MỤC LỤC
Mở đầu 5
Danh mục tài liệu tham khảo 78
Lời nói đầu
Việt Nam đang từng bước thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH- HĐH) đất nước, chuyển từ nền sản xuất kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một khâu quan trọng của quá trình CNH- HĐH là chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phản ánh sự thay đổi về chất, là dấu hiệu đánh giá, so sánh các giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
Đầu tư là một trong số các nhân tố có tác
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1431 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp quy luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kì, tạo ra sự cân đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng, phát huy nội lực của nền kinh tế, trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực. Chỉ có trên cơ sở đầu tư đúng, trọng tâm, trọng điểm và đồng bộ, cơ cấu đầu tư hợp lí… mới làm cho cơ cấu kinh tế dịch chuyển đúng hướng.
Đó là nội dung chính trong bài viết của nhóm em về đề tài :
“ Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam”.
Chúng em chân thành cảm ơn thầy Từ Quang Phương đã hướng dẫn và góp ý để nhóm em có thể hoàn thành bài viết này.
Tuy nhiên, do điều kiện thời gian và kiến thức kinh tế còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong thầy và các bạn đóng góp thêm ý kiến để bài viết được hoàn thiện hơn.
Nhóm 6
CHƯƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
ĐẦU TƯ -CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
I. Đầu tư- Đầu tư phát triển
1. Khái niệm đầu tư-đầu tư phát triển
Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung, là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Nguồn lực phải hy sinh có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ. Những kết quả sẽ đạt được có thể là sự tăng lên về tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (đường sá, nhà máy…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, quản lý, khoa học , kỹ thuật) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm các hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
Như vậy nếu xét theo phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn lực và trí tuệ, hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay thuộc phạm trù đầu tư phát triển.
Từ đây có định nghĩa về đầu tư phát triển như sau:
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động, và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm thiết bị và lắp đặt chúng tên nền bệ, bồi dưõng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế- xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
2. Phân loại đầu tư phát triển:
Có nhiều tiêu thức để phân loại đầu tư phát triển, trong đó có thể sử dụng một số tiêu thức sau:
Theo bản chất của đối tượng đầu tư
- Đầu tư cho đối tượng vật chất: đầu tư tài sản vật chất hoặc đầu tư tài sản thực như nhà xưởng, máy móc, thiét bị…
- Đầu tư cho đối tượng phi vật chất: đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo nghiên cứu khoa học, y tế…
Theo phân cấp quản lý:
Đầu tư phát triển được chia thành đầu tư theo các dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A, B, C, trong đó dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định, dự án nhóm A do Thủ tuớng Chính phủ quyết định, nhóm B và C do bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định.
Theo lĩnh vực hoạt động đầu tư:
- Đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh
- Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật
- Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau. Chẳng hạn đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, còn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đến lượt mình lại tạo tiềm lực cho đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và các hoạt động đầu tư khác
Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư:
Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định.
- Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có, duy trì sự hoạt động của cơ sở vật chất- kỹ thuật không thuộc các doanh nghiệp.
Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội.
- Đầu tư thương mại là hoạt động đầu tư mà thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn. Vốn vận động nhanh, độ mạo hiểm thấp do trong thời gian ngắn tính bất định không cao, lại dễ dự đoán và dự đoán dễ đat độ chính xác cao
- Đầu tư sản xuất là loại đầu tư dài hạn, vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi chậm, thời gian thưc hiện đầu tư dài, độ mạo hiểm cao, vì tính kỹ thuật của hoạt động đầu tư phức tạp, phải chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương lai không thể dự đoán hết và dự đoán chính xác được (về nhu cầu, giá cả đầu vào và đầu ra, cơ chế chính sách, thiên tai, sự ổn định khoa học kỹ thuật)
Theo thời gian thực hiện
- Đầu tư dài hạn là việc đầu tư xây dựng các công trình đòi hỏi thời gian đầu tư dài, khối lượng vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu. Đó là các công trình thuộc lĩnh vực sản xuất, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng... Đầu tư dài hạn thường mang yếu tố khó lường, rủi ro lớn, do đó cần có những dự báo dài hạn, khoa học.
- Đầu tư ngắn hạn là loại đầu tư tiến hành trong một khoảng thời gian ngắn, thường do những chủ đầu tư ít vốn thực hiện, đầu tư vào những hoạt động nhanh chóng thu hồi vốn. Tuy nhiên rủi ro với hình thức đầu tư này cũng rất lớn.
Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư
- Đầu tư gián tiếp: trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành quản lý quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư, người có vốn thông qua các chuơng trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp cho các chính phủ của các nước khác vay để phát triển kinh tế xã hội, là việc các cá nhân mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái phiếu …để hưởng lợi tức. Đầu tư gián tiếp là phương thức huy động vốn cho đầu tư phát triển.
- Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện vận hành kết quả đầu tư. Đây là loại đầu tư tái sản xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để tăng thêm việc làm cho người lao động tiền đề thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch.
Theo nguồn vốn trên phạm vi quốc gia
- Đầu tư bằng nguồn vốn trong nước: các hoạt động đầu tư được tài trợ từ nguồn vốn tích luỹ của ngân sách, của doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư.
- Đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài: hoạt động đầu tư được thực hiện bằng các nguồn vốn đầu tư gián tiếp và trực tiếp nước ngoài.
3. Đặc điểm của đầu tư phát triển:
Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác, gồm những đặc điểm chủ yếu sau:
Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi vốn lớn, nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là giá phải trả khá đắt của đầu tư phát triển.
Thời gian thực hiện đầu tư dài. Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát triển có thời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm. Do vốn lớn lại nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Thời gian vận hành kết quả đầu tư kéo dài, thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời gian sử dụng và đào thải công trình. Nhiều thành quả đầu tư phát huy tác dụng lâu dài, có thể tồn tại vĩnh viễn. Trong suốt quá trình vận hành, các kết quả đầu tư chịu sự tác động hai mặt, cả tích cực và tiêu cực của nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội…
Nếu sản phẩm của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ chịu ảnh hưởng của điều kiện thời tiết, khí hậu, điều kiện thuỷ văn của địa điểm đó.
Dễ gặp phải rủi ro. Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài…nên mức rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao.
4. Vai trò của Đầu tư phát triển
Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu
Tác động đến tổng cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm từ 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư thể hiện rõ trong ngắn hạn. Xét theo mô hình kinh tế vĩ mô, đầu tư là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, gia tăng đầu tư (I) làm cho tổng cầu (AD) tăng (nếu các yếu tố khác không thay đổi).
AD=C+ I + G + X – M
Trong đó: C: tiêu dùng, I: đầu tư, G: tiêu dùng của chính phủ; X: xuất khẩu, M: nhập khẩu
Tác động tới tổng cung: Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong nước và cung từ nước ngoài. Bộ phận chủ yếu, cung trong nước là một hàm của các yếu tố sản xuất: vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ…, thể hiện qua phương trình sau:
Q= F (K, L, T, R…)
Trong đó:
K: vốn đầu tư, L: lao động, T: công nghệ, R: nguồn tài nguyên
Như vậy tăng quy mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế, nếu các yếu tố khác không đổi. Mặt khác nếu tác động của vốn đầu tư còn được thực hiện thông qua các hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ…Do đó đầu tư gián tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế.
Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định của nền kinh tế:
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư dù là lớn hay nhỏ đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn, khi đầu tư tăng lên, cầu của yếu tố đầu tư tăng lên làm cho giá của các hàng hoá có liên quan tăng ( giá chi phí vốn, công nghệ, lao động…), đến mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, đầu tư làm cho cầu các yếu tố liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển thu hút nhiều lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Ngược lại khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt theo chiều hướng ngược lại so với các tác động trên đây. Vì vậy trong điều hành nền kinh tế vĩ mô, các nhà hoặch định chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra chính sách nhằm hạn chế tác động xấu nhằm phất huy tác động tích cực, duy trì sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế
Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế
Kết quả nghiên cứu cho thấy, muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt mức từ 15-25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.
Vốn đầu tư Vốn đầu tư
ICOR = ------------------------- Suy ra: Mức đầu tư= ----------------
Mức tăng GDP ICOR
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5-7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước đang phát triển và chậm phát triển ICOR thấp từ 2-3 do thiếu vốn thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Kinh nghiệm cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các nghành, các vùng kinh tế cũng như phụ thuộc vào hiệu quả chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn ICOR trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất.
Đầu tư có vị trí quan trọng ảnh hưởng tới việc nâng cao chất lượng đội ngũ lao động:
Việc đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng chuyên môn cao, sản phẩm làm ra có chất lượng yêu cầu cần phải được đầu tư vào công tác đào tạo từ cấp thấp nhất đến cấp cao nhất, chi phí đào tạo ở đây bao gồm chi phí của nhà nước và chi phí của dân cư cho con em đi học. Và như vậy, để có được đội ngũ công nhân lành nghề, đội ngũ quản lý giàu kinh nghiệm cần phải thông qua tuyển dụng, chọn lọc,… để tiến hành khâu này cần phải tốn một khoản chi phí nhất định, khi đó sẽ có được đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn, năng suất cao và sản phẩm làm ra có chất lượng tốt nhất.
5. Cơ cấu đầu tư
5.1 Khái niệm:
Cơ cấu đầu tư là cơ cấu các yếu tố cấu thành đầu tư như cơ cấu vốn, nguồn vốn, cơ cấu huy động vốn và sử dụng vốn… quan hệ hữu cơ, tương tác qua lại giữa các bộ phận trong không gian và thời gian, vận động theo hướng hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý và tạo ra những tiềm lực lớn về mọi mặt kinh tế- xã hội.
Cơ cấu đầu tư luôn thay đổi trong từng giai đoạn phù hợp với sự sự phát triển kinh tế- xã hội.
5.2 Chuyển dịch cơ cấu đầu tư:
* Khái niệm chuyển dịch cơ cấu đầu tư
Sự thay đổi cơ cấu đầu tư từ mức độ này sang mức độ khác phù hợp với môi trường và mục tiêu phát triển gọi là chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Sự thay đổi không chỉ bao gồm thay đổi về vị trí ưu tiên mà còn thay đổi về chất trong nội bộ cơ cấu đâu từ và các chính sách áp dụng. Về thực chất chuyển dịch cơ cấu đầu tư là sự điều chỉnh cơ cấu vốn, nguồn vốn đầu tư, cơ cấu huy động và sử dụng các loại vốn và nguồn vốn… phù hợp với mục tiêu đã xác định của toàn bộ nền kinh tế, ngành địa phương và các cơ sở trong từng thời kỳ phát triển.
Chuyển dịch cơ cấu đầu tư có ảnh hưởng quan trọng đến đổi mới cơ cấu kinh tế.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư của một quốc gia, ngành, địa phương thông qua kế hoạch đầu tư là nhằm hướng đến việc xây dựng một cơ cấu đầu tư hợp lý.
Cơ cấu đầu tư hợp lý là cơ cấu đầu tư phù hợp với các quy luật khách quan, điều kiện kinh tế- xã hội và có tác dụng tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý, khai thác và sử dụng hợplý các nguồn lực trong nước, đáp ứng nhu cầu hội nhập, phù hợp với xu thế kinh tế, chính trị thế giới và khu vực.
II. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1. Cơ cấu kinh tế:
1.1 Khái niệm cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Cấu trúc được biểu thị như một tập hợp những mối liên hệ liên kết hữu cơ các yếu tố khác nhau của hệ thống nhất định. Cơ cấu luôn là một thuộc tính của hệ thống. Như vậy, khái niệm cơ cấu kinh tế luôn gắn liền với quan điểm của hệ thống. Nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên quan điểm hệ thống.
Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong một không gian và thời gian nhất định. Các bộ phận hợp thành cơ cấu kinh tế bao gồm các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, và các lãnh thổ kinh tế. Cơ cấu kinh tế là cơ cấu của tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan hệ chặt chẽ với nhau, được biểu hiện cả mặt chất lẫn mặt lượng, tuỳ thuộc từng mục tiêu của nền kinh tế.
1.2 Đặc trưng của cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế được hình thành một cách khách quan của quá trình phân công lao động xã hội và phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, về hoạt động của các quy luật kinh tế đặc thù của các phương thức sản xuất sẽ quyết định tính khác biệt về cơ cấu kinh tế của mỗi vùng, mỗi nước. Vì vậy, cơ cấu kinh tế phản ánh tính quy luật chung của quá trình phát triển, những biểu hiện cụ thể phải phù hợp với đặc thù của mỗi nước, mỗi vùng tự nhiên, kinh tế và lịch sử, không có một cơ cấu mẫu chung cho nhiều nước, nhiều vùng khác nhau. Mỗi quốc gia, mỗi vùng có thể và cần thiết lựa chọn cơ cấu kinh tế phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển.
Cơ cấu kinh tế luôn luôn biến đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện. Sự biến đổi đó gắn liền với sự biến đổi không ngừng của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin cũng như các yếu tố kinh tế, các quá trình vận động và phát triển của các yếu tố kinh tế đó trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu cũ dần dần chuyển dịch và hình thành cơ cấu mới. Cơ cấu mới ra đời thay thế cơ cấu cũ theo hướng tiến bộ hơn. Cứ như thế cơ cấu vận động, biến đổi không ngừng từ giản đơn đến phức tạp, từ ít hoàn thiện đến hoàn thiện. Sự biến đổi đó của cơ cấu kinh tế chịu sự tác động thường xuyên của các quy luật kinh tế - xã hội, do sự phát triển không ngừng của loài người.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình mang tính kế thừa và phát triển lịch sử. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình tích luỹ về lượng một cách tuần tự. Sự biến đổi về mặt lượng đến một mức độ nào đó dẫn đến sự biến đổi về chất. Nếu như trong quá trình chuyển dịch mà mang tính nóng vội hay trì trệ đều tạo nên một sức cản rất nguy hiểm cho quá trình phát triển kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế không mang tính tự phát mà chịu sự tác động, điều tiết của các nhà lãnh đạo và quản lý kinh tế. Bằng cảm nhận và kinh nghiệm của mình, loài người nhận biết được những gì có thể xảy ra trong tưong lai mà từ đó tác động vào đâu, ở chỗ nào để mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho xã hội.
1.3 Những yếu tố ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế
Sự phát triển của thị truờng trong và ngoài nước: Thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh. Yêu cấu đòi hỏi của thị trường cần phải được các doanh nghiệp đáp ứng, từ đó để có định hướng đầu tư của mình theo chiến lược và chính sách kinh doanh.
Các nguồn lực và lợi thế so sánh của đất nước là cơ sở để hình thành và chuyên dịch cơ cấu kinh tế một cách bền vững và có hiệu quả. Nhà nước và các doanh nghiệp cần có chiến lược đầu tư phát triển nhằm phát huy các nguồn lực sẵn có, tận dụng lợi thế so sánh để đầu tư hướng về xuất khẩu những sản phẩm có lợi thế, tạo đà hội nhập và tham gia có hiệu quả vào phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Quan hệ đối ngoại và phân công lao động quốc tế, đây là nhân tố bên ngoài tác động mạnh mẽ tới sự hình thành cơ cấu nền kinh tế. Quan hệ kinh tế đối ngoại tốt sẽ là điều kiện để tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Sự tiến bộ khoa học công nghệ trong điều kiện mở cửa và hội nhập: Tiến bộ khoa học công nghệ cho phép tạo ra các sản phẩm mới có chất lượng cao, lượng vốn bỏ ra thấp, do đó sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế tăng lên. Ngoài ra tiến bộ công nghệ còn cho phép đầu tư vào những ngành đòi hỏi nhiều chất xám , đi sâu nghiên cứu tạo ra sản phẩm mới có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Kết quả là làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung hướng tới xuất khẩu, thay thế nhập khẩu, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới.
Chiến lược phát triển và cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước, đây là nhân tố quyết định sự hình thành cơ cấu kinh tế. Trong chính sách kinh tế của mỗi nước đều có hai mặt cơ bản, đó là chính sách cơ cấu và cơ chế quản lý kinh tế. Cơ cấu kinh tế hình thành và phát triển trong sự điều chỉnh, chuyển dịch để hoàn thiện, giai đoạn ở mức độ sau cao hơn giai đoạn trước.
1.4 Phân loại cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân gồm:
1.4.1 Cơ cấu kinh tế ngành:
Khái niệm:
Cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỉ lệ, biểu hiện mối quan hệ giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành kinh tế phản ánh được phần nào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động của một quốc gia.
Bao gồm các ngành:- Nông- lâm - thuỷ sản- Công nghiệp và xây dựng- Dịch vụ
1.4.2 Cơ cấu kinh tế vùng:
Khái niệm:
Cơ cấu kinh tế theo vùng, lãnh thổ được hình thành bởi việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Trong cơ cấu lãnh thổ, có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Tuỳ theo tiềm năng phát triển kinh tế, gắn liền với sự hình thành phân bố dân cư trên lãnh thổ để phát triển toàn bộ hay ưu tiên một vài ngành kinh tế nào đó.
Bao gồm các vùng sau
- Trung du và miền núi phía Bắc- Đồng bằng Bắc Bộ - Bắc Trung Bộ và Duyên Hải miền Trung- Tây Nguyên- Đông Nam Bộ- Đồng bằng sông Cửu Long
1.4.3 Cơ cấu thành phần kinh tế:
Khái niệm:
Cơ cấu thành phần kinh tế biểu hiện hệ thống tổ chức kinh tế với các chế độ sở hữu khác nhau có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội. Nó cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế, và cơ cấu lãnh thổ trong quá trình phát triển.
Bao gồm: sau nhiều lần thay đổi cơ cấu lại về thành phần kinh tế: hiện nay ở nước ta có các thành phần kinh tế sau:
- Kinh tế nhà nước;
- Kinh tế tập thể trong đó nòng cốt là hợp tác xã;
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ;
- Kinh tế tư bản tư nhân;
- Kinh tế tư bản nhà nước;
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
2.1 Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về quy mô, tốc độ giữa các ngành, vùng.Tương ứng với 3 loại cơ cấu kinh tế ta cũng xét sự chuyển dịch của 3 cơ cấu này:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng
- Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế
2.2 Sự cần thiết khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Quá trình chuyển dịch nền kinh tế nước ta theo hướng CNH- HĐH đang trở thành một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết bởi các lý do sau:
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tất yếu phải gắn với CNH- HĐH mới sử dụng được nhiều lợi thế so sánh nước công nghiệp chậm phát triển, nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và phát triển.
Thực tiễn nuớc ta vẫn trong tình trạng nền sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất kỹ thuật còn thấp kém và nhỏ bé, công nghệ lạc hậu….sản phẩm sản xuất ra có chất lượng kém, không có khả năng cạnh tranh, khó tiêu thụ, đời sống nhân dân gặp khó khăn. Để giải quyết căn bản vấn đề trên phải đổi mới cơ cấu kinh tế.
Hệ thống kết cấu hạ tầng và dịch vụ cho đời sống còn thấp kém so với các nước trong khu vực và thế giới. Nhiều ngành, lĩnh vực còn thấp kém làm cho nền kinh tế chưa vững chắc, tài nguyên nhiều, lực lượng lao động dồi dào chưa có khả năng và khai thác có hiệu quả, giải pháp duy nhất để khắc phục là tiến hành CNH- HĐH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế mở đương cho sản xuất phát triển.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH để tận dụng cơ hội vượt qua thử thách, khắc phục và tránh đuợc các nguy cơ tụt hậu về kinh tế. đi chệch hướng XHCN, quan liêu bao cấp…nhằm thực hiện mục tiêu của Đảng và nhà nước đề ra “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”
2.3 Các nhân tố tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình tất yếu gắn liền với sự phát triển kinh tế của một quốc gia, đặc biệt là sự phát triển trong quá trình hội nhập. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra như thế nào phụ thuộc vào các yếu tố như: quy mô kinh tế, mức độ mở cửa của nền kinh tế với bên ngoài, dân số của quốc gia, các lợi thế về tự nhiên, nhân lực, điều kiện kinh tế, văn hoá…Nhân tố quan trọng khác góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó là quá trình chuyên môn hoá trong phạm vi quốc gia và mở rộng chuyên môn hoá quốc tế và thay đổi công nghệ, tiến bộ kĩ thuật. Chuyên môn hoá mở đuờng cho việc trang bị kĩ thuật hiện đại, áp dụng công nghệ tiên tiến, hoàn thiện tổ chức, nâng cao năng xuất lao động xã hội. Chuyên môn hoá cũng tạo ra những hoat động dịch vụ và chế biến mới. Tiến bộ khoa học kĩ thuật, công nghệ lại thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá. Điều đó làm cho tỉ trọng các ngành truyền thống giảm đi, tỉ trọng các ngành dịch vụ kĩ thuật mới tăng trưởng nhanh chóng và dần dần chiếm ưu thế. Phân công lao động và sự tiến bộ kĩ thuật, công nghệ ngày càng phát triển sâu sắc tạo ra những tiền đề cho việc phát triển thị trường các yếu tố sản xuất lại thúc đẩy quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế và do vậy làm sâu sắc thêm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
2.4 Một số chỉ tiêu đánh giá mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Nếu:
Tỷ trọng của ngành nông nghiệp là:
Tỷ trọng của ngành công nghiệp và xây dựng là:
Tỷ trọng của ngành dịch vụ là:
Tỷ trọng của ngành phi nông nghiệp là:
Tỷ trọng của ngành sản xuất vật chất là:
Thì hệ số chuyển dịch k của hai ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp là:
Góc này bằng 00 khi không có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và 900 khi sự chuyển đổi cơ cấu là lớn nhất.
và độ lệch tỷ trọng nông nghiệp là:
Hệ số chuyển dịch k của hai ngành dịch vụ và sản xuất vật chất là
và độ lệch tỷ trọng dịch vụ và sản xuất vật chất là:
dDV =
III. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đầu tư tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp quy luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo cân đối mới cho nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành vùng phát huy nội lực của nền kinh tế, trong đó vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực.
1. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành:
Đối với cơ cấu kinh tế ngành, đầu tư vốn vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư nhiều hay ít, việc sử dụng vốn hiệu quả cao hay thấp... đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành.
2. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế:
Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
3. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế:
Phát triển kinh tế nhiều thành phần có tác động về nhiều mặt: giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tạo ra cạnh tranh - động lực của tăng trưởng; thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế - xã hội; là con đường xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất...
4. Một số chỉ tiêu đánh giá tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư ngành với thay đổi GDP
=
% thay đổi tỷ trọng đầu tư của ngành nào đó/ tổng vốn đầu tư xã hội kỳ nghiên cứu so với kỳ trước
% thay đổi tốc độ tăng trưởng GDP giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước
Chỉ tiêu này cho biết, để tăng 1% tỷ trọng GDP của ngành trong tổng GDP (thay đổi cơ cấu kinh tế) thì phải đầu tư cho ngành thêm bao nhiêu.
Hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư với thay đổi cơ cấu kinh tế của ngành
=
% thay đổi tỷ trọng đầu tư của ngành nào đó/ tổng vốn đầu tư xã hội kỳ nghiên cứu so với kỳ trước
% thay đổi tỷ trong GDP của ngành trong tổng GDP giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước
Chỉ tiêu này cho biết, để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế (GDP) lên 1% thì tỷ trọng đầu tư vào một ngành nào đó tăng bao nhiêu.CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ TÁC ĐỘNG ĐẦU TƯ ĐẾN
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
I. Một số nét tổng quan về kinh tế Việt Nam
Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm 1986. Kể từ đó, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam giảm nhanh được tình trạng nghèo đói, bước đầu xây dựng nền kinh tế công nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công bằng tương đối trong xã hội.
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 là văn bản luật đầu tiên góp phần tạo ra khung pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt Nam. Năm 1991 Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty ra đời. Hiến pháp sửa đổi năm 1992 đã khẳng định đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường và khu vực đầu tư nước ngoài. Tiếp theo đó là hàng loạt các đạo luật quan trọng của nền kinh tế thị trường đã được hình thành tại Việt Nam như Luật đất đai, Luật thuế, Luật phá sản, Luật môi trường, Luật lao động và hàng trăm các văn bản pháp lệnh, nghị định của chính phủ đã được ban hành nhằm cụ thể hóa việc thực hiện luật phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với việc xây dựng luật, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng bước được hình thành. Chính phủ đã chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, nhấn mạnh quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tập trung vào các biện pháp quản lý kinh tế, thành lập hàng loạt các tổ chức tài chính, ngân hàng, hình thành các thị trường cơ bản như thị trường tiền tệ, thị trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường đất đai… Cải cách hành chính được thúc đẩy nhằm nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo môi trường thuận lợi và đầy đủ hơn cho hoạt động kinh doanh, phát huy mọi ._.nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Chiến lược cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 là một quyết tâm của Chính phủ Việt Nam, trong đó nhấn mạnh việc sửa đổi các thủ tục hành chính, luật pháp, cơ chế quản lý kinh tế… để tạo ra một thể chế năng động, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
Nhìn chung, những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong gần hai thập kỷ đổi mới vừa qua đã mang lại cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất đáng phấn khởi. Việt Nam đã tạo ra được một môi trường kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng động hơn bao giờ hết. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được khuyến khích phát triển, tạo nên tính hiệu quả trong việc huy động các nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Các quan hệ kinh tế đối ngoại đã trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng nhiều các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu và phát triển thêm một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn như du lịch, xuất khẩu lao động, tiếp nhận kiều hối...
II. Thực trạng tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
1. Thực trạng tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu vốn đầu tư phát triển ngành kinh tế quốc dân trong thời kỳ đổi mới đã dịch chuyển mạnh theo hướng đầu tư cho công nghiệp, dịch vụ và chú ý đầu tư cho nông nghiệp một cách hợp lý.
Bảng 1: Cơ cấu vốn đầu tư theo ngành kinh tế từ 1996-2004
Đơn vị: %
1996-2000
2001-2004
1996-2004
Công nghiệp
36.1
40.6
38.9
Nông nghiệp
13.7
9.1
10.8
Dịch vụ & kết cấu hạ tầng
50.2
50.3
50.3
Nguồn: PGS. TS Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phuơng, Giáo trình Kinh tế đầu tư, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2007
Nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn chiếm 12,0% tổng số vốn đầu tư toàn nền kinh tế trong thời kỳ thực hiện chiến lược. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội cho nông nghiệp và nông thôn 10 năm từ 1991-2000 ước đạt 65,2 nghìn tỷ đồng (mặt bằng giá 1995), tương đương 5,9 tỷ đô la, chiếm tỷ trọng là 10,37%, trong đó 5 năm 1991-1995 là 8,5%, 5 năm 1996-2000 là 11,41%... Như vậy, 5 năm 1996-2000 đã có sự tập trung cao hơn cho nông nghiệp và phát triển nông thôn, đặc biệt trong 2 năm gần đây nhất thì tỷ trọng này đã lên đến trên 15%. Nguồn vốn Ngân sách đã có tăng đáng kể cho khu vực nông nghiệp và nông thôn, các nguồn vốn khác như vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn các chương trình Quốc gia (chương trình 327, 773..). Ngoài ra, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đã xuất hiện trong lĩnh vực nông lâm nghiệp.
Vốn đầu tư phát triển cho các ngành công nghiệp cả thời kỳ 1991-2000 khoảng 264 nghìn tỷ đồng (mặt bằng giá 1995) tương đương 23,8 tỷ đô la, chiếm 41,85% vốn đầu tư 10 năm, trong đó 5 năm 1991-1995 chiếm 38,42%, 5 năm 1996-2000 chiếm 43,76%. Tỷ trọng vốn ngành công nghiệp tăng đáng kể, thời kỳ 1991-1995 chỉ chiếm 38,4%, nhưng thời kỳ 1996-2000 không có năm nào dưới 40%, do đó cả thời kỳ tỷ trọng này đã tăng lên 43,76%. Tốc độ tăng bình quân hàng năm là 25,8%; trong đó 5 năm 1991-1995 tăng bình quân 42,5%, 5 năm 1996-2000 tăng bình quân 11,1%. Tuy thời kỳ 1996-2000 tốc độ tăng không cao hơn thời kỳ trước, nhưng lại giữ được tỷ trọng cao hơn 5 năm trước, nên vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao nhất so với tất cả các ngành. Trong tổng vốn đầu tư ngành công nghiệp, cho các ngành công nghiệp chế biến khoảng 30%.
Bảng 2 : Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo ngành
Đơn vị: %
1991-1995
1996-2000
1991-2000
Công nghiệp
38.4
5.6
23.6
Nông nghiệp
14.6
22.5
18.5
GTVT
16.4
34.0
25.2
Bưu điện
1.9
1.3
1.6
NCKH
1.0
1.9
1.5
GD- ĐT
3.3
7.2
5.2
VHTT
1.8
4.7
3.4
Y tế- xã hội
3.3
4.3
4.0
Thể dục- thể thao
0.14
1.5
0.8
Các ngành khác
1.94
5.1
4.2
Tổng số
100
100
100
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Vốn đầu tư phát triển cho hạ tầng giao thông vận tải và thông tin liên lạc cả thời kỳ 1991-2000 là 95,5 nghìn tỷ đồng (mặt bằng giá 1995) tương đương khoảng 8,6 tỷ đô la, chiếm 15,14% tổng vốn đầu tư phát triển 10 năm, trong đó 5 năm 1991-1995 là 14%, 5 năm 1996-2000 là 15,76%; tốc độ tăng bình quân hàng năm là 23,7%, trong đó 5 năm 1991-1995 tăng bình quân 42,9%, thời kỳ 1996-2000 tăng bình quân 7,1%.
Vốn đầu tư phát triển cho lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá trong 10 năm 1991-2000 gần 30 nghìn tỷ đồng (mặt bằng giá 1995), tương đương 2,7 tỷ đô la, chiếm tỷ trọng 4,76% tổng vốn đầu tư phát triển (5 năm 1991-1995 tỷ trọng là 3,91%, 5 năm 1996-2000 tỷ trọng là 5,23%); tốc độ tăng vốn đầu tư bình quân trong 10 năm là 19,8%, trong đó 5 năm 1991-1995 là 25,6% và 5 năm 1996-2000 là 14,2%.
Biểu đồ 1: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế, 2000-2005
Đơn vị:%
Nguồn: TCTK và tính toán của Viện NCQLKTTƯ.
Trong nhiều năm qua, xét theo tỷ trọng giá trị tăng thêm trong GDP, cơ cấu kinh tế chủ yếu biến đổi theo sự chuyển dịch của hai nhóm ngành nông - lâm - thủy sản và công nghiệp - xây dựng. Từ năm 2000 đến năm 2005 tỷ trọng khu vực nông - lâm - thủy sản giảm từ 24,53% xuống 20,70%, còn tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng tăng từ 36,73% đến 40,8%. Xét chung trong giai đoạn 2001-2005, sự chuyển dịch cơ cấu giữa 3 khu vực không mạnh như trong giai đoạn 5 năm 1996-2000. Mục tiêu đặt ra cho khu vực dịch vụ đến năm 2005 chiếm tỷ trọng khoảng 41-42% GDP đã không đạt được, trong khi đây là khu vực có rất nhiều cơ hội và tiềm năng phát triển.
Khu vực I - Nông nghiệp:
Trong những năm đầu đổi mới (1986-1991), tỷ trọng các khu vực nông lâm ngư nghiệp khá lớn và tăng lên trong 3 năm đầu. Khu vực này chiếm 38,06% GDP vào năm 1986, tăng đến 40,56% năm1987; đến mức cao nhất là 43,3% vào năm 1988, sau đó giảm xuống nhưng vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn. Trong thời kỳ bao cấp kéo dài cho cho đến khi trước đổi mới, mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ rơi vào khủng hoảng. Khi có chủ trương coi “nông nghiệp là một mặt trận hàng đầu” coi lương thực, thực phẩm là 3 chương trình kinh tế lớn (lương thực-thựcphẩm- hàng xuất khẩu) các chính sách kinh tế của Nhà nước chú trọng hơn nông nghiệp. Chính sách “khoán 10”, khoán ruộng đất cho hộ gia đình.. tạo động lực cho hộ gia đình nông thôn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội tại ngành nông nghiệp: sự chuyển dịch cơ cấu còn chậm, chủ yếu theo sự chuyển dịch giữa hai nhóm ngành nông nghiệp và thủy sản: tỷ trọng của ngành thủy sản tăng từ 16,0% năm 2001 lên 18,5% năm 2005, nông nghiệp giảm từ 78,6% năm 2001 xuống 75,8%. Sự chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp cũng chậm: tỷ trọng ngành trồng trọt vẫn chiếm tới 78,6% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2005 so với 81,0% năm 2000 (theo giá 1994).
Nông nghiệp thuần chỉ gồm có trồng trọt và chăn nuôi. Song theo nghĩa rộng thì nó gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp nữa. Trước đổi mới, nền nông nghiệp nước ta phát triển khá phiến diện. Trong ba lĩnh vực của nông nghiệp, thì hai lĩnh vực lâm và ngư nghiệp không được chú ý phát triển. Một nước có ¾ là diện tích đồi núi, song người dân vùng núi lại không sinh sống và làm giàu được bằng nghề trồng rừng và có tới 11 triệu ha là đất trống, đồi núi trọc. Nông nghiệp được chú ý phát triển không đều; trồng trọt được quan tâm đầu tư hơn chăn nuôi. Tuy nhiên trong trồng trọt có sáu loại cây trồng: cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây hoa và rau, cây thức ăn gia súc và cây dược liệu. Trong sáu loại cây này thì chỉ có cây lương thực được chú ý nhất. Cây lương thực bao gồm: lúa, ngô, khoai, sắn và đỗ (trừ đỗ tương). Do đó, ta có thể khái quát lại nền nông nghiệp Việt Nam trước đổi mới là nền nông nghiệp độc canh sản xuất lúa gạo hết sức lạc hậu.
Đường lối đổi mới đã làm cho nền nông nghiệp nước ta phát triển đa dạng hơn, lợi thế của từng vùng được khai thác ngày càng hợp lý hơn.
Đất trồng, đồi trọc đã được phủ xanh lại dần bằng các cây lâm nghiệp và cây công nghiệp có giá trị sản xuất cao. Năm 1990, diện tích trồng rừng của cả nước chỉ đạt độ che phủ là 28%. Năm 2000, diện tích trồng rừng độ che phủ tăng lên đạt 35,17%. Giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp cũng tăng đều qua các năm. Nếu tính theo giá so sánh năm 1994 thì giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp năm 1995 là 5.033 tỷ đồng, năm 2000 là 5.901,6 tỷ đồng và năm 2004 là 6230,9 tỷ đồng.
Ngư nghiệp thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Cùng với việc tăng cường năng lực đánh bắt xa bờ của ngư dân, phong trào nuôi trồng thuỷ sản phát triển hết sức mạnh mẽ. Giá trị sản xuất ngành thuỷ sản so năm 2004 với năm 1990 tăng 4,18 lần. Trong đó giá trị do khai thác tăng 2,7 lần, giá trị do nuôi trồng tăng 7,3 lần. Còn về sản lượng, năm 2004 so với năm 1990 tăng 3,45 lần, trong đó sản lượng do khai thác tăng 2,6 lần, do nuôi trồng tăng tới 7,13 lần. Như vậy là tốc độ tăng trưởng của nuôi trồng thuỷ sản là rất nhanh, nhất là từ năm 1995 đến nay.
Khu vực II - Công nghiệp:
Từ năm 1992 tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực II nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Trong khu vực II trong những năm từ 1991-2005 đã liên tục tăng trưởng 2 con số. Thời kỳ 1991-1995 giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 13,7%, thời kỳ 1996-2000 là 13,9%, thời kỳ 2001-2005 là 15,7%. Sự gia tăng này có sự tác động đáng kể của chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời là kết quả đầu tư lớn của những năm trước của một số ngành quan trọng như: dầu khí, điện, xi măng, thép, giấy đường, dệt may..
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội tại của Công nghiệp:
Cùng với sự thay đổi vai trò và vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, cơ cấu ngành công nghiệp cũng có sự chuyển biến tích cực phù hợp với xu hướng khách quan của phát triển công nghiệp: tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, giảm dần tỷ trọng công nghiệp khai thác; tăng dần các ngành có hàm lượng chất khoa học và công nghệ cao gắn phát triển công nghiệp đất nước với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước.
Trong cơ cấu ngành công nghiệp, công nghiệp khai thác vẫn giữ vị trí trọng yếu: giá trị ngành công nghiệp khai thác vẫn dao động trong khoảng trên dưới 13,5%; kim ngạch xuất khẩu dầu khí thường chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Công nghiệp khai thác được phát triển một cách có trọng điểm, nhằm vào các tài nguyên có trữ lượng lớn và giá trị cao.
Trong phát triển công nghiệp nặng đã điều chỉnh theo hướng phát triển có chọn lọc, tập trung hơn vào các ngành và sản phẩm trong nước có nhu cầu lớn và có khả năng phát triển.
Công nghiệp điện lực được chú ý đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Công nghiệp cơ khí dần phát huy vai trò tích cực trong đáp ứng yêu cầu trang bị lại kỹ thuật cho ngành kinh tế quốc dân. Ngành cơ khí đóng tàu có sự phát triển nhanh và nhận được những đơn hàng lớn từ những nước công nghiệp phát triển.
Trong công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và chế biến nông,lâm thuỷ sản được chú trọng phát triển đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước thay thế hàng nhập khẩu và phục vụ sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Trong nhóm công nghiệp này, dệt may, da giày và chế biến nông, lâm thuỷ sản được coi là những ngành trọng điểm, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu ngành công nghiệp.
Một số ngành công nghệ cao (điện tử dân dụng, máy tính, hoá dầu, công nghệ thông tin, sản xuất các loại dược phẩm cao cấp...) tuy mới hình thành nhưng có tốc độ phát triển khá nhanh.
Nhằm thúc đẩy thực hiện phân công lại lao động ở nông thôn, tạo thêm việc làm và thu nhập. Nhà nước cũng quan tâm đến phát tiển các ngành nghề nông thôn. Những ngành nghề này không những cung cấp sản phẩm phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu mà còn thu hút rất nhiều lao động.
Tuy cơ cấu ngành công nghiệp đang có sự chuyển biến phù hợp với xu thế khách quan nhưng hiện tại cơ cấu ngành công nghiệp có nhiều mặt bất hợp lý. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp còn chậm, chất lượng tăng trưởng còn thấp. Công nghiệp nông sản chưa phát triển gắn bó với sản xuất nông nghiệp. Các ngành công nghiệp phụ trợ còn nhỏ bé, phần lớn phụ liệu của ngành công nghiệp phải nhập khẩu từ nước ngoài. Công nghiệp năng lượng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh của các ngành kinh tế. Nhiều ngành công nghiệp tuy đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu và thu hút lượng lao động lớn nhưng chủ yếu là gia công cho nước ngoài, giá trị gia tăng và hiệu quả kinh tế còn chưa cao.
Khu vực III : Dịch vụ
Kể từ khi tiến hành đổi mới, nhất là từ đầu thập kỉ 90 trở lại đây khu vực dịch vụ của nước ta đã nhảy vọt cả về chất và lượng. Tuy vậy tốc độ này lại rất không đều qua các thời kì khác nhau, thể hiện nổi bật qua việc ngành dịch vụ tăng trưởng nhanh trong thời kì 1990-1995 rồi liên tục suy giảm và chỉ có dấu hiệu phục hồi nhẹ từ năm 2000 trở lại đây. Tốc độ tăng trưởng của toàn bộ ngành kinh tế dịch vụ phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng của các lĩnh vực kinh tế hợp phần, đặc biệt là các lĩnh vực chủ chốt có tỉ trọng cao. Còn tỉ trọng của khu vực dịch vụ trong GDP phụ thuộc vào tương quan so sánh giữa tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ với tốc độ tăng trưởng bình quân gia quyền của khu vực công nghiệp và nông nghiệp.
Thời kì 1990 – 1995, các lĩnh vực dịch vụ chủ chốt đều có tốc độ tăng trưởng cao, nhất là thương mại, giao thông vận tải- thông tin liên lạc, kinh doanh bất động sản, khách sạn nhà hàng và tài chính tín dụng. Trong đó, đây là thời kỳ lĩnh vực tài chính ngân hàng bùng nổ cho dù đã có cuộc khủng hoảng của các quĩ tín dụng nhân dân. Kết quả là cơ cấu của ngành kinh tế dịch vụ đã chuyển đổi theo hướng tăng nhanh tỉ trọng của những lĩnh vực nêu trên.
Thời kì 1996- 2002 , tỉ trọng của khu vực dịch vụ trong GDP giảm do tốc độ tăng trưởng thấp hơn tốc độ tăng trưởng bình quân gia quyền của khu vực công nghiệp và nông nghiệp. Tình trạng trên có bối cảnh chung là tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế chậm lại và hầu hết các lĩnh vực then chốt đều tăng trưởng thấp đi.
Từ năm 2003 đến nay, sự chuyển dịch cơ cấu trong khu vực dịch vụ vẫn diễn ra rất chậm. Hầu hết các ngành dịch vụ quan trọng, có khả năng tạo nhiều giá trị tăng thêm, đều có tỷ trọng nhỏ trong GDP (ví dụ, ngành tài chính, ngân hàng, và bảo hiểm chiếm chưa tới 2,0% GDP năm 2005). Xu hướng này đang hạn chế nhiều việc nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam và gây bất lợi cho tăng trưởng, nhất là trong bối cảnh Việt Nam tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, nhiều lĩnh vực dịch vụ như tư vấn xúc tiến đầu tư, pháp lý, công nghệ, và xuất khẩu lao động cũng chưa được khai thác tốt và/hoặc còn kém phát triển.
2. Thực trạng tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế:
Nền kinh tế mà nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nội dung quan trọng nhất của đường lối đổi mới kinh tế do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra và tiếp tục được khẳng định tại Đại hội VII, VIII và IX là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau 20 năm thực hiện nhất quán đường lối đổi mới đó, nhờ công tác chỉ đạo toàn diện của Chính phủ trong việc từng bước cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ vướng mắc khó khăn của các nhà đầu tư, đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong huy động, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Trong ba thành phần kinh tế, vốn đầu tư của khu vực FDI tăng nhanh nhất, khoảng 16,4%, cao gấp gần 2,8 lần mức tăng của vốn nhà nước. Khu vực ngoài quốc doanh cũng có mức tăng trưởng rất cao, gần bằng khu vực có vốn ĐTNN (15,7%). Vốn đầu tư nhà nước chỉ tăng 5,9%, do đó, tỷ trọng của khu vực này giảm nhanh hơn so với năm 2004. Do đó, Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, khu vực nhà nước chiếm 52.5%, khu vực ngoài nhà nước chiếm 32.8%, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm 14.7%; nếu tách riêng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) thì tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 40%.
Biểu đồ 2: Vốn đầu tư phát triển theo thành phần kinh tế,1997- 2005
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2004-2005 Việt Nam và Thế giới.
* Năm 2005 là số liệu ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Tuy là nguồn vốn quan trọng nhất của nền kinh tế, nhưng tỷ trọng vốn đầu tư khu vực nhà nước có xu hướng giảm dần từ 58,1% năm 2001 xuống 52,5% năm 2005. Đây là tín hiệu tích cực đối với nền kinh tế thị trường đang hình thành, phần nào phản ánh môi trường đầu tư đã và đang được cải thiện. Tổng vốn đầu tư nhà nước ước đạt 168 nghìn tỷ VNĐ, trong đó vốn ngân sách nhà nước là khoảng 74 nghìn tỷ VNĐ, thực hiện vốn tín dụng là 30 nghìn tỷ VNĐ, vốn của DNNN là 50 nghìn tỷ VNĐ, vốn huy động khác là 14 nghìn tỷ VNĐ. Trong năm 2005, lần đầu tiên Việt Nam phát hành thành công trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế với giá trị 750 triệu USD. Cơ cấu đầu tư theo lĩnh vực thể hiện rõ hơn vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường, theo đó vốn đầu tư cho lĩnh vực xã hội so với tổng vốn tăng từ 25,4% năm 2004 lên 27,4% năm 2005 và đầu tư cho lĩnh vực này chủ yếu là từ NSNN. Nguồn vốn đầu tư nhà nước đã có vai trò quan trọng trong cải thiện kết cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, và giảm đói nghèo.
Đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh là nguồn đầu tư lớn thứ hai kể từ năm 1998. Năm 2005, vốn của khu vực ngoài quốc doanh tăng vọt và ước đạt 105 nghìn tỷ VNĐ, gần gấp đôi vốn đầu tư của khu vực FDI. Đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh đã và đang chứng tỏ vai trò ngày càng quan trọng và tiềm năng to lớn của khu vực này trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Năm 2005, dòng vốn FDI vào Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng của năm 2004. Vốn đăng ký FDI cấp mới và tăng thêm đạt 5,89 tỷ USD, tăng 36% so với năm 2004 và là mức cao nhất kể từ năm 1997. Có 509 lượt dự án được tăng vốn trong năm, với tổng số vốn tăng thêm là gần 1,83 tỷ USD. Tổng vốn FDI thực hiện đạt khoảng 53 nghìn tỷ VNĐ, chiếm 16,3% tổng vốn đầu tư xã hội. Tính chung trong giai đoạn 2001-2005, tổng vốn FDI đăng ký cấp mới đạt 12,9 tỷ USD, vượt 7,5% mục tiêu dự kiến. Vốn FDI đăng ký bổ sung đạt 6,85 tỷ USD. Tuy nhiên, con số 19,7 tỷ USD của cả vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng thêm trong giai đoạn 2001-2005 mới chỉ bằng 77,5% tổng vốn cấp mới trong giai đoạn 1996-2000. Vốn FDI thực hiện trong giai đoạn 2001-2005 đạt 14 tỷ USD, vượt 37% so với mục tiêu dự kiến và tăng 4,5% so với giai đoạn 1996-2000.
Nhìn chung, việc huy động, thu hút vốn đầu tư, nhất là đầu tư tư nhân và FDI, trong năm 2005 đã có những chuyển biến tích cực, góp phần đáng kể vào mức tăng trưởng cao của nền kinh tế. Về tổng thể, trong giai đoạn 2001-2005, tổng vốn đầu tư xã hội gần đạt mục tiêu dự kiến. Tiết kiệm trong nước có xu hướng tăng dần và hiện tương đương 30% GDP, tạo thêm khả năng huy động vốn trong nước và ổn định các cân đối vĩ mô.
Cùng với xu hướng chuyển dịch của cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế thì cơ cấu thành phần kinh tế cũng có bước chuyển dịch tích cực.
Biểu đồ 3: Cơ cấu thành phần kinh tế trong GDP năm 1994, 2005
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2004-2005 Việt Nam & Thế giới
Do chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn đầu tư xã hội nên trên thực tế tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước trong GDP vẫn chiếm tỷ trọng cao. Tỷ trọng này ít biến động qua các năm. Kinh tế Nhà nước tiếp tục được đổi mới, sắp xếp lại, bước đầu hoạt động có hiệu quả hơn, phát huy được vai trò tích cực và chủ động trong các hoạt động kinh tế - xã hội, năm 2000 đã đóng góp khoảng 39% GDP.
Sự chuyển dịch cơ cấu theo thành phần chủ yếu diễn ra giữa khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhờ cơ chế, chính sách tạo môi trường đầu tư cởi mở, thông thoáng và ngày càng hoàn thiện hơn đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển dịch cơ cấu GDP thành phần kinh tế theo xu hướng chung là tỷ trọng kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể giảm, trong khi tỷ trọng kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên. Trước năm 1990, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài gần như chưa có gì, nhưng đến nay đã chiếm trong GDP tương ứng là 8,9% và 15,9%. Trong khi đó, tỷ trọng kinh tế Nhà nước đã giảm từ 40,2% năm 1995 xuống còn 38,4% năm 2005; kinh tế tập thể giảm tương ứng từ 10,1% xuống còn 6,8%; kinh tế cá thể giảm từ 35,9% xuống còn dưới 30%. Xu hướng này sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới, do những doanh nghiệp tư nhân tiếp tục được thành lập nhiều trong những năm qua từ khi Luật Doanh nghiệp ra đời (trong 5 năm đã gấp 2,6 lần về số doanh nghiệp và trên 6 lần về số vốn đăng ký so với 10 năm trước đó); quá trình tác cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh hơn; do năng lực của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được gia tăng sẽ tạo thành làn sóng mới cả về số vốn đăng ký mới, bổ sung vốn và số vốn thực hiện, cả về cơ cấu nước, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO.
Khu vực kinh tế tư nhân trong nước được hình thành và ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động sang rất nhiều lĩnh vực của nền kinh tế.; hiện khu vực này đang được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Hàng vạn doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn ra đời với quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu, nhưng cũng có một số doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn, sử dụng nhiều lao động.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Đây là thành phần kinh tế quan mới được bổ sung. Sở dĩ như vậy là vì thực tế trong những năm gần đây bộ phận đầu tư kinh doanh của nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng tăng, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Trong 10 năm (1991-2001) các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển khá nhanh. Giá trị sản xuất bình quân tăng 22%/năm. Trong 5 năm (1996-2000) vốn đầu tư nước ngoài thực hiện khoảng 10 tỷ USD chiếm 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 34% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, trên 22% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 10% GĐP. Từ thực tiễn đó, Đảng ta chủ trương tạo điều kiện thuận lợi để thành phần kinh tế này phát triển, hướng mạnh vào khâu xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm việc làm. cải thiện môi trường kinh doanh và pháp lý để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng thể hiện rõ là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế Việt Nam. Tỷ trọng trong GDP của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã tăng từ 13,3% năm 2000 lên 15,9% năm 2005. FDI đã bổ sung một lượng vốn quan trọng cho tổng vốn đầu tư xã hội. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn giữu đầu tàu cho tăng trưởng. Tỷ lệ đóng góp cho GDP tăng đần qua các năm.
Kinh tế Tập thể sau thời kỳ dài bị suy giảm, bước đầu được tổ chức lại theo Luật Hợp tác xã mới, có tác dụng tích cực.
Kinh tế tư bản tư nhân bao gồm các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh. Tính đến cuối năm 2001 nền kinh tế nước ta có 24.387 doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân không những đóng góp và huy động ngày càng nhiều các nguồn vốn trong xã hội vào đầu tư sả xuất mà còn qua đó giữ vai trò trong việc tạo thêm công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân lao động
Kinh tế cá thể trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp và đầu tư nước ngoài là một bộ phận không tách rời trong sự nghiệp phát triển kinh tế Việt Nam, những năm qua đã có bước phát triển khá, tạo thêm một số mặt hàng mới, thị trường mới, tăng thêm sức cạnh tranh của sản phẩm, đã góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế - xã hội của đất nước.
Kinh tế Tư bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác, liên doanh giữa nhà nước với kinh tế tư nhân trong nước đang phát triển trong một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; đóng góp khoảng 3,9% GDP năm 2000.
Như vậy, một trong những thành tựu nổi bật nhất của đổi mới là nền kinh tế đã chuyển từ chỗ dựa trên hai loại hình chủ yếu là xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã sang nền kinh tế thị trường với sự phát triển của các thành phần kinh tế.
Tuy nhiên, trong cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế cũng còn những hạn chế và đặt ra một số vấn đề cần giải quyết:
Việc chuyển sang thể chế kinh tế thị trường chậm, thiếu liên tục, nhất quán và thiếu đồng bộ. Môi trường đầu tư, kinh doanh chậm được cải thiện, làm cho các thành phần kinh tế còn e ngại, dè dặt, chưa mạnh dạn đưa vốn vào đầu tư sản xuất kinh doanh.
Các chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế chỉ dừng lại ở những Chỉ thị, Nghị quyết, chưa thực sự đi vào cuộc sống, còn có nhiều phân biệt đối xử đối với các thành phần kinh tế ngoài khu vực Nhà nước làm cho các thành phần kinh tế chưa phát huy mạnh nội lực, chưa thật sự khuyến khích mọi thành phần kinh tế và hạn chế kết quả thu hút đầu tư nước ngoài.
Việc phát huy và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển còn chậm, hiệu quả thấp. Các chính sách vĩ mô một mặt chưa triển khai đồng bộ, mặt khác chưa đủ sức hấp dẫn để các tầng lớp dân cư bỏ vốn vào đầu tư phát triển.
Khu vực kinh tế Nhà nước: Chiếm đại bộ phận trong các ngành quan trọng, giành vị trí có lợi nhất trong kinh doanh và được hưởng nhiều ưu đãi của Nhà nước nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, chưa thể hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Quốc dân, số doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ còn quá lớn, đó là điều đáng lo ngại. Các chính sách ưu tiên, ưu đãi cho khu vực kinh tế Nhà nước, thực chất là "tái bao cấp", làm cho khả năng vươn lên của khu vực này bị hạn chế, tính năng động kém; Tiến độ thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước còn chậm, chưa tạo được chuyển biến mạnh mẽ về cơ chế huy động vốn và phát huy động lực trong công cuộc đổi mới doanh nghiệp Nhà nước.
Khu vực kinh tế tập thể chậm được củng cố và phát triển. Kinh tế tập thể về số lượng gần đây tăng lên, nhưng tỷ trọng về nhiều chỉ tiêu chủ yếu còn thấp và giảm.
Kinh tế tư nhân đăng ký nhiều về số lượng, nhưng thực tế đưa vào hoạt động còn ít; quy mô còn nhỏ bé nên tỷ trọng về nhiều chỉ tiêu cũng còn thấp; ngay cả về số lượng thì mật độ doanh nghiệp vẫn còn ít (bình quân 800 người dân mới có 1 doanh nghiệp) nên mục tiêu 500 nghìn doanh nghiệp vào năm 2010 cũng không dễ dàng nếu không có chính sách, giải pháp triệt để hơn nữa.
Vốn đầu tư khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng chậm so với tiềm năng và nhu cầu. Chênh lệch giữa vốn đăng ký với vốn thực hiện lớn. Tỷ lệ dự án bị đổ bể, giải thể trước thời hạn khá cao và Cơ cấu đầu tư còn bất hợp lý theo ngành, lãnh thổ.
3. Thực trạng tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế
Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
Bảng 3: Cơ cấu vốn đầu tư theo vùng lãnh thổ kinh tế
Đơn vị tính: %
1996-2000
2001-2004
Trung du và miền núi phía Bắc
7
7.1
Đồng bằng Bắc bộ
28.3
27.7
Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung
16.4
17.4
Tây Nguyên
4.1
4
Đông Nam Bộ
31.3
30.6
Đồng bằng sông Cửu Long
12.9
13.2
Nguồn: PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương, Giáo trình Kinh tế Đầu tư, NXB Kinh tế Quốc Dân, 2007
Qua bảng, ta thấy vốn đầu tư xã hội được phân bố tập trung vào hai vùng kinh tế lớn là vùng đồng bằng Bắc bộ và vùng Đông Nam Bộ. Hai vùng này có tỷ trọng vốn đầu tư chiếm hơn 50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Hai vùng có tỷ trọng vốn đầu tư nhỏ nhất là vùng núi phía Bắc và vùng Tây Nguyên.
Thời kỳ 1996-2000, vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ, hai vùng kinh tế trọng điểm của cả nước chiếm 53,5% vốn đầu tư phát triển, các tỉnh miền núi phía Bắc chiếm 7,6%, vùng Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 14%8. Các tỷ lệ này tương ứng với năm 2001 là 52,75%; 7,79%; 14,9% và năm 2002 là 51,74%; 8,02%; 15,13%.
Biểu đồ 4: Cơ cấu đầu tư theo vùng, lãnh thổ
giai đoạn 1996-2000 và 2001-2004
Nguồn: PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương, Giáo trình Kinh Tế đầu tư
Trong thời kỳ đổi mới, kinh tế Việt Nam đã hinh thành nên các vùng kinh tế trọng điểm giữa vai trò đầu tàu của nền kinh tế cả nước. Đó là những vùng có lợi thế về cơ sở hạ tầng phát triển, nguồn lao động tập trung và có trình độ cao như vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Bảng 4: Cơ cấu kinh tế các vùng kinh tế trọng điểm đóng góp vào phát triển kinh tế chung của đất nước:
Cơ cấu GDP của 3 vùng KTTĐ so với cả nước (%)
1995
1999
Vùng KT trọng điểm phía Bắc
14,10
13,8
Vùng KT trọng điểm miền Trung
4,10
4,2
Vùng KT trọng điểm phía Nam
30,6
31,1
Tổng 3 vùng
48,8
49,1
Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu tư
Cơ cấu vùng kinh tế gắn với quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của vùng lãnh thổ, đặc biệt là vùng kinh tế trọng điểm đang được xây dựng và hinh thành theo hướng phát huy thế mạnh của từng vùng.
Đến năm 2000, các tỉnh vùng núi phía Bắc đóng góp khoảng 9% GDP của cả nước; vùng Đồng bằng sông Hồng khoảng 19%. Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung khoảng 15%; vùng Tây Nguyên 3%; vùng Đông Nam Bộ khoảng 35% và đồng bằng sông Cửu long khoảng 19%.
Ba vùng kinh tế trọng điểm đóng góp khoảng 50% giá trị GDP cả nước; 75-80% giá trị gia tăng công nghiệp và 60-65% giá trị khu vực dịch vụ. Các vùng kinh tế trọng điểm đã phát huy được thế mạnh và tiềm năng của vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm này cũng đảm bảo khối lượng vận chuyển và luân chuyển trên 50% toàn quốc, có tốc độ tăng trưởng vận tải 1996-2000 trên 9%. Nhịp độ tăng trưởng các vùng kinh tế trọng điểm đều cao hơn mức trung bình cả nước, bước đầu có tác dụng thúc đẩy sự phát triển chung. Trong năm 2005 có 41/64 tỉnh thành thu hút được vốn FDI, trong đó năm tỉnh thành dẫn đầu chiếm 70% tổng vốn FDI đăng ký của cả nước theo thứ tự là: Hà Nội (31,2%), Bà Rịa-Vũng Tàu (17,8%), Đồng Nai (10,7%), thành phố Hồ Chí Minh (10,2%), và Bình Dương (8,6%). Đây là lần đầu tiên, Hà Nội vươn lên thứ nhất trong thu hút FDI.
Phần lớn dự án FDI tập trung ở các vùng phát triển._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6277.doc