Suy thoái kinh tế và tác động của nó đến hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Cùng với quá trình toàn cầu hóa của xu thế thế giới, nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển vững mạnh. Hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam cũng xây dựng đầy đủ các thị trường của nền kinh tế thị trường, trước nhu cầu phát triển đó hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam giữ một vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, đảm bảo sự vân hành có hiệu quả của nền kinh tế nhât là trong giai đoạn nền kính tế toàn cầu đang suy thoái như hiện nay. Trước tình hình kh

doc55 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1652 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Suy thoái kinh tế và tác động của nó đến hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủng hoảng tài chính thế giới đang diễn ra ngày càng sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam ít nhiều cũng có ảnh hưởng và tình hình tài chính trong nước đang được đặt trong tình trạng kiểm soát chặt chẽ. Trong nửa đầu năm là tình trạng lạm phát tăng cao, giá cả các mặt hàng trên thị trường tăng mạnh, đến nửa cuối năm thì nền kinh tế lại rơi vào tình trạng thiểu phát. Các biện pháp thắt chặt tiền tệ vừa được áp dụng và bước đầu có hiệu quả thì ngay lập tức đã phải chuyển sang các biện pháp nới lỏng tiền tệ. Gần như tất cả các thành phần kinh tế đều chịu ảnh hưởng từ suy thoái.Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng và nền tài chính là chịu ảnh hưởng rõ nét nhất. Do rất yêu thích kinh doanh và luôn luôn muốn biết, tìm hiểu những biến đổi, sự thay đổi của nền kinh tế thế giới cũng như nước nhà, nhất là lĩnh vực ngân hàng. Vì vậy em đã chọn đề tài: “SUY THOÁI KINH TẾ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM.” để viết đề án môn học. Em mong rằng qua đó em cỏ thể có thể có thêm nhiều kiến thức về nền kinh tế thế giới cũng như Việt Nam nhất là trong giai đoạn có nhiều biến đổi như hiện nay. Đề tài này được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Th.S CẤN ANH TUẤN. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy để em có thể hoàn thành đề án này. NỘI DUNG PHẦN I : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ SUY THOÁI KINH TẾ VÀ THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM I.SUY THOÁI KINH TẾ 1. Khái niệm và nguyên nhân suy thoái Chúng ta có thể đến với một cách hiểu khá đơn giản về Suy thoái kinh tế: “Suy thoái kinh tế là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài.” Suy thoái kinh tế bao gồm những xu hướng: * Xu hướng suy giảm tỷ suất lợi nhuận. Tích tụ tư bản gắn liền xu hướng chung của mức độ tập trung tư bản. Điều này tự nó làm giảm tỷ suất lợi nhuận rồi kìm hãm chủ nghĩa tư bản và có thể đưa đến khủng hoảng. * Tiêu thụ dưới mức. Nếu giai cấp tư sản thắng thế trong cuộc đấu tranh giai cấp với mục đích cắt giảm tiền lương và bóc lột thêm lao động, nhờ đó tăng tỷ suất giá trị thặng dư, khi đó nền kinh tế tư bản đối mặt với vấn đề thường xuyên là nhu cầu tiêu dùng không tương xứng với quy mô sản xuất và tổng cầu không tương xứng với tổng cung. * Sức ép lợi nhuận từ lao động. Tích tụ tư bản có thể đẩy nhu cầu thuê mướn tăng lên và làm tăng tiền lương. Nếu tiền lương tăng cao sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và khi đạt đến một mức độ nhất định sẽ gây ra suy thoái kinh tế. Nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính lần này là sự suy sụp của thị trường bất động sản. Ở Mỹ, gần như hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lại lãi lẫn vốn trong một thời gian dài sau đó. Do đó, có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa tình hình lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi suất cao thì thị trường giậm chân, người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp. Có ba yếu tố chính đã khởi tạo nên bong bóng trong thị trường bất động sản: Thứ nhất, bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản (mặc dù những loại lãi suất cho vay tiền mua nhà do các ngân hàng thương mại ấn định bao giờ cũng cao hơn nhiều so với lãi suất cơ bản của Fed, nhưng mức độ cao hay thấp của chúng bao giờ cũng phụ thuộc vào lãi suất cơ bản). Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%. Thứ hai, về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của chính phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các nhóm dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua hai công ty được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac. Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp (mortgage-backed securities - MBS) - ( chú thích MBS ở dưới ), rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch. Thứ ba, như đã trình bày ở trên, bởi vì có sự biến đổi các khoản cho vay thành các công cụ đầu tư cho nên thị trường tín dụng để phục vụ cho thị trường bất động sản không còn là sân chơi duy nhất của các ngân hàng thương mại hoặc các công ty chuyên cho vay thế chấp bất động sản nữa. Nó đã trở nên một sân chơi mới cho các nhà đầu tư, có khả năng huy động dòng vốn từ khắp nơi đổ vào, kể cả dòng vốn ngoại quốc. MBS : Điểm đặc biệt ở đây là bởi vì việc hình thành, mua bán, và bảo hiểm MBS là vô cùng phức tạp cho nên nó diễn ra gần như là ngoài tầm kiểm soát thông thường của chính phủ. Bởi vì thiếu sự kiểm soát cần thiết cho nên lòng tham và tính mạo hiểm đã trở nên phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, bởi vì có thể bán lại phần lớn các khoản vay để các công ty khác biến chúng thành MBS, các ngân hàng thương mại đã trở nên mạo hiểm hơn trong việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của người vay. 2. Diễn biến của suy thoái Trước tiên, chúng ta sẽ bắt đầu từ tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng thấp và không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ - quỵ ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ. * Tháng 7 - Tháng 9/2007: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên tại châu Âu chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị trường cho vay dưới chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ chính phủ. * Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây để đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân hàng cho vay thế chấp Northern Rock - ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh. * Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11. * Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân là Tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá 70% tại các giao dịch ở Sydney * Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn. * 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự phòng 4 tỷ USD, nâng tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do những thất thoát quan đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố. * 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock. * 28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ euro. * 16-17/3/2008: Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư Mỹ JP Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ phiếu. * 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản. * 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày. * 31/7/2008: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu. * 7/9/2008: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm soát hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ. * 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%. * 14/9/208: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29 USD/cp sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers. * 15/9/2008: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa trở lại sau vụ khủng bố 2 toà tháp đôi tại Mỹ vào Tháng 9 năm 2001. Lehman Brothers sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ; Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm; American International Group - tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố. * 16/9/2008: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào các thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng của hệ thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm 85 tỷ USD vào AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một phần tài sản tại Bắc Mỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD. * 17/9/2008: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh; Tập đoàn Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng khoán Mỹ kiềm chế tình trạng bán khống. * 19/9/2008: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ công bố kế hoạch mua lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó khăn, giúp làm thanh sạch hệ thống tài chính. * 20-21/9/2008: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Hai ngân hàng Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân hàng đa năng, đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall. * 22/9/2008: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm hoạt động của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu Âu và Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan Stanley. * 23/9/2008: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs; Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và Lehman vì nghi ngờ có sự gian lận trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ. * 25/9/2008: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát WaMu và sau đó bán các tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ cho JPMorgan Chase & Co. với giá 1,9 tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ. Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc hội đã đồng ý về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. * 29/9/2008: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt giảm gần 780 điểm - mức giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới nay. * 1/10/2008: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ 74-25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000 USD. * 3/10/2008: Sau 3 giờ thảo luận và thuyết phục nhau, Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu lần thứ hai và thông qua dự luật giải cứu với tỷ lệ phiếu 262-171. Không đầy 2 giờ sau đó, Tổng thống Mỹ đặt bút ký để chính thức chuyển kế hoạch thành đạo luật. * Ngày 4/10/2008: Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã triệu tập cuộc họp thượng đỉnh khẩn cấp với lãnh đạo 4 nước lớn nhất trong Liên minh Châu Âu là Anh, Pháp, Đức và Ý. Phiên họp kết thúc với tuyên bố hợp tác xử lý khủng hoảng, nhưng không thống nhất được một gói giải pháp tổng thể theo mô hình của Mỹ. * Ngày 5/10/2008: Mặc dù Thủ tướng Đức Angela Merkel đã chỉ trích quyết định của Ireland tuần trước về bảo hiểm toàn bộ các tài khoản ngân hàng tại Ireland, ngày Chủ nhật 5/10 Bộ trưởng Tài chính Đức đã thông báo tất cả các tài khoản tiền gửi ngân hàng tại Đức sẽ được bảo hiểm không có giới hạn. * Ngày 6/10/2008: Trong đêm Chủ nhật 5/10, ngân hàng BNP Paribas SA của Pháp gửi email thông báo đã thỏa thuận chi 14,5 tỷ Euro (tương đương 19,8 tỷ USD) để mua lại ngân hàng Fortis, trong đó có 9 tỷ Euro bằng cổ phiếu và 5,5 tỷ Euro bằng tiền mặt. BNP sẽ sở hữu 75% Fortis tại Bỉ, 67% Fortis tại Luxembourg, và toàn bộ mảng bảo hiểm của Fortis tại Bỉ. * Ngày 8/10/2008: Trong một nỗ lực phối hợp chưa từng có tiền lệ, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 4 ngân hàng trung ương các nước khác đã đồng loạt cắt giảm lãi suất nhằm giảm ảnh hưởng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1930. * Ngày 10/10/2008: Tập đoàn bảo hiểm có lịch sử hoạt động 98 năm tại Nhật là Yamato Life Insurance Co. chính thức đệ đơn xin được bảo hộ phá sản do các khoản nợ đã vượt tài sàn 11,5 tỷ yen (tương đương 116 triệu USD). Đây được coi là mốc đánh dấu cuộc khủng hoảng đã lan sang châu Á. * Ngày 13/10/2008: Giải Nobel Kinh tế 2008 được công bố thuộc về Giáo sư Paul Krugman. Ngoài thành tích xây dựng mô hình ứng dụng thương mại toàn cầu, ông cũng là người chỉ trích kịch liệt Chính phủ của Tổng thống Bush, và là người vạch ra những hiểm họa của tự do thị trường thiếu sự giám sát của Chính phủ. * Ngày 14/10/1008: Chính phủ Mỹ công bố dành 250 tỉ USD trong gói giải cứu 700 tỉ USD để rót vào các ngân hàng lớn, đổi lại sẽ nhận được cổ phiếu ưu đãi của các ngân hàng này. Đây là bước thay đổi lớn trong chiến lược giải cứu, vì trong kế hoạch ban đầu, Chính phủ vẫn hướng đến giải pháp mua lại nợ xấu ngân hàng, không mua cổ phần . Chúng ta biết rằng, ở Mỹ "gần như hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả cả lãi lẫn vốn trong một thời gian dài sau đó. Do đó, có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa tình hình lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao, khi lãi suất cao thì thị trường giậm chân, người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp. Bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ - nền kinh tế lúc này quả thật đang trì trệ, mục đích giảm lãi suất một phần cũng để khôi phục nền kinh tế, tuy nhiên đằng sau vẫn còn một nguyên nhân khác nữa, cục dự trữ liên bang Mỹ ( FED) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản (mặc dù những loại lãi suất cho vay tiền mua nhà do các ngân hàng thương mại ấn định bao giờ cũng cao hơn nhiều so với lãi suất cơ bản của FED, nhưng mức độ cao hay thấp của chúng bao giờ cũng phụ thuộc vào lãi suất cơ bản). Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của FED là trên 6% nhưng sau đó, lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%." (Báo Thanh niên, 16/10/2008, trang 19). Việc cắt giảm lãi suất liên tục đã làm cho lạm phát gia tăng. Do lo lắng về diễn biến lạm phát, FED bắt đầu tăng dần lãi suất, dẫn đến việc thị trường bất động sản bắt đầu chững lại vào đầu năm 2006. Trong khi vào giữa năm 2003 lãi suất căn bản của FED chỉ có 1% thì vào giữa năm 2006 nó đã tăng lên đến 5,25%, bắt buộc các ngân hàng thương mại phải đẩy lãi suất cho vay tiền mua nhà lên cao hơn nhiều nữa. Tình hình lãi suất cao đã khiến cường độ vay để mua nhà giảm lại. Giá nhà bắt đầu trượt dốc vì cung vượt cầu. Nhiều người mua nhà giá cao trước đây bắt đầu thấy giá thị trường của căn nhà đang sở hữu thấp hơn khoảng nợ mà mình đang vay. Bên cạnh đó, rất nhiều người trong nhóm vay tiền với lãi suất dưới chuẩn bắt đầu mất khả năng trả nợ khi lãi suất của họ bị điều chỉnh trở lại theo lãi suất mới hiện hành khá cao. Họ muốn bán nhà để trả nợ cũng không được vì giá nhà thấp hơn khoản nợ do thị trường tụt dốc. Hệ quả là họ đành bỏ nhà cho ngân hàng trưng thu lại." (Báo Thanh niên, 17/10/2008, trang 13, chữ nghiêng là do tôi viết). Cuối cùng là khủng hoảng. Còn việc nó lan sang lĩnh vực tài chính như thế nào cũng như diễn biến hiện tại của tình hình tài chính ra sao thì đã có rất nhiều ý kiến được đưa ra rồi, tôi không cần phải đi sâu hơn nữa. Ở đây, tuy năm 1929 khủng hoảng bắt đầu từ ngay thị trường chứng khoán, còn hiện tại thị lại bắt nguồn từ khủng hoảng thị trường bất động sản, nhưng chúng ta dễ dàng thấy ngay điểm chung giữa hai cuộc khủng hoảng, đó là nó mở đầu bẳng việc hạ lãi suất cơ bản để kích thích đầu tư. 3. Hậu quả đối với nền kinh tế thế giới a. Thương mại toàn cầu sụt giảm Đây là ảnh hưởng dễ nhận thấy nhất. Nếu cả sản lượng và nhu cầu của nền kinh tế Mỹ cũng giảm, tiêu dùng tư nhân, đầu tư của các công ty và các hoạt động sản xuất cùng sụt giảm, dẫn tới sự sụt giảm trong nhập khẩu các loại hàng hóa tiêu dùng, hàng hóa cơ bản và các nguyên vật liệu khác từ thị trường bên ngoài. Trong khi đó, rất nhiều nước trên thế giới coi Mỹ là thị trường xuất khẩu chính, như Canada, Trung Quốc, Nhật Bản, Mexico, Hàn Quốc, các nước Đông Nam Á, và coi đây là một trong những động lực tăng trưởng kinh tế. Do đó, nhu cầu sụt giảm ở Mỹ đồng nghĩa với sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế của những nước này. Trung Quốc đặc biệt đáng lo ngại vì Mỹ là nước tiêu dùng lớn nhất thế giới còn Trung Quốc là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới. Nếu người Mỹ không mua, hàng “Made in China” sẽ đi về đâu? Trung Quốc cũng là một ví dụ rõ ràng về việc những mắt xích trong chuỗi thương mại quốc tế sẽ chịu tác động ra sao từ sự suy thoái của Mỹ. Trước đây, các trung tâm chế tạo của châu Á như Hàn Quốc và Đài Loan trực tiếp sản xuất hàng thành phẩm như hàng điện tử để xuất khẩu trực tiếp sang Mỹ. Nhưng với sự nổi lên của Trung Quốc trong lĩnh vực này, các nước châu Á đã chuyển sang sản xuất linh kiện để xuất sang Trung Quốc. Sau đó, Trung Quốc tiến hành lắp ráp rồi xuất sang Mỹ. Do đó, nhập khẩu của Mỹ đi xuống làm xuất khẩu của Trung Quốc giảm, dẫn tới nhu cầu của Trung Quốc đối với linh kiện do các nước châu Á khác sản xuất cũng “lao” theo. b. Đồng USD yếu khiến mọi chuyện thêm tồi tệ Sự suy yếu của kinh tế Mỹ và việc FED liên tiếp cắt giảm lãi suất USD đã khiến giá trị đồng tiền này giảm mạnh so với nhiều đồng tiền khác như Euro, Yên và Won. Đồng USD yếu sẽ thúc đẩy xuất khẩu của Mỹ, nhưng lại là cơn ác mộng đối với các nhà xuất khẩu Đức, Nhật và Hàn Quốc - những nước vốn phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sang thị trường Mỹ. c.“Bong bóng” bất động sản sẽ nổ tung toàn cầu Mỹ không phải là quốc gia duy nhất trên thế giới có tình trạng bong bóng xảy ra trên thị trường bất động sản trong những năm gần đây. Hoạt động tín dụng lỏng lẻo, mức lãi suất thấp và dài hạn cũng diễn ra ở nhiều quốc gia khác, nhất là ở châu Âu. Mỹ không phải là nước duy nhất mà “bong bóng” bất động sản đã vỡ. Anh, Ireland và Tây Ban Nha đi sau Mỹ có chút ít về tốc độ mất giá của nhà đất. Các nước khác với tiềm năng bong bóng bất động sản sắp vỡ bao gồm Pháp, Hy Lạp, Hungary, Italy, Bồ Đào Nha, Thổ Nhĩ Kỳ và các nước vùng Baltic. Tại châu Á, những nước như Australia, Trung Quốc, New Zealand và Singapore, “bong bóng” nhà đất đã vỡ tại một số khu vực. Đến cả Ấn Độ cũng xảy ra tình trạng bong bóng địa ốc. Những “bong bóng” này chắc chắn sẽ vỡ một khi tình trạng tín chặt tín dụng “châm kim” vào chúng, dẫn tới tốc độ tăng trưởng chậm chạp tại một số nước và suy thoái tại một số nước khác. d. Giá hàng hóa và nguyên vật liệu thô sẽ giảm Chỉ cần nhìn vào giá dầu cao là có thể nhận thấy nhu cầu hàng hóa của thế giới đã tăng mạnh trong những năm gần đây. Tuy nhiên, tình trạng này sẽ kéo dài không lâu. Đó là do hai đầu máy của kinh tế thế giới là Mỹ và Trung Quốc tăng trưởng chậm lại sẽ kéo theo sự sụt giảm mạnh nhu cầu của các loại hàng hóa như dầu, thực phẩm và khoáng sản. Điều này tất yếu sẽ tác động tiêu cực tới xuất khẩu và tăng trưởng của các nước xuất khẩu các mặt hàng này ở châu Phi, Mỹ Latin và châu Phi. Chẳng hạn, Chile là nước xuất khẩu đồng lớn nhất thế giới, đồng từ nước này được sử dụng để làm chip máy tính và dây điện. Nhu cầu của Mỹ và Trung Quốc giảm chắc chắn sẽ khiến giá cả và nhu cầu đồng cùng giảm xuống, kéo theo tốc độ tăng trưởng kinh tế của Chile. e. Niềm tin sẽ giảm mạnh Cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn đã gây ra tình trạng thắt chặt thanh khoản và tín dụng trên Wall Street. Tình trạng này cũng đã lan rộng ra thị trường tài chính nhiều nước trên thế giới. Một lượng trái phiếu bất động sản chứa đựng đầy rủi ro và nợ thế chấp của Mỹ đã được bán cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đó là lý do tại sao những thất thoát tài chính do tình trạng vỡ nợ tại các thành phố Mỹ như Cleveland, Las Vegas và Pheonix lại có tác động mạnh đến Australia và châu Âu, hay thậm chí cả những ngôi làng nhỏ ở Nauy. Niềm tin tiêu dùng bên ngoài nước Mỹ, đặc biệt là tại châu Âu và Nhật Bản, không bao giờ vững mạnh và sẽ trở nên yếu hơn trước những tin xấu về kinh tế Mỹ. Những khoản thua lỗ trong hoạt động tại Mỹ cũng sẽ khiến các tập đoàn đa quốc gia đi đến chỗ cắt giảm đầu tư vào các nhà máy không chỉ ở Mỹ mà còn nhiều nơi khác trên thế giới. Các tập đoàn tại châu Âu sẽ chịu tác động đặc biệt lớn do họ phụ thuộc vào các khoản vay ngân hàng nhiều hơn các doanh nghiệp Mỹ. Sự thắt chặt tín dụng toàn cầu sẽ hạn chế khả năng của họ trong việc sản xuất, thuê nhân công và đầu tư. Cách tốt nhất để xem cơn bão tài chính này lan rộng ra sao là theo dõi thị trường chứng khoán toàn cầu. Các nhà đầu tư e dè hơn trước những rủi ro khi nền kinh tế của họ có vẻ như tăng chậm lại. Do đó, bất kỳ khi nào những thông tin xấu về kinh tế Mỹ xuất hiện, các nền kinh tế khác cũng ngay lập tức lo theo. Một kịch bản thường gặp là các nhà đầu tư Wall Street bán tháo cổ phiếu, khiến chỉ số Dow Jones sụt giảm và một vài giờ sau, các chỉ số chính của thị trường chứng khoán châu Á cũng mở cửa với đường đi dốc xuống. Rồi sau đó, tình hình các thị trường chứng khoán châu Âu cũng diẽn biến tương tự. Điều này có thể nhận thấy rõ trong đợt suy giảm mạnh toàn cầu của thị trường chứng khoán tháng 1 vừa qua. f. Các ngân hàng trung ương “bó tay” Những người lạc quan tin tưởng rằng các ngân hàng trung ương có thể cứu thế giới khỏi những tác động tiêu cực của tình trạng suy thoái kinh tế ở Mỹ. Như ở kỳ suy thoái năm 2001, FED đã cắt giảm lãi suất từ 6,5% xuống còn 1%, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) giảm lãi suất từ 4% xuống 2%, còn Ngân hàng Trung ương Nhật (BOJ) giảm lãi suất xuống 0. Nhưng ngày nay, khả năng của các ngân hàng trung ương trong việc sử dụng các công cụ tiền tệ để kích thích tăng trưởng và hạn chế tác động của tình trạng kinh tế tăng chậm lại toàn cầu đã bị hạn chế hơn trước rất nhiều. Lạm phát tăng cao tại nhiều nước đang “bó tay” các ngân hàng trung ương. FED sẽ còn cắt giảm lãi suất, nhưng chắc chắn sẽ lo ngại về tình trạng mất giá liên tiếp của USD sẽ khiến các nhà đầu tư nước ngoài e ngại không muốn bỏ tiền mua các loại trái phiếu của Mỹ. Và trong nền kinh tế toàn cầu nói chung, đồng USD yếu cũng là một trò chơi có tổng bằng 0, đồng USD yếu sẽ có lợi xuất khẩu của nước Mỹ, nhưng lại làm tổn thương khả năng cạnh tranh và tăng trưởng của các đối tác thương mại của Mỹ. Chính sách tiền tệ cũng kém tác dụng hơn vào thời điểm này vì một lý do khác. Nguồn cung nhà cửa, xe cộ và các hàng hóa tiêu dùng khác trên thế giới nói chung đang rất dư dả. Nhu cầu đối với những hàng hóa này đã bớt nhạy cảm hơn trước những biến động lãi suất vì phải mất rất nhiều năm người tiêu dùng mới có thể “hút” hết lượng hàng hóa thừa mứa này. Việc cắt giảm thuế cho dân Mỹ cũng chẳng thể thay đổi tình huống, nhất là khi dân Mỹ đang nợ “như chúa chổm”. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ hiện nay cũng được coi là đã vượt khỏi tầm kiểm soát của FED. Những vấn đề mà kinh tế Mỹ đang phải đối mặt không phải là thiếu tiền mà là những khoản nợ không trả nổi. Hàng triệu ngôi nhà đang đứng trước nguy cơ bị tịch biên vì người sở hữu không có tiền trả nợ và hơn 100 tổ chức cho vay cầm cố đang có nguy cơ phá sản. Mặt khác, không chỉ cho vay cầm cố, các ngân hàng của Mỹ còn thả cửa cho vay để các doanh nghiệp đầu tư vào các vụ mua lại hoặc các loại tài sản địa ốc thương mại. Do đó, nếu kinh tế Mỹ tiếp tục xấu đi, lượng vỡ nợ của các doanh nghiệp cũng sẽ tăng vọt. Thêm vào đó, ở Mỹ còn tồn tại một hệ thống ngân hàng “chợ đen” bao gồm những tổ chức tài chính không phải là ngân hàng nhưng lại vay tiền ngắn hạn để cho vay hoặc đầu tư dài hạn. Chẳng hạn, các quỹ đầu tư thị trường tiền tệ có thể bị rút sạch vốn trong vòng một đêm, hay các quỹ phòng hộ chỉ được báo trước 1 tháng để trả nợ. Nhiều trong số những quỹ này đã tự “trói” mình vào những loại trái phiếu có độ rủi ro cao và dài hạn do đó họ phải đối mặt với rủi ro lớn hơn vì họ không phải là đối tượng được nhận hỗ trợ của FED trong trường hợp xấu nhất. Khả năng áp dụng các biện pháp kích thích tài chính của chính phủ hiện nay cũng đã hạn chế hơn trước rất nhiều do Mỹ, Nhật và châu Âu hiện đều cùng ở trong tình trạng thâm hụt ngân sách. Trong lần suy thoái trước, ngân sách của Mỹ đã đi từ chỗ thặng dư 2,5% GDP vào năm 2000 đến chỗ thâm hụt 3,2% GDP vào năm 2004. Nhưng lần này, thâm hụt ngân sách của Mỹ đã ở mức cao và Chính phủ Mỹ chỉ có thể thực hiện kích thích tài chính bằng 1% GDP theo như đã nêu trong kế hoạch kích thích kinh tế trọn gói mới đây của ông Bush. Tình hình ở Mỹ và châu Âu cũng tương tự. Vào thời điểm hiện nay, kế hoạch kích thích kinh tế này của ông Bush quá nhỏ để có thể tạo ra một sự khác biệt lớn, và những gì mà FED đang làm là quá ít ỏi và muộn màng. Nước Mỹ sẽ phải mất nhiều năm để giải quyết những vấn đề đã dẫn tới cuộc khủng hoảng này. Quản lý yếu kém đối với hoạt động cho vay cầm cố, sự thiếu minh bạch đối với những sản phẩm tài chính phức tạp, chính sách khuyến khích thiếu hợp lý trong gói lương thưởng cho lãnh đạo các ngân hàng, quản lý rủi ro kém, đánh giá tín dụng sai lầm… và còn rất nhiều vấn đề khác nữa. Cuối cùng, trong thế giới phẳng ngày nay, sự phụ thuộc lẫn nhau thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia vào những thời điểm tốt đẹp. Nhưng không may, chính những ràng buộc thương mại và tài chính này cũng đồng nghĩa với việc tăng trưởng yếu đi ở nơi này sẽ kéo theo tăng trưởng ở những nơi khác. Không phải nước nào cũng sẽ suy thoái cùng với Mỹ, nhưng chắc chắn không nước nào có thể “miễn nhiễm”. 4. Tác động của suy thoái đến VIỆTNAM Nền kinh tế Việt Nam có thể sẽ bị ảnh hưởng tới xuất khẩu và đầu tư nước ngoài như bất cứ một quốc gia đang phát triển nào khác, nhưng hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam hiện có thể đứng vững trước cơn sóng gió này. Trên thị trường chứng khoán Việt Nam, tác động gián tiếp từ những diễn biến bất lợi của thị trường tài chính thế giới đã kéo theo 3 phiên giao dịch giảm điểm liên tiếp vào giữa tuần. Ảnh hưởng tâm lý đến nhà đầu tư Việt Nam rất hiện hữu, dù rằng tác động rõ ràng của khủng hoảng tài chính thế giới đến Việt Nam chưa được xác định cả trong ngắn hạn và dài hạn. Tính chung cả tuần, chỉ số VN Index mất gần 40 điểm. Chỉ đến phiên giao dịch cuối tuần, nhờ những thông tin về việc Ngân hàng Trung ương tại một số thị trường lớn bắt đầu vào cuộc "cứu trợ", cùng với sự bật dậy của các thị trường lớn, thì chứng khoán Việt Nam mới bất ngờ có được phiên đảo chiều tăng điểm ấn tượng: gần 100% mã chứng khoán tăng hết biên độ. Trong số những tập đoàn tài chính hàng đầu của Mỹ lâm cảnh khó khăn, thì sự việc ở tập đoàn bảo hiểm AIG được nhiều người Việt Nam quan tâm. Công ty AIG Việt Nam đang thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ với gần 300.000 khách hàng tại Việt Nam. Chỉ 1 ngày sau biến cố tại Mỹ, đại diện AIG Việt Nam và Bộ Tài chính đã đưa ra những số liệu để khẳng định: Quyền lợi của tất cả các khách hàng của AIG tại Việt Nam sẽ không thể bị ảnh hưởng. Ông Trịnh Thanh Hoan, Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm - Bộ Tài chính cho biết: "AIG Việt Nam hoạt động tại Việt Nam với mô hình là một công ty TNHH, họ có tính độc lập tương đối với hoạt động của tập đoàn mẹ. Chúng tôi giám sát hoạt động của các công ty bảo hiểm nước ngoài dựa vào biên khả năng thanh toán của họ. Hiện nay, mức bồi thường của AIG Việt Nam đang cao gấp 28 lần nếu so với biên khả năng thanh toán. Thậm chí cả trong trường hợp AIG phá sản, thì trước tiên, mọi quyền lợi của khách hàng trong hợp đồng chắc chắn vẫn được đảm bảo". Khủng hoảng tài chính Mỹ đã được chỉ rõ: Bắt nguồn từ việc các ngân hàng đầu tư Mỹ đổ quá nhiều tiền vào chứng khoán bất động sản, giờ thì gần như vô giá trị… Ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước khẳng định: Không một định chế tài chính nào của Việt Nam đầu tư vào chứng khoán bất động sản tại Mỹ, và cũng không nắm giữ cổ phiếu các ngân hàng đầu tư Mỹ… Vì vậy, hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam sẽ không chịu những ảnh hưởng trực tiếp từ khủng hoảng tài chính Mỹ. Ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết: "Thị trường tài chính của chúng ta chưa hội nhập quá sâu nên không chịu nhiều tác động từ khủng hoảng toàn cầu. Vấn đề quan trọng là cho đến giờ, Chính phủ luôn kiểm soát tốt và chặt chẽ toàn bộ hệ thống tài chính trong nước. Còn Ngân hàng Nhà nước cũng kiểm soát được rất tốt toàn bộ hệ thống các ngân hàng thương mại của chúng ta trước những biến động của tài chính toàn cầu, vấn đề cốt lõi là chúng ta phải đảm bảo được tính thanh khoản và dự phòng rủi ro của các ngân hàng thương mại trong nước. Điều này đã được Ngân hàng Nhà nước tập trung giải quyết trong suốt 6 tháng qua, và ở vào thời điểm này, hệ thống ngân hàng trong nước đang có tính thanh khoản rất tốt". Các chuyên gia cũng khuyến nghị: Ngân hàng Nhà nước và hệ thống các ngân hàng thương mại cần tiếp tục giám sát chặt chẽ tín dụng, đặc biệt phải có chính sách cụ thể hơn nữa đối với tín dụng bất động sản. Khủng hoảng tài chính Mỹ lan dần ra toàn cầu. Và dù chưa chịu những tác động trực tiếp, thì nền kinh tế Việt Nam cũng khó tránh khỏi bị ảnh hưởng. Những ảnh hưởng đã được dự báo ngay sẽ đến với tình hình xuất khẩu hay thu hú._.t đầu tư nước ngoài. Từ đây, một hướng giải pháp, là Việt Nam có thể tập trung tìm cách tăng sức mua cho thị trường trong nước rất tiềm năng với hơn 80 triệu người, trong bối cảnh các hoạt động kinh tế tài chính liên thông thế giới dễ chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng hiện nay. Phát biểu tại diễn đàn, Phó thủ tướng thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng đánh giá thế giới cũng như Việt Nam đang gặp những thách thức, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới suy giảm; giá dầu, giá lương thực tăng cao; lạm phát gia tăng ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng của các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, Phó thủ tướng khẳng định Việt Nam vẫn duy trì mục tiêu tăng trưởng 6,5% - 7% trong năm nay, và cho rằng Việt Nam đã vượt qua được thời kỳ khó khăn nhất. Ông cho biết trước mắt Chính phủ quyết tâm ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là lĩnh vực tài chính, và về dài hạn là sự phát triển bền vững, trong đó giải quyết các vấn đề cốt tử của nền kinh tế như nhân lực, hạ tầng. Phó thủ tướng khẳng định dù khó khăn đến đâu Việt Nam cũng sẽ tạo điều kiện tốt nhất, và hỗ trợ tối đa cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, ông Noritaka Akamatsu, chuyên gia cao cấp về tài chính của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (WB), cho rằng khi một đất nước muốn tăng trưởng mạnh 7%, 8% thậm chí 10% thì những thách thức như thâm hụt thương mại, tài khoản vãng, cán cân thanh toán là chuyện không thể tránh khỏi. Ông đánh giá Việt Nam hiện nay, tích lũy nội địa vẫn khá thấp, nên vẫn phải dựa vào dòng vốn bên ngoài, đó là các kênh tài trợ cho thâm hụt. "Việt Nam cần khuyến khích xuất khẩu, đầu tư vào xuất khẩu để tiếp tục tích lũy nội địa mạnh mẽ. Về dài hạn tiếp tục thu hút các nhà đầu tư có tổ chức, các nhà đầu tư dài hạn. Tỷ lệ vốn dài hạn hiện nay chiếm 5% GDP là quá thấp," chuyên gia này nhận xét. Ông cũng cho rằng việc lo ngại nhà đầu tư gián tiếp ngắn hạn rút khỏi thị trường là không có cơ sở. "Thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam còn quá nhỏ, và tính thanh khoản thấp, vì vậy những ai có ý định đến đây để kiếm lời, và rút ra nhanh là điều không dễ", quan chức WB này nhận định. 5. Các biện pháp khắc phục hậu quả của suy thoái a. Khôi phục ổn định trên thị trường tài chính Vấn đề trung tâm hiện nay là tâm lý và giảm sút lòng tin trên toàn thế giới. Các nhà đầu tư đánh mất niềm tin vào các công ty, đặc biệt là các ngân hàng do lo ngại về tình trạng thua lỗ tiếp tục xảy ra. Tiêu dùng giảm do lo ngại về khả năng mất việc làm. Do vậy, mục tiêu trọng tâm hiện nay phải là khôi phục niềm tin. Ở cấp độ toàn cầu, điều này có nghĩa là các chính phủ và Ngân hàng Trung ương cần phải hành động một cách quyết đoán để nhà đầu tư có thể tin tưởng vào khả năng thanh toán và tồn tại của các định chế tài chính, đồng thời phải cam kết một cách đáng tin cậy sẽ thực hiện các biện pháp đủ để xử lý nguy cơ tái diễn tình trạng Đại Suy thoái. Do vậy, ổn định tài chính là vấn đề then chốt để phục hồi kinh tế thế giới. Xuất phát từ kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng Châu Á, các nước đã hành động nhằm giải quyết những nguy cơ trước mắt đối với sự ổn định hệ thống thông qua biện pháp hỗ trợ thanh khoản quy mô lớn, như mở rộng chương trình bảo hiểm và bảo lãnh tiền gửi và coi đây là yếu tố cốt lõi để duy trì niềm tin của công chúng. Tuy nhiên, cần hành động nhiều hơn nữa để giải quyết tình trạng thiếu lòng tin vào khả năng thanh toán của hệ thống do hoạt động thua lỗ và triển vọng kinh tế suy thoái; cần xem xét, đánh giá lại hiệu quả của hệ thống thanh tra giám sát tài chính, ngân hàng nhằm phát hiện ra những kẽ hở, điểm yếu của hệ thống trong việc phát hiện và phòng ngừa khủng hoảng, qua đó giúp khôi phục lòng tin của công chúng vào hệ thống tài chính ngân hàng. Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay, những vấn đề quan trọng đặt ra đối với hoạt động thanh tra tài chính, ngân hàng là: (i) Tăng cường công tác điều phối, phối hợp hoạt động, trao đổi thông tin trong hoạt động thanh tra giám sát; (ii) Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thanh tra ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn, ổn định cho hệ thống. Các Chính phủ cần đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu ngân hàng, tập trung làm trong sạch bảng cân đối tài sản thông qua các biện pháp như: (i) Đánh giá lại bảng cân đối tài sản trong tình huống xấu nhất, xác định khả năng tồn tại của các tổ chức và tiến hành tái cơ cấu nếu thấy cần thiết. Các cơ quan chức năng cần sẵn sàng ứng phó khi cần thiết, kể cả việc can thiệp một cách đầy đủ; (ii) Hỗ trợ từ nguồn vốn công khi cần thiết cho các ngân hàng có khả năng phục hồi, xử lý tài sản xấu và bảo lãnh; (iii) Nhanh chóng bán hay giải thể các ngân hàng mất khả năng thanh toán, tùy thuộc giá trị thương hiệu có còn hay không; (iv) Thành lập tổ chức thuộc Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý "tài sản xấu". Ngay cả khi đã có những biện pháp này thì vẫn mất nhiều thời gian mới khôi phục được tăng trưởng tín dụng. Các biện pháp nêu trên sẽ rất tốn kém đối với Chính phủ nhưng tổn thất do khủng hoảng ngân hàng sẽ còn cao hơn nếu vần đề không được giải quyết nhanh chóng. b. Chương trình kích cầu Trong thời gian qua, rất nhiều nước đã thực hiện các gói giải pháp kích cầu trong nước. Các Ngân hàng Trung ương trên thế giới đã có những phản ứng nhanh và quyết đoán nhằm giải quyết tình hình. Các ngân hàng Châu Á cũng đã hành động một cách quyết đoán như: Cơ quan Tiền tệ Singapore đã nới lỏng chính sách tiền tệ ngay từ đầu cuộc khủng hoảng, Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ và Ngân hàng trung ương Hàn Quốc đi đầu trong việc cắt giảm lãi suất. Tuy nhiên, các biện pháp chính sách tiền tệ không đủ để giải quyết những đổ vỡ trên thị trường tài chính, mà cần phải kết hợp với biện pháp kích thích tài khóa để khôi phục tăng trưởng toàn cầu. Nhưng không phải tất cả các nước đều có thể sử dụng biện pháp kích thích tài khóa do không thể tăng thâm hụt ngân sách. Điều này cho thấy một điểm quan trọng là mỗi nước có biện pháp riêng của mình và kích thích tài khóa chỉ là một trong những biện pháp kích cầu trong nước. Ngoài ra, cần phải chú ý các gói chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng quy mô lớn nhằm kích thích tăng trưởng trong ngắn hạn để vượt qua khủng hoảng có thể gây lạm phát và mất ổn định vĩ mô trong trung và dài hạn sau khi cuộc khủng hoảng qua đi. Do vậy, vấn đề liều lượng và quy mô của các gói chính sách kích cầu là đặc biệt quan trọng, đồng thời các nước cần chuẩn bị sẵn các biện pháp cho giai đoạn hậu khủng hoảng nhằm chuẩn bị đối phó với các nguy cơ từ gói giải pháp kích cầu, đảm bảo tăng trưởng ổn định và bền vững, bao gồm: * Về phía chính sách tài khóa: Những nước áp dụng chính sách tài khóa mở rộng để kích thích tiêu dùng nhưng lại có tỷ lệ tiết kiệm thấp sẽ phải đối mặt với nguy cơ tình trạng thậm hụt cán cân vãng lai trầm trọng hơn, nợ nước ngoài tăng, ngân sách không bền vững trong trung hạn và có thể xảy ra "khủng hoảng tài khóa". * Về phía chính sách tiền tệ: Chính sách tiền tệ quá nới lỏng có thể sẽ dẫn tới tình trạng "bẫy thanh khoản" (cung tiền quá mức nhưng không thể thúc đẩy tăng trưởng) và việc duy trì chi phí vốn quá thấp trong thời gian dài có thể gây ảnh hưởng xấu trong dài hạn tới tiết kiệm và đầu tư. Do vậy, việc thực hiện chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ mở rộng cần được nghiên cứu kỹ và có tầm nhìn trung và dài hạn nhằm duy trì được lòng tin của công chúng vào sự ổn định và bền vững về mặt vĩ mô trong tương lai. Các biện pháp chính sách của mỗi nước phải tính đến mối quan hệ gắn kết giữa các nền kinh tế và biện pháp của nước này có thể gây ảnh hưởng sâu sắc tới những nước khác. Tránh áp dụng các biện pháp kích cầu nhưng manh tính bảo hộ gây ảnh hưởng xấu tới thương mại quốc tế và đặc biệt là gây tổn hại tới các nền kinh tế mới nổi có tăng trưởng lệ thuộc nhiều vào nguồn vốn vay từ các ngân hàng nước ngoài. c. Phối hợp các chính sách trong nước để giải quyết khủng hoảng Ở các quốc gia mà chức năng ổn định tài chính thuộc trách nhiệm của nhiều cơ quan quản lý, cần phải có một cơ chế đảm bảo đưa ra được những chính sách mang tính nhất quán, có sự phối hợp và phân định rõ vai trò và trách nhiệm của các bên. Một số khó khăn trong quá trình phối hợp chính sách gồm: (i) Thiếu trao đổi thông tin giữa các cơ quan liên quan; (ii) Công bố thông tin cho công chúng để khôi phục niềm tin; (iii) Khuôn khổ pháp lý yếu; (iv) Thiếu nguồn lực và năng lực để đảm bảo hiệu quả hợp tác giữa các cơ quan quản lý. Giải pháp để tháo gỡ những khó khăn này là: * Khuôn khổ pháp lý hỗ trợ xây dựng những biện pháp can thiệp kịp thời và có trật tự: Những thay đổi nhanh chóng trong môi trường hoạt động đòi hỏi phải có đánh giá tổng thể về khuôn khổ pháp lý qui định về quyền hạn, công cụ và những yêu cầu đối với các cơ quan quản lý trong việc đưa ra những can thiệp và giải pháp kịp thời. Nhìn chung, những qui định pháp lý điều chỉnh hoạt động thanh tra, quyền lợi của nhà đầu tư, phá sản doanh nghiệp, bảo mật thông tin thường được xây dựng độc lập với nhau để bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các nhóm đối tượng và được thực thi bởi các cơ quan khác nhau. Do vậy có thể có những qui định pháp lý xung đột, gây cản trở cho việc thực hiện những giải pháp can thiệp kịp thời và có trật tự. * Có đủ nguồn lực, năng lực và hợp tác hiệu quả giữa các cơ quan quản lý để đảm bảo thực hiện chính sách có hiệu quả: Trong cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại vai trò "Người cho vay cuối cùng" của Ngân hàng Trung ương đã có những điều chỉnh so với cách hiểu truyền thống như: (i) Kéo dài thời kỳ hỗ trợ thanh khoản; (ii) Mở rộng phạm vi các tài sản được phép cầm cố và danh sách các tổ chức được tham gia; (iii) Cho phép hoán đổi các chứng khoán không có khả năng thanh khoản lấy trái phiếu chính phủ. Ngoài ra, nhiều biện pháp can thiệp khác cũng được áp dụng như mua lại nợ, bảo lãnh nợ và tiền gửi, tăng vốn. Tuy nhiên, những biện pháp can thiệp như vậy đã chuyển những rủi ro tín dụng và thị trường lên bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng Trung ương. Hơn nữa việc chấp nhận những tài sản đảm bảo thiếu tính thanh khoản cũng tạo ra những quan ngại về các vấn đề định giá, rủi ro đạo đức... vì rất khó xác định được cách định giá phù hợp đối với các sản phẩm tài chính có độ phức tạp cao và ít được giao dịch. Do vậy, phần lớn các Ngân hàng trung ương trong khu vực đã không ngừng tăng cường khuôn khổ quản lý thanh khoản và có những độ linh hoạt nhất định trong việc đưa ra những điều chỉnh cần thiết để có thể đối phó được những tình huống thiếu hụt thanh khoản có thể xảy ra trên thị trường hoặc đối với từng tổ chức cụ thể. Điều này cũng đòi hỏi Ngân hàng trung ương phải tăng cường khả năng kiểm soát rủi ro và đội ngũ chuyên gia. * Tăng cường cung cấp thông tin để loại bỏ tâm lý bất ổn và khôi phục lòng tin: Vấn để khủng hoảng lòng tin trong cuộc khủng hoảng này đã một lần nữa cho thấy các chiến lược truyền thông cho các nhóm đối tượng cần phải được coi là một phần đặc biệt quan trọng trong các giải pháp chính sách, vì những tác động về lòng tin có thể trở thành kênh truyền dẫn chính cho những lây lan khủng hoảng giữa các nước, cũng như giữa các khu vực kinh tế. Vấn đề công bố và trao đổi thông tin có thể có tác động tích cực hoặc tiêu cực đối với hiệu quả chính sách, tùy thuộc vấn đề thời điểm công bố và mức độ chi tiết của thông tin. Trong bối cảnh biến động tài chính như hiện nay, việc thiếu những tuyên bố, thông cáo về chính sách thường dẫn đến tình trạng mất lòng tin. Tuy nhiên, trong một số trường hợp việc cung cấp quá nhiều thông tin cũng có thể gây ra những hoảng loạn không cần thiết do những nhóm đối tượng khác nhau có những nhìn nhận, đánh giá khác nhau về khủng hoảng. d. Điều phối chính sách trên phạm vi toàn cầu-vai trò của IMF Theo đánh giá của IMF, các nước hầu như không có sự phối hợp chính sách trên phạm vi quốc tế trước khi xảy ra khủng hoảng và trong quá trình xảy ra khủng hoảng, các biện pháp chính sách ban đầu vẫn không mang tính phối hợp mà chỉ tự điều phối bên trong mỗi nước. Ví dụ, nhiều nước vội vàng bảo vệ các ngân hàng của nước mình thông qua biện pháp bảo lãnh, qua đó gây nguy cơ tháo chạy ra khỏi các hệ thống đã được bảo vệ kém hơn ở các nước láng giềng, trong khi đó việc hỗ trợ thanh khoản lại chủ yếu hướng tới các định chế tài chính trong nước. Do đó, công tác quản lý thị trường tài chính cần phải thay đổi. Cùng với quá trình toàn cầu hóa các thị trường tài chính, các nước cần tăng cường hợp tác trong lĩnh vực quản lý, giám sát khu vực tài chính. Cần tăng cường tiếng nói của các nền kinh tế đang nổi trên các diễn đàn quốc tế về giải quyết các vấn đề kinh tế toàn cầu, đồng thời IMF đóng vai trò đặc biệt trong quá trình điều phối chính sách và giám sát ổn định kinh tế toàn cầu bởi vị trí và kinh nghiệm của IMF trong việc giám sát kinh tế vĩ mô toàn cầu. Trong cuộc khủng hoảng hiện nay, IMF đã cung cấp những khoản hỗ trợ đáng kể cho Hungary, Ukraine, Pakistan, Iceland, Latvia và Belarus, tăng cường hỗ trợ cho nhiều nước thu nhập thấp và sẵn sàng cho vay nhiều hơn. Tháng 11/2008, Quỹ đã cho vay một lượng tiền kỷ lục mà Quỹ từng cho vay trong 1 tháng. Tuy nhiên, để có đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ của mình, IMF cần có đủ nguồn lực và phối hợp chặt chẽ với các tổ chức hợp tác khu vực như SEACEN và ASEAN +3. Vừa qua, IMF đã kêu gọi các nước thành viên đóng góp thêm, tăng gấp đôi nguồn vốn của IMF lên 500 tỷ USD nhằm có đủ khả năng đối phó với khủng hoảng e.Biện pháp chính sách khắc phục tác động của khủng hoảng Về quản lý thanh khoản và thị trường: tăng cường cung cấp thanh khoản cho thị trường, bảo lãnh cho vay và bảo lãnh tiền gửi để duy trì lòng tin của thị trường đối với hệ thống tài chính. Về tiền tệ: do lạm phát trong khu vực tiếp tục có xu hướng đi xuống trong bối cảnh giá cả hàng hóa toàn cầu giảm, hầu hết các nước trong khu vực đều nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng với mức cắt giảm lãi suất tính từ đầu năm 2008 đến nay từ 50 đến 525 điểm cơ bản. Về tài khóa: một số nền kinh tế như Trung Quốc, Hồng Kông, Malaysia, Singapo, Thái Lan và Đài Loan (Trung Quốc) đã thực hiện các gói kích thích tài khóa quy mô lớn nhằm kích cầu trong nước với giá trị dao động từ 4,1% - 16% GDP. Về hợp tác quốc tế: củng cố và tăng cường khuôn khổ hợp tác và giám sát tài chính khu vực Asean, Asean+3, Ủy ban ổn định tài chính và tiền tệ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, cụ thể là tăng cường đa phương hóa Sáng kiến Chiengmai, hợp tác chia sẻ và cung cấp thông tin giám sát trong khu vực nhằm duy trì và ổn định tài chính tiền tệ. II.THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Năm 2008 là câu chuyện của hai cuộc khủng hoảng nối tiếp nhau. Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 đã trải qua những trạng thái hoàn toàn trái ngược từ quá nóng sang quá lạnh.   Những tháng đầu năm 2008 do giá nguyên liệu, dầu mỏ và lương thực tăng chóng mặt kèm theo chính sách nới lỏng tiền tệ và tài khóa một cách quá mức của chính phủ trong những năm trước đây đã tạo là chỉ số giá tiêu dùng tăng vọt ở mức  cao nhất trong vòng 17 năm qua lên đến 23%. Đồng thời với đó do nền kinh tế phát triển quá nóng dẫn tới đầu tư tràn lan kém hiệu quả gây ra nhập khẩu tăng vọt đẩy thâm hụt thương mại lên mức kỉ lục là 17 tỷ USD. Mức thâm hụt lớn này gây sức ép lên VND và khiến VND có khả năng bị mất giá nghiêm trọng. Trước hoàn cảnh khó khăn đó chính phủ Việt Nam đã thực thi hàng loạt các biện pháp cấp bách như thắt chặt tiền tệ (lãi suất cơ bản có lúc đã đẩy lên đến mức 14%), siết chặt đầu tư công và chi tiêu chính phủ bằng việc đình hoãn, hủy bỏ hàng loạt các dự án chưa cấp bách. Các chính sách này đã tỏ ra hiệu quả khi lạm phát đã hạ nhiệt vào các tháng cuối năm, thâm hụt thương mại giảm bớt qua đó tỷ giá VND/USD đã trở nên cân bằng và ổ định hơn. Nền kinh tế Việt Nam đã thoát khỏi nguy cơ đổ vỡ.  Tuy nhiên chưa kịp hoàn hồn, ngay sau đó Việt Nam lại tiếp tục phải đối mặt với những thử thách cam go hơn đến từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ những tháng cuối năm 2008. Cuộc khủng hoảng này đã tác động mạnh mẽ vào nền kinh tế Việt Nam khi nhu cầu hàng hóa của toàn cầu suy giảm nghiêm trọng. Điều này  dẫn tới sự sụt giảm xuất khẩu cũng như đầu tư của Việt Nam tạo ra nguy cơ suy thoái kinh tế và đe dọa làm mất cân bằng cán cân thương mại một lần nữa. Quan sát các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Việt Nam trong năm 2007 và 2008 có thể thấy nền kinh tế Việt Nam đã yếu đi rõ rệt và dễ bị tổn thương hơn bao giờ hết.  Bảng1: Các chỉ tiêu kinh tế Việt Nam năm 2007&2008 2007 2008 Tăng trưởng GDP (%) 8.5 6.2 Tăng trưởng tiêu dùng cá nhân(%) 9.6 3.9 Tăng trưởng chi tiêu công (%) 8.9 8 Tăng trưởng đầu tư (%)      23 14 Tăng trưởng xuất khẩu (%) 15.2 10.6 Tăng tưởng nhập khẩu (%) 21.3 15.1 Chỉ số giá tiêu dùng (avg, %) 12.6 23 Tỷ giá hối đoái, VND:USD 16.096 16.989 Thực trạng Kinh tế Việt Nam năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 đã phải chịu hai tác động nặng nề, đó là chính sách tiền tệ và tài khóa được thắt chặt khá đột ngột nhằm hãm đà lạm phát ổn định kinh tế vĩ mô của chính phủ và sự suy thoái kinh tế toàn cầu.  1. Mức tăng trưởng GDP Kinh tế Việt Nam năm 2008 đã không tiếp tục được đà tăng trưởng cao của các năm trước đó.  Quý I/2008, tốc độ tăng trưởng GDP là 7,38%, thấp hơn tốc độ 7,8% của quý I/2007 kèm theo tình hình kinh tế trong nước có nhiều diễn biến bất lợi như lạm phát và nhập siêu tăng cao bất thường. Đến quý II/2008, tốc độ lạm phát và nhập siêu của quý này đã giảm nhẹ, song tốc độ tăng trưởng GDP của quý cũng giảm và chỉ đạt 5,85%. Quý III/2008, kinh tế thế giới đứng trước nguy cơ suy thoái, giá cả trên thị trường thế giới về nguyên liệu, nhiên liệu và lương thực thực phẩm xoay chiều giảm mạnh , Việt nam bắt đầu nới lỏng chính sách tài chính, tiền tệ và tốc độ tăng trưởng GDP của quý đạt 6,55%. Quý IV/2008, Việt Nam đã nhanh chóng chuyển từ chính sách đấu tranh với lạm phát trong vài tháng trước thành nới lỏng để hỗ trợ kinh tế phát triển. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tiến hành những biện pháp nới lỏng mạnh nhằm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng và tạo điều kiện tiếp cận vốn vay cho doanh nghiệp. Vì vậy năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 mức tăng trưởng đã chậm lại rõ rệt. Năm 2008 tăng trưởng GDP chỉ đạt 6.2 % trong khi 3 tháng đầu năm 2009 tăng trưởng GDP chỉ đạt 3,1%. Năm 2008 Nông nghiệp chỉ tăng 3,8%, công nghiệp tăng 6,3%, dịch vụ tăng 7,2%. Đây là những mức tăng khiêm tốn nhất trong 10 năm trở lại đây và là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang chững lại.  Bảng GDP từng năm 2. Tiêu dùng toàn xã hội Trong bối cảnh lạm phát tăng cao những tháng đầu năm, sau đó lại là suy giảm tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm khiến thu nhập thực tiễn của người tiêu dùng Việt Nam giảm đáng kể, người tiêu dùng Việt Nam đã phản ứng bằng cách thắt chặt chi tiêu cá nhân. Tỷ lệ tăng trưởng tiêu dùng năm 2008 chỉ là 3,9 % mức tăng rất thấp nếu so với mức 9,6% của năm 2007 và tỷ lệ này tiếp tục suy giảm trong những tháng đầu năm 2009.   3. Chi tiêu chính phủ Chi tiêu chính phủ tăng khoảng 8% trong năm 2008 giảm 1%so với mức tăng năm 2007. Sự suy giảm này gây bởi từ chính sách tài khóa  thắt chặt quyết liệt của chính phủ nhằm hạ nhiệt lạm phát. Tuy nhiên một phần lớn phần ngân sách tiết kiệm được này lại dùng để trả lương cho các công chức chính phủ do đó thâm hụt ngân sách năm 2008 vẫn ở mức cao chiếm 5% GDP. Mức thâm hụt ngân sách cao cộng với nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu suy giảm khiến chính phủ khó lòng gia tăng chi tiêu trong năm 2009. Điều này khiến chính sách kích cầu và nới lỏng tiền tệ của chính phủ trở nên kém hiệu quả.  4. Đầu tư toàn xã hội Đầu tư trong năm 2008 đã tăng chóng mặt lên đến mức tăng 11.2%. Mặc dù có những mối quan ngại về nền kinh tế đang xấu đi nhưng đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng kí vào Việt Nam vẫn tăng mạnh. Luồng vốn  FDI được duyệt lên đến 64 tỷ USD, gấp 3 lần năm 2007. Tuy nhiên trên thực tế vốn giải ngân thực sự ít hơn nhiều chỉ khoảng 11 tỷ USD. Trong năm 2009 nguồn vốn FDI vào Việt Nam đã có sự suy giảm rõ rệt do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Thống kê 3 tháng đầu năm 2009 Trong ba tháng đầu 2009 Việt Nam chỉ thu được 2,1 tỷ USD đầu tư nước ngoài.Số tiền cam kết cho các dự án đã khởi động dự tính sẽ đạt 6 tỷ USD trong ba tháng đầu năm, thấp hơn so với năm ngoái tới 40%. Trong khi đó đầu tư công khó có khả năng tăng trở lại do thâm hụt ngân sách của Việt Nam đang ở mức rất cao. Các doanh nghiệp đang gặp khó khăn cả về vốn lẫn đầu ra sản phẩm nên họ cũng không mặn mà với việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này khiến cho tổng mức đầu tư toàn xã hội sẽ suy giảm mạnh trong năm  2009. Vốn đầu tư thực hiện năm 2008 theo giá trị thực hiện ước tính đạt 637.3 nghìn tỷ đồng, tăng 22.2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn khu vực nhà nước là 184.4 nghìn tỷ, chiếm 28.9 % tổng số vốn và giảm 11.4%. Khu vực ngoài nhà nước là 263 nghìn tỷ đồng, chiếm 41.3% tăng 42.7%. Khu vực có vốn FDI 189.9 nghìn tỷ đồng, chiếm 29.8 % và tăng 46.9%. Vốn đầu tư từ NSNN thực hiện trong năm 2008 đạt 100.9 nghìn tỷ bằng 102.8% kế hoạch: Trung ương quản l ý 34.2 nghìn tỷ đồng, đạt 103 % kế hoạch. Địa phương quản lý 66.7 nghìn tỷ đồng, đạt 102.7%. Vốn đầu tư XDCB cả năm 2008 tăng cao so với cùng kỳ năm trứơc. Tính đến tháng 12/2008, vốn rót vào khu vực Trung Ương tăng hơn 50% so với vốn đầu tư của khu vực địa phương. Cả nước có 1171 dự án FDI mới dược cấp phép trong năm 2008 với số vốn đăng ký đạt 60.3 tỷ USD. Bình quân vốn đăng ký của một dự án năm nay đạt 51.5 triệu USD so với mức bình quân 12.5 triệu USD/dự án của năm 2007. 5. Xuất khẩu Giá trị xuất khẩu năm 2008 ước tính đạt 62.9 tỷ USD, tăng 29.5% so với cùng kỳ năm 2007, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%. Khu vực đầu tư nước ngoài đạt 24.5 tỷ USD, tăng 26.8%. Dầu thô đạt 10.5 tỷ USD, tăng 23.1%. Giá trị xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng đều tăng so với năm 2007, chủ yếu do giá trên thị trường thế giới tăng. Trong đó có 8 nhóm mặt hàng đạt kim ngạch trên 2tỷ USD là: Dầu thô, hàng dệt may, giầy dép, thuỷ sản, gạo, sản phẩm ghỗ, điện tử- máy tính, cà phê. Trong các thị trường xuất khẩu của Việt Nam năm 2008, Hoa Kỳ vẫn là đối tác lớn nhất, đạt 11.6 tỷ USD, tăng 14.5% so với năm 2007; thị trường ASEAN tuy có giảm trong các tháng cuối năm, nhưng ước tính cảc năm vẫn đạt 10.2 tỷ USD, tăng 31% so với năm trước, thị trường ED đạt 10 tỷ USD, tăng 15% so với năm trước. Xuất khẩu năm 2008 cảu các loại hàng hoá tăng 29.5% so với năm 2007. Từ năm 2001 Việt Nam đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế hướng tới xuất khẩu và chiến lược này thực sự đã gặt hái được một số thành công. Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam đã trở nên phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu khi xuất khẩu chiểm đến 70 % GDP. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng toàn câu hiện nay đã ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu của Việt Nam do các thị trường tiêu thụ sản phẩm chính bị thu hẹp. Thống kê cho thấy xuất khẩu 3 tháng đầu năm 2009 khả ảm đạm. Mặc dù xuất khẩu của VN trong tháng 3 giảm 2,8% so với cùng kỳ năm 2008, chỉ có 9/35 mặt hàng xuất khẩu được thống kê tăng, còn lại là giữ nguyên và giảm nhưng nhờ lượng tái xuất vàng, đá quý tăng vọt lên tới trên 2 tỉ USD trong ba tháng đầu năm, giúp xuất khẩu cả quý 1 tăng 2,4%. Tuy nhiên, ba tháng kim ngạch xuất khẩu mới đạt khoảng 19% kế hoạch năm.  Xuất khẩu ba tháng qua của hơn mười mặt hàng chủ lực như điện tử và linh kiện máy tính, thủy sản, cà phê, hạt điều, dầu thô... giảm 10-20%, có mặt hàng giảm gần 50% như cao su, dây cáp điện... Điều này chứng minh các doanh nghiệp (DN) VN đang chịu ảnh hưởng mạnh của khủng hoảng kinh tế thế giới. Mặc dù 3 tháng đầu năm Việt Nam xuất siêu nhưng chủ  yếu là  nhờ tái xuất vàng và đây không phải là điều đáng mừng bởi không ảnh hưởng gì tới sản xuất.   Tóm lại năm 2009 nền kinh tế Việt Nam sẽ gặp phải những thử thách hết sức khốc liệt và nguy cơ suy giảm tăng trưởng vẫn đang hiện hữu. Tuy nhiên với những chính sách điều hành kinh tế linh hoạt của Chính phủ và nỗ lực của toàn xã hội, kinh tế Việt Nam sẽ đứng vững tạo nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững trong những năm tiếp theo. 6. Nhập khẩu Giá trị nhập khẩu hàng hoá tính chung cả năm 2008 ước tính đạt 80.4 tỷ USD, tăng 28.3% so với năm 2007, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 51.8 tỷ USD, tăng 26.5%. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28.6 tỷ USD, tăng 31.7%. Ba nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim nghạch hàng hoá nhập khẩu năm 2008 là tư liệu sản xuất( chiếm 88.8%); hàng tiêu dùng( chiếm 7.8%) và vàng( chiếm 3.4%). Nhập siêu hàng hoá năm 2008 đạt 17.5 Tỷ USD, tăng 24.1% so với năm 2007 và bằng 27.8% kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu. Tuy nhập siêu đã giảm nhiều so với dự báo những tháng trước đây nhưng nhập siêu năm nay vẫn khá cao. Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu từ khu vực ASEAN ước tính đạt 19.5 tỷ USD, tăng 22.5% so với 2007. Các mặt hàng nhập khẩu chủ lực nhàm đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất trong nước đều tăng so với 2007. Tuy nhiên, nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất cho những tháng cuối năm có xu hướng giảm nhiều. Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng trong các tháng cuối năm cho thấy hàng tiêu dùng nước ngoài đang tạo sức ép lớn lên hàng tiêu dùng Việt Nam ngay tại thị trường trong nước. 7. Thị trường khoán và bất động sản co hẹp Năm 2008 thị trường chứng khoán có nhiều biến động xấu. Chỉ số VN – Index giảm mạnh, thiết lập đáy của năm tại 285 điểm (ngày 10/12), mức thấp nhất kể từ năm 2006 tới nay. Sau 8 năm hoạt động kể từ khi khai trương đến nay, năm 2008 là năm thị trường chứng khoán Việt Nam hoạt động khó khăn nhất, chịu ảnh hưởng trực tiếp và mạnh nhất từ những bất ổn của kinh tế vĩ mô trong nước và bất ổn của thị trường tài chính tiền tệ thế giới. Thị trường chứng khoán Việt Nam đang trong giai đoạn trầm lắng. Những bất ổn của kinh tế vĩ mô trong năm 2008 khiến thị trường chứng khoán Việt Nam tuy có lúc lên lúc xuống, nhưng về toàn cục là suy giảm mạnh. Cuối tháng 6, thị trường có dấu hiện phục hồi khi các chính sách nhằm kiểm chế lạm phát của Chính phủ bắt đầu có tác dụng. Nhưng sau đó, do sự bất ổn của thị trường tài chính Mỹ và ảnh hưởng của nó tới thị trường chứng khoán toàn cầu,  thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục giảm điểm và cắt xuống dưới mốc 300. Về thị trường bất động sản,  trong năm 2008, các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tăng lãi suất huy động vốn, gần như ngừng cho vay bất động sản, khiến các dự án liên quan đến bất động sản gần như đóng băng. 8. Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Tốc độ tăng trưởng trung bình của các doanh nghiệp, theo báo cáo điều tra của VCCI, đạt 10,9% trong  6 tháng đầu năm 2008, mức tăng trưởng được đánh giá là khá tốt so với năm 2007 (5%). Tuy nhiên, kết quả này có được chủ yếu là do thừa hưởng đà tăng trưởng từ năm 200. Doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn lớn với việc lạm phát trong nước năm 2008 tăng cao, suy thoái kinh tế toàn cầu đang lan rộng. Khoảng giữa năm 2008, doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất cao, trong khi giá các nguyên vật liệu cơ bản tăng cao. Song gần đây, giá của nhiều mặt hàng giảm nhanh, khiến họ phải đầu tư với chi phí cao nhưng phải bán sản phẩm với giá thấp. Nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng hoạt động cầm chừng và không tìm được hướng giải quyết đầu ra. Với những biến động bất thường của kinh tế như năm 2008, các doanh nghiệp muốn duy trì sản xuất đều phải tự tìm ra hướng giải quyết. Nhiều doanh nghiệp đã thu hẹp quy mô sản xuất do càng sản xuất càng lỗ để lại hậu quả là phải cắt giảm hoặc sa thải lao động gây ra những vấn đề không nhỏ về mặt xã hội. Trong khi đó, giá cả tăng cao, lương công nhân không có khả năng tăng theo dẫn đến tình trạng đình công và đình trệ kinh doanh ở nhiều doanh nghiệp sản xuất. 9. Chỉ số giá tiêu dùng- giá vàng- giá USD Trái ngược với quy luật “Mùa tiêu dùng nóng” của thị trường cuối năm, CPI cả nước tháng 12/2008 đã tiếp tục giảm tháng thứ ba liên tiếp với mức 0.68% so với tháng 11, đưa chỉ số CPI tháng 12 ở mức 19.89% so với tháng 12/2007 và bình quân cả năm 2008 đạt 22.97%. Tính tổng cả năm, chỉ có một nhóm hàng giảm CPI so với năm trước là bưu chính- viễn thông. Các mặt hàng tăng giá mạnh nh t vẫn tập trung vào lương thực( h ơn 49%), thực phẩm(h ơn 32%), phương tiện đi lại( 16%), nhà ở và vật liệu xây dựng( 20.51%). Nhìn chung, gi._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22424.doc
Tài liệu liên quan