Mục lục
Lời nói đầu 4
Chương I : Những vấn đề chung về cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh 5
I /. Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh 5
1.Cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh 5
1.1 - Khái niệm cạnh tranh và khả năng cạnh tranh 5
1.2 - Vai trò của cạnh tranh 5
2. Các loại hình cạnh tranh. 7
2.1 - Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường. 7
2.2 – Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế.
2.3 - C
53 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Sức cạnh tranh & giải pháp nâng cao sức cạnh tranh trong Công ty may Xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăn cứ vào mức độ cạnh tranh.
2.4 – Căn cứ vào tính chất của cạnh tranh.
II /. Các nhân tố ảnh hưởng và các chỉ tiêu đánh giá đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá:
1. Mô hình Micheal Porter về 5 lực lượng cạnh tranh
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp.
2.1- Các nhân tố khách quan.
2.1.1- Môi trường Kinh tế quốc dân.
2.1.2 – Môi trường ngành.
2.2 - Các nhân tố chủ quan.
2.2.1 - Hàng hoá và cơ cấu hàng hoá trong kinh doanh.
2.2.2 – Yếu tố giá cả.
2.2.3 - Chất lượng hàng hoá.
2.3.4 - Tổ chức hoạt động xúc tiến.
2.3.5 – Dịch vụ sau bán hàng.
2.3.6 – Phương thức thanh toán.
2.3.7 – Yếu tố thời gian.
3. Một số chỉ tiêu tổng hợp đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
III /. Những yêu cầu cơ bản của cạnh tranh trên thị trường quốc tế trong điều kiện hiện nay.
Một là: Hàng hoá phải được thích nghi hoá theo các đặc trưng vật lý của nó.
Hai là: Hàng hoá phải tích nghi hoá theo các đặc trưng dịch vụ của nó.
Ba là: Thích nghi hoá theo các đặc trưng có tính biểu tượng của hàng hoá.
IV /. Những biện pháp chủ yếu trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu.
1Các biện pháp nâng cao lợi thế cạnh tranh.
Xác định các chiến lược cạnh tranh.
Chương II : Thực trạng về khả năng cạnh tranh của Công ty May Xuất Khẩu trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc Thời trang giai đoạn 1999 – 2003
I /. Khái quát về sản xuất kinh doanh của Công ty
1. Những thuận lợi , khó khăn.
1.1- Thuận lợi .
1.2 – Khó khăn.
2- Kết quả kinh doanh trong các năm qua. Đánh giá.
II /. Thực trạng cạnh tranh của mặt hàng.
1. Đối thủ cạnh tranh.
2.Phân tích cạnh tranh theo một số yếu tố chủ yếu
2.1- Chất lượng
2.2- Giá cả
2.3- Tính đa dạng kiểu dáng
2.4 –Dịch vụ , phương pháp phục vụ khách hàng
2.5-Các vấn đề khác
III/.Đánh giá chung thực trạng và khách quan cạnh tranh
1.Những mặt mạnh
2.Những mặt yếu
3.Vấn đề đặt ra với công ty
Chương III : Phương hướng và biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty may xuất khẩu trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc thời trang
I/. Mục tiêu và phương hướng nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty trong thời gian tới
1.Định hướng phát triển của nghành may mặc tới năm 2010
2.Mục tiêu và phương hướng hoạt động của Công ty may xuất khẩu giai đoạn 2005 – 2010
2.1- Về hoạt động xuất khẩu
2.2- Về phát triển thị trường
2.3- Về tổ chức , đào tạo
3.Phương hướng nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty trong hoạt động xuất khẩu nghành may mặc thời trang
II/.Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty may xuất khẩu
1.Về phía công ty
1.1- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động Marketing mở rộng thị trường xuất khẩu
1.1.1- Tăng cường hoạt động nghiên cứu thị trường nhằm xác định nhu cầu, thị hiếu khách hàng
1.1.2- Nghiên cứu , phân tích đối thủ cạnh tranh
1.1.3- Đẩy mạnh hoạt động khuyếch trương quảng cáo
1.2- Sử dụng chính sách giá cả có hiệu quả
1.3- Thực hiện đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu
1.4- Nâng cao chất lượng hàng hoá và cải tiến công tác quản lý chất lượng
1.5- Tổ chức công tác nghiên cứu mẫu mốt
1.6- Nâng cao trình độ người lao động
1.7- Mở rộng các mối liên kết kinh tế
1.8- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn , chi phí lợi nhuận
2.Về phía nhà nước
2.1- Hoàn thiện chính sách đối với xuất khẩu hàng may mặc
2.2- Cải tiến chính sách thuế
2.3- Hoàn chính sách tỷ giá
2.4- Hoàn thiện chính sách tín dụng
lời nói đầu
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường là một bước ngoặt lớn có tính chất cơ bản để nền kinh tế nước ta có thể đứng vững và phát triển kịp với nền kinh tế thế giới và khu vực. Sự chuyển đổi này đã kéo theo sự chuyển hướng trong việc lập kế hoạch, chiến lược kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Cơ chế mới này đã mở ra một thời kỳ mới đầy cơ hội phát triển nhưng cũng nhiều thách thức lớn đối với các thành phần kinh tế cũng như các doanh nghiệp ở Việt Nam.
Hoạt động trong cơ chế thị trường mọi doanh nghiệp phải tự mình vận động, tự quyết định mọi vấn đề về kinh doanh của mình, không có sự phân công, chỉ đạo trực tiếp như trong cơ chế cũ, vì vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải có tính linh hoạt cao. Chính vì sự sống còn và phát triển của mỗi doanh nghiệp mà đã có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau. Cạnh tranh từ đó đã ra đời góp phần giúp cho các doanh nghiệp khẳng định sức mạnh chính, tăng nhanh doanh thu, lợi nhuận. Ngược lại, đó cũng là yếu tố loại bỏ những doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả, không có sức cạnh tranh.
Khi nền kinh tế càng phát triển, các thành phần kinh tế ngày càng đa dạng, số lượng các doanh nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều thì cạnh tranh ngày càng gay gắt. Mỗi doanh nghiệp để đảm bảo cho sự tồn tại của mình đã đưa ra những chiến lược cạnh tranh táo bạo nhằm không ngừng tăng cường khả năng cạnh tranh cho mình. Mặt khác, các doanh nghiệp không bao giờ tự thoả mãn với thị trường chiếm lĩnh được (điều này rất nguy hiểm có thể sẽ kéo theo sự diệt vong của doanh nghiệp) nên luôn tìm cách vươn lên, mở rộng thị trường. Và vì vậy, xây dựng một chiến lược cạnh tranh với những công cụ, biện pháp thích hợp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh gay gắt trên thị trường.
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là một hoạt động mang tính chất quốc tế, vì nó vượt khỏi biên giới quốc gia nên yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp lại càng nhiều. Để đứng vững trên thị trường quốc tế, trong điều kiện cạnh tranh có nhiều khốc liệt hơn thì vấn đề đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu càng lớn.
Xuất phát từ tầm quan trọng của cạnh tranh đối với mỗi doanh nghiệp, nhất là trên thị trường thế giới, cùng với quá trình tìm hiểu thực tế trong thời gian thực tập tại Công ty may xuất khẩu , em đã chọn đề tài: " Sức cạnh tranh và các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của Công ty may xuất khẩu trong thị trường quốc tế " làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Chương i
Những vấn đề chung về cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh
I - Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh
1- Cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh
1.1 - Khái niệm cạnh tranh và khả năng cạnh tranh
Sự trao đổi hàng hoá phát triển rất sớm trong lịch sử phát triển loài người, nhưng chỉ đến khi xuất hiện trao đổi thông qua vật ngang giá là tiền tệ cạnh tranh mới xuất hiện. Khi nghiên cứu sâu về nền sản xuất TBCN và cạnh tranh TBCN, Mác đã phát hiện ra quy luật cơ bản của sự cạnh tranh là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận và qua đó đã hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên sự chênh lệch giữa giá trị và chi phí sản xuất và khả năng có thể bán hàng hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh vẫn là điều kiện và yếu tố kích thích kinh doanh là môi trường và động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động và sự phát triển của xã hội nói chung.
Tóm lại, có thể hiểu: " Cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các chủ thể hiện đại trên thị trường với nhau nhằm giành giật những điều kiện sản xuất thuận lợi và nơi tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển ".
Như vậy, khi nói đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ta có thể hiểu: "Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng về năng lực mà doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của nó một cách lâu dài và có ý thức, ý chí trên thị trường cạnh tranh đảm bảo thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp".
Hiện nay, người ta đã tính toán được rằng để đảm bảo cho yêu cầu nêu trên thì tỷ lệ lợi nhuận đạt được phải ít nhất bằng tỷ lệ cho việc tài trợ cho những mục tiêu của doanh nghiệp. Vì thế, nếu một doanh nghiệp tham gia thị trường mà không có khả năng cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh yếu thì sẽ không thể tồn tại được. Quá trình duy trì sức cạnh tranh của doanh nghiệp phải là một quá trình lâu dài, nếu không nói vĩnh viễn như là quá trình duy trì sự sống.
1.2 - Vai trò của cạnh tranh :
Như chúng ta đã biết, cạnh tranh là một biểu hiện đặc trưng của nền kinh tế hàng hoá, đảm bảo tự do trong sản xuất kinh doanh và đa dạng hoá hình thức sở hữu, trong cạnh tranh nói chung và cạnh tranh trên thị trường quốc tế nói riêng, các doanh nghiệp luôn đưa ra các biện pháp tích cực và sáng tạo nhằm đứng vững trên thị trường và sau đó tăng khả năng cạnh tranh của mình. Để đạt được mục tiêu đó, các doanh nghiệp phải cố gắng tạo ra nhiều ưu thế cho sản phẩm của mình và từ đó có thể đạt được mục đích cuối cùng là lợi nhuận.
Khi sản xuất kinh doanh một lợi nhuận hàng hoá nào đó, lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được được xác định như sau:
Pr = P.Q - C.Q
Trong đó: + Pr: Lợi nhuận của doanh nghiệp
+ P: Giá bán hàng hoá.
+ Q: Lượng hàng hoá bán được
+ C: Chi phí một đơn vị hàng hoá.
Như vậy để đạt được lợi nhuận tối đa doanh nghiệp có các cách như: tăng giá bán P, tăng lượng bán Q, giảm chi phí C và để làm được những việc này doanh nghiệp phải làm tăng vị thế của sản phẩm trên thị trường bằng cách áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ, các phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp... và tốn ít chi phí nhất. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải có những chiến lược Marketing thích hợp nhằm quảng bá sản phẩm, hàng hoá của mình tới khách hàng giúp họ có thể nắm bắt được sự có mặt của những hàng hoá đó và những đặc tính, tính chất, giá trị và những dịch vụ kèm theo của chúng.
Chỉ khi nền kinh tế có sự cạnh tranh thực sự thì các doanh nghiệp mới có sự đầu tư nhằm nâng cao sự cạnh tranh và nhờ đó sản phẩm hàng hoá ngày càng được đa dạng, phong phú và chất lượng được tốt hơn. Đó chính là tầm quan trọng của cạnh tranh đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Có cạnh tranh, hàng hoá sẽ có chất lượng ngày càng tốt hơn, mẫu mã ngày càng đẹp hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn và đáp ứng tốt hơn những yêu cầu của người tiêu dùng trong xã hội. Người tiêu dùng có thể thoải mái, dễ dàng trong việc lựa chọn các sản phẩm phù hợp với túi tiền và sở thích của mình. Những lợi ích mà họ thu được từ hàng hoá ngày càng được nâng cao, thoả mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của họ nhờ có các dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng, được quan tâm nhiều hơn. Đây là những lợi ích làm người tiêu dùng có được từ cạnh tranh.
Bên cạnh đó, cạnh tranh còn đem lại những lợi ích không nhỏ cho nền kinh tế đất nước. Để tồn tại và phát triển trong cạnh tranh các doanh nghiệp đã không ngừng nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất kinh doanh nhờ đó mà tình hình sản xuất của đất nước được phát triển, năng suất lao động được nâng cao. Đứng ở góc độ lợi ích xã hội, cạnh tranh là một hình thức mà Nhà nước sử dụng để chống độc quyền, tạo cơ hội để người tiêu dùng có thể lựa chọn được những sản phẩm có chất lượng tốt, giá rẻ.
Cạnh tranh bao giờ cũng mang tính sống còn, gay gắt và nó còn gay gắt hơn khi cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hiện nay thị trường quốc tế có nhiều doanh nghiệp của nhiều quốc gia khác nhau với những đặc điểm và lợi thế riêng đã tạo ra một sức ép cạnh tranh mạnh mẽ, không cho phép cácdoanh nghiệp hành động theo ý muốn của mình mà buộc doanh nghiệp phải quan tâm đến việc thúc đẩy khả năng cạnh tranh của mình theo hai xu hướng:
Tăng chất lượng của sản phẩm và hạ chi phí sản xuất. Để đạt được điều này các doanh nghiệp phải biết khai thác triệt để lợi thế so sánh của đất nước mình để tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải chú trọng đầu tư các trang thiết bị hiện đại, không ngừng đưa các tiến bộ khoa học công nghệ kỹ thuật vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. Những điều này sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cho quốc gia, các nguồn lực sẽ được tận dụng triệt để cho sản xuất, trình độ KHKT của đất nước sẽ không ngừng được cải thiện.
Như vậy, có thể nói cạnh tranh là động lực phát triển cơ bản nhằm kết hợp một cách hợp lý giữa lợi ích doanh nghiệp và lợi ích xã hội. Cạnh tranh tạo ra môi trường tốt cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.Tuy nhiên, trong cuộc cạnh tranh khối liệt này không phải bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có lợi, có doanh nghiệp bị huỷ diệt do không có khả năng cạnh tranh, có doanh nghiệp sẽ thực sự phát triển nếu họ biết phát huy tốt những tiềm lực của mình. Nhưng cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sử dụng lãng phí nguồn lực xã hội bằng doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội, thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển.
Tóm lại: Cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia cũng như của từng doanh nghiệp.
2 - Các loại hình cạnh tranh :
Có nhiều cách phân loại cạnh tranh dựa theo nhiều tiêu thức khác nhau, nhưng ngày nay trong phân tích đánh giá người ta dựa theo các tiêu thức sau:
2.1 - Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường :
Dựa vào tiêu thức này người ta chia cạnh tranh thành 3 loại:
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua
Là một cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt. Trên thị trường người bán muốn bán sản phẩm của mình với giá cao nhất, nhưng người mua lại muốn mua hàng hoá với giá thấp nhất có thể. Giá cả cuối cùng được chấp nhận là giá cả thống nhất giữa người bán và người mua sau một quá trình mặc cả với nhau.
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau
Là cuộc cạnh tranh dựa trên sự cạnh tranh mua. Khi số lượng hàng hoá bán ra (cung) nhỏ hơn nhu cầu cần mua của người mua (cầu) tức là hàng hoá khan hiếm thì cuộc cạnh tranh trở nên quyết liệt, giá cả sẽ tăng lên vì người mua sẵn sàng chấp nhận giá cao để mua được hàng hoá cần mua.
- Cạnh tranh giữa người bán với người bán:
Là một cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau, thủ tiêu lẫn nhau để giành khách hàng và thị trường, cuộc cạnh tranh dẫn đến là giá cả giảm xuống và có lợi cho thị trường. Trong khi đó đối với những doanh nghiệp khi tham gia thị trường không chịu được sức ép sẽ phải bỏ thị trường, nhường thị phần của mình cho các doanh nghiệp có sức cạnh tranh mạnh hơn.
2.2 - Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế :
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành
Là một cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch bằng các biện pháp cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất làm cho giá trị hàng hoá cá biệt do doanh nghiệp sản xuất ra nhỏ hơn giá trị xã hội. Kết quả cuộc cạnh tranh này làm cho kỹ thuật sản xuất phát triển hơn.
- Cạnh tranh giữa các ngành
Là một cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hay đồng minh giữa các doanh nghiệp trong các ngành với nhau nhằm giành giật lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình này xuất hiện sự phân bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các ngành khác nhau, kết quả hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
2.3 - Căn cứ vào mức độ cạnh tranh :
- Cạnh tranh hoàn hảo:
Là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có nhiều người bán và không người nào có ưu thế để cung cấp một số lượng sản phẩm quan trọng mà có thể ảnh hưởng tới giá cả. Các sản phẩm làm ra được người mua xem là đồng nhất tức là ít có sự khác nhau về quy cách, phẩm chất, mẫu mã. Người bán tham gia trên thị trường chỉ có cách thích ứng với gia cả trên thị trường, họ chủ yếu tìm cách giảm chi phí và sản xuất một mức sản phẩm đến mức giới hạn mà tại đó chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên.
- Cạnh tranh không hoàn hảo:
Là cuộc cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn sản phẩm của họ là không đồng nhất với nhau, mỗi sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau. Mỗi nhãn hiệu đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau mặc dù khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể. Người bán có uy tín độc đáo đói với người mua do nhiều lý do khác nhau như khách hàng quen, gây được lòng tin. Người bán lôi kéo khách hàng về phía mình bằng nhiều cách: Quảng cáo, cung cấp dịch vụ, tín dụng ưu đãi trong giá cả... đây là loại cạnh tranh rất phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
- Cạnh tranh độc quyền:
Là cạnh tranh trên thị trường ở đó chỉ có một số người bán sản phẩm thuần nhất hoặc nhiều người bán một loại sản phẩm không độc nhất. Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng sản phẩm hay hàng hoá bán ra trên thị trường. Thị trường có sự pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh được gọi là thị trường cạnh tranh độc quyền. Điều kiện ra nhập hoặc rút khỏi thị trường cạnh tranh độc quyền có nhiều cản trở: Do vốn đàu tư lớn hay do độc quyền bí quyết công nghệ. Trong thị trường này không có cạnh tranh về giá cả mà một số người bán toàn quyền quyết định giá. Họ có thể định giá cao hơn hoặc thấp hơn tuỳ thuộc vào đặc điểm tiêu dùng của sản phẩm, cốt sao cuối cùng họ thu được lợi nhuận tối đa.
2.4 - Căn cứ vào tính chất của cạnh tranh, người ta chia thành :
- Cạnh tranh lành mạnh:
Cạnh tranh lành mạnh là cuộc cạnh tranh mà các chủ thể tham gia kinh doanh trên thi trường dùng chính tiềm năng, nội lực của mình để cạnh tranh với các đối thủ. Những nội lực đó là khả năng về tài chính, về nguồn nhân lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, về uy tín, hình ảnh của Công ty... trên thị trường hay của tất cả những gì tựu chung trong hàng hoá bao gồm cả hàng hoá cứng (hàng hoá hiện vật) và hàng hoá mềm (dịch vụ)
- Cạnh tranh không lành mạnh
Là cạnh tranh không bằng chính nội lực thực sự của doanh nghiệp mà dùng những thủ đoạn, mánh lới, mưu mẹo nhằm cạnh tranh một cách không công khai thông qua việc trốn tránh các nghĩa vụ mà Nhà nước yêu cầu và luồn lách qua những kẽ hở của pháp luật.
II - Các nhân tố ảnh hưởng và các chỉ tiêu đánh giá đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá:
1 - Mô hình Micheal Porter về 5 lực lượng cạnh tranh
Trong nền cạnh tranh kinh tế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trên thị trường cũng đều phải chịu một áp lực cạnh tranh nhất định, mà hiện trạng cuộc cạnh tranh phụ thuộc vào 5 lực lượng cạnh tranh cơ bản, được biểu diễn bởi mô hình sau:
Các đối thủ tiềm năng
Các đối thủ cạnh tranh trong nghành
Cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại
Sản phẩm thay thế
Người mua
Người cung ứng
Nguy cơ đe doạ từ những người mới vào cuộc
Sức ép giá cả
Quyền lực thương lượng
của người mua
của người cung ứng
Nguy cơ đe doạ từ
những sản phẩm và dịch vụ thay thế
Mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của Michael Porter là một mô hình được nhiều nhà phân tích vận dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp hoặc của một ngành công nghiệp.
* Nguy cơ đe doạ từ những người mới vào cuộc
Là sự xuất hiện của các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường nhưng khả năng mở rộng sản xuất, chiếm lĩnh thị trường (thị phần) của các doanh nghiệp khác. Để hạn chế mối đe doạ này, các nhà quản lý thường dựng nên các hàng rào như:
- Mở rộng khối lượng sản xuất của doanh nghiệp để giảm chi phí.
- Khác biệt hoá sản phẩm.
- Đổi mới công nghệ, đổi mới hệ thống phân phối.
- Phát triển các dịch vụ bổ sung.
Ngoài ra có thể lựa chọn địa điểm thích hợp nhằm khai thác sự hỗ trợ của Chính phủ và lựa chọn đúng dadứn thị trường nguyên liệu, thị trường sản phẩm
* Quyền lực thương lượng của người cung ứng
Người cung ứng có thể chi phối đến doanh nghiệp là do sự thống trị hoặc khả năng độc quyền của một số ít nhà cung ứng. Nhà cung ứng có thể đe doạ tới nhà sản xuất do tầm quan trọng của sản phẩm được cung ứng, do đặc tính khác biệt hoá cao độ của người cung ứng với người sản xuất, do sự thay đổi chi phí của sản phầm mà nhà sản xuất phải chấp nhận và tiến hành, do liên kết của những người cung ứng gây ra...
Trong buôn bán quốc tế, nhà cung ứng có vai trò là nhà xuất khẩu nguyên vật liệu. Khi doanh nghiệp không thể khai thác nguồn nguyên vật liệu nội địa, nhà cung ứng quốc tế có vị trí càng quan trọng. Mặc dù có thể có cạnh tranh giữa các nhà cung ứng và doanh nghiệp có thể lựa chọn nhà cung ứng tốt nhất thì quyền lực thương lượng của nhà cung ứng bị hạn chế vẫn không đáng kể. Trong mối quan hệ này, để đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp trước khả năng tăng cao chi phí đầu vào, đảm bảo sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp phải biết được quyền lực thương lượng của người cung ứng thành quyền lực của mình.
* Quyền lực thương lượng của người mua
Người mua có quyền thương lượng với doanh nghiệp (người bán) thông qua sức ép giảm giá, giảm khối lượng hàng mua từ doanh nghiệp, hoặc đưa ra yêu cầu chất lượng phải tốt hơn với cùng một mức giá...
Các nhân tố tạo nên quyền lực thương lượng của người mua gồm: Khối lượng mua lớn, sự đe doạ của quá trình liên kết những người mua khi tiến hành thương lượng với doanh nghiệp, do sự tập trung lớn của người đối với sản phẩm chưa được dị biệt hoá hoặc các dịch vụ bổ sung còn thiếu...
Quyền lực thương lượng của người mua sẽ rất lớn nếu doanh nghiệp không nắm bắt kịp thời những thay đổi về nhu cầu của thị trường, hoặc khi doanh nghiệp thiếu khá nhiều thông tin về thị trường (đầu vào và đầu ra). Các doanh nghiệp khác sẽ lợi dụng điểm yếu này của doanh nghiệp để tung ra thị trường những sản phẩm thích hợp hơn, với giá cả phải chăn hơn và bằng những phương thức dịch vụ độc đáo hơn.
* Nguy cơ đe doạ về những sản phẩm và dịch vụ thay thế
Khi giá cả của sản phẩm, dịch vụ hiện tại tăng lên thì khác hàng có xu hướng sử dụng sản phẩm và dịch vụ thay thế. Đây là nhân tố đe doạ sự mất mát về thị trường của doanh nghiệp. Các đối thủ cạnh tranh đưa ra thị trường những sản phẩm thay thế có khả năng biệt hoá cao độ so với sản phẩm của doanh nghiệp, hoặc tạo ra các điều kiện ưu đãi về dịch vụ hay các điều kiện về tài chính.
Nếu sản phẩm thay thế càng giống sản phẩm của doanh nghiệp, thì mối đe doạ đối với doanh nghiệp càng lớn. Điều này sẽ làm hạn chế giá cả, số lượng hàng bán và ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Néu có ít sản phẩm tương ứng sản phẩm của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ có cơ hội tăng giá và tăng thêm lợi nhuận.
* Cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành
Cạnh tranh giữa các Công ty trong một ngành công nghiệp được xem là vấn đề cốt lõi nhất của phân tích cạnh tranh. Các hàng trong ngành cạnh tranh khốc liệt với nhau về giá cả, sự khác biệt về sản phẩm, hoặc sự đổi mới sản phẩm giữa các hãng hiện đang cùng tồn tại trong thị trường. Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt khi đối thủ đông đảo và gần như cân bằng nhau, khi tăng trưởng của ngành là thấp, khi các loại chi phí ngày càng tăng, khi các đối thủ cạnh tranh có chiến lược đa dạng...
Có một điều thuận lợi và cũng là bất lợi cho các đối thủ trong cùng ngành là khả năng nắm bắt kịp thời những thay đổi, cải tiến trong sản xuất - kinh doanh, hoặc các thông tin về thị trường. Các doanh nghiệp sẽ có khả năng cạnh tranh cao nếu có sự nhạy bén, kịp thời và ngược lại có thể mất lợi thế cạnh tranh bất cứ lúc bào họ tỏ ra thiếu thận trọng và nhạy bén.
Doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau (trừ các doanh nghiệp ở nước sở tại) khi cùng tiến hành hoạt động kinh doanh trên thị trường nước ngoài sẽ có một phần bất lợi như nhau do các quy định hạn chế của Chính phủ nước sở tại. Chính vì thế, doanh nghiệp nào mạnh về tài chính hoặc khoa học kỹ thuật hoặc trên cả hai phương diện sẽ có được lợi thế rất lớn. Khác với hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, doanh nghiệp khi tham gia thị trường nước ngoài cần có sự trợ giúp của các doanh nghiệp khác trong cùng quốc gia để có thêm khả năng chống đỡ trước sự cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc quốc gia khác. Lúc đó có thể coi sự cạnh tranh trong ngành là sự cạnh tranh giữa các quốc gia.
Sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp làm cho giá cả các yếu tố đầu ra và những yếu tố đầu vào biến động theo các xu hướng khác nhau. Tình hình này đòi hỏi doanh nghiệp phải linh hoạt điều chỉnh các hoạt động của mình nhằm giảm thách thức, tăng thời cơ giành thắng lợi trong cạnh tranh. Muốn vậy doanh nghiệp cần nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, đưa ra thị trường những sản phẩm mới chất lượng cao, mẫu mã và giá cả phù hợp.
Dựa trên mô hình Micheal Porter về 5 lực lượng cạnh tranh chúng ta có thể đưa ra các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp.
2 – Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp :
2.1- Các nhân tố khách quan :
2.1.1- Môi trường Kinh tế quốc dân :
a) Nhóm nhân tố kinh tế :
- Tốc độ tăng trưởng cao của nước sở tại luôn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động trên các lĩnh vực sự tăng lên về khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, khi tăng trưởng cao khả năng tích tụ tập trung tư bản cao do đó khả năng sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp ngày càng cao.
- Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi tỷ giá hối đoái giảm, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sẽ tăng lên trên thị trường quốc tế vì khi đó giá bán của doanh nghiệp thấp hơn hoá bán của đối thủ cạnh tranh của nước khác, và ngược lại tỷ giá hối đoái tăng sẽ làm cho giá bán hàng hoá cao hơn đối thủ cạnh tranh đồng nghĩa với việc khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế giảm.
- Lãi suất Ngân hàng ảnh hưởng mạnh đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng với lãi suất cao sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng lên từ đó giá tăng lên, do đó khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ giảm so với các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là các đối thủ có tiềm lực về vốn
b ) Nhân tố chính trị, pháp luật:
Chính trị và pháp luật là cơ sở nền tảng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu bởi các doanh nghiệp này hoạt động trên thị trường quốc tế với lợi thế mạnh trong cạnh tranh là lợi thế so sánh giữa các nước. Chính trị ổn định, pháp luật rõ ràng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả.
Chẳng hạn bất kỳ một sự ưu đãi về thuế xuất khẩu nào cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.
c ) Nhóm nhân tố về khoa học kỹ thuật công nghệ:
Nhóm nhân tố này tác động một cách quyết định đến 2 yếu tố cơ bản nhất tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường là chất lượng và giá cả. Khoa học công nghệ hiện đại sẽ làm cho chi phí cá biệt của các doanh nghiệp giảm, chất lượng sản phẩm chứa hàm lượng khoa học công nghệ cao, khoa học kỹ thuật, công nghệ ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp theo hướng sau:
- Tạo ra những thế hệ công nghệ tiếp theo nhằm trang bị và trang bị lại toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật.
- Giúp các doanh nghiệp trong qúa trình thu nhập, xử lý, lưu trữ và truyền thông tin một cách nhanh chóng và chính xác nhất.
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao uy tín của doanh nghiệp
d ) Các nhân tố về văn hoá xã hội :
Phong tục tập quán thị hiếu lối sống, thói quen tiêu dùng, tôn giáo tín ngưỡng ảnh hưởng đến cơ cấu nhu cầu của thị trường doanh nghiệp tham gia và từ đó ảnh hưởng đến chính sách kinh doanh của doanh nghiệp khi tham gia vào các thị trường khác nhau.
e ) Các nhân tố tự nhiên:
Các nhân tố tự nhiên bao gồm tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý của quốc gia, môi trường thời tiết khí hậu... các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp theo hướng tích cực hay tiêu cực. Chẳng hạn tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí, có điều kiện khuyếch trương sản phẩm, mở rộng thị trường... Bên cạnh đó, những khó khăn ban đầu do điều kiện tự nhiên gây ra làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.1.2 - Môi trường ngành:
a) Khách hàng:
Khách hàng sẽ tạo áp lực làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bằng việc đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ bán hàng tốt hơn.... và do đó, để duy trì và tồn tại trên thị trường, buộc các doanh nghiệp phải thoả mãn tốt các nhu cầu của khách hàng trong điều kiện cho phép điều này sẽ làm tăng cường độ và tính chất cạnh tranh của doanh nghiệp.
b ) Số lượng các doanh nghiệp trong ngành hiện có và số lượng doanh nghiệp tiềm ẩn:
Số lượng doanh nghiệp cạnh tranh và đối thủ ngang sức sẽ tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi số lượng đối thủ cạnh tranhthì thị phần của các doanh nghiệp cạnh tranh sẽ giảm khi đó doanh nghiệp thống lĩnh thị trường hay là doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao nhất, doanh nghiệp phải đẩy mạnh hơn nữa cường độ cạnh tranh, ngày càng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Hơn nữa cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt quyết liệt hơn nếu như có sự xuất hiện thêm một vài doanh nghiệp mới tham gia cạnh tranh. Khi đó, các doanh nghiệp cũ với lợi thế về sản phẩm, vốn, chi phí cố định và mạng lưới kênh phân phối.. sẽ phản ứng quyết liệt đối với doanh nghiệp mới. Tuy nhiên nếu các doanh nghiệp mới có ưu thế hơn về công nghệ, chất lượng sản phẩm, áp dụng các biện pháp để giành thị phần có hiệu quả hơn thì khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp mới sẽ cao hơn nếu các doanh nghiệp không sử dụng hữu hiệu công cụ trong cạnh tranh.
e ) Các đơn vị cung ứng đầu vào :
Các nhà cung ứng đầu vào có thể gây ra những khó khăn làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong những trường hợp sau:
- Nguồn cung cấp mà doanh nghiệp cần chỉ có một hoặc một vài doanh nghiệp độc quyền cung ứng.
- Nếu doanh nghiệp không có nguồn cung ứng nào khác thì doanh nghiệp sẽ yếu thế hơn trong mối tương quan thế và lực đối với nhà cung ứng hiện có.
- Nếu nhà cung cấp có đủ khả năng, đủ các nguồn lực để khép kín sản xuất, có hệ thống mạng phân phối hoặc mạng lưới bán lẻ thì có thế lực đáng kể đối với doanh nghiệp với tư cách là khách hàng.
Tất cả những khó khăn đối với doanh nghiệp có thể gặp phải ở trên sẽ giảm đến sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào các đơn vị cung ứng đầu vào có thể gây ảnh hưởng mạnh đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để giảm bớt các tác động không tốt từ các nhà cung ứng, các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một hay nhiều người cung ứng, nghiên cứu tìm hiểu nguồn đầu vào thay thế khi cần thiết và cần có chính sách dự trữ hàng hoá hợp ._.lý.
d) Sức ép của sản phẩm thay thế :
Sự ra đời của các sản phẩm thay thế là một yếu tố nhằm đáp ứng sự biến động của nhu cầu thị trường theo xu hướng ngày càng đa dạng phong phú và cao cấp hơn và chính nó làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm bị thay thế.
Đặc biệt nhiều sản phẩm thay thế được sản xuất trên những dây chuyền kỹ thuật công nghệ tiên tiến hơn, do đó có sự cạnh tranh cao hơn. sản phẩm thay thế phát triển sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp không có sản phẩm thay thế.
2.2 - Các nhân tố chủ quan
2.2.1 - Hàng hoá và cơ cấu hàng hoá trong kinh doanh :
Điều quan trọng nhất đối với hoạt động của một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh là phải trả lời được các câu hỏi cơ bản: sản xuất cái gì ?. sản xuất như thế nào ?, sản xuất cho ai?. Còn đối với doanh nghiệp thương mại thì điều quan trọng trong kinh doanh là cung cấp cái gì? cho ai?và ở đâu?. Như vậy có nghĩa là cần xây dựng cho mình một chính sách sản phẩm, hàng hoá. Khi tham gia hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có hàng hoa đem ra thị trường và phải làm sao để cho hàng hoá của mình thích ứng được với thị trường, nhằm tăng khả năng tiên thụ, mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để có thể cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường, doanh nghiệp phải thực hiện đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh. Thực chất của đa dạng hoá đó là quá trình mở rộng hợp lý danh mục hàng hoá, tạo nên một cơ cấu hàng hoá có hiệu quả của doanh nghiệp. Hàng hoá của doanh nghiệp phải luôn được hoàn thiện không ngừng để có thể theo kịp nhu cầu thị trường bằng cách cải tiến các thông số chất lượng, mẫu mã, bao bì đồng thời tiếp tục duy trì các hàng hoá đang là thế mạnh của doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu tìm ra các hàng hoá mới nhằm phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá. Đa dạng hoá hàng hoá kinh doanh không chỉ là để đáp ứng nhu cầu thị trường, thu được nhiều lợi nhuận mà còn là một biện pháp phân tán rủi ro trong kinh doanh khi mà tình hình cạnh tranh trở nên gay gắt, quyết liệt.
Đi đôi với thực hiện đa dạng hoá mặt hàng, đề đảm bảo đứng vững trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp có thể thực hiện trọng tâm hoá hàng hoá vào một số loại hàng hoá nhằm cung cấp cho một nhóm người hoặc một vùng thị trường nhất định của mình. Trong phạm vi này doanh nghiệp có thể phục vụ khách hàng một cách tốt hơn, có hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh, do đó doanh nghiệp đã tạo dựng được một bức rào chắn, đảm bảo giữ vững được phần thị trường của mình.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần thực hiện chiến lược khác biệt hoá hàng hoá, tạo ra các nét độc đáo riêng cho mình để thu hút, tạo sự hấp dẫn cho khách hàng vào các hàng hoá của mình, nâng cao uy tín của doanh nghiệp.
Như vậy hàng hoá và cơ cấu hàng hoá một cách tối ưu là một trong những yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
2.2.2- Yếu tố giá cả :
Giá cả của một hàng hoá trên thị trường được hình thành thông qua quan hệ cung cầu. Người bán và người mua thoả thuận mặc cả với nhau để đi tới mức giá cuối cùng đảm bảo hai bên cùng có lợi. Giá cả đóng vai trò quyết định mua hay không mua của khách hàng.Trong nền kinh tế thị trường có sư cạnh tranh của các doanh nghiệp, khách hàng có quyền mua và lựa chọn những gì cho là tốt nhất và cùng một loại hàng hoá với chất lượng tương đương nhau chắc chắn họ sẽ lựa chọn mức giá thấp hơn, khi đó lượng bán của doanh nghiệp sẽ tăng lên.
Giá cả được thể hiện như là vũ khí cạnh tranh thông qua việc định giá của hàng hoá: Định giá thấp (giá xâm nhập, giới thiệu) định giá ngang giá thị trường hay định giá cao. Việc định giá cần phải xem xét các yếu tố sau: Lượng cầu đối với hàng hoá và tính tới số tiền mà dân cư có thể để dành cho loại hàng hoá đó, chi phí kinh doanh và giá thành đơn vị sản phẩm. Phải nhận dạng đúng thị trường cạnh tranh để từ đó có cách định giá thích hợp cho mỗi loại thị trường. Với một mức giá ngang giá thị trường giúp cho doanh nghiệp giữ được khách hàng đặc biệt là khách hàng truyền thống. Nếu doanh nghiệp tìm ra được các biện pháp hạ giá thành thì lợi nhuận thu được sẽ tăng lên, hiệu quả kinh doanh sẽ cao. Ngược lại, với một mức giá thấp hơn giá thị trường sẽ thu hút được nhiều khách hàng và tăng lượng bán, doanh nghiệp sẽ có cơ hội thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường mới. Mức giá doanh nghiệp áp đặt cao hơn giá thị trường chỉ sử dụng được đối với các doanh nghiệp có tính độc quyền, điều này giúp cho doanh nghiệp thu được rất nhiều lợi nhuận (lợi nhuận siêu ngạch).
Để chiếm lĩnh được ưu thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải có sự lựa chọn các chính sách giá thích hợp cho từng loại hàng hoá, từng giai đoạn trong chu kỳ sống của sản phẩm hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường.
2.2.3 - Chất lượng hàng hoá
Nếu như trước kia giá cả được coi là yếu tố quan trọng nhất trong cạnh tranh, thì ngày nay nó phải nhường chỗ cho chỉ tiêu chất lượng hàng hoá. Trên thực tế, cạnh tranh bằng giá là " biện pháp nghèo nàn " vì nó làm giảm lợi nhuận thu được, mà ngược lại cùng một loại hàng hoá, chất lượng hàng hoá nào đáp ứng được nhu cầu khách hàng thì họ cũng sẵn sàng mua với một mức giá cao hơn, nhất là trong thời đại ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật đang trong giai đoạn phát triển mạnh, đời sống của nhân dân được nâng cao hơn trước. Chất lượng hàng hoá là hệ thống nội tại của hàng hoá được xác định bằng cá thông số có thể do được hoặc so sánh được, thoả mãn các điều kiện kỹ thuật và những yêu cầu nhất định của người tiêu dùng và xã hội. Chất lượng háng hoá được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chứ sản xuất và ngay cả khitiêu thụ hàng hoá và chịu tác động của nhiều yếu tố: Công nghệ, dây chuyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ quản lý...
Chất lượng hàng hoá không chỉ là bền tốt, đẹp mà nó còn do khách hàng quyết định. Muốn đảm bảo về chất lượng thì một mặt phải thường xuyên chú ý tới tất cả các khâu trong quá trình sản xuất, mặt khác,chất lượng hàng hoá không những được đảm bảo trước khi bán mà còn phải được đảm bảo ngay cả sau khi bán hàng bằng các dịch vụ bảo hành. Chất lượng hàng hoá thể hiện tính quyết định khả năng của doanh nghiệp ở chỗ.
+ Nâng cao chất lượng hàng hoá sẽ làm tăng khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm.
+ Hàng hoá chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp kích thích khách hàng mua hàng và nở rộng thị trường.
+ Chất lượng hàng hoá cao sẽ làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp.
2.2.4 - Tổ chức hoạt động xúc tiến
Trong kinh doanh thương mại hiện nay, các doanh nghiệp sẽ không đạt được hiệu quả cao nếu chỉ nghĩ rằng: "Có hàng hoá chất lượng cao, giá rẻ là đủ để bán hàng". Nhưng giá trị của hàng hoá, dịch vụ, thậm chí cả những lợiích đạt được khi tiêu dùng sản phẩm cũng phải được thông tin tới khách hàng hiện đại, khách hàng tiềm năng, cũng như những người có ảnh hưởng tới việc mua sắm. Để làm được điều đó các doanh nghiệp cần thực hiện tốt các hoạt động của xúc tiến thương mại.
Công tác tổ chức hoạt động xúc tiến là tập hợp nhiều nội dung khác nhau nhằm tăng khả năng tiêu thụ, mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp...
* Công tác tổ chức hoạt độngxúc tiến gồm một số nội dung sau
- Quảng cáo.
- Khuyến mại
- Hội chợ triển lãm.
- Bán hàng trực tiếp.
- Quan hệ công chúng và các hoạt động khuyếch trương khác.
Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện truyền tin (Đài, báo, truyền hình..) về hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp đến người tiêu dùng nhằm làm cho khách hàng chú ý tới sự có mặt của doanh nghiệp và sản phẩm dịch vụ sẽ được cung cấp. Quảng cáo phải tạo ra sự khá biệt giữa hàng hoá của doanh nghiệp với hàng hoá hác trên thị trường, làm tăng giá của hàng hoá bán ra. Quảng cáo phải gây được ấn tượng cho khách hàng, tác động vào tâm lý khách hàng... để làm nảy sinh nhu cầu mua sắm của họ, từ đó làm tăng quy mô kinh doanh của doanh nghiệp (nhờ tăng lượng bán). Và một tác dụng nữa của quảng cáo là nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, là một phương tiện cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh.
Bên cạnh hoạt động trên, hiện nay các doanh nghiệp còn thực hiện các hoạt động như chiêu hàng, tham gia hội chợ, tổ chức hội nghị khách hàng... để giới thiệu về sản phẩm của doanh nghiệp mình.
Công tác tổ chức hoạt động xúc tiến tốt tác động mạnh đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Tổ chức hoạt động xúc tiến tốt giúp cho doanh nghiệp tăng lượng bán. tăng doanh thu, lợi nhuận, thu hồi vốn nhanh.
- Tổ chức hoạt động xúc tiến tốt sẽ tạo ra uy tín của sản phẩm trên thị trường, làm cho khách hàng biến đến và hiểu rõ kỹ năng công dụng của sản phẩm.
-Tổ chức tốt hoạt động xúc tiến giúp cho doanh nghiệp tìm được nhiều bạn hàng mới, khai thác được nhiều thị trường, kích thích sản xuất kinh doanh phát triển.
Công ty May Xuất Khẩu đã có một số hoạt động xúc tiến như cho ra đời các catalogue giới thiệu sản phẩm của Công ty, cử cán bộ đi tham dự các hội chợ, triển lãm quốc tế nhằm tìm kiếm thêm khách hàng, giới thiệu mặt hàng... và đã thu được một số kết quả đáng mừng.
2.2.5 - Dịch vụ sau bán hàng
Để nâng cao uy tín và trách nhiệm của mình đối với người tiêu dùng về hàng hoá của doanh nghiệp, đòi hỏi doanh nghiệp phải thực hiện tốt các dịch vụ sau bán hàng.
Nội dung hoạt động dịch vụ sau bán hàng gồm: Hướng dẫn cách sử dụng hàng hoá, lắp đặt, sửa chữa, bảo hành, bảo đảm các dịch vụ thay thế...
Tác động của dịch vụ sau bán hàng:
- Tạo được uy tín cho hàng hoá và doanh nghiệp trên thị trường.
- Duy trì và mở rộng thị trường.
- Bán thêm các thiết bị thay thế làm tăng doanh thu lợi nhuận.
Qua dịch vụ sau bán hàng doanh nghiệp nắm bắt được hàng hoá của mình có đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng không, để từ đó ngày càng hoàn thiện và đổi mới sản phẩm của mình. Do vậy, dịch vụ sau bán hàng là một biện pháp rất tốt tăng uy tín trong cạnh tranh.
2.2.6 - Phương thức thanh toán
Trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp sử dụng các phương thức thanh toán khác nhau như: Thanh toán chậm, trả góp, thanh toán qua ngân hàng, mở L/C... giúp cho hoạt động mua bán được diễn ra thuận lợi hơn, nhanh chóng hơn, có lợi cho cả người bán và người mua. Việc lựa chọn phương thức thanh toán hợp lý sẽ có tác động kích thích đối với khách hàng, tăng khối lượng tiêu thụ và do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
2.2.7 - Yếu tố thời gian
Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật trong giai đoạn hiện nay làm thay đổi nhanh chóng nếp nghĩ, sở thích hay nhu cầu của người tiêu dùng, cũng như sự rút ngắn chu kỳ sống của sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp yếu tố quan trọng quyết định thành công trong kinh doanh hiện đại chính là thời gian và tốc độ chứ không phải là yếu tố truyền thống như nguyên vật liệu hay lao động.
Những thay đổi nhanh chóng của tiến bộ khoa học kỹ thuật đã làm cho các cuộc cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, khối liệt hơn và trong công cuộc chạy đua này ai biết nắm bắt thời cơ và đi trước thì người đó sẽ thắng. Muốn vậy các doanh nghiệp phải tổ chức tốt hoạt động thu thập và xử lý thông tin thị trường, phải biết nắm băt thời cơ, lựa chọn mặt hàng theo yêu cầu của thị trường, nhanh chóng tổ cứhc kinh doanh, tiêu thụ, thu hồi vốn trước khi chu kỳ sản phẩm kết thúc.
Hiện nay, ở nhiều nước phát triển cạnh tranh bằng thời gian là một biện pháp rất quan trọng mang tính sống còn của doanh nghiệp. Đi trước một bước trong cạnh tranh là đã dành được một chiến thắng quan trọng trong việc thu hút khách hàng, mở rộng thị trường, tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy khi xây dựng một chiến lược kinh doanh, các doanh nghiệp thường đề cập tới vấn đề "Tốc độ thị trường"; "cạnh tranh dựa trên thờigian" và chú trọng tới chu kỳ sống của sản phẩm, thoả mãn nhu cầu thị trường, thời gian đầu tư, thời gian thu hồi vốn, tốc độ tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài các yếu tố trên vốn và quy mô doanh nghiệp...cũng sẽ tác động lớn tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như việc nâng cao khả năng cạnh tranh. Uy tín của doanh nghiệp cũng là một yếu tố rất quan trọng, đó là cơ sở để doanh nghiệp có thể dễ dàng giành thắng lợi trong cạnh tranh vì họ đã có một lượng khách hàng quen thuộc tín nhiệm. Uy tín của doanh nghiệp được hình thành sau một thời gian dài hoạt động trên thị trường và nó là một tài sản vô hình mà doanh nghiệp cần phải biết giữ gìn và phát huy tài sản đó.
3 - Một số chỉ tiêu tổng hợp đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Việc đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là rất quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào để xác định được khả hiện tại của bản thân doanh nghiệp và xác định sức mạnh của các đối thủ cần quan tâm. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thường được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
* Tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp tính theo doanh thu
Công thức xác định:
GTt =
DTt - DTt-l
DTt-l
Trong đó:
Gtt: Tốc độ tăng trưởng theo doanh thu thời kỳ nghiên cứu
DTt: Doanh thu kỳ nghiên cứu
DTt-l: Doanh thu kỳ trước.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này đánh giá mức độ tăng lên hoặc giảm đi của thị phần của doanh nghiệp trên thị trường, đồng nghĩa với sự lớn lên hay giảm sút sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
* Tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp theo lợi nhuận
GTt =
Prt - Prt-l
Ret-l
Công thức xác định:
Trong đó: Grt: Tốc độ tăng trưởng theo lợi nhuận kỳ nghiên cứu
Prt::Lợi nhuận kỳ nghiên cứu
Prt-l: Lợi nhuận kỳ trước đó
ý nghĩa: Có ý nghĩa giống với chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tính theo doanh thu nhưng phản ánh thực chất và chính xác hơn về một doanh nghiệp vì nó so sánh về tốc độ tăng lợi nhuận và lợi nhuận mới thực sự phản ánh kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
* Chỉ tiêu thị phần của doanh nghiệp
Thị phần của doanh nghiệp có hai cách xác định thông dụng với những tác dụng khác nhau:
Cách 1:
Thị phần của doanh nghiệp =
Doanh thu của doanh nghiệp
Tổng doanh thu tiêu thụ trên thị trường
ý nghĩa: Chỉ tiêu này nói lên mức độ rộng lớn của thị trường của một doanh nghiệp và vai trò ví trị của doanh nghiệp đó trên thị trường. Thông qua sự biến động của chỉ tiêu này, ta có thể đánh giá mức độ hoạt động có hiệu quả hay không của doanh nghiệp trong việc thực hiện chiến dịch thị trường, chiến lược marketing, chiến lược cạnh tranh và hỗ trợ cho việc đề ra các mục tiêu của doanh nghiệp.
Thị phần của doanh nghiệp =
Doanh thu của doanh nghiệp
Doanh thu của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất
Tuy nhiên, chỉ tiêu trên có một nhược điểm là khó thể đảm bảo tính chính xác khi xác định nó, nhất là khi thị trường mà doanh nghiệp đang tham gia quá rộng lớn vì nó gây nhiều khó khăn trong việc tính được chính xác doanh thu thực tế của các doanh nghiệp. Mặt khác công việc này đòi hỏi nhiều thời gian và chi phí.
Cách 2:
Chỉ tiêu này đơn giản và dễ tính toán hơn nhiều so với chỉ tiêu trên nên nó khắc phục được những nhược điểm của những chỉ tiêu trên. Do các đối thủ cạnh tranh thì sẽ có nhiều thông tin hơn nên lựa chọn phương pháp này người ta có thể lựa chọn từ 2 - 5 doanh nghiệp mạnh nhất tuỳ theo đặc điểm mỗi lĩnh vực cạnh tranh.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh sát thực nhất khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó hỗ trợ đắc lực cho việc hoạch định các chiến lược sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó còn giúp cho doanh nghiệp có thêm thông tin về các đối thủ cạnh tranh mạnh nhất và các thị phần họ chiếm giữ thường là những khu vực có lợi nhuận cao mà rất có thể doanh nghiệp cần chiếm lĩnh trong tương lai.
Những chỉ tiêu trên là những chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh chung của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, còn nếu xét riêng về hoạt động xuất khẩu thì khả năng cạnh tranh được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
* Tốc độ tăng của hoạt động xuất khẩu qua các năm
EGt =
EXt - EXt-l
EXt-l
Trong đó:
EGt: Tốc độ tăng Kim ngạch xuất khẩu kỳ nghiên cứu
EXt: Kim ngạch xuất khẩu kỳ nghiên cứu
EXt-l:: Kim ngạch xuất khẩu kỳ trước.
ý nghĩa: Qua chỉ tiêu này ta có thể tháy được tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu giữa hai năm liền nhau để biết xem khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp qua thời gian là tăng hay giảm và tăng, giảm với tỷ lệ là bao nhiêu. Nếu tăng thì chứng tỏ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có phần tăng lên, còn nếu giảm thì khả năng đó có thể giảm và doanh nghiệp cần tìn ra nguyên nhân của sự giảm sút đó để năm sau có thể khắc phục.
* Thị phần của doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc
Cũng như chỉ tiêu thị phần ở trên, thị phần trong hoạt động xuất khẩu bao gồm hai cách tính:
Cách 1:
Thị phần của doanh nghiệp so với tổng = Kim ngạch xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu HMM của doanh nghiệp
Tổng Kim ngạch xuất khẩu HMM của các DN
trong nước
Trong đó: Kim ngạch xuất khẩu HMM: Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc
ý nghĩa: Cho biết độ lớn về Kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp so với kim ngạch chung của toàn ngành trong nước, từ đó thấy được vị thế của doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu chung của toàn ngành. Sự biến động của chỉ tiêu qua các năm sẽ giúp doanh nghiệp đánh giá được khả năng cạnh tranh của mình trong hoạt động xuất khẩu, có sự tăng lên hay giảm đi và nguyên nhân từ đâu.
Tuy nhiên số lượng doanh nghiệp trong nước tham gia hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở trong nước là một con số không nhỏ và rất khó kiểm soát, nên để có được số liêu về tổng Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của tất cả các doanh nghiệp trong nước một cách chính xác là rất khó nên ta có thể tính theo cách thứ hai như sau:
Cách 2:
Thị phần của doanh nghiệp so với đối thủ mạnh nhất
=
Kim ngạch xuất khẩu HMM của doanh nghiệp
Kim ngạch xuất khẩu HMM của đối thủ mạnh nhất
Trong đó: Kim ngạch xuất khẩu HMM: Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc .
ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh độ lớn Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của doanh nghiệp mình so với một số đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường. Từ đây có thể so sánh được thị phần của doanh nghiệp mình trên thị trường với thị phần của một số doanh nghiệp mạnh khác để phân tích xem với quy mô, tiềm lực hiện nay của doanh nghiệp như vậy thì hoạt động xuất khẩu của Công ty đã thực sự hiệu quả chưa. Ngoài ra còn biết thêm các thông tin về đối thủ, thị phần xuất khẩu họ chiếm giữ và lấy đó làm căn cứ cho doanh nghiệp có thể nghiên cứu và tìm ra những chiến lược cạnh tranh cho phù hợp.
Đánh giá khả năng cạnh tranh là một việc làm cần thiết đối với mọi doanh nghiệp vì qua đó mỗi doanh nghiệp có thể đưa ra những mục tiêu, chiến lược cạnh tranh thích hợp với tình trạng hiện tại của doanh nghiệp mình. Hoạt động xuất khẩu hàng may mặc là một hoạt động được rất nhiều doanh nghiệp trong ngành may quan tâm và vì thế số lượng các doanh nghiệp trong ngành may quan tâm và vì thế số lượng các Doanh nghiệp tham gia xuất khẩu ngày càng tăng, làm cho cục diện cạnh tranh ngày càng gay gắt.
*Tỷ số về khả năng sinh lãi.
Nếu như các chỉ tiêu trên đây phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt của doanh nghiệp thì tỷ số về khả năng sinh lãi phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất- kinh doanh và hiệu năng quản lý doanh nghiệp.
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = TNST/DOANH THU
Chỉ tiêu này xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế (lợi nhuận sau thuế) cho doanh thu. Nó phản ánh số lợi nhuận sau thuế ttrong 100 đồng doanh thu.
-Tỷ số thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu: ROE
ROE =TNST/VCSH
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một muc tiên quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp.
-Doanh lợi tài sản:ROA
ROA = TNTT &L / TS hoặc ROA= TNST/TS
Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn thu nhập trước thuế và lãi hoặc thu nhập sau thuế để so sánh tổng tài sản
*Các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá nguồn nhân lực
Theo UNDP- cũng là của Liên hợp quốc- sự phát triển con người (nhân lực) của các quốc gia và lãnh thổ khác nhau, bất kể theo chế độ chinh ttrị nào, đều có thể so sánh với nhau bằng một thước đo chung- chỉ số phát triển con người hay chỉ số phát triển nhân lực – HDI. HDI là một chỉ tiên tổng hợp gồm ba tiêu chí cụ thể:
-Trình độ phát triển kinh tế
-Giáo dục
-Y tế
Chỉ tiêu kinh tế đo bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người tính theo phương pháp sức mua tương đương để tính ra mức sống bình quân của người dân
Chỉ tiêu về phát triển giáo dục đo bằng tỷ lệ người lớn biết chữ và số năm đi học bình quân của người dân
Chỉ tiêu y tế tính bằng tuổi thọ bình quân của người dân
Mặc dù HDI là một hệ thống chỉ tiêu còn khiếm khuyết nhất định nhưng nó vẫn là một thước đo được thế giới thừa nhận từ lâu và hiện đang được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực phát triển nhân lực. Từ hệ thống chỉ tiêu và các tính các chỉ số về sự phát triển nhân lực- nhân sự HDI của Liên hợp quốc đối với các quốc gia, vận dụng vào việc xem xét sự phát triển nguồn nhân lực của Công ty Xuất Khẩu May Mặc để nâng cao khả năng cạnh tranh về nhân lực- Một lợi thế lớn nhất của Việt Nam nói chung và Công ty nói riêng.
IiI- những yêu cầu cơ bản của cạnh tranh trên thị trường quốc tế trong điều kiện hiện nay
Hiện nay, trong quá trình thâm nhập hay mở rộng trực tiếp cho một thị trường nước ngoài thì một yêu cầu đối với bất cứ một doanh nghiệp nào là phải tìm cách thích nghi sản phẩm, hàng hoá của mình với thị trường cần chiếm lĩnh. Việc thích nghi hoá, hàng hoá phải được xem xét trên các khía cạnh sau :
Một là: Hàng hoá phải được thích nghi hoá theo các đặc trưng vật lý của nó. Nó bao gồm 2 loại thích nghi với những mức độ và yêu cầu khác nhau.:
a - Thích nghi bắt buộc
Những quy định pháp lý của thị trường nước ngoài là bắt buộc đối với nhà kinh doanh. Vì thế khi đưa một sản phẩm vào thị trường nước ngoài thì cần tính đến những tiêu chuẩn bắt buộc của thị trường đó. Chúng bao gồm:
- Các định mức về an toàn sản phẩm, chẳng hạn một số nước quy định về vật liệu an toàn dùng cho đồ chơi trẻ em...
- Các định mức về an toàn vệ sinh: Nhiều nước, nhất là các nước phát triển, có những quy định ngặt nghèo về vệ sinh thực phẩm và kiểm tra chặt chẽ điều đó như các điều kiện về bảo quản, bảo vệ, vô trùng...
- Các định mức kỹ thuật: Không phải nước nào cũng dùng điện thế 220v với tần số 50 Hz và các phích cắm tròn mà lại dùng điện 110v, tần số 609Hz. Nhiều nước Âu Mỹ không dùng các đơn vị đo lường như mét, ki lô gam mà dùng pound mile.
Những quy định về tiêu chuẩn trên tạo ra các cản trở phi thuế quan đối với các mặt hàng hoá nhập khẩu, buộc các doanh nghiệp phải thích ứng sản phẩm của mình đối với các quy định đó.
b - Thích nghi cần thiết
Mỗi thị trường nước ngoài đều có những đòi hỏi riêng biệt đối với hàng hoá nhập khẩu. Vì thế để chiếm lĩnh được khách hàng mục tiêu thì phải tính đến các nhu cầu và mong muốn của khách hàng tại đó. Điều đó có nghĩa là: Không phải chỉ đơn thuần xuất khẩu, nhà xuất khẩu phải nghiên cứu thị trường thật kỹ bao gồm cả việc nghiên cứu các động cơ kích thích và kìm hãm mua hàng, những gì có thể đem lại cho nhà doanh nghiệp một sự hiểu biết đầy đủ về cái mà người tiêu dùng nước ngoài đang chờ đợi: khẩu vị của họ và gì, thói quen tiêu dùng, tần số tiêu dùng và những đặc trưng khí hậu là gì. Đó là điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, tức là nếu nhà sản xuất và xuất khẩu hiểu rõ thị trường nước ngoài cũng như thị trường nước họ thì đó là cơ hội để doanh nghiệp thành công tại thị trường đó.
Hai là: Hàng hoá phải tích nghi hoá theo các đặc trưng dịch vụ của nó: Các hàng hoá công nghiệp, hàng hoá chuyên ngành và cả hàng hoá tiêu dùng nữa đều đòi hỏi phải được theo dõi trong quá trình lắp đặt, bảo dưỡng và sửa chữa... cũng như các chỉ dẫn sử dụng rõ ràng và bằng tiếng của nước được bán, ngoài sự tham gia kỹ thuật thường xuyên hoặc tạm thời.
Như vậy, nhu cầu về dịch vụ sẽ khác nhau tuỳ thuộc vào loại hàng hoá, song cũng tuỳ theo trình độ kỹ thuật của nhân công địa phương, trình độ văn hoá, chi phí tại chỗ cho việc sửa chữa... Một giải pháp tốt đáng được quan tâm đối với cả nhà xuất khẩu lẫn người tiêu dùng là cung cấp các hàng hoá đơn giản hơn và chắc chắn hơn so với loại thiết bị dành cho người tiêu dùng của các nước phát triển nếu điều đó có thể làm được, để nếu cần có thể bảo dưỡng một cách đơn giản, ít tốn kém và giảm tần số của những lần hỏng hóc.
Ba là:Thích nghi hoá theo các đặc trưng có tính biểu tượng của hàng hoá:
a - Nhận thức về biểu tượng
Mọi đồ vật dù là thông thường nhất hay đơn điện nhất cũng phản ánh một điều gì đó trong tư duy của mỗi người, nó gợi nên sự chắc chắn hay mỏng manh, tin cậy hay không tin cậy, cao cấp hay tầm thường, lịch sự hay khẩu vị tồi... Tất cả những suy tưởng này tuỳ thuộc vào nền văn hoá của đất nước, vào văn hoá của từng tầng lớp xã hội của nước đó. Như vậy, điều quan trọng là phải trừu tượng hoá nhận thức có tính biểu tượng của từng nước và từng đoạn thị trường, hoặc tốt hơn nữa nếu xác định được biểu tượng của từng loại khách hàng tiềm năng đối với hàng hoá của doanh nghiệp. Sự nghiên cứu này vần đạt đến một mức độ thích nghi nhất định với nhận thức ở thị trường đó khi phân biệt một cấp độ thứ nhất (bản thân các biểu tượng) và một cấp độ thứ hai (kết hợp nhiều biểu tượng vào cùng một sản phẩm):
- Cấp độ thứ nhất tương đối dễ nhận biết, đó là nhận thức mà mỗi nền văn hoá hoặc tiểu văn hoá có được về màu sắc, về hình dáng, về một đồ vật hay nhân vật nào đó, Chẳng hạn, ở Trung Quốc màu trắng là màu tang tóc, còn màu đen là màu thông thường như các màu khác. Màu đỏ biểu tượng cho máu, tức là cái chết hoặc là màu chính của sản phẩm.
- Cấp độ thứ hai khó nhận biết hơn vì nó thường có vẻ nghịch lý và mâu thuẫn. Chẳng hạn tại một số vùng theo thanh giáo thì người sử dụng một hàng hoá đẹp sẽ không tin vào sự chắc chắn của nó vì theo quan niệm của họ một số đồ vật vừa tốt lại vừa đẹp không thể đi liền với nhau thành một cặp. Tại một số nơi khác hình ảnh súc vật in trên một số sản phẩm có thể làm liên tưởng đến cái chết (như hình con cá ở Châu Phi) hay sự không sạch sẽ (như hình con cừu ở Đức).
b - Nhận thức về hình ảnh của hàng hoá
" Máy của Đức rất chắc chắn, giầy của ý là tốt nhất thế giới, thép Thuỵ Điển không gì sánh nổi.. " là những nhận thức thực hay hư trong ý nghĩ của mọi người, thậm chí là khẳng định về giá trị của sản phẩm của các nước khác nhau. Đó là hình ản của " Made in" thật khó thay đổi.
Với những nhạn thức đó, doanh nghiệp có thể tạo ra trò chơi trên cái mà nó biết về tất cả những ý tưởng đó sao cho có lợi nhất, tức là giấu đi những gì không thuận lợi cho hàng hoá của nó. Tuy nhiên, trong khi hàng hoá được liên kết với một hình ảnh dân tộc hoặc một vùng nào đó thì nó sẽ có một tên gọi tương ứng và trong mọi trường hợp, khi đặc tính của hàng hoá nhập ngoại " Made in " ở nước khác có giá trị gây thiệt hại cho hàng hoá địa phương thì không nên trình bày nó như một hàng hoá xa lạ bằng cách chọn nước mà ta có thể liên kết liên doanh một cách thuận lợi nhất.
iV- những biện pháp chủ yếu trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu
1 – Các biện pháp nâng cao lợi thế canh tranh
Lợi thế cạnh tranh là ưu thế đạt được của doanh nghiệp (so với các doanh nghiệp khác cùng ngành) một cách tương đối dựa trên các nguồn lực và năng lực sản xuất của doanh nghiệp đó. Doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh thường đạt mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình. Tỷ lệ lợi thế đạt được của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác cùng ngành) thường được xác định bằng một tỷ số nào đó, ví dụ như lợi nhuận trên doanh thu (ROS - retum on sales) hoặc lợi nhuận trên tài sản (ROA - retum on assets). Các tỷ suất này càng cao càng thể hiện được lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nếu xem xét lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp theo tỷ suất ROS, ta có thể biểu diễn như sau:
ROS =
Lợi nhuận
=
Doanh thu - Tổng chi phí
= 1 -
Tổng chi phí
doanh thu
Doanh thu
doanh thu
= 1 -
Chi phí 1 đ/ vị SP x tổng khối lượng SP
= 1 -
Chi phí1 đ/vịSP
Giá 1 đ/vị SP x tổng khối lượng SP
Giá 1 đ/vị SP
Do đó, để có tỷ suất ROS cao hay để mức tổng lợi nhuận (= tổng doanh thu - tổng CP) cao hơn mức trung bình của ngành, doanh nghiệp phải có mức chi phí/đơn vị sản phẩm thấp hơn của đối thủ cạnh tranh (Tạo lợi thế cạnh trang bên trong), hoặc làm cho sản phẩm của mình khác với của đối thủ cạnh tranh (khác biệt hoá sản phẩm nhằm định giá sản phẩm cao hơn đối thủ cạnh tranh (Tạo lợi thế bên ngoài). Hoặc thực hiện đồng thời cả 2 cách. Trước đây, các nhà kinh tế thường nhấn mạnh một nhân tố nào đó liên quan đến chi phí hoặc khác biệt hoá sản phẩm, nhưng ngày nay người ta thường chấp nhận lợi thế cạnh tranh là kết quả của đa nhân tố.
* Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh
Bốn yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh bao gồm: Hiệu quả, chất lượng, đổi mới, nhạy cảm với khách hàng. Đây là yếu tố chung xây dựng nên lợi thế cạnh tranh, chúng biểu thị 4 cách cơ bản để giảm chi phí và đa dạng hoá mà bất kỳ một doanh nghiệp nào sản xuất một sản phẩm hay một dịch vụ nào cũng có thể áp dụng.
Năng lực của doanh nghiệp được hình thành từ những kỹ năng trong việc khai thác, phối hợp các nguồn lực và hướng các nguồn lực vào mục đích sản xuất. Những kỹ năng này thường trực trong công việc hàng ngày của doanh nghiệp, được thể hiện qua các cách thức ra quyết định và quản lý các quá trình nội bộ của doanh nghiệp để đạt được mục tiêu đề ra. Để có những năng lực riêng biệt, ít nhất doanh nghiệp phải có hoặc một nguồn lực độc đáo và kỹ năng cần thiết để khai thác nguồn lực đó, hoặc một khả năng quản lý hữu hiệu để quản lý các nguồn lực chung.
Tuy nhiên, khi đã có được lợi thế cạnh tranh thì doanh nghiệp sẽ duy trì được lợi thế đó trong bao lâu, nói cách khác là khi nào các đối thủ cạnh tranh cũng đạt được lợi thế đó. Điều đó phục thuộc vào 3 yếu tố: độ cao của rào cản bắt chước, khả năng đổi mới của đối thủ cạnh tranh và sự vận động tổng thể của môi trường ngành.
Thường thì nguồn lực dễ bị sao chép hơn các kỹ năng, năng lực dựa trên cơ sở hữu hình thường dễ bị bắt chước hơn các năng lực dựa trên cơ sở v._.uyếch trương bao gồm các nội dung như: Quảng cáo, các hoạt động yểm trợ, xúc tiến bán hàng, hội chợ triển lãm...được sử dụng dể thông tin về hàng hoá nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình, giới thiệu về công ty, nâng uy tín của Công ty. Các hoạt động hỗ trợ bán là một trong những hoạt động quan trọng trong chính sách cạnh tranh của một doanh nghiệp vì đây không chỉ là biện pháp hỗ trợ mà nó còn tăng cường cho các chính sách giá cả, phân phối.. nhằm tằng sức cạnh tranh của một doanh nghiệp trên thị trường. Chi phí cho hoạt động quảng cáo xúc tiến thường rất lớn song hiệu quả của quá trình kinh doanh tăng lên rõ rệt. Do vậy bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia thị trường cạnh tranh đều phải xây dựng những chương trình quảng cáo hấp dẫn nhằm thu hút sự chú ý, gây ấn tượng cho khách hàng. Đâu chính là những cuộc cạnh tranh phi giá giữa các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trên thị trường. Công ty có thể tiến hành các hoạt động khuyếch trương theo các hướng sau:
* Mở rộng hoạt động quảng cáo cho những sản phẩm của Công ty, đặc biệt là những sản phẩm mang nhãn hiệu đặc biệt. Hoạt động quảng cáo được thực hiện nhằm tạo ra sự chú ý của khách hàng và thông tin cho khách hàng biết về sản phẩm của mình. Công ty cần xây dựng những chương trình quảng cáo hấp dẫn, kích thích sự chú ý của khách hàng thông qua các phương tiện thông tin như: Báo chí, mạng Internet... nhằm giới thiệu cho các đối tượng khách hàng hiểu rõ về sản phẩm và danh tiếng của Công ty. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động mang tính chất quốc tế, khách hàng là những người ở những quốc gia khác nhau nên việc quảng cáo là rất khó, Công ty phải lập trang web phục vụ cho công tác quảng cáo. Đối với những khách hàng đã từng biết đến Công ty thì việc quảng cáo qua mạng mới có hiệu quả, còn đối với những khách hàng mới chưa hề biết đến tên tuổi, hàng hoá của công ty thì trang web của Công ty chưa chắc đã được họ quan tâm. Vì lý do đó, Công ty nên quảng cáo các sản phẩm của mình qua cách trình bày trên bao bì, nhãn hiệu sản phẩm vì bao bì là một trong những phương tiện quảng cáo hữu hiệu... trên các nhãn mác cần ghi rõ:
- Tên, ký hiệu hàng hoá, phân loại theo các chỉ tiêu quốc tế nào.
- Tên, địa chỉ Công ty.
Mặc khác, bao bì là hình thức bên ngoài của sản phẩm, nó góp phần làm tăng thêm độ sang trọng, lịch sự của sản phẩm nên có luôn được tiêu dùng chú ý khi lựa chọn sản phẩm ,vì thế Công ty nên quan tâm nhiều hơn nữa đến độ tiện lợi, bền đẹp, lịch sự của bao bì.
* Công ty nên duy trì tổ chức các hoạt động như hội nghị khách hàng, tham gia hội chợ giới thiệu sản phẩm, đặc biệt là những hội chợ ở nước ngoài, in ấn, phát hành các tài liệu về Công ty, về sản phẩm của mình như ra đời catologue, tờ rơi quảng cáo.
Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, quảng cáo, khuyếch trương sẽ góp phần đẩy mạnh tốc độ xuất khẩu, tăng sức mạnh về cạnh tranh, tăng thị phần của Công ty trên thị trường. Tuy nhiên khi thực hiện các hoạt động này, Công ty cần tính toán sao cho chi phí bỏ ra phải phù hợp với tình hình tài chính cũng như tương xứng với doanh thu thu được của mình. Vì hiệu quả kinh doanh có được là nhờ rất nhiều yếu tố cần phân bổ đều chi phí cho nhiều hoạt động nên chưa hẳn đầu tư thật nhiều tài chính cho hoạt động này là tốt.
1.2 - Sử dụng chính sách giá cả một cách có hiệu quả
Để có một chính sách giá hợp lý cần phải căn cứ vào chi phí sản xuất kinh doanh, nhu cầu thị trường, cạnh tranh, luật pháp. Chi phí sản xuất kinh doanh xác định giá sàn còn nhu cầu thị trường xác định mức giá giới hạn trên của sản phẩm (giá trần). Luật pháp và chính trị hạn chế khả năng tự do định giá của doanh nghiệp trên thị trường. Do đó việc xây dựng một chính sách giá cả cần có các biện pháp sau:
- Tìm những nguồn nguyên liệu rẻ trong và ngoài nước, tiến hành mua nhiều, để có giá rẻ, hạ thấp giá gia công nhờ việc tìm những nhà máy sản xuất có năng suất lao động cao, huy động vốn ở những nguồn vốn có chi phí thấp...
- Phân tích mức giá trên thị trường, đặc điểm, quan hệ, cung cầu, độ co giãn của cung cầu, mức độ cạnh tranh trên thị trường.
- Tính toán cơ cấu giá,
- Cần có các biện pháp khuyến khích về giá cho khách hàng với những khách hàng quên biết, khách hàng mua với số lượng lớn. Khách hàng mua thanh toán tiền ngay.
- Khi các định giá cần chú ý: không nên xác định giá quá cao hay quá thấp. Nếu mức giá cao ngay từ đầu sẽ khó bán được hàng. Nếu giá quá thấp sau này sẽ gặp khó có cơ hội tăng giá.
1.3 - Thực hiện đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu
Thực chất của đa dạng hoá xuất khẩu là quá trình mở rộng hợp lý danh mục sản phẩm, tạo nên một cơ cấu sản phẩm có hiệu quả. Đa dạng hoá mặt hàng là cần thiết khách quan đối với mỗi doanh nghiệp, bởi vì:
- Ngày nay nhờ những thành tựu của khoa học công nghệ mà chu kỳ sống của sản phẩm được rút ngắn, doanh nghiệp cần có nhiều sản phẩm để thay thế hỗ trợ cho nhau.
- Nhu cầu thị trường rất đa dạng, phong phú và phức tạp, doanh nghiệp đa dạng hoá mặt hàng là nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường và như vậy doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi nhuận.
- Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng quyết liệt thì đa dạng hóa mặt hàng là một trong những biện pháp phân tán rủi ro trong kinh doanh.
- Đa dạng hoá mặt hàng là khai thác và sử dụng tốt hơn năng lực, trình độ và sức lao động của cán bộ công nhân viên.
Trên cơ sở những lợi ích của việc đa dạng hoá mặt hàng, việc đa dạng hoá mặt hàng của công ty có thể thực hiện theo các hướng sau:
+ Với những hàng hoá có kim ngạch thấp Công ty vẫn duy trì xuất khẩu để phục vụ nhu cầu, giữ thị trường cũ. Tuy nhiên Công ty cũng cần xem xét để thu hẹp quy mô xuống mức hợp lý.
+ Tung ra thêm một số mặt hàng phục vụ nhu cầu ở các lứa tuổi khác nhau, nghề nghiệp khác nhau.
+ Ngoài những mặt hàng chủ lực cần tìm hiểu nhu cầu để đưa ra những mặt hàng may mặc khác.
1.4 - Nâng cao chất lượng hàng hoá và cải tiến công tác quản lý chất lượng
Chất lượng hàng hoá là vũ khí cạnh tranh quan trọng mà bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm và sử dụng nó để giành được thắng lợi trong cạnh tranh. Nâng cao khả năng cạnh tranh cũng có nghĩa là phải nâng cao chất lượng hàng hoá và tăng cường công tác quản lý chất lượng hàng hoá.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh bằng vũ khí chất lượng, công ty không thể thực hiện các biện pháp như: đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân viên, nâng cao chất lượng sản phẩm trong giai đoạn thiết kế, sản xuất... Do đó Công ty luôn có sự nghiên cứu, tìm hiểu về tình hình sản xuất, trình độ tay nghề công nhân, mức độ hiện đại của máy móc, thiết bị, công nghệ...của các nhà máy sản xuất. Vì lẽ đó, những cán bộ trực tiếp thực hiện công việc này cần có những hiểu biết nhất định về vải vóc, hàng may mặc. Các tổ chức, hoặc gửi một số cán bộ đảm nhiệm công việc này tới các lớp đào tạo để nâng cao trình độ cho họ, đồng thời tiến hành thực hiện các biện pháp kinh tế như lương, thưởng, phạt... để tạo động cơ hành động và trách nhiệm cho những người này.
1.5 -Tổ chức tốt công tác nghiên cứu mẫu mốt
Có thể nói một trong những nguyên nhân dẫn đến khả năng cạnh tranh hàng may mặc thời trang của công ty chưa cao là do trình độ thiết kế mẫu mốt còn thấp, thiếu kinh nghiệm, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Hàng hoá xuất khẩu của công ty hầu hết là làm theo mẫu của khách hàng và chỉ cố gắng hoàn thiện sản phẩm sao cho thật giống mẫu.
Hiện nay công ty đã có phòng thiết kế, tạo mẫu và việc tạo mẫu cho hàng hoá cũng góp phần nâng cao chất lượng hàng hoá, do đó cần tập trung chú trọng vào khâu này để có được những sản phẩm không những có đặc trưng riêng về mẫu mã mà còn độc đáo cả về chất liệu vải, màu sắc... Vì thế để góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh công ty cần:
- Quan tâm hơn nữa đến công tác thiết kế mẫu, mốt
- Đầu tư cho bộ phận thiết kế về trang thiết bị, thu hút lực lượng hoạ sỹ nghiên cứu mốt.
- Tổ chức đào tạo và nâng cao trình độ, năng lực của các nhân viên Marketing cho ngang tầm với nhiệm vụ, có khả năng dự báo trước được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng về hàng may mặc bằng cách cử họ đi học cá lớp về marketing do các chuyên gia trong nước hoặc nước ngoài giảng dạy.
- Cử các cán bộ thiết kế mẫu thời trang đi tham quan và học tập ở nước ngoài để nâng cao trình độ.
- Trước mắt, trong quá trình gia công cho khách hàng nước ngoài. Công ty có thể tìm hiểu làm quen với nhu cầu thị trường thế giới về mẫu thời trang.Trên cơ sở đó sản phẩm các mẫu mốt chào hàng phù hợp với thị hiếu của các thị trường đó.
Để thực hiện có hiệu quả việc nghiên cứu và thiết kế mẫu mốt đòi hỏi phải nắm bắt được các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu hàng may mặc để có thể thiết kế được những mẫu sản phẩm phù hợp với từng thị trường. Vì thế việc thiết kế phải được căn cứ vào:
+ Trào lưu mẫu mốt trên thế giới.
+ Bản sắc văn hoá từng dân tộc, nhất là những quốc gia nhập khẩu hàng của công ty.
+ Điều kiện kinh tế, khí hậu của mỗi nước.
+ Chất liệu vải, phụ liệu may
+ Gam mầu.
+ Kiểu dáng phù hợp với điều kiện sinh hoạt mỗi nước.
1.6 - Nâng cao trình độ người lao động
Thế kỷ 21 là thế kỷ của nền "văn minh trí tuệ", trong đó con người tri thức khoa học và công nghệ sẽ đóng vai trò quyết định tới sự phát triển của đất nước và nói cụ thể hơn là quyết định sự thành công trong hoạt động của các công ty, xí nghiệp. Muốn phát triển mạnh mẽ trong tương lai, công ty phải có một đội ngũ cán bộ kinh doanh có đầy đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời nhu cầu của thị trường quốc tế, quy mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của nền sản xuất trong nước. Đồng thời phải nắm bắt được chính xác thông tin và sự thay đổi nhu cầu giá cả thị trường, những nguyên nhân chính gây nên sự biến đổi đó. Đó là con đường duy nhất giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp ngoại thương kịp thời xử lý một vấn đề trước khi nó vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Công ty. Đối với một cán bộ làm công tác kinh doanh xuất nhập khẩu thì những đòi hỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, về trình độ marketing, về ngoại ngữ... là những tiêu chuẩn không thể thiếu. Những yếu tố này thể hiện ở các mặt chủ yếu sau:
- Xác định được thị trường mục tiêu cho Công ty, sau đó phải định vị Công ty theo hướng xây dựng một mối liên kết chặt chẽ với thị trường này. Tiến hành quảng cáo và xúc tiến bán hàng có chủ đích, đồng thời phải giữ chữ tín, nâng cao hình ảnh, uy tín của công ty.
- Có khả năng chiếm lĩnh thị trường và giữ vững thị trường bằng cách gây ấn tượng ban đầu tốt đẹp cho khách hàng.
- Có khả năng lực chọn phương tiện và quy mô quảng cáo thích hợp với thị trường mục tiêu của công ty.
- Có khả năng tìm những khe hở, tìm thêm nguồn hạn ngạch để lọt vào những thị trường rộng lớn hơn.
- Tạo ra sự năng động trong kinh doanh, thích nghi với sự biến động của thị trường, tránh rủi ro trong kinh doanh và nắm bắt được cơ hội kinh doanh có lợi.
- Biết phân tích, đánh giá tổng hợp tình hình, đưa ra các thông tin tin cậy giúp cho việc vạch ra các chủ trương, chương trình hành động thích hợp. Thị trường may mặc thế giới phức tạp, nhu cầu về hàng may mặc biến động theo mùa. Hơn nữa, tập quán thương mại, ngôn ngữ giao dịch với các nước ở các thị trường khác nhau có sự khác nhau. Vì những nhiệm vụ đó nhân viên phòng xuất nhập khẩu phải hết sức linh hoạt, tinh thông nghiệp vụ ngoại thương, giỏi ngoại ngữ, hiểu biết chuyên môn về ngành may.
Để có được những cán bộ có đầy đủ những yêu cầu trên công ty cần chủ động đào tạo bồi dưỡng cán bộ chuyên môn giỏi gắn với thị trường. Hàng năm công ty cần có kế hoạch chi phí cho việc bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, quản lý hiện đại cho các cán bộ quản lý. Đây là một cách đầu tư lâu dài, tạo ra động lực mạnh thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Một số hình thức nhằm đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ cho công ty hiện nay gồm:
- Gửi cán bộ đi học ở các trung tâm đào tạo dài hạn, nhất là đối với một số cán bộ trẻ có năng lực.
- Mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn từ hai đến ba tháng theo từng chuyên đề mang tính chất tập huấn những vấn đề mới có tính cấp thiết để kịp vận dụng vào công tác chỉ đạo, điều hành.
- Tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi kinh nghiệm trong các lĩnh vực như quản lý, nghiệp vụ kinh doanh, khả năng marketing... để từ đó các cán bộ trong công ty có thể học hỏi lẫn nhau.
- Tạo điều kiện cho các cán bộ đi tham quan, khảo sát ở nước ngoài để học hỏi thêm kinh nghiệm về hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Việc đào tạo và đào tạo lại không chỉ tập trung vào trình độ nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ... của cán bộ trong công ty mà còn phải giáo dục ý thức, tư tưởng văn hoá cho cán bộ công nhân viên tạo dựng được bầu không khí đoàn kết nhất trí nội bộ trong công ty, xây dựng công ty thành một khối thống nhất, xây dựng nếp sống văn minh, tạo nên một nền văn hoá riêng biệt cho công ty. Đây là một trong những tiền đề giúp cho công ty phát triển một cách bền vững và lâu dài.
Bên cạnh việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ công nhân viên, nếu có điều kiện công ty nên có chính sách thu hút những người có năng lực bằng cách lập quỹ học bổng trợ cấp cho sinh viên, phối hợp với các trường, các Viện nghiên cứu.. để đào tạo cán bộ ngay từ khi còn học Đại học.
1.7 - Mở rộng các mối liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế là hiện tượng xã hội khách quan của nền kinh tế hàng hoá có sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, nó phản ánh mối quan hệ phối hợp hoạt động kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau để thực hiện những nhiệm vụ kinh doanh nhất định, nhằm đem lại hiệu quả cao nhất đối với các bên tham gia. Trong cạnh tranh, các doanh nghiệp liên kết với nhau để tăng sức cạnh tranh thực hiện cạnh tranh thắng lợi các đối thủ khác. Liên kết kinh tế nhằm khai thác được các điểm mạnh, khắc phục điểm yếu, giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Để giành được thắng lợi và nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường quốc tế, Công ty cần tiến hành các hoạt động liên kết sau:
- Cần tiến hành liên kết chặt chẽ hơn nữa đối với các đơn vị cung ứng nguyên vật liệu phục vụ cho hoạt động gia công hàng hoá xuất khẩu của công ty.
- Tiến hành liên kết với các đơn vị nước ngoài nhằm thu hút các nguồn lực, tổ chức tốt công tác tiêu thụ sản phẩm.
- Liên kết với các tổ chức ngân hàng để thuận tiện trong việc thanh toán tiền hàng với khách hàng cũng như đối với các đơn vị cung cấp.
- Giữ mối quan hệ với các đơn vị vận chuyển, các đơn vị làm thủ tục xuất khẩu để hàng hoá của công ty lúc xuất khẩu được nhanh chóng, làm giảm chi phí lưu kho bãi, giao hàng đúng quy định của hợp đồng...
Ngoài ra cần có sự liên kết kinh tế, giữ quan hệ tốt giữa công ty với các đơn vị nước ngoài dựa trên hợp đồng kinh tế, giúp Công ty đảm bảo sự ổn định trong kinh doanh xuất khẩu, tránh bị ép giá và các bất lợi khác.
1.8 - Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, chi phí, lợi nhuận
Qua việc phân tích hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc thời trang, chúng ta có thể đưa ra một số biện pháp về quản lý chi phí, vốn, lợi nhuận và các chỉ tiêu tài chính khác để góp phần nâng cao sức cạnh tranh của công ty:
Thứ nhất: Tiếp tục phát huy những thành công mà công ty đã đạt được trong những năm qua làm tiền đề động lực cho các chỉ tiêu khác cùng vận động theo xu hướng tích cực, đảm bảo cho toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả. Để thực hiện tốt vấn đề này công ty cần có một số biện pháp sau:
- Tính toán hiệu quả kinh doanh, đầu vào các hoạt động kinh doanh có lãi.
- Đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh để có sự hỗ trợ nhau về vốn.
- Chủ động tạo nguồn như: Vay từ các tổ chức tín dụng, liên doanh liên kết...
- Hạn chế việc không thu hồi được hay việc bị chiếm dụng vốn để việc quay vòng vốn được nhanh: Tích cực giảm các khoản chi thu, vốn tồn đọng trong tay khách hàng. Muốn vậy trước khi ký hợp đồng công ty phải tìm hiểu rõ tình hình tài chính của khách hàng, tránh rủi ro có thể xảy ra.
- Tiếp tục giảm kỳ thu tiền trung bình để nâng cao tốc độ quay vòng vốn.
Thứ hai: Giải quyết những hạn chế còn tồn tại trong vấn đề sử dụng vốn, giúp tăng nhanh vòng quay của vốn, tăng sức sản xuất, sức sinh lời của vốn cố định... Mặc dù một số các chỉ tiêu trên vận động theo chiều hướng tích cực nhưng thời gian qua tình hình kinh tế chính trị trong nước và khu vực luôn có nhiều biến động ảnh hưởng tới tỷ lệ doanh lợi/vốn chủ sở hữu, doanh lợi/ doanh thu... làm cho các chỉ tiêu này giảm xuống.
2 - Về phía nhà nước
Ngành may mặc hiện nay đang được Nhà nước khuyến khích phát triển và hoạt động xuất khẩu lại càng được coi trọng hơn nữa vì hàng năm nó đem lại kim ngạch xuất khẩu rất lớn cho đất nước. Tuy nhiên, sự cố gắng của công ty trong hoạt động xuất khẩu chỉ là một trong những yếu tố giúp công ty có được sức cạnh tranh trên thị trường, một yếu tố khác rất quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu chính là các chính sách về xuất khẩu của nhà nước Việt Nam. Vì thế về phía vĩ mô cần có những biện pháp tích cực giúp công ty nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình.
2.1 – Hoàn thiện chính sách đối với xuất khẩu hàng may mặc:
Hiện nay, khi nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển và có xu thế mở cửa để giao lưu buôn bán với thị trường quốc tế thì hoạt động xuất khẩu càng được coi trọng. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, nghị định nhằm khuyến khích, hỗ trợ xuất khẩu tạo sự thuận cho các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động này. (Các nghị định như 57/1998/NĐ-CP, 114/HĐBT, 33/CP đã quy định các chính sách về xuất nhập khẩu, về thực hiện luật thương mại trong hoạt động xuất nhập khẩu...) Những nghị định này sẽ giúp các doanh nghiệp hiểu rõ những quy định, những sự ưu đẫi mà nhà nước đưa ra cho hoạt động xuất khẩu, đồng thời nắm rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia hoạt động này. Cụ thể như nghị định 33/CP ngày 19/4/1994 ở điều 9 có quy định: " Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp phát triểnvà mở rộng thị trường mới, và xuất khẩu những mặt hàng mà Nhà nước khuyến khích xuất khẩu"... Một công báo mới số 17 ngày 8/5/2001 đã được đưa ra trong đó có những quy định riêng về một số loại hàng hoá mà Nhà nước khuyến khích xuất khẩu những chính sách ưu tiên khi xuất khẩu những mặt hàng đó. Hàng may mặc một trong số nhữg mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu và theo công báo số 17 thì ' Bộ Thương mại chủ trì cùng các Bộ, nghành hữu quan và các nhà sản xuất lớn của Việt Nam tiến hành đàm phán với các tổ chức kinh tế quốc tế và các nước, nhằm đẩy nhanh tiến trình bỏ hạn ngạch đối với loại hàng hoá này " đồng thời các cơ quan trên cần xây dựng và ban hành các quy định chung thực hiện hạn ngạch hàng may mặc , công bố tỷ lệ hạn ngạch may mặc đấu thầu và tỷ lệ này phải tăng hàng năm để thay thế dần cho cơ chế phân giao hạn ngạch.
Tuy nhiên, bên cạnh những chính sách, nghị định trên trong một số chính sách khác còn có các quy định quá cứng nhắc, không gắn liền với thực tế của từng mặt hàng làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu, gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động này. Vì thế ở đây em muốn đưa ra một số kiến nghị giúp cho các chính sách có phần linh hoạt hơn, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh của mình.
Đối với thị trường không hạn ngạch chúng ta nên bỏ giấy phép xuất khẩu chuyến vì: Bộ Thương mại hiện nay quy định phải có hợp đồng cụ thể mới được làm giấy phép xuất khẩu. Thực tế đối với các quy định này các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc thường gặp nhiều khó khăn do đặc điểm của hoạt động gia công. Khách hàng đến gia công có khi họ ký hợp đồng nhưng sau đó mới tìm hàng cụ thể. Mặt khác các doanh nghiệp May Việt Nam nhận may gia công thường phải qua khâu trung gian nên có nhiều khoản trong hợp đồng chưa xác định ngay được, chẳng hạn như thời hạn giao hàng, nhãn hiệu, mẫu mã... có trường hợp sau khi nhập nguyên liệu về mới biết hàng sản xuất, hoặc phải thoả thuận thêm các điều khoản khác gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, do các quy định hiện hành nên buộc hai bên phải ký một hợp đồng chung mang tính đối phó. Vì vậy, cấp giấy phép xuất khẩu căn cứ theo hợp đồng nhiều khi chưa phản ánh đúng được con số thực. Đây là một vấn đề mà các cơ quan quản lý cần nghiên cứu để sửa đổi cơ chế xuất khẩu cho phù hợp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc.
Về thời gian cấp giấy phép hiện nay là 4 ngày, song so với nhu cầu kinh doanh hiện nay là còn quá lâu. Vì vậy trong trường hợp này, nhà nước nên xem xét bỏ quy định giấy phép xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp đồng thời đảm bảo được thời gian giao nhận hàng.
2.2 – Cải tiến chính sách thuế
Chính sách thuế cần hợp lý để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp May mặc nói chung và Công ty May Xuất Khẩu nói riêng.
Chính sách thuế đối với hàng may mặc trong thời gia qua còn bất hợp lý với thời gian quy định cho hàng tạm nhập tái xuất và hàng bán đứt (Hàng FOB) phải nộp thuế trong vòng 90 ngày là quá ngắn, bởi lẽ từ khâu ký kết hợp đồng mua nguyên vật liệu sản xuất và xuất khẩu khó thực hiện trong thời gian đó. Đối với hàng gia công còn phụ thuộc vào khách hàng, còn hàng FOB thì phải tự túc từ khâu đầu đến lúc xuất hàng đi, thì thời hạn đó quá ngắn vì nó còn liên quan đến vốn của doanh nghiệp. Khi quá 90 ngày chưa xuất khẩu hàng hoá thì doanh nghiệp phải vay ngân hàng chịu lãi suất để tạm nộp thuế và như vậy lại đẩy giá thành lên, làm giảm khả năng cạnh tranh về giá đối với hàng xuất khẩu.
Bên cạnh đó, hàng may mặc sử dụng nguyên liệu trong nước bán ra nước ngoài phải chịu mức thuế không hợp lý, thuế chồng thuế. Để khuyến khích sản xuất và làm tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp hàng may mặc xuất khẩu, Nhà nước nên miễn thuế các nguyên liệu, phụ liệu sản xuất, các chủng loại thay thế nhập khẩu để làm hàng phục vụ xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể bán ngang hoặc thấp hơn giá sản phẩm cùng chủng loại và tạo cho ngành may xuất khẩu theo phương thức FOB.
Theo Quyết định tại Điều 8 Luật thuế GTGT và Điều 7 Nghị định số 28/1998/NĐ-CP của Chính phủ, thuế suất thuế GTGT là 0% được áp dụng đối với các mặt hàng hoá xuất khẩu. Đây là một quy định nhằm khuyến khích hoạt động xuất khẩu nói chung và hàng may mặc xuất khẩu nói riêng. Tuy nhiên hàng may mặc xuất khẩu cũng giống như nhiều hàng hoá xuất khẩu khác vẫn phải chịu thuế xuất khẩu, thuế suất thuế xuất khẩu tuỳ theo từng mặt hàng và mức độ ưu tiên của nó. Hàng may mặc xuất khẩu hiện nay chịu mức thuế suất ưu đãi là 50% và thuế suất thường là 75%. Mức thuế này như vậy là tương đối phù hợp nhưng để khuyến khích hơn nữa hoạt động xuất khẩu Nhà nước cần nghiên cứu để có thể đưa ra một mức thuế thấp hơn, Ngành May mặc Việt Nam đang trên đà phát triển và nhất là với chiến lược " tăng tốc " trong những năm tới thì sản phẩm của ngành ngày càng nhiều với chất lượng, mẫu mốt cao hơn, giá cả thấp hơn. Nếu hoạt động xuất khẩu không được chú trọng hơn nữa thì sản phẩm sản xuất ra sẽ không tiêu thụ hết ở thị trường trong nước, gây ứ đọng hàng hoá, dẫn đến ứ đọng vốn... nên việc đẩy mạnh xuất khẩu là rất càn thiết. Ngoài ra hoạt động này hàng năm đem lại cho đất nước một mức Kim ngạch xuất khẩu cao nhất trong toàn ngành công nghiệp và trên hết là nó giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động lớn trong nước. Nhà nước đứng trên phương diện vĩ mô nên bất cứ một vấn đề nào cũng phải xem xét trên mọi khía cạnh,cả về lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội và vấn đề giảm thuế xuất khẩu là một trong những cách thức giải quyết theo hướng đó.
2.3 – Hoàn thiện chính sách tỷ giá
Việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái là hết sức quan trọng, trong đó mục tiêu của chính sách tỷ giá trong thời gian tới là thường xuyên xác lập và duy trì tỷ giá ổn định và phù hợp, dựa trên sức mua thực tế của đồng Việt Nam so với các ngoại tệ, phù hợp với cung cầu của thị trường, đảm bảo sự ổn định kinh tế đối nội và tăng trưởng kinh tế đối ngoại là hết sức cần thiết.
Chính sách tỷ giá hối đoái từ khi được Chính phủ thực hiện cải cách trong cơ chế điều hành tỷ giá giữa đồng USD và đồng Việt Nam thì đã có sự linh hoạt hơn phần nào, đã khép lại khoảng cách giữa tỷ giá quy định của Ngân hàng Trung ương với thị trường tự do, song cần linh hoạt hơn nữa (không nên định giá cao đồng nội tệ). Tuy nhiên, không nên áp dụng các biện pháp điều chỉnh đột ngột sẽ gây ra những cú sốc mà cần đi sát với thị trường, nhằm khuyến khích xuất khẩu và đảm bảo sự ổn định, tăng trưởng kinh tế.
Trước đây, khi nền kinh tế nước ta trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thì tỷ giá có sự ưu tiên đối với hàng xuất khẩu. Nhưng từ khi chuyển sang cơ chế thị trường thì tỷ giá được xác định chung cho toàn bộ các hoạt động kinh doanh trong toàn nền kinh tế. Việc chuyển đổi chính sách tỷ giá như vậy cũng có cả hai mặt ưu, nhược của nó. Ta có thể thấy, khi áp dụng chính sách tỷ giá chung như vậy thì các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu sẽ phải linh động hơn, có tinh thần trách nhiệm cao hơn đối với việc kinh doanh của chính mình vì không còn được sự ưu đãi trong tỷ giá, qua đó có thể tạo thêm tính tự lập cho doanh nghiệp. Nhưng bên cạnh đó đôi lúccũng có nững bất cập. Chẳng hạn như khi tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và đồng ngoai tệ thấp, tức là định giá cao đồng nội tệ và hoạt động xuất khẩu không có sự hỗ trợ nào khác thì chắc hẳn hoạt động xuất khẩu sẽ có xu hướng giảm. Sở dĩ như vậy vì khi xuất khẩu chúng ta sẽ thu ngoại tệ về và với tỷ giá thấp thì khi đổi ra đồng nội tệ thì giá trị thu lại của ta sẽ thấp. Do đó, Nhà nước cần có những chính sách về tỷ giá để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu khi tỷ giá hối đoái của các Ngân hàng ngoại thương tăng cao.
2.4 – Hoàn thiện chính sách tín dụng
Trong giai đoạn hiện nay tình hình cạnh tranh ngày càng khó khăn, phức tạp thì việc nắm bắt cơ hội trong kinh doanh là rất quan trọng. Đó là một trong những điều tạo nên thành công trong kinh doanh của Công ty. Các thời cơ kinh doanh, cơ hội hấp dẫn đối với Công ty là rất hiếm và mỗi cơ hội chỉ đến một lần, vì thế khi có Công ty cần nắm bắt ngay thì mới có thể thắng được các đối thủ. Nếu Công ty không có đủ vốn phục vụ cho thương vụ kinh doanh đó thì cơ hội sẽ bị bỏ lỡ, các doanh nghiệp khác sẽ chiếm lấy cơ hội đó và đồng thời có thể dẫn tới mất khách, mất khả năng cạnh tranh sau này của Công ty. Do vậy để giúp Công ty có được những thuận lợi trong kinh doanh cần có sự trợ giúp của các tổ chức tín dụng thông qua các chính sách tín dụng của Nhà nước như:
- Nhà nước cần có các ưu đãi tín dụng đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, đảm bảo đủ lượng vốn cho đầu tư và sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu dài hạn thấp.
- Nhà nước nên khuyến khích việc thông qua các tổ chức ngân hàng Thương mại quốc doanh thực hiện cơ chế bảo lãnh tiền vay, chứng từ thương mại, phương pháp thanh toán tiền mua, bán hàng trả chậm, bảo lãnh nộp thuế và bảo lãnh hợp đồng cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động, nang cao sức cạnh tranh hàng may mặc của Việt Nam trên thị trường thế giới.
- Theo dõi sát sao tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam với ngoại tệ để kịp thời chỉ đạo các phương án điều chỉnh tỷ giá, lãi suất, vừa đảm bảo an ninh tiền tệ quốc gia, vừa có lợi trong việc thúc đẩy xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng may mặc nói riêng
Song song với vấn đề trên, một vấn đề khác mà các doanh nghiệp quan tâm là thủ tục về vay vốn: Thủ tục vay phải đơn giản, nhanh chóng và thuận lợi cho doanh nghiệp thời mới giúp được những doanh nghiệp thiếu vốn nhanh chóng vay được số vốn mình cần. Nhưng hiện nay thủ tục vay vốn của nước ta quá rườm rà, đòi hỏi quá nhiều thủ tục, giấy tờ. Có lúc rất cần vốn nhưng lúc hoàn thành xong thủ tục thì thương vụ kinh doanh đã lỡ. Mặt khác nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư rất nhiều và kể cả trong các ngân hàng thương mại cũng vậy nhưng người cần thì vẫn không có còn vốn trong các ngân hàng thương mại thì lại bị " đóng băng " không cho vay được. Đây là một thiệt hại lớn đối với nền kinh tế đất nước mà nhà nước cần nhanh chóng khắc phục. Cần bỏ bớt nhữngthủ tục, giấy tờ không cần thiết giúp các doanh nghiệp đáp ứng được kịp thời nhu cầu về vốn. Cần có sự linh hoạt hơn nữa trong khâu thẩm định dự án cho vay vốn để tranh đánh mất những cơ hội đem lại lợi nhuận cao hoặc mang tính chiến lược của các doanh nghiệp
Bên cạnh đó. Nhà nước cần hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp May mặc cũng như thông qua công cụ lãi suất. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung cũng như công ty đều phải đi vay vốn ngân hàng để tiến hành hoạt động kinh doanh đầu tư vào quá trình sản xuất.... ở Công ty, khi các hợp đồng gia công có chu kỳ sản xuất lâu, phải tạm nộp thuế nhập khẩu thì Công ty sẽ tiến hành làm các thủ tục vay vốn ngân hàng để nộp thuế. Lãi xuất hàng tháng mà Công ty phải trả cho ngân hàng thường biến động qua những giai đoạn khác nhau. Hiện nay lãi suất vay ngân hàng của Công ty là từ 0,65 - 0,7%/tháng. Lãi suất này tuy có thấp hơn nhưng với một khoản tiền vay lớn thì số tiền trả lãi lại khá lớn
Kết luận
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò của cơ chế thị trường, cạnh tranh sẽ thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển, phát huy được hết tiềm năng của xã hội và của từng doanh nghiệp, các doanh nghiệp tham gia thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh và tìm cách thắng lợi trong cuộc cạnh tranh này. Tăng khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp xét cho cùng là mở rộng thị trường, tăng doanh thu là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Do vậy, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là một tất yếu mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải thực hiện. Công ty may xuất khẩu hoạt động trong bối cảnh thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Tham gia thị trường có nhiều doanh nghiệp nổi tiếng trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Nhưng nhờ có sự năng động và nhạy bén trong hoạt động sản xuất kinh doanh cùng với những lợi thế mà Công ty có được, Công ty đã đứng vững và phát triển, giành thắng lợi trong cạnh tranh. Công ty may xuất khẩu cần sử dụng các vũ khí cạnh tranh của mình có hiệu quả nhất.
Chuyên đề là kết quả nghiên cứu và vận dụng lý luận vào tìm hiểu thực tế, thực trạng cạnh tranh của Công ty may xuất khẩu trên thị trường. Em hy vọng các giải pháp sẽ có ích trong việc đề ra chiến lược cạnh tranh của Công ty trong thời gian tới.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0477.doc