LỜI MỞ ĐẦU
Từ những đầu năm 90, Kinh tế Việt nam trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau hơn 20 năm đổi mới Việt nam đã thu được những thành công về kinh tế đáng kể đó là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao và kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh. Nhưng đồng thời từ vài năm nay những nổi cộm về cơ cấu kinh tế cũng thể hiện rõ.
Như chúng ta đã biết, một cơ cấu kinh tế hợp lý là một trong ba chỉ tiêu quan trọng thể hiện trình độ phát t
58 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1553 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
riển của một đất nước bên cạnh hai chỉ tiêu: tăng trưởng kinh tế và các vấn đề xã hội. Cơ cấu kinh tế chịu tác động rất nhiều từ đầu tư. Do đó, trong đề án môn học này, em xin chọn đề tài: “Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam hiện nay”.
Qua đây, em xin cám ơn cô TS. Đinh Đào Ánh Thuỷ đã giúp em hoàn thành đề tài này.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ.
I. Đầu tư.
1. Khái niệm.
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư đã phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực phải hy sinh có đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ..
Những kết quả mà nhà đầu tư có thể nhận được là sự tăng them các tài sản chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Đầu tư có thê chia thành 3 loại là đầu tư phát triển, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Trong đó:
- Đầu tư phát triển là loại đầu tư đem lại các kết quả không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội được hưởng thụ, không chỉ trực tiếp làm tăng tài sản của nhà đầu tư mà của cả nền kinh tế.
- Đầu tư tài chính và đầu tư thương mại chỉ làm tăng tài sản chính của nhà đầu tư, tác động gián tiếp đến làm tăng tài sản của toàn bô nền kinh tế thông qua sự đóng góp tài thính tích luỹ của các hoạt động đầu tư này cho đầu tư phát triển, cung cấp vốn cho đầu tư phát triển và thúc đẩy quá trình lưu thông, phân phối các sản phẩm do các kết quả của kết quả của đầu tư phát triển tạo ra.
2. Vai trò của đầu tư.
2.1. Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế.
2.1.1. Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu nền kinh tế.
Tác động đến tổng cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm từ 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư thể hiện rõ trong ngắn hạn. Xét theo mô hình kinh tế vĩ mô, đầu tư là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, gia tăng đầu tư (I) làm cho tổng cầu (AD) tăng (nếu các yếu tố khác không thay đổi).
AD=C+ I + G + X – M
Trong đó: C: tiêu dùng, I: đầu tư, G: tiêu dùng của chính phủ; X: xuất khẩu, M: nhập khẩu
Tác động tới tổng cung: Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong nước và cung từ nước ngoài. Bộ phận chủ yếu, cung trong nước là một hàm của các yếu tố sản xuất: vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ…, thể hiện qua phương trình sau:
Q= F (K, L, T, R…)
Trong đó:
K: vốn đầu tư, L: lao động, T: công nghệ, R: nguồn tài nguyên
Như vậy tăng quy mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế, nếu các yếu tố khác không đổi. Mặt khác nếu tác động của vốn đầu tư còn được thực hiện thông qua các hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ…Do đó đầu tư gián tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế.
2.1.2. Đầu tư tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt mức từ 15-25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.
Vốn đầu tư Vốn đầu tư
ICOR = -------------------- Suy ra: Mức đầu tư = ------------
Mức tăng GDP ICOR
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5-7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước đang phát triển và chậm phát triển ICOR thấp từ 2-3 do thiếu vốn thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Kinh nghiệm cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các nghành, các vùng kinh tế cũng như phụ thuộc vào hiệu quả chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn ICOR trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất.
2.1.3. Đầu tư tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Để đánh giá mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành giữa 2 thời kỳ, người ta có thể sử dụng một số công thức sau:
Nếu:
Tỷ trọng của ngành nông nghiệp là:
Tỷ trọng của ngành công nghiệp và xây dựng là:
Tỷ trọng của ngành dịch vụ là:
Tỷ trọng của ngành phi nông nghiệp là:
Tỷ trọng của ngành sản xuất vật chất là:
Thì hệ số chuyển dịch k của hai ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp là:
Góc này bằng 00 khi không có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và 900 khi sự chuyển đổi cơ cấu là lớn nhất.
và độ lệch tỷ trọng nông nghiệp là:
Hệ số chuyển dịch k của hai ngành dịch vụ và sản xuất vật chất là
và độ lệch tỷ trọng dịch vụ và sản xuất vật chất là:
dDV =
2.1.4. Đầu tư tác động đến khoa học và công nghệ.
Trong mỗi thời kỳ, các nước có bước đi khác nhau để đầu tư phát triển công nghệ. Trong giai đoạn đầu, các nước đang phát triển do có nhiều lao động và nguyên liệu, thường đầu tư cá loại công nghệ sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu, sau đó giảm dần hàm lượng lao động, nguyên liệu trong sản xuất sản phẩm và tăng dần hàm lượng vốn thiết bị và tri thức thông qua đầu tư công nghệ hiện đại hơn và đầu tư đúng mức để phát triển nhân lực. Đến giai đoạn phát triển, xu hướng đầu tư mạnh vốn thiết bị và gia tăng hàm lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối. Tuy nhiên, quá trình chuyển từ giai đoạn thứ nhất sang giai đoạn thứ ba cũng là chuyển từ đầu tư ít sang đầu tư lớn, thay đổi cơ cấu đầu tư. Không có vốn đầu tư đủ lớn sẽ không đảm bảo thành công của quá trình chuyển đổi và sự phát triển của khoa học công nghệ.
2.2. Trên góc độ vi mô.
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở sản xuất.
Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt máy móc thiết bị, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư. Đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ đang còn tồn tại sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của những cơ sở này bị hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được các hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay đổi các cơ sở vật chất- kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho những trang thiết bị đã hư hỏng, lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư.
II. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1. Cơ cấu kinh tế.
1.1. Khái niệm.
Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là tổng thể những mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế: các lĩnh vực (sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng), các ngành kinh tế quốc dân (công nghiệp, nông nghiệp, thương mại- dịch vụ…), các thành phần kinh tế xã hội (kinh tế nhà nước, tư nhân, cá thể, tiểu chủ, nước ngoài…), các vùng kinh tế…
Phân tích quá trình phân công lao động xã hội, C.Mác nhấn mạnh: “Cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với một quá trình phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất.”; “Do tổ chức quá trình lao động và phát triển kỹ thuật một cách mạnh mẽ làm đảo lộn toàn bộ cơ cấu kinh tế của xã hôi”. Mác còn phân tích cơ cấu kinh tế ở cả hai mặt chất lượng và số lượng, “cơ cấu là một sự phân chia về chất lượng và một tỷ lệ về số lượng của những quá trình sản xuất xã hội”.
Nói một cách khái quát, có thể hiểu cơ cấu kinh tế là mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành một tổng thể kinh tế, các bộ phận này có mối liên hệ hữu cơ, những tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng, các quan hệ tỷ lệ được hình thành trong những điều kiên kinh tế xã hội nhất định, chúng luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể.
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành cơ cấu kinh tế.
Có thể phân chia những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự hình thành cơ cấu của kinh tế quốc dân thành 3 nhóm:
Nhóm thứ nhất, gồm những nhân tố địa lý tự nhiên như tài nguyên khoáng sản, nguồn nước, năng lượng, đất đai, khí hậu… Thiên nhiên là điều kiện chung của sản xuất, đồng thời cũng như là những tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, ảnh hưởng rõ rệt của những nhân tố địa lý tự nhiên đến sự hình thành cơ cấu kinh tế là tất yếu.
Nhóm thứ hai, là nhóm nhân tố kinh tế- xã hội bên trong đất nước, nó ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế như cung cầu thị trường, trình độ phát triển lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, trình độ phát triển cua nền kinh tế.
Nhóm thứ ba, là nhóm những nhân tố bên ngoài, đó là quan hệ kinh tế đối ngoại và phân công lao động quốc tế.
2. Phân loại cơ cấu kinh tế.
2.1. Cơ cấu kinh tế ngành.
Liên hợp quốc đã ban hành “Hướng dẫn phân loại ngành theo tiêu chuẩn quốc tế đối với toàn bộ các hoạt động kinh tế”, theo đó có thể gộp các ngành phân thành 3 khu vực, đó là
- Nông nghiệp bao gồm:
+ Nông nghiệp
+ Lâm nghiệp
+ Ngư nghiệp
2.1.2. Công nghiệp.
Công nghiệp là 1 ngành quan trọng của nền kinh tế. Công nghiệp bao gồm công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng. Trong đó:
- Công nghiệp nhẹ bao gồm: chế biến nông- lâm- thuỷ sản, may mặc, da giầy, điện tử- tin học, một số sản phẩm cơ khí và hành tiêu dung.
- Công nghiệp nặng bao gồm: Dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng…
2.1.3. Thương mại- dịch vụ.
Thương mại- dịch vụ là ngành kinh tế ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển của ngành kinh tế quốc dân. Nó bao gồm: Thương mại, dịch vụ vận tải hang hoá, hành khách, dịch vụ bưu chính viễn thông, dịch vụ tài chính tiền tệ (như tín dụng, bảo hiểm, kiểm toán, chứng khoán…), dịch vụ tư vấn, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ phục vụ đời sống… Đối với Việt Nam hiện nay, du lịch đang thực sự trở thành 1 ngành kinh tế mũi nhọn.
Tóm lại, trong quá trình sản xuất, các ngành có mối liên hệ tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Mối liên hệ giữa các ngành không chỉ biểu hiện về mặt định tính mà còn được tính toán thông qua tỷ lệ giữa các ngành, thường được gọi là cơ cấu ngành. Như vậy, cơ cấu ngành là mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, mối quan hệ này bao hàm cả về số lượng và chất lượng. Chúng thường xuyên biến động và hướng vào những mục tiêu nhất định. Cơ cấu ngành là bộ phận rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế. Sự biến động của nó có ý nghĩa quyết định đến sự biến động của nền kinh tế.
2.2. Cơ cấu kinh tế vùng - lãnh thổ.
Cơ cấu kinh tế vùng- lãnh thổ là sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ trên phạm vi cả nước. Việc xác lập cơ cấu kinh tế vùng- lãnh thổ 1 cách hợp lý nhằm phân bố các ngành sản xuất trên vùng- lãnh thổ sao cho thích hợp để triển khai có hiệu quả mọi tiềm năng và lợi thế của từng vùng. Việc bố trí sản xuất ở mỗi vùng không khép kín mà có sự liên kết các vùng khác có liên quan để gắn với cơ cấu kinh tế của cả nước. Ở Việt Nam có thê chia ra các vùng kinh tế như sau:
- Trung du và miền núi Bắc Bộ.
- Đồng bằng Bắc Bộ.
- Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung .
- Tây Nguyên.
- Đông Nam Bộ
- Đồng bằng sông Cửu Long.
2.3. Cơ cấu thành phần kinh tế.
Cơ cấu các thành phần kinh tế được hình thành trên cơ sở chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Sự chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế phải dựa trên nguyên tắc huy động tối đa nguồn lực và đạt hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Cơ cấu các thành phần kinh tế gồm:
- Kinh tế Nhà nước.
- Kinh tế tập thể.
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ.
- Kinh tế tư nhân.
- Kinh tế hỗn hợp.
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
3. Chuyển dich cơ cấu kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu là quá trình phát triển các bộ phận kinh tế, dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa chúng và làm thay đổi mối quan hệ tương quan giữa chúng so với một thời điểm trước đó.
3.1. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ngày nay, không chỉ có các nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển mới có sự điều chỉnh cơ cấu kinh tế; Chính trong nền kinh tế công nghiệp phát triển cũng cần phải thường xuyên điều chỉnh cơ cấu kinh tế để tiếp tục phát triển.
Ở Việt Nam, quá trình chuyển dịch nền kinh tế theo hướng CNH- HĐH đang trở thành một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết bởi các lý do sau:
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tất yếu phải gắn với CNH- HĐH mới sử dụng được nhiều lợi thế so sánh nước công nghiệp chậm phát triển, nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và phát triển.
- Thực tiễn nuớc ta vẫn trong tình trạng nền sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất kỹ thuật còn thấp kém và nhỏ bé, công nghệ lạc hậu….sản phẩm sản xuất ra có chất lượng kém, không có khả năng cạnh tranh, khó tiêu thụ, đời sống nhân dân gặp khó khăn. Để giải quyết căn bản vấn đề trên phải đổi mới cơ cấu kinh tế.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng và dịch vụ cho đời sống còn thấp kém so với các nước trong khu vực và thế giới. Nhiều ngành, lĩnh vực còn thấp kém làm cho nền kinh tế chưa vững chắc, tài nguyên nhiều, lực lượng lao động dồi dào chưa có khả năng và khai thác có hiệu quả, giải pháp duy nhất để khắc phục là tiến hành CNH- HĐH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế mở đương cho sản xuất phát triển.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH để tận dụng cơ hội vượt qua thử thách, khắc phục và tránh đuợc các nguy cơ tụt hậu về kinh tế. đi chệch hướng XHCN, quan liêu bao cấp…nhằm thực hiện mục tiêu của Đảng và nhà nước đề ra “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
3.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
3.2.1. Cơ cấu kinh tế ngành.
Có sự chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ; Đẩy nhanh CNH- HĐH nông nghiệp và nông thôn; Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng cách ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học.
Về công nghiệp, vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông thủy sản, may mặc... Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng. Sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng, khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, thương mại, kể cả thương mại điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm...
3.2.2. Cơ cấu kinh tế vùng- lãnh thổ.
Phát huy vai trò của vùng kinh tế trọng điểm có mức tăng trưởng cao, tích lũy lớn, đồng thời tạo ra điều kiện phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng vùng, liên kết với vùng trọng điểm tạo mức tăng trưởng khá; Quan tâm phát triển kinh tế- xã hội gắn với tăng cường quốc phòng- an ninh ở các vùng miền núi, đồng bào các dân tộc thiểu số, biên giới hải đảo, chú trọng các vùng tây nguyên, tây bắc, tây nam. Có chính sách hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng khó khăn để phát triển cơ cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, xóa đói giảm nghèo, đưa các vùng này vượt qua tình trạng kém phát triển.
3.2.3. Cơ cấu các thành phần kinh tế.
Chú trọng phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế khác nhau, giữa trong và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội.
III. Vai trò của đầu tư trong việc chuyển dich cơ cấu kinh tế ở Việt Nam.
1. Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
Đối với cơ cấu kinh tế ngành, đầu tư vốn vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư nhiều hay ít, việc sử dụng vốn hiệu quả cao hay thấp... đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành.
2. Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ.
2.1. Đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế vùng lãnh thổ.
- Đầu tư giúp các vùng- lãnh thổ phát huy được tiềm năng, thế mạnh kinh tế của vùng.
- Đầu tư góp phần nâng cao tỷ trọng đóng góp vào GDP của các vùng- lãnh thổ được đầu tư.
2.2. Đầu tư tác động giúp nâng cao đời sống dân cư.
Nguồn vốn đầu tư được sử dụng vào các hoạt động sản xuất và dịch vụ góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động, giúp nâng cao thu nhập của dân cư, giúp xóa đói giảm nghèo.
2.3. Đầu tư góp phần giải quyết vấn đề mất cân đối về kinh tế giữa các vùng.
Nguồn vốn đầu tư thường được tập trung ở những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế của những khu vực đó. Và đến lượt mình, những vùng phát triển này lại làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Các vùng kinh tế trọng điểm được đầu tư phát huy thế mạnh của mình, góp phần lớn vào sự phát triển chung của cả đất nước, kéo con tàu kinh tế chung của đất nước đi lên, khi đó các vùng kinh tế khác mới có điều kiện để phát triển.
Đầu tư cũng đã thúc đẩy các vùng kinh tế khó khăn có khả năng phát triển, giảm bớt sự chênh lệch kinh tế với các vùng khác.
Như vậy, đầu tư có sự tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế vung- lãnh thổ, từng vùng có khả năng phát triển kinh tế cao hơn, phát huy thế mạnh của vùng, đời sống nhân dân trong vùng có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, trên thực tế, mức độ đầu tư vùng là khác nhau, điều đó làm cho nền kinh tế giữa các vùng vẫn luôn khác nhau, chênh lệch nhau.
3. Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế.
3.1. Đầu tư thúc đẩy tạo ra những chuyển biến về tỷ trọng đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua, cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ và bước đầu đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Bên cạnh khu vực kinh tế trong nước, khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI cũng ngày càng có những đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế cả nước. Đáng chú ý là trong khu vực kinh tế trong nước cơ cấu của các thành phần đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước và giảm tỷ trọng của kinh tế Nhà nước phù hợp chủ trương đa dạng hóa các thành phàn kinh tế nhưng vẫn đảm bảo vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
3.2. Tạo ra sự phong phú đa dạng về nguồn vốn đầu tư.
Nền kinh tế bao cấp đã chỉ rõ những nhược điểm của mình với 2 thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể) và nguồn vốn chỉ do ngân sách cấp, do đó, không mang lại hiệu quả cao. Nhưng từ khi nước ta chuyển sang kinh tế thị trường thì nền kinh tế không chỉ tồn tại 2 thành phần như trước đây mà đã xuất hiện thêm các thành phần kinh tế khác (kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài). Cùng với sự xuất hiện này là sự đa dạng về nguồn vốn đầu tư do các thành phần kinh tế mới mang lại. Việc có thêm các thành phần kinh tế mới đã huy động và tận dụng được các nguồn lực trong xã hội một cách hiệu quả hơn, khuyến khích được mọi cá nhân tham gia đầu tư làm kinh tế.
Vốn đầu tư của họ có thể đến được những nơi, những lĩnh vực mà Nhà nước chưa đầu tư đến hoặc không có đủ vốn để đầu tư. Chính vì vậy, việc đa dạng hóa nguồn vốn là một yếu tố không thể thiếu được trong đầu tư phát triển.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở VIỆT NAM.
I. Tổng quan về đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam.
Theo báo cáo đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội các năm 2005, 2006, 2007 và những tháng đầu năm 2008 của Chính phủ, theo thông cáo báo chí các năm 2005, 2006, 2007, và thông báo Tổng điều tra dân số năm 2007 cuả Tổng cục Thống kê, và theo các báo cáo của nhiều đảng bộ tỉnh và thành phố tại các Hội nghị kiểm điểm giữa nhiệm kỳ vừa qua, nhìn riêng về góc độ chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế đất nước theo định hướng do Đại hội X của Đảng đề ra, bước đầu chúng ta có thể khẳng định cơ cấu của nền kinh tế nước ta gần 3 năm qua đang tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa.
Phát huy tiềm năng và thế mạnh của mình, các thành phần kinh tế phát triển khá mạnh mẽ. Khu vực kinh tế Nhà nước 3 năm qua luôn luôn duy trì tỷ lệ khoảng 38,4% và đang được đổi mới, tổ chức lại giữ vai trò chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt và tập trung hơn vào những lĩnh vực chủ yêú của nền kinh tế. Kinh tế dân doanh (bao gồm kinh tế cá thể, doanh nghiệp tư nhân, và hợp tác xã) phát triển nhanh đã chiếm tỷ lệ khoảng 45 đến 46% và hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, có nhiều đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là giải quyết việc làm, cải thiện dân sinh, xoá đói giảm nghèo.Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng trưởng cao, có nhiều dự án có nguồn vốn lớn, khu vực này chiếm tỷ lệ khoảng từ 15 đến 17,5 % …
Ba năm qua, kinh tế ngành cũng có nhiều biến đổi tích cực: Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP chiếm từ 40,6 – 40,7%, tỷ trọng dịch vụ chiếm khoảng 38,7 – 38,8%, tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 20,6 – 20,7%. Trong từng ngành nghề kinh tế đang có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản phẩm chẳng hạn như trong nhóm nông, lâm, ngư nghiệp thì tỷ trọng thuỷ sản đang tăng lên, trong công nghiệp, tỷ trọng của ngành chế biến công nghiệp đang có chiều hướng phát triển, trong dịch vụ, tỷ trọng các ngành dịch vụ có chất lượng cao như : tài chính, ngân hàng, du lịch, bảo hiểm ngày càng phát triển nhanh.
Ba năm qua kinh tế vùng phát triển khá ngoạn mục và đồng đều. Ngoài bốn vùng kinh tế trọng điểm là: Đồng bằng Sông Hồng, duyên hải Nam Trung bộ, Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu long, các vùng kinh tế khác như Tây Bắc, Tây Nguyên …đều có những bước phát triển đột phá. Tính đến tháng 7-2007 cả nước đã có 577 cụm công nghiệp, trong đó có 168 khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
Gắn liền với sự phát triển ngành nghề sản xuất, cơ cấu lao động 3 năm qua đang có sự chuyển dịch nhanh chóng. Tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng lên, và lao động trong nông nghiệp đang giảm đi. Một thực tế đáng buồn là tỷ trọng lao động qua đào tạo để đáp ứng với nghề nghiệp mới còn rất hạn chế, người ta ước tính tỷ lệ này vẫn chỉ dừng ở mức khoảng 20 đến 30%
II. Thực trạng về tác động của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
Cơ cấu vốn đầu tư phát triển ngành kinh tế quốc dân trong thời kỳ đổi mới đã dịch chuyển mạnh theo hướng đầu tư cho công nghiệp, dịch vụ và chú ý đầu tư cho nông nghiệp một cách hợp lý.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng năm 2008 ước tính tăng 6,52% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,57%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,09%; khu vực dịch vụ tăng 7,23%.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước 9 tháng vừa qua tuy thấp hơn mức tăng cùng kỳ của một số năm gần đây và chưa đạt mức tăng 7% đề ra cho cả năm 2008, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm mà nền kinh tế nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng như trên là một kết quả quan trọng và rất đáng phấn khởi.
Bảng 1: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế theo giá so sánh năm 1994
Đơn vị: %
Tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước
Đóng góp vào tăng trưởng (điểm %)
9 tháng đầu năm 2006
9 tháng đầu năm 2007
9 tháng đầu năm 2008
Tổng số
7,84
8,16
6,52
6,52
Khu vực nông- lâm nghiệp thủy sản
3,14
3,22
3,57
0,64
Khu vực công nghiệp, xây dựng
9,78
10,07
7,09
2,95
Khu vực dịch vụ
8,06
8,52
7,23
2,93
Nguồn: www.images.vneconomy.vn
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, tăng trưởng của ngành nông nghiệp đạt 3,05%, cao hơn mức 2,2% của cùng kỳ năm trước do vụ lúa đông xuân và hè thu năm nay được mùa.
Khu vực công nghiệp và xây dựng chịu ảnh hưởng lớn do giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào tăng cao, hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn nên công nghiệp chế biến là ngành chiếm tỷ trọng lớn nhưng chỉ tăng 11,45%, thấp hơn mức tăng 12,64% của 9 tháng năm trước; công nghiệp khai thác giảm 4,69%; xây dựng giảm 0,33% (9 tháng năm 2007 tăng 10,14%).
Các ngành dịch vụ nhìn chung tăng chậm hoặc thấp hơn mức tăng cùng kỳ năm 2007, trong đó thương nghiệp chiếm tỷ trọng 3,9% của toàn ngành dịch vụ nhưng chỉ tăng 6,31% so với mức tăng 8,27% của 9 tháng năm 2007; khách sạn nhà hàng tăng 8,89% so với mức tăng 12,73% của cùng kỳ năm trước; các ngành dịch vụ khác cũng tăng chậm, hầu hết có tốc độ tăng thấp hơn tốc độ tăng cùng kỳ năm trước.
Bảng 2: Cơ cấu đóng góp GDP của các ngành kinh tế 9 tháng đầu năm 2008
Theo giá thực tế
Theo giá so sánh 1994
Tổng số
(Tỷ đồng)
Cơ cấu
(%)
Tổng số
(Tỷ đồng)
Tốc độ phát triển so với 9 tháng năm 2007 (%)
TỔNG SỐ
1016503
100,00
345353
106,52
I. Khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản
219535
21,59
600,24
103,57
1
Nông nghiệp
167642
16,49
48518
103,05
2
Lâm nghiệp
9879
0,97
1867
101,35
3
Thuỷ sản
42014
4,13
9639
106,70
II. Khu vực công nghiệp và xây dựng
405145
39,86
144213
107,09
1
Công nghiệp
348009
34,24
117890
108,90
2
CN khai thác mỏ
98174
9,66
16762
95,31
3
CN chế biến
215092
21,16
89775
111,45
4
CN điện ga nước
34743
3,42
11353
112,29
5
Xây dựng
57136
5,62
26323
99,67
III. Khu vực dịch vụ
391823
38,55
141116
107,23
1
Thương nghiệp
137838
13,56
55004
106,31
2
Khách sạn nhà hàng
45788
4,50
13684
108,89
3
Vận tải, bưu điện, du lịch
47088
4,63
15795
113,61
4
Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm
17031
1,68
6509
106,65
5
Khoa học – Công nghệ
5361
0,53
1822
105,96
6
Kinh doanh bất động sản
41732
4,11
12606
102,51
7
Quản lý nhà nước
27794
2,73
9022
106,50
8
Giáo dục đào tạo
27924
2,75
11965
108,14
9
Y tế
13531
1,33
4908
107,91
10
Văn hoá thể thao
3503
0,34
1732
107,38
11
Đảng, đoàn thể, hiệp hội
1364
0,13
394
107,31
12
Phục vụ cá nhân cộng đồng
21062
2,07
7,055
106,42
13
Dịch vụ làm thuê
1807
0,18
620
107,20
Nguồn: www.images.vneconomy.vn
1. Nông nghiệp.
Nhìn từ khía cạnh xuất khẩu nông sản, sau một năm gia nhập WTO, những mặt hàng chủ lực của nền nông nghiệp Việt Nam vẫn đang chứng tỏ thế và lực của một đất nước với không ít sản phẩm nông nghiệp được ghi danh trên thương trường thế giới.
Theo đánh giá của Vụ Kế hoạch (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), năm 2007 tiếp tục là năm thành công trong xuất khẩu nông sản. Đến tháng 11/2007, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản của cả nước đã đạt 10,5 tỷ USD. So với năm 2006, năm cũng được coi là rất thành công trong xuất khẩu nông sản của Việt Nam, con số này đã tăng tới 20%. Đến hết tháng 10/2007, xuất khẩu gạo đã hoàn thành chỉ tiêu với sản lượng xuất khẩu xấp xỉ năm trước (4,5 triệu tấn) nhưng kim ngạch xuất khẩu tăng 18% (1,42 tỷ USD). Trong tuần đầu của tháng 11, cà phê Việt Nam vượt ngưỡng xuất khẩu 1 triệu tấn với tổng giá trị kim ngạch 1,55 tỷ USD (cao hơn mức dự kiến xuất khẩu của cả năm). Hiện đã có tới 5 mặt hàng là thuỷ sản, gỗ và sản phẩm gỗ, cà phê, gạo và cao su đạt giá trị xuất khẩu từ 1-3 tỷ USD.
Ngay chính trong nội bộ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng đã có sự chuyển dịch ngày càng tích cực hơn theo hướng CNH,HĐH. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp khu vực nông thôn đã tăng từ 17,345 năm 2001 lên 19,3% năm 2007. Trên cơ sở đó, đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội nông thôn mà biểu hiện rõ nhất là đã thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu hộ nông thôn theo hướng ngày càng tăng thêm các hộ làm công nghiệp, thương mại và dịch vụ; trong khi số hộ làm nông nghiệp thuần tuý thì giảm dần. Tỷ lệ hộ nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp) đã giảm 9,87%, tỷ lệ hộ công nghiệp tăng lên 8,78%. Năm 2007, số hộ công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn có 3,6 triệu hộ, tăng 62% so với năm 2000.
2. Công nghiệp.
Năm 2006, ngành công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng 17%. Kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp đạt trên 30 tỷ USD, tăng hơn 22%, chiếm tỷ trọng hơn 76% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá. Ngành cũng đã đạt kỷ lục về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với 490 dự án và số vốn trên 5 tỷ USD.
Năm 2007, toàn ngành công nghiệp tăng 17,1%, là tốc độ tăng khá cao và là năm thứ 17 liên tục tăng hai con số, tăng liên tục, tăng trong thời gian dài hiếm thấy so với các thời kỳ trước đó và cũng hiếm thấy so với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. .
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu đến năm 2008 đã đạt và vượt chỉ tiêu Đại hội X đặt ra, như than sạch, quặng apatit, thép cán và sản phẩm kéo dây, động cơ diezen, động cơ điện, lắp ráp ti vi, phân lân, phân NPK, bia, giấy… Hoạt động xuất khẩu có những bước phát triển quan trọng, hàng hóa Việt Nam đã xâm nhập, đứng vững tại một số thị trường lớn, thị trường đầy tiềm năng như Hoa Kỳ, EU. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu năm 2008 đạt 65 tỉ USD, gấp 2 lần năm 2005.
Trong các sản phẩm công nghiệp, tăng trưởng cao đạt được ở các sản phẩm đang có thị trường và giá cả tiêu thụ tốt, như thuỷ sản chế biến tăng 34,8%, bia 21,5%, vải lụa thành phẩm 25,2%, quần áo may sẵn 19,6%, phân hoá học 20,2%, xi măng 20,6%, thép cán 16,5%, máy giặt 21,1%, đặc biệt là ôtô tăng tới 71,3%..
Các sản phẩm khai thác tăng thấp hoặc giảm, như than tăng 12%, dầu thô khai thác giảm 4,7%, khí đốt thiên nhiên dạng khí chỉ tăng 0,9%. Tuy nhiên một số sản phẩm chủ yếu còn tăng thấp, nhất là điện sản xuất chỉ tăng 13,5%- thấp hơn tốc độ tăng của toàn ngành công nghiệp. Tình trạng than xuất khẩu tăng nhưng điện phải mua với giá cao đã được đề cập nhiều từ mấy năm nay cũng là một điểm đáng lưu ý.
3. Thương mại - dịch vụ.
Ngành dịch vụ của Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng rất cao trong những năm vừa qua. Nếu tốc độ phát triển của thương mại hàng hoá chỉ là một con số thì với ngành dịch vụ, tốc độ này luôn duy trì ở mức hai con số. Hiện tỷ trọng dịch vụ trong toàn nền kinh tế quốc dân là trên 32% và đ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22428.doc