài; bổ sung, sửa đổi các qui định về nội dung, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh chuẩn bị cho việc mở cửa cho các công ty Mỹ xâm nhập thị trường Việt Nam đảm bảo việc cấp giấy phép dựa trên cơ sở đánh giá khách quan, minh bạch. Các qui định về nội dung, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh nên được ban hành theo hướng phù hợp với điều VI - Qui định Nội luật - Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS trong khuôn khổ WTO và qui định chi tiết trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán nhằm mục đích chuẩn bị cho việc gia nhập WTO sau này, cụ thể :
* Các yêu cầu, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh cần phải được thiết lập, công bố công khai và phải mang tính khách quan không gây cản trở. Các tài liệu, hồ sơ yêu cầu không quá nhiều tránh tình trạng tạo ra gánh nặng cho bên nộp đơn ngoài mục đích đảm bảo yêu cầu về bằng cấp và giấy phép.
* Đối với các yêu cầu về cư trú nếu không phải thuộc diện đưa vào lộ trình cam kết theo quy định của điều XVII của Hiệp định thương mại dịch vụ, cần phải xem xét áp dụng các biện pháp càng ít hạn chế về thương mại càng tốt.
* Các khoản phí về cấp giấy phép chỉ nên nhằm mục đích bù đắp chi phí hành chính, không có tác động ngăn cản hoạt động hành nghề, và không bao gồm các khoản chi phí xác minh, xử lý và kiểm tra thông tin...
- Các giải pháp chính sách nhằm đảm bảo thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế phát triển lành mạnh, cạnh tranh công bằng theo đúng định hướng chiến lược đổi mới, phát triển công tác kế toán, kiểm toán Việt Nam.
+ Xây dựng, ban hành đầy đủ hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam:
Chuẩn mực kiểm toán là những nguyên tắc căn bản của kiểm toán, quy trình nghiệp vụ của các cuộc kiểm toán, hệ thống chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán. Theo nghĩa rộng hơn, chuẩn mực kiểm toán là những nguyên tắc cơ bản và những hướng dẫn giải thích, những nguyên tắc chỉ đạo công việc kiểm toán. Hệ thống chuẩn mực không chỉ là căn cứ để tiến hành hoạt động kiểm toán mà còn là căn cứ để kiểm soát, đánh giá chất lượng kiểm toán, là căn cứ xác định các mối quan hệ nhân quả giữa kết quả kiểm toán và việc sử dụng kết quả kiểm toán, giữa kiểm toán viên và các bên hữu quan, đồng thời là căn cứ xác lập mô hình, nội dung đào tạo, huấn luyện và là thước đo chất lượng đội ngũ kiểm toán viên.
Do đó, thiết lập và công bố chuẩn mực kiểm toán là một nhu cầu tất yếu của hoạt động kiểm toán, đặc biệt trong bối cảnh Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được quốc hội hai nước thông qua với hệ quả là sự thâm nhập của các đối thủ cạnh tranh lớn từ Mỹ nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường dịch vụ kiểm toán Việt Nam bảo vệ lợi ích của bên sử dụng thông tin kiểm toán. Cho đến nay, Bộ Tài chính đã soạn thảo và ban hành 10 chuẩn mực kiểm toán đó là: Chuẩn mực (CM) số 200 - Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính; CM 210 - Hợp đồng kiểm toán; CM 230 -Hồ sơ kiểm toán; CM 700 - Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính; CM 250 - Xem xét tính tuân thủ pháp luật và các qui định trong kiểm toán báo cáo tài chính; CM 310 - Hiểu biết về tình hình kinh doanh; CM 500 - bằng chứng kiểm toán; CM 510 - Kiểm toán năm đầu tiên, số dư đầu năm tài chính; CM 520 - Quy trình phân tích; CM 580 - Giải trình của giám đốc. Trong thời gian tới Bộ Tài chính cần phải xúc tiến quá trình xây dựng chuẩn mực kiểm toán, đảm bảo đúng tiến độ kế hoạch xây dựng, cụ thể trước mắt nên tập tung vào các chuẩn mực sau: Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ; lập kế hoạch kiểm toán; Kiểm toán và ước tính kế toán; Các bên hữu quan; Chọn mẫu kiểm toán; Gian lận và sai sót; Kiểm toán năm đầu tiên, số dư đầu năm tài chính. Hệ thống chuẩn mực được xây dựng cần đảm bảo các yêu cầu sau:
* Đảm bảo phù hợp với hệ thống pháp luật và trình độ quản lý kinh tế - tài chính của nước ta;
* Đúc kết và kế thừa kinh nghiệm thực tiễn của hoạt động kiểm toán và các qui định về công tác thanh tra, kiểm tra tài chính - kế toán có liên quan;
* Phù hợp với chuẩn mực và thông lệ kiểm toán quốc tế để tạo ra sự hoà nhập, công nhận của quốc tế đối với nghề nghiệp kiểm toán Việt Nam;
* Nghiên cứu và vận dụng có chọn lọc chuẩn mực kiểm toán quốc tế phổ biến trên thế giới phù hợp với hoàn cảnh điều kiện thực tiễn của Việt Nam;
* Phù hợp với trình độ và định hướng phát triển kiểm toán Việt Nam.
+ Xây dựng, ban hành hệ thống các chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp:
Cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế là một nghề nghiệp mang tính chuyên nghiệp và tư vấn pháp lý cao. Báo cáo kiểm toán không chỉ có tác động tới quá trình ra quyết định của bản thân công ty được kiểm toán mà còn có tác động tới các bên có lợi ích liên quan, đó là: Các chủ sở hữu, trong trường hợp công ty Nhà nước đó là các Bộ, ngành chủ quản, cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại các doanh nghiệp; cơ quan thuế; các chủ nợ như ngân hàng, các tổ chức tín dụng; các bạn hàng; tổ chức công đoàn đại diện cho người lao động, và các tổ chức xã hội có liên quan khác...Ngoài ra, người kiểm toán viên có điều kiện tiếp cận những thông tin bí mật của công ty nếu bị lộ có thể có tác động lớn đến vị trí của công ty trên thị trường... Như vậy, đòi hỏi người hành nghề kiểm toán không những chỉ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn phải có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cao, đặc biệt trong điều kiện thị trường ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp với sự tham gia của các công ty kiểm toán nước ngoài. Do đó, yêu cầu về một hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là cấp thiết. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của Mỹ và một số nước có ngành kiểm toán phát triển như Anh, Canada, úc... và các chuẩn mực quốc tế là những tài liệu cần phải tham khảo khi xây dựng, đồng thời cũng phải xem xét đến điều kiện kinh tế - tài chính và pháp luật đặc thù của Việt Nam.
+ Ban hành các văn bản pháp qui quản lý hoạt động cung cấp dịch vụ kế toán và tư vấn thuế: Hiện nay, theo qui định của Nghị định 07/CP (điều 13) ngoài dịch vụ kiểm toán, các công ty kiểm toán và các kiểm toán viên được cung cấp các dịch vụ khác như kế toán, tư vấn thuế, tư vấn tài chính... Tuy nhiên, hệ thống các văn bản hiện hành vẫn tập trung vào quản lý hoạt động kiểm toán, dịch vụ kế toán và tư vấn thuế vẫn chưa được điều chỉnh rõ ràng. Do đó, các qui định điều chỉnh hoạt động cung cấp dịch vụ kế toán và tư vấn thuế (đặc biệt là định nghĩa về hai loại hình dịch vụ này) cần phải được luật hoá vào trong dự thảo Luật kế toán và Pháp lệnh kiểm toán ban hành các văn bản pháp qui hướng dẫn các hoạt động cung cấp hai loại hình dịch vụ này.
+ Hoàn thiện các qui định, chính sách về giá phí dịch vụ:
Nghị định 07/CP (Điều 22) quy định chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động kiểm toán có nội dung “Bộ Tài chính qui định khung giá phí kiểm toán để áp dụng thống nhất trong hoạt động kiểm toán”. Tuy nhiên, trong thực tiễn quản lý nội dung này không thể thực hiện được vì hiện nay vẫn chưa có qui định cụ thể hướng dẫn thực hiện chức năng này, bên cạnh đó trong nền kinh tế thị trường giá phí kiểm toán được xác định bởi quan hệ cung cầu và cạnh tranh trên thị trường. Do đó, chức năng quản lý của Nhà nước này thiếu tính thực tiễn vì nó can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp và thiếu các công cụ thi hành.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự điều tiết của Nhà nước là vô cùng cần thiết nhằm đảm bảo cạnh tranh công bằng. Do đó, Nhà nước cũng cần phải có biện pháp điều tiết nhưng tránh can thiệp quá sâu về giá phí trên thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế để tránh trường hợp các công ty hạ giá phí dịch vụ một cách không lành mạnh để tranh giành khách hàng và không đảm bảo chất lượng dịch vụ cung cấp.
Đối với dịch vụ kiểm toán báo cáo quyết toán công trình XDCB, hiện nay mức giá phí được tính dựa trên Thông tư 70/2000/TC-BTC ngày 17/7/2000. Theo ý kiến của các công ty kiểm toán, mức giá phí này còn thấp. Bộ Tài chính cũng nên xem xét lại mức qui định này cho phù hợp với điều kiện hiện nay nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường kế toán, kiểm toán.
+ Tăng cường chất lượng dịch vụ, Bộ Tài chính phải nhanh chóng xây dựng và ban hành các chuẩn mực kiểm toán, đặc biệt là các chuẩn mực về chất lượng hoạt động kiểm toán. Ban hành các qui định bắt buộc mua bảo hiểm nghề nghiệp. Ngoài ra, vai trò kiểm tra chất lượng của Hiệp hội kế toán cũng cần phải được tăng cường hơn nữa, một biện pháp khác là tăng cường công tác kiểm tra chất lượng của đội ngũ kiểm toán viên, đặc biệt là đối với kiểm toán viên là người nước ngoài. Hiện nay, đối với các kiểm toán viên có chứng chỉ do các Hiệp hội kế toán nước ngoài cấp, Bộ Tài chính chỉ tiến hành sát hạch kiến thức về luật pháp kinh tế, tài chính, kế toán, và kiểm toán Việt Nam. Do đó, cần phải có cơ chế, nội dung kiểm tra sát hạch kiểm toán viên nước ngoài một cách phù hợp nhằm đảm bảo các kiểm toán viên nước ngoài hành nghề ở Việt Nam có đủ trình độ và kinh nghiệm. Đồng thời tiến hành đổi mới qui trình, nội dung kiểm tra cấp chứng chỉ kiểm toán viên đối với kiểm toán viên trong nước (quá trình này đòi hỏi sự tham gia tích cực của các tổ chức hội nghề nghiệp) nhằm nâng cao giá trị, uy tín của CPA Việt Nam ngang tầm với các chứng chỉ CPA quốc tế của Anh, Mỹ...; đây không chỉ nhằm mục đích nâng cao chất lượng của kiểm toán viên Việt Nam mà còn nhằm mục đích thúc đẩy tiến trình hội nhập về kế toán, kiểm toán cụ thể là việc ký kết các Hiệp định công nhận bằng cấp (MRA) với các nước. Ngoài ra phải có yêu cầu kiểm tra định kỳ và chương trình đào tạo thường xuyên đối với các kiểm toán viên có chứng chỉ nhằm đảm bảo chất lượng đội ngũ cán bộ cung cấp dịch vụ.
+ Nâng cao địa vị pháp lý và chức năng của tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán
Như đã phân tích ở phần trên, hiện nay Hội nghề nghiệp kế toán vẫn đóng vai trò thụ động trong quá trình quản lý, hướng dẫn hoạt động nghề nghiệp. Để nâng cao năng lực hoạt động của và năng lực nghề nghiệp kiểm toán ở Việt Nam cần khẩn trương luật hoá vai trò, chức năng của các tổ chức nghề nghiệp như Hội kế toán Việt Nam, Câu lạc bộ Kế toán trưởng, Hội đồng quốc gia về kế toán trong dự án Luật kế toán và Pháp lệnh kiểm toán. Vai trò, chức năng của các hội nghề nghiệp cần phải được qui định theo hướng cho phép các tổ chức này tham gia một cách tích cực vào quá trình quản lý và hướng dẫn hoạt động kiểm toán tại Việt Nam, đặc biệt trong các lĩnh vực:
* Xây dựng và ban hành hệ thống chuẩn mực kiểm toán, và hệ thống chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, và công tác kiểm tra tuân thủ các chuẩn mực trên;
* Kiểm soát , quản lý hành nghề, kiểm tra chất lượng hoạt động;
* Công tác đào tạo đội ngũ kế toán, kiểm toán viên công chứng (CPA) và tổ chức thi cấp chứng chỉ.
Về phía bản thân Hội kế toán Việt Nam cần hoạch định chiến lược xây dựng và phát triển hội thực sự trở thành một tổ chức nghề nghiệp theo một lộ trình phù hợp với chiến lược hội nhập kế toán và kiểm toán. Cụ thể: Nghiên cứu sửa đổi Điều lệ Hội; thành lập mới hoặc thành lập Chi hội kiểm toán trong Hội kế toán Việt Nam; thành lập trường hoặc trung tâm đào tạo chuyên gia kế toán, kiểm toán. Việc thành lập chi hội kiểm toán sẽ thúc đẩy cạnh tranh trên cơ sở vận hành trên cơ chế tự điều tiết của Hội và sẽ giảm bớt phần nào sự can thiệp hành chính không cần thiết đối với các vấn đề thuần tuý chuyên môn của các công ty kiểm toán. Với tư cách là một tổ chức đại diện cho các công ty kiểm toán hoạt động trên thị trường kiểm toán Việt Nam, Chi hội kiểm toán sẽ là cầu nối có hiệu quả giữa các công ty kiểm toán, cơ quan quản lý Nhà nước và khách hàng cũng như người sử dụng thông tin báo cáo tài chính thông qua việc cung cấp thông tin, đào tạo nghiệp vụ, xây dựng qui trình và quản lý chất lượng hoạt động...từ đó tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh giữa các công ty hội viên. Chi hội sẽ tham gia xây dựng các quy tắc, chuẩn mực, kiểm tra đạo đức nghề nghiệp, kiểm tra chéo chất lượng hoạt động ...
Hội đồng quốc gia về kế toán cần tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động. Hội đồng cần phải có trụ sở và bộ máy chuyên trách. Các ban tư vấn về kế toán và kiểm toán cần có chế độ và chương trình làm việc thường xuyên, chủ động tư vấn với Chính phủ và Bộ tài chính trong việc phát triển nghề nghiệp và dịch vụ kế toán, kiểm toán ở Việt Nam ...
+ Quy định về chế độ tiền lương
Như đã phân tích ở phần thực trạng, hiện nay chế độ tiền lương giữa các công ty thuộc các thành phần kinh tế có sự khác biệt lớn. Đặc biệt là công ty có vốn đầu tư nước ngoài do có sự hỗ trợ của các công ty mẹ cho nên tổng quỹ lương rất cao (thậm chí cao hơn doanh thu). Các công ty Nhà nước thực hiện quản lý đơn giá tiền lương 27% trên doanh thu, và bị khống chế mức tiền lương bình quân do Bộ trưởng Bộ LĐTBXH công bố hàng năm, ví dụ mức khống chế năm 2000 là 2.000.000 đ/người/tháng theo quyết định số 861/2000/QĐ-BLĐTBXH ngày 29/8/2000.
Thực trạng này gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình thu hút đội ngũ chất xám ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ đào tạo, dẫn đến vị thế thấp trong cạnh tranh. Đề nghị Bộ Tài chính và các bộ ngành liên quan (Bộ LĐTBXH...) có chính sách lương và thu nhập kiểm toán viên phù hợp với cường độ lao động và tương đối bình đẳng nhằm giảm bớt sự chênh lệch về chính sách tiền lương giữa các công ty thuộc các thành phần kinh tế trong khi vẫn đảm bảo được các nguyên tắc của kinh tế thị trường, tôn trọng quyền tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp và đảm bảo định hướng quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp Nhà nước, cụ thể trước mắt mức khoán % trên doanh thu cần phải cao hơn mức 27% (một lí do khác cho việc thay đổi mức khoán là vì doanh thu mới không bao gồm thuế GTGT)
+ Tăng cường tính pháp lí của báo cáo tài chính đã được kiểm toán và báo cáo kiểm toán; trách nhiệm của kiểm toán viên.
Điều1, Nghị định 07/CP về Qui chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế Quốc dân qui định: “...Sau khi có xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thì các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các đơn vị kế toán là căn cứ cho việc điều hành, quản lý hoạt động của đơn vị, cho các đơn vị quản lý cấp trên và cơ quan quản lý Nhà nước xét duyệt quyết toán hàng năm của các đơn vị kế toán, cho cơ quan thuế tính toán số thuế và các khoản nộp khác của đơn vị đối với ngân sách Nhà nước, cho các cổ đông, nhà đầu tư, các bên tham gia liên doanh, các khách hàng và các tổ chức, cá nhân xử lý các mối quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong quá trình hoạt động của đơn vị ”. Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện kiểm toán độc lập báo cáo tài chính hầu như chỉ nhằm mục đích duy nhất là đáp ứng yêu cầu của Luật định. Các tài liệu, số liệu đã được kiểm toán vẫn chưa mang tính pháp lý cao khi được sử dụng làm căn cứ xét duyệt quyết toán của cơ quan Nhà nước, cơ quan thuế và phục vụ cho các bên có liên quan... Để thúc đẩy sự phát triển của ngành kiểm toán, góp phần thực hiện công khai hoá minh bách báo cáo tài chính, đưa công tác quản lý tài chính, kế toán trong các doanh nghiệp đi vào nề nếp, tăng cường công tác quản lý và điều hành kinh tế - tài chính của Nhà nước và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp...,cần phải nâng cao tính pháp lý của các báo cáo tài chính đã dược kiểm toán, cụ thể cần phải có qui định về tính pháp lý trong dự thảo Pháp lệnh kiểm toán, và có hướng dẫn thực hiện cụ thể trong Nghị định và các văn bản dưới Luật khác.
Đồng thời với việc nâng cao tính pháp lý của báo cáo tài chính đã được kiểm toán cũng cần phải nâng cao trách nhiệm của kiểm toán viên, công ty kiểm toán. Qui định kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, công ty kiểm toán, khách hàng và cộng đồng và trách nhiệm của công ty kiểm toán phải được Luật hoá vào dự thảo Pháp lệnh kiểm toán và chi tiết, rõ ràng trong các văn bản dưới Luật.
+ Mở rộng phạm vi đối tượng kiểm toán, phạm vi khách hàng của các công ty kiểm toán:
Theo qui định hiện hành (điều 37 Luật đầu tư nước ngoài Việt Nam), chỉ có báo cáo tài chính của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp tác kinh doanh bắt buộc phải được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập của Việt Nam, tỷ lệ doanh nghiệp từ các khu vực khác thực hiện kiểm toán tự nguyện là rất thấp. Do đó, để phát triển thị trường dịch vụ kế toán, cần phải hoàn thiện các văn bản pháp qui ràng buộc nghĩa vụ phải kiểm toán báo cáo tài chính. Các định chế tài chính, ngân hàng và kinh doanh (Luật doanh nghiệp, Luật Ngân hàng và Luật kinh doanh chứng khoán...) cần xác định rõ các đối tượng bắt buộc phải sử dụng dịch vụ kiểm toán. Về nghĩa vụ kiểm toán báo cáo tài chính, cần phải tránh hai khuynh hướng sau:
Tránh qui định bắt buộc mọi doanh nghiệp, mọi đối tượng hàng năm đều phải kiểm toán báo cáo tài chính hoặc khuynh hướng hoàn toàn thực hiện qui chế kiểm toán. Qui định kiểm toán bắt buộc đối với mọi đối tượng vừa không hợp lý, vừa không khả thi, vì về nguyên tắc, ngoài một số định chế tài chính, ngân hàng ràng buộc thì việc sử dụng dịch vụ kế toán, kiểm toán là tự nguyện “thuận mua vừa bán” giữa nhà cung cấp dịch vụ và khách hàng. Bên cạnh đó, bản thân kiểm toán là một hoạt động kinh tế (dựa trên nguyên tắc lợi ích phải nhiều hơn chi phí bỏ ra để có được dịch vụ) nên không phải khách hàng nào cũng đủ khả năng tài chính để chi trả và không phải lúc nào việc sử dụng dịch vụ kế toán, kiểm toán đều đảm bảo tính hiệu quả về kinh tế. Ngoài ra, nếu qui định bắt buộc kiểm toán báo cáo tài chính đối với tất cả các đối tượng thì ngành kiểm toán không thể đáp ứng nổi.
Do đó ngoài qui định bắt buộc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có chứng khoán niêm yết trên thị trường chứng khoán, cần qui định các trường hợp cụ thể sau đây cũng phải kiểm toán:
* Qui định các Tổng công ty Nhà nước (TCT 90,91) hàng năm đều phải được kiểm toán báo cáo tài chính (Như tinh thần Nghi quyết hội Nghị TW 3-khoá 9).
* Đối với các doanh nghiệp độc lập, nên lấy một mức doanh thu nhất định để qui định phải kiểm toán (tại Anh, năm 1996 các doanh nghiệp có doanh thu từ 90.000 bảng trở lên đều bắt buộc phải kiểm toán báo cáo tài chính).
* Các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá phải được kiểm toán báo cáo tài chính và định giá tài sản.
* Các doanh nghiệp, tổ chức, và cá nhân vay vốn tại ngân hàng.
* Các trường hợp chia tách, sáp nhập, phá sản và giải thể doanh nghiệp.
Ngoài ra, hiện nay công ty kiểm toán có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được cung cấp dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác cho khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các dự án có vốn nước ngoài (trừ trường hợp công ty Ernst&Young gần đây được phép cung cấp dịch vụ kế toán và tư vấn tài chính cho các thành phần knh tế khác).
+ Giải pháp chính sách đối với doanh nghiệp kiểm toán Nhà nước, đối phó với các thách thức khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực đảm bảo vai trò chủ đạo của khu vực Nhà nước.
Duy trì, tiếp tục củng cố và phát triển loại hình công ty kiểm toán là doanh nghiệp Nhà nước. Theo thông lệ phổ biến ở các nước không có công ty kiểm toán là DNNN, tuy nhiên trên thực tế ở nước ta các công ty kiểm toán DNNN đều hoạt động có hiệu quả (chưa có doanh nghiệp nào thua lỗ), chiếm thị phần khá cao, hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước cao (vốn đầu tư Nhà nước không nhiều) được xã hội thừa nhận và ngày càng được tín nhiệm. Bên cạnh đó, theo định hướng phát triển kinh tế với vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp Nhà nước, do đó cần phải tiếp tục được duy trì, củng cố và phát triển loại hình công ty kiểm toán là DNNN.
Việc chuyển đổi hình thức sở hữu công ty kiểm toán là DNNN thành công ty cổ phần hoặc công ty hợp danh cần phải dược thực hiện từng bước nhằm đáp ứng nguyện vọng chính bản thân các công ty và phù hợp với chủ trương đổi mới và sắp xếp lại DNNN. Việc chuyển đổi thành công ty cổ phần sẽ giúp doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư cho cải tiến công nghệ và phát triển kinh doanh, đặc biệt tránh được một số khống chế về chính sách tiền lương, tài chính...nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh trên thị trường. Việc chuyển đổi hình thức này cũng góp phần giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, phát triển khách hàng tránh được thành kiến của các công ty nước ngoài, dự án quốc tế đối với các công ty kiểm toán DNNN.
Việc chuyển đổi thành công ty hợp danh là loại hình phổ biến và phù hợp với các công ty cung cấp dịch vụ mang tính chuyên nghiệp cao như tư vấn luật, kiểm toán kế toán...Hình thức pháp lý này sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và công ty trong quá trình cung cấp dịch vụ, cũng như các lợi ích khác như đối với các công ty cổ phần.
2. Các giải pháp về phía các tổ chức kiểm toán độc lập
Các công ty kiểm toán và chi nhánh, văn phòng cần tích cực xây dựng và áp dụng một hệ thống kiểm soát chất lượng hoạt động trong nội bộ từng công ty để nâng cao chất lượng dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của thị trường và có thể cạnh tranh có hiệu quả tại thị trường trong nước cũng như nước ngoài. Cụ thể, mở rộng danh mục dịch vụ, đa dạng hoá dịch vụ và phương thức cung cấp dịch vụ kế toán kiểm toán. Ngoài ra, trong điều kiện Việt Nam bên cạnh những dịch vụ cho các khách hàng lớn cần chú ý một số loại hình dịch vụ sau đây:
- Dịch vụ kế toán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh
- Dịch vụ xem xét báo cáo tài chính đối với các doanh nghiệp chưa có bộ máy kiểm toán nội bộ và khả năng tài chính hạn chế không thuê kiểm toán báo cáo tài chính.
- Dịch vụ tư vấn thuế cho các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế
- Dịch vụ tư vấn vế xúc tiến thương mại và tìm kiếm, khai thác thị trường
Kết luận
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ chính thức được thông qua và có hiệu lực đánh dấu một bước đi quan trọng trong quá trình đa dạng hoá quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam nhằm phát huy tối đa lợi thế so sánh của nền kinh tế để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Quan hệ kinh tế thương mại toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trên cơ sở Hiệp định chắc chắn sẽ đem lại cả cơ hội cũng như thách thức nhất định. Điều đó đặt ra nhiệm vụ quan trọng đối với Nhà nước Việt Nam, mà cụ thể là các cơ quan quản lý Nhà nước, là phải có các biện pháp, một mặt giúp mọi đối tượng trong nền kinh tế tận dụng được các cơ hội từ mối quan hệ kinh tế giữa 2 nước trong điều kiện mới, mặt khác, hạn chế những tác động tiêu cực có thể phát sinh trong giai đoạn ban đầu. Để đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ nêu trên, việc phân tích tác động của Hiệp định là hết sức cần thiết.
Trên cơ sở đó, những nội dung cơ bản mà đề tài đã giải quyết được đó là: Đề tài đã tập trung phân tích khá chi tiết các lĩnh vực tài chính chịu tác động như bảo hiểm, kiểm toán kế toán và tư vấn thuế và đưa ra các giải pháp khuyến nghị nhằm đảm bảo thực hiện tốt các cam kết trong Hiệp định và cũng góp phần chuẩn bị tốt cho quá trình ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO của Việt Nam.
Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
I. Các văn bản Luật
1. Tóm tắt Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
Bộ Thương mại Việt Nam (Vietnam Ministry of Trade)
2. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
3. Trích các văn bản pháp luật hiện hành có qui định về kiểm toán độc lập.
4. Trích các văn bản, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước liên quan đến kiểm toán độc lập.
5. Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 về kinh doanh bảo hiểm
6. Nghị định 42/2001/NĐ-CP ngày 1/8/2001 qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm.
7. Nghị định mới về kiểm toán độc lập
ân dân-24/ chuong-05.shtml
II. Sách tham khảo
8. Tìm hiểu Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và qui chế thương mại đa phương.
Tác giả Phạm Minh - Nhà xuất bản thống kê.
9. Báo cáo tổng kết 10 năm hoạt động kiểm toán độc lập 1991-2001 và định hướng phát triển đến năm 2010.
Bộ Tài chính 25/11/2001
10. Dự thảo chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm giai đoạn 2001- 2010
Bộ Tài chính
11. Đánh giá tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ nhìn từ phía Mỹ.
usembasy state.gov/Vietnam/wwwhtagv-htm/
12. Hiệp định thương mại giữa CHXHCNVN và Hoa Kỳ và quan hệ thương mại thời cơ và thách thức.
Tác giả Luật sư tiến sĩ luật học Phan Hữu Thư-Nhà xuất bản Công an Nhân dân.
13. Đánh giá tổng quan thị trường bảo hiểm Việt Nam sau khi có Nghị định 100/CP và những nội dung chính của dự án Luật kinh doanh bảo hiểm, 5/2000.
14. Hiện trạng ngành bảo hiểm
Kỷ yếu hội nghị Việt Trung
III. Báo và tạp chí
15. Những thách thức đối với công ty kiểm toán Việt Nam sau thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
Tác giả Lương Phạm Thuỳ Minh (Đại học kinh tế quốc dân thành phố Hồ Chí Minh)
16. Thị trường dịch vụ kế toán kiểm toán Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
PGS. TS Vương Đình Huệ
Hà Mỹ Dung
Tạp chí kiểm toán Số 3 Năm 2002.
17. Các giải pháp phát triển hoạt động của kiểm toán độc lập ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010.
PTS.TS Vương Đình Huệ
Tạp chí kiểm toán số 2 Năm 2002.
18. Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ bước tiến mới trong tiến trình hội nhập kinh tế của nước ta.
TSKH. Trần Nguyễn Tuyên
Ban kinh tế Trung ương
Châu Mỹ ngày nay số 5-2002.
19. Công tác kế toán, kiểm toán, thống kê trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
http:// www.stockmarket.vnn.vn/tintuc/taichinh/10a0801.htm
20. Tài liệu dịch
Yêu cầu kiểm toán và hành nghề kiểm toán ở Mỹ, úc , ấn độ, Nga, Philippine và Nhật bản.
IV. Tài liệu và nguồn khác.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van moi.doc
- bia Huyen.doc