Sự tiếp xúc ngôn ngữ trên bình diện từ vựng giữa tiếng Việt và tiếng Khmer ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- NGUYỄN THỊ THOA SỰ TIẾP XÚC NGÔN NGỮ TRÊN BÌNH DIỆN TỪ VỰNG GIỮA TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG KHMER Ở MỘT SỐ TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- NGUYỄN THỊ THOA SỰ TIẾP XÚC NGÔN NGỮ TRÊN BÌNH DIỆN TỪ VỰNG GIỮA TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG KHMER Ở MỘT SỐ

pdf103 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 6365 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Sự tiếp xúc ngôn ngữ trên bình diện từ vựng giữa tiếng Việt và tiếng Khmer ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Dư Ngọc Ngân Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011 MỤC LỤC 1TMỤC LỤC1T ............................................................................................................................ 3 1TPHẦN MỞ ĐẦU1T .................................................................................................................. 5 1T .Lí do chọn đề tài1T.................................................................................................................................... 5 1T2.Lịch sử vấn đề1T ....................................................................................................................................... 6 1T3. Nhiệm vụ nghiên cứu1T ........................................................................................................................... 8 1T4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu1T ....................................................................................... 9 1T5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu1T ......................................................................................... 9 1T6. Đóng góp của đề tài1T ............................................................................................................................ 10 1T7. Cấu trúc của luận văn1T ......................................................................................................................... 11 1TCHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TIẾP XÚC NGÔN NGỮ, TIẾP XÚC NGÔN NGỮ Ở NAM BỘ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT VỀ VAY MƯỢN TỪ VỰNG1T ............... 13 1T .1. Tiếp xúc ngôn ngữ1T ........................................................................................................................... 13 1T .1.1 Khái niệm về tiếp xúc ngôn ngữ1T ................................................................................................ 13 1T .1.2. Tính tất yếu của sự tiếp xúc ngôn ngữ1T ...................................................................................... 14 1T .2. Tiếp xúc ngôn ngữ ở Nam Bộ 1T .......................................................................................................... 16 1T .2.1. Sự hợp cư và bức tranh tiếp xúc ngôn ngữ ở vùng đất Nam Bộ 1T ................................................ 16 1T .2.2. Đặc điểm của tiếng Việt, tiếng Khmer và những điểm tương đồng, dị biệt giữa chúng1T ............. 18 1T .2.2.1. Quan hệ nguồn gốc giữa tiếng Việt và tiếng Khmer1T .......................................................... 18 1T .2.2.2. Đặc điểm của tiếng Việt1T.................................................................................................... 20 1T .2.2.3. Đặc điểm của tiếng Khmer1T ............................................................................................... 28 1T .2.2.4. Những điểm tương đồng và dị biệt giữa tiếng Việt và tiếng Khmer – tiếng Khmer Nam Bộ 1T ..................................................................................................................................................... 35 1T .3. Những vấn đề lí thuyết về vay mượn từ vựng1T .................................................................................. 37 1T .3.1. Khái niệm “vay mượn từ vựng”1T ............................................................................................... 37 1T .3.2. Vay mượn từ vựng với vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ1T ..................................................................... 38 1T .3.2.1. Tiếp xúc ngôn ngữ1T ............................................................................................................ 38 1T .3.2.2. Vay mượn từ vựng với các hệ quả khác của sự tiếp xúc ngôn ngữ1T..................................... 40 1T .3.4. Các phương thức vay mượn từ vựng1T ........................................................................................ 43 1T .3.4.1. Dịch nghĩa (can – ke ngữ nghĩa)1T ....................................................................................... 43 1T .3.4.2. Phiên âm1T .......................................................................................................................... 43 1T .3.4.3. Chuyển tự1T ......................................................................................................................... 43 1T .3.4.4. Mượn nguyên dạng của nguyên ngữ1T ................................................................................. 44 1TCHƯƠNG 2: LỚP TỪ NGỮ TIẾNG KHMER VAY MƯỢN TIẾNG VIỆT VÀ LỚP TỪ NGỮ TIẾNG VIỆT VAY MƯỢN TIẾNG KHMER1T ................................................ 46 1T2.1. Kết quả khảo sát và thống kê lớp từ tiếng Khmer vay mượn của tiếng Việt và lớp từ tiếng Việt vay mượn của tiếng Khmer1T ........................................................................................................................... 46 1T2.2. Phương thức vay mượn từ ngữ giữa tiếng Việt và tiếng Khmer1T ........................................................ 46 1T2.2.1. Phương thức tiếng Khmer vay mượn từ ngữ tiếng Việt1T ............................................................ 46 1T2.2.1.1.Vay mượn theo kiểu dịch nghĩa từ tiếng Việt sang tiếng Khmer1T......................................... 46 1T2.2.1.2. Vay mượn từ và phát âm theo cách phát âm của người Khmer1T .......................................... 50 1T2.2.1.3. Vay mượn nghĩa và giữ nguyên cách phát âm1T .................................................................. 54 1T2.2.1.4. Vay mượn bằng cách dịch một hoặc một vài thành tố và mô phỏng cách phát âm đối với thành tố còn lại trong tổ hợp từ tiếng Việt1T ..................................................................................... 59 1T2.2.1.5. Vay mượn theo kiểu kết hợp giữa từ tiếng Khmer với từ tiếng Việt1T .................................. 60 1T2.2.1.6. Nhận xét1T ........................................................................................................................... 63 1T2.2. 2. Phương thức tiếng Việt vay mượn từ ngữ tiếng Khmer1T............................................................ 66 1T2.2.2.1. Vay mượn theo kiểu dịch nghĩa từ tiếng Khmer sang tiếng Việt1T ........................................ 66 1T2.2.2.2. Vay mượn từ và phát âm theo cách phát âm của người Việt1T .............................................. 67 1T2.2.2.3. Vay mượn nghĩa và giữ nguyên cách phát âm1T ................................................................... 70 1T2.2.2.4. Vay mượn bằng cách dịch một thành tố và mô phỏng cách phát âm đối với thành tố còn lại trong tổ hợp từ tiếng Khmer1T .......................................................................................................... 70 1T2.2.2.5. Vay mượn theo kiểu kết hợp giữa từ tiếng Việt với từ tiếng Khmer1T .................................. 73 1T2.2.2.6.Nhận xét1T ............................................................................................................................ 78 1TKẾT LUẬN1T ........................................................................................................................ 81 1T ÀI LIỆU THAM KHẢO1T ................................................................................................. 84 1TPHỤ LỤC1T ........................................................................................................................... 87 1TBẢNG PHỤ LỤC 1.31T ......................................................................................................... 94 1TBẢNG PHỤ LỤC 1.51T ......................................................................................................... 96 1TBẢNG PHỤ LỤC 2.21T ......................................................................................................... 97 1TBẢNG PHỤ LỤC 2.31T ......................................................................................................... 98 1TBẢNG PHỤ LỤC 2.51T ....................................................................................................... 101 PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài Việt Nam là một quốc gia đa tộc, đa ngữ. Theo các tài liệu đã được công bố, Việt Nam có khoảng 54 dân tộc khác nhau và sử dụng khoảng 60 ngôn ngữ. Theo lí thuyết về các nguyên nhân dẫn đến tiếp xúc ngôn ngữ, các ngôn ngữ tồn tại trên cùng một lãnh thổ quốc gia chắc chắn sẽ có hiện tượng tiếp xúc với nhau. Riêng ở vùng đất Nam Bộ, lịch sử hình thành vùng đất này đã hình thành nên một vùng đất hợp cư của các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa, Chăm,...Quá trình cộng cư dài lâu giữa các dân tộc này đã dẫn đến một hệ quả tất yếu là sự tiếp xúc giữa các ngôn ngữ, trong đó có sự tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Khmer. Sự tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ thể hiện trên tất cả các bình diện của ngôn ngữ như bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, ngữ dụng..... Và quá trình này đã đưa đến các hệ quả của nó trong đó có hiện tượng vay mượn. Thực tế, hàng loạt từ tiếng Việt đã đi vào kho từ vựng của tiếng Khmer vùng Nam Bộ và trong kho từ vựng tiếng Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng chứa đựng một lớp từ có nguồn gốc từ tiếng Khmer. Mặt khác, do hiện tượng chuyển di ngôn ngữ, người Khmer phát âm tiếng Việt không chuẩn dẫn đến những lỗi chính tả thường mắc phải ở học sinh – sinh viên dân tộc Khmer khi viết tiếng Việt. Tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ hai của học sinh – sinh viên Khmer đã trở thành “rào cản ngôn ngữ”, gây ra hàng loạt lỗi về dùng từ, viết câu khi học sinh – sinh viên Khmer sử dụng tiếng Việt. Do yêu cầu tác nghiệp trên các địa bàn ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, khu vực có tỉ lệ cộng đồng người Khmer sinh sống khá cao, các cán bộ người Kinh có nhu cầu học tiếng Khmer để giao tiếp với người Khmer. Việc nắm được lớp từ hai ngôn ngữ Việt – Khmer vay mượn của nhau cũng như việc hiểu biết về các đặc điểm biến đổi về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa từ ngôn ngữ được vay mượn sang ngôn ngữ vay mượn giữa tiếng Việt và tiếng Khmer sẽ giúp cho việc học và vận dụng tiếng Khmer để giao tiếp của họ được thuận lợi hơn. Từ những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Việt và tiếng Khmer làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình. Do dung lượng của một luận văn thạc sĩ, để có điều kiện đi sâu nghiên cứu, đề tài luận văn của chúng tôi giới hạn như sau: “ Sự tiếp xúc ngôn ngữ trên bình diện từ vựng giữa tiếng Việt và tiếng Khmer ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long”. 2.Lịch sử vấn đề Từ trước tới nay đã có một số công trình nghiên cứu về tiếp xúc ngôn ngữ trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Trong Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á (của Phan Ngọc và Phạm Đức Dương), phần Tiếp xúc ngôn ngữ và tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á , Phan Ngọc đã trình bày về vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ và những cơ sở lí luận của tiếp xúc ngôn ngữ. Có thể xem đây là cơ sở lí thuyết cho việc nghiên cứu về vấn đề này. Trong hai phần khác, Phan Ngọc bàn về vấn đề ngữ nghĩa của từ Hán – Việt trong sự tiếp xúc giữa tiếng Việt với tiếng Hán, sự tiếp xúc về ngữ pháp với sự ảnh hưởng của ngữ pháp châu Âu lên ngữ pháp tiếng Việt. Trong những nhận xét mở đầu cho phần “ Ảnh hưởng của ngữ pháp Châu Âu tới ngữ pháp tiếng Việt – Sự tiếp xúc về ngữ pháp” , Phan Ngọc viết “ Trong quá trình tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ tất yếu xảy ra những sự vay mượn. Tuy nhiên, hiện tượng vay mượn xảy ra khác nhau tùy theo yêu cầu khách quan của sự giao tiếp và yêu cầu của cấu trúc ngôn ngữ. Về yêu cầu khách quan của sự giao tiếp thể hiện rõ nhất ở sự vay mượn từ.” “Tiếp xúc ngôn ngữ trong quá trình hình thành không gian văn hóa đô thị ở thành phố Hồ Chí Minh” (do TS. Nguyễn Kiên Trường chủ nhiệm và Lý Tùng Hiếu hiệu đính) mặc dù được giới thiệu là một đề tài cấp viện nhưng thực chất, đấy là một công trình tổng hợp nhiều bài viết liên quan đến vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trong “Từ ngoại lai trong tiếng Việt”, Nguyễn Văn Khang trình bày các vấn đề lí thuyết về vay mượn từ vựng. Ông khẳng định “vay mượn từ vựng là hệ quả của sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các ngôn ngữ có nguyên nhân từ tiếp xúc ngôn ngữ. Vì thế, khi xem xét vay mượn từ vựng không thể không nói đến tiếp xúc ngôn ngữ”. Tác giả trình bày một cách cụ thể các phương thức vay mượn từ vựng: từ các bình diện vay mượn của từ đến các cách vay mượn từ vựng. Từ chương II đến chương XII của sách, Nguyễn Văn Khang đi vào trình bày các vấn đề cụ thể về các lớp từ mượn Hán, từ mượn Pháp và từ mượn Anh. Góp phần vào thành tựu nghiên cứu về tiếp xúc ngôn ngữ là cuốn Language Transsfer của Terence Odlin. Có thể nói, công trình này đã đánh dấu một cột mốc quan trọng của việc nghiên cứu về tiếp xúc ngôn ngữ, Odlin đã có công trong việc làm cho các thuật ngữ của tiếp xúc ngôn ngữ có tính hệ thống hơn. Trong công trình này, vấn đề được tác giả khai thác một cách triệt để là vấn đề chuyển di ngôn ngữ. Ông đã trình bày đầy đủ bản chất của chuyển di ngôn ngữ, chứng minh một cách thuyết phục về vai trò của chuyển di đối với việc học ngoại ngữ trên tất cả các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và cả bình diện ngữ dụng cũng như những ảnh hưởng, tác động qua lại giữa chuyển di với các nhân tố văn hóa, xã hội và cá nhân trong quá trình học ngoại ngữ. Bàn về tiếp xúc ngôn ngữ còn có các công trình khác như: Phạm Đức Dương với công trình “Tiếp xúc ngôn ngữ và tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á”; Nguyễn Đăng Khánh với “Sự giao thoa ngữ nghĩa chỉ số phát triển của quá trình tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa”; Bùi Khánh Thế với “ Lí thuyết tiếp xúc ngôn ngữ và vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam” ,“ Tiếp xúc ngôn ngữ và việc vận dụng tiêu chuẩn về đặc trưng ngôn ngữ trong khi nghiên cứu các vấn đề dân tộc ở Việt Nam”;... Về vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Đồng bằng sông Cửu Long, cụ thể là vấn đề tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Khmer, chúng tôi tìm thấy các công trình sau: Thứ nhất là luận án tiến sĩ Tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Khmer với tiếng Việt (trường hợp tỉnh Trà Vinh) của tác giả Nguyễn Thị Huệ. Công trình nghiên cứu theo hướng ngôn ngữ học xã hội nên các vấn đề như cảnh huống ngôn ngữ, vấn đề song ngữ, hiện tượng giao thoa, hiện tượng quy tụ được tác giả đặt vấn đề để quan tâm. Đặc biệt, công trình được tác giả sử dụng kĩ thuật lốt ngôn ngữ để nghiên cứu.Vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Việt và tiếng Khmer được tác giả Nguyễn Thị Huệ nghiên cứu theo lịch đại, tức là nghiên cứu theo chiều dài lịch sử của quá trình tiếp xúc từ sự tiếp xúc gián tiếp đến sự tiếp xúc trực tiếp giữa hai ngôn ngữ. Và sự tiếp xúc này được tác giả khai thác trên cả ba bình diện ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp qua kết quả của quá trình tiếp xúc. Cụ thể, theo Nguyễn Thị Huệ, qua quá trình tiếp xúc với tiếng Khmer , tiếng Việt đã vay mượn từ tiếng Khmer các từ chỉ tên cây, tên đồ dùng, động vật, từ chỉ địa hình thiên nhiên, các đơn vị hành chính, các địa danh; kết quả của quá trình tiếp xúc về phía tiếng Khmer là sự đơn tiết hóa trong tiếng Khmer, là ý thức về thanh điệu của người Khmer. Luận án còn dành một chương thứ tư để bàn về vấn đề giáo dục song ngữ ở vùng đồng bào Khmer Trà Vinh. Tuy nhiên, trong luận án này, các bình diện của ngôn ngữ trong sự tiếp xúc chưa được tác giả nghiên cứu sâu. Theo tác giả Nguyễn Thị Huệ, ảnh hưởng của quá trình tiếp xúc là hiện tượng ý thức về thanh điệu của người Khmer Trà Vinh, ở sự thúc đẩy nhanh quá trình đơn tiết hóa của tiếng Khmer. Như vậy, việc có/không sự ảnh hưởng của quá trình tiếp xúc đến tiếng Việt, cũng như những ảnh hưởng khác đến mặt ngữ âm của hai ngôn ngữ, thì tác giả chưa đề cập đến. Mặt khác, trên bình diện từ vựng , sự tiếp xúc dẫn đến sự vay mượn lẫn nhau giữa hai ngôn ngữ cũng chưa được tác giả luận án làm rõ. Sự vay mượn từ vựng chỉ được Nguyễn Thị Huệ đề cập từ phía tiếng Việt vay mượn của tiếng Khmer mà không xem xét từ hướng ngược lại, tức từ hướng tiếng Khmer vay mượn của tiếng Việt. Và khi xem xét lớp từ tiếng Việt vay mượn của tiếng Khmer, tác giả chỉ đề cập đến các từ chỉ địa danh, tên một số loại cây, một số động vật, đồ dùng. Ngoài ra, tác giả Nguyễn Thị Huệ còn có bài viết “Tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Khmer Trà Vinh”. Bài viết đã cố gắng làm sáng tỏ bức tranh tổng thể về tình hình sử dụng tiếng Việt và tiếng Khmer đang diễn ra tại Trà Vinh Công trình “Người Khmer ở Kiên Giang” của Đoàn Thanh Nô tuy là một công trình nghiên cứu về văn hóa Khmer nhưng có một phần nói về ngôn ngữ Khmer phản ánh kết quả tiếp xúc với tiếng Việt. Trong đó, tác giả có miêu tả một số từ ngữ mà tiếng Việt vay mượn từ tiếng Khmer. Luận văn thạc sĩ “Phương pháp dạy học chữa lỗi từ ngữ, ngữ pháp cho học sinh THPT dân tộc Khmer” của Nguyễn Quang Minh cũng có ngữ liệu nói về sự giao thoa giữa tiếng Việt và tiếng Khmer nhưng các ngữ liệu này còn nhiều chỗ chưa chính xác, nhất là về cách sử dụng ngôn ngữ của học sinh Khmer. Như vậy, từ trước tới nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề “Sự tiếp xúc ngôn ngữ trên bình diện từ vựng giữa tiếng Việt và tiếng Khmer ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long”. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, khi thực hiện đề tài, nhiệm vụ của chúng tôi là: - Thu thập, thống kê các từ ngữ thuộc lớp từ mà tiếng Khmer vay mượn của tiếng Việt và ngược lại. - Khảo sát, phân tích và miêu tả các phương thức vay mượn từ vựng của tiếng Việt và tiếng Khmer qua quá trình tiếp xúc – vay mượn giữa hai ngôn ngữ. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là lớp từ ngữ mà tiếng Việt vay mượn của tiếng Khmer và lớp từ ngữ mà tiếng Khmer vay mượn của tiếng Việt thể hiện trên ngôn ngữ nói ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, An Giang. Khi hai hay nhiều ngôn ngữ tiếp xúc với nhau, sự tác động có thể diễn ra trên nhiều bình diện của ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Và hệ quả của nó là sự vay mượn ngôn ngữ, sự chuyển mã và trộn mã trong giao tiếp, hiện tượng lai tạp ngôn ngữ.Trong phạm vi đề tài này, luận văn chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu sự tiếp xúc phản ánh trên mặt từ vựng giữa hai ngôn ngữ Việt và Khmer. Cụ thể là luận văn nghiên cứu lớp từ mà tiếng Việt vay mượn của tiếng Khmer và lớp từ tiếng Khmer vay mượn của tiếng Việt. Và chúng tôi chỉ tập trung chú ý ngữ liệu là văn nói ở các tỉnh có đông đồng bào Khmer sinh sống như Trà Vinh, An Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang . 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 5.1. Phương pháp nghiên cứu Khi nghiên cứu đề tài, ngoài những phương pháp, thủ pháp nghiên cứu khoa học chung, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: 5.1.1. Phương pháp quan sát Trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, trên cơ sở vốn tiếng Việt và vốn tiếng Khmer sẵn có, chúng tôi thu thập và thống kê ngữ liệu theo sự quan sát sinh hoạt ngôn ngữ của người Kinh và người Khmer trên các địa bàn mà mình sinh sống: xã Long Thới, xã Phú Cần huyện Tiểu Cần (nguyên quán của người nghiên cứu), xã Tập Sơn huyện Trà Cú (quê chồng của người nghiên cứu), nội ô thành phố Trà Vinh và các xã ngoại thành (xã Long Đức, xã Nguyệt Hóa, xã Hòa Thuận) – nơi thường trú của người nghiên cứu. 5.1.2. Phương pháp điều tra ngôn ngữ Chúng tôi sử dụng phương pháp điều tra ngôn ngữ để phỏng vấn, thu thập ngữ liệu từ các đối tượng là người Kinh, người Khmer trên các địa bàn của các tỉnh Sóc Trăng, Kiên Giang, An Giang và một số địa bàn không thuộc địa bàn cư trú của người nghiên cứu như xã Bà Mi, xã Thông Hòa thuộc huyện Cầu Kè – Trà Vinh, xã Đại An – Trà Cú – Trà Vinh, xã Nhị Trường, Hiệp Hòa, Kim Hòa – Cầu Ngang – Trà Vinh theo phạm vi nghiên cứu. Cụ thể, chúng tôi đã tiến hành điều tra bằng phiếu điều tra kết hợp với phỏng vấn các đối tượng với số lượng như sau: Ở tỉnh Sóc Trăng: 10 hộ gia đình người Khmer (với 32 người) và 10 hộ gia đình người Kinh (với 41 người) ở ấp Bônô Cambốt - xã Tham Đôn - huyện Mỹ Xuyên; 10 hộ gia đình người Khmer (với 29 người) và 10 hộ gia đình người Kinh (với 33 người) ở ấp Sóc Mới và ấp Tân Lập - xã Long Phú - huyện Long Phú ; 10 hộ gia đình người Khmer (với 48 người) và 10 hộ gia đình người Kinh (với 42 người) ở ấp Tập Rèn - xã Thới An Hội, ấp An Khương – thị trấn Kế Sách - Kế Sách. Tỉnh Kiên Giang: 10 hộ gia đình người Khmer (với 27 người) và 10 hộ gia đình người Kinh (với 34 người) ở ấp Sóc Sáp, ấp Rạch Tìa – xã Hòa Hưng Nam - Gò Quau; 10 hộ gia đình người Khmer (với 38 người) và 10 hộ gia đình người Kinh (với 36 người) ở ấp Hòn Quéo – Xã Thổ Sơn – Hòn Đất. An Giang: 10 hộ gia đình người Khmer (với 49 người) và 10 hộ gia đình người kinh (với 34 người) ở ấp Xà Lôn – Lương Phi – Tri Tôn; 10 hộ gia đình người Khmer (với 35 người) và 10 hộ gia đình người Kinh (với 42 người) ở ấp Tân Hiệp A – Vọng Thê, ấp Trung Phú 3 – Vĩnh Phú, huyện Thoại Sơn. Riêng đối tượng là học sinh trường dân tộc nội trú, mỗi tỉnh chúng tôi chọn 30 em ở trường nội trú tỉnh để làm đối tượng cộng tác. 5.1.3.Phương pháp điền dã Chúng tôi sử dụng phương pháp điền dã trong việc dã điền đến các tỉnh để thu thập ngữ liệu phục vụ cho việc nghiên cứu như thu thập các địa danh gốc Khmer của các tỉnh thuộc phạm vi nghiên cứu, các từ gốc Việt trong giao tiếp của người Khmer, các từ gốc Khmer trong giao tiếp của người Kinh, sự hòa mã, trộn mã trong giao tiếp của người Khmer. Các khách thể được chúng tôi lựa chọn một cách ngẫu nhiên theo mục đích khảo sát như: đại diện cho lứa tuổi, giới, nghề nghiệp, trình độ. 5.1.4. Phương pháp phân tích, miêu tả Trên cơ sở ngữ liệu thu thập được, luận văn tiến hành phân tích, miêu tả phương thức tiếng Khmer vay mượn tiếng Việt , phương thức tiếng Việt vay mượn tiếng Khmer. 5.2. Nguồn ngữ liệu Khảo sát trên nguồn ngữ liệu “ tươi sống” của người Kinh và người Khmer ở một số tỉnh ĐBSCL như: Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang; ngữ liệu hữu quan trong các công trình được nghiên cứu trước. 6. Đóng góp của đề tài Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hi vọng có những đóng góp sau: Thứ nhất, bảng từ ngữ mà chúng tôi thu thập và thống kê được là ngữ liệu đáng tin cậy cho những ai có nhu cầu nghiên cứu những vấn đề có liên quan. Thứ hai, trên cơ sở phân tích các từ ngữ tiếng Việt gốc Khmer và các từ ngữ tiếng Khmer gốc Việt, chúng tôi đã xác định được những phương thức mà hai ngôn ngữ Việt và Khmer vay mượn từ vựng của nhau. Thứ ba, trên cơ sở ngữ liệu khảo sát được từ sự tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Khmer, luận văn có thể góp thêm cứ liệu chứng minh cho lí thuyết tiếp xúc ngôn ngữ. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung chính của luận văn gồm hai chương: Chương I: TỔNG QUAN VỀ TIẾP XÚC NGÔN NGỮ, TIẾP XÚC NGÔN NGỮ Ở NAM BỘ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT VỀ VAY MƯỢN TỪ VỰNG Trong chương I, luận văn trình bày những cơ sở lí luận và tình hình thực tiễn về điều kiện tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Việt và tiếng Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. Cụ thể là, chúng tôi trình bày về khái niệm tiếp xúc ngôn ngữ, tính tất yếu của sự tiếp xúc giữa các ngôn ngữ, các hệ quả và mối quan hệ giữa các hệ quả của tiếp xúc ngôn ngữ; những vấn đề lí thuyết về vay mượn từ vựng như khái niệm vay mượn từ vựng, các phương thức vay mượn từ vựng; sự hợp cư dẫn đến tiếp xúc ngôn ngữ ở vùng đất Nam Bộ; quan hệ nguồn gốc, đặc điểm, những điểm tương đồng và dị biệt giữa tiếng Việt và tiếng Khmer. Chương II: LỚP TỪ NGỮ TIẾNG KHMER VAY MƯỢN TIẾNG VIỆT VÀ LỚP TỪ NGỮ TIẾNG VIỆT VAY MƯỢN TIẾNG KHMER Trong chương II, luận văn trình bày kết quả khảo sát, miêu tả và nhận xét lớp từ tiếng Khmer vay mượn tiếng Việt, lớp từ tiếng Việt vay mượn tiếng Khmer theo 5 phương thức: vay mượn theo kiểu dịch nghĩa; vay mượn từ và phát âm theo cách phát âm của ngôn ngữ vay mượn; vay mượn nghĩa và giữ nguyên cách phát âm theo nguyên ngữ; vay mượn bằng cách dịch một hoặc một vài thành tố và mô phỏng cách phát âm đối với thành tố còn lại tổ hợp từ của ngôn ngữ được vay mượn; vay mượn theo kiểu kết hợp giữa từ của hai ngôn ngữ. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TIẾP XÚC NGÔN NGỮ, TIẾP XÚC NGÔN NGỮ Ở NAM BỘ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT VỀ VAY MƯỢN TỪ VỰNG 1.1. Tiếp xúc ngôn ngữ 1.1.1 Khái niệm về tiếp xúc ngôn ngữ Từ điển Ngôn ngữ học so sánh và lịch sử ( The dictionary of historical and comparative linguistics) định nghĩa: Bất kì sự thay đổi nào trong ngôn ngữ do ảnh hưởng của ngôn ngữ cộng đồng ở gần người nói mà người nói có khả năng sử dụng và trong việc chuyển các đặc điểm và thuộc tính từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Ảnh hưởng của quá trình tiếp xúc ngôn ngữ có thể từ mức rất nhỏ đến rất lớn và có thể trên bình diện từ vựng, ngữ âm, hình thái, cú pháp hay bất kì bình diện nào. Loại tiếp xúc đơn giản nhất là hiện tượng vay mượn. Tuy nhiên, có thể có những loại tiếp xúc mạnh hơn nhiều như hiện tượng “ chuyển vị” cấu trúc và ngữ nghĩa (metatypy), việc hình thành ngôn ngữ phi cội nguồn (non – genetic language) và sự biến đổi ngôn ngữ. Weinreich (1953) cho rằng thuật ngữ này chỉ nên dùng để nói về những trường hợp song ngữ rõ nét. [ 55, tr. 183] (Any change in language resulting from the influence of a neighbouring language of which the speaker of the first have some knowledge; the passage of linguistic objects or features from one language into another. The effects of contact many range from the trivial to the overwelming, and many involve vocabulary, phonology, morphology, syntax or just about anything else. The simplest type of contact is borrowing, but far more radical types are possible, including (for example) metatypy, the creation of non – genetic language and (the ultimate) language shift. Weinreich (1953) proposes that this term should be restricted to cases involving substantial bilingualism.) Từ điển giải thích Thuật ngữ Ngôn ngữ học (do Nguyễn Như Ý chủ biên) định nghĩa tiếp xúc ngôn ngữ là “ Sự tác động qua lại giữa hai hoặc nhiều ngôn ngữ ảnh hưởng đến cấu trúc và vốn từ vựng của một hay nhiều ngôn ngữ có quan hệ đó. Điều kiện xã hội của sự tiếp xúc ngôn ngữ là sự cần thiết phải trao đổi giao tiếp giữa các cộng đồng người thuộc các nhóm ngôn ngữ khác nhau do nhu cầu về kinh tế, chính trị và những nguyên nhân khác. Tiếp xúc ngôn ngữ xảy ra nhờ việc thường xuyên lặp lại các cuộc đối thoại, thường xuyên có nhu cầu giao tiếp, trao đổi thông tin giữa những người nói hai ngôn ngữ khác nhau có khả năng sử dụng đồng thời cả hai ngôn ngữ, hoặc từng người sử dụng riêng rẽ một trong hai ngôn ngữ đó. Do đó có khả năng người nói có thể nắm vững đồng thời cả hai ngôn ngữ, tức là có thể nói bằng ngôn ngữ này hoặc ngôn ngữ kia, hoặc người nói chỉ hiểu một cách thụ động ngôn ngữ xa lạ, không phải tiếng mẹ đẻ của mình. [ 49, tr. 290-291] Trong bài viết “ Ứng xử ngôn ngữ của người Việt đối với các yếu tố gốc Hán” đăng trong Tập san khoa học của Trường ĐHKHXH & NV ( ĐHQG TP. HCM), số 38 (2007), trang 3 – 10, tác giả Bùi Khánh Thế đã trích dẫn hai khái niệm về tiếp xúc ngôn ngữ: (1) Tiếp xúc ngôn ngữ là “ sự tiếp giao nhau giữa các ngôn ngữ do những hoàn cảnh cận kề nhau về mặt địa lí, tương liên về mặt lịch sử xã hội dẫn đến nhu cầu của các cộng đồng người vốn có những thứ tiếng khác nhau phải giao tiếp với nhau” (O.S. Akhmanova, 1966). (2) Tiếp xúc ngôn ngữ còn được hiểu là “sự tác động qua lại giữa hai hoặc nhiều ngôn ngữ tạo nên ảnh hưởng đối với cấu trúc và vốn từ của một hay nhiều ngôn ngữ. Những điều kiện xã hội của sự tiếp xúc ngôn ngữ được quy định bởi nhu cầu cần thiết phải giao tiếp lẫn nhau giữa những thành viên thuộc các nhóm dân tộc và ngôn ngữ do những nhu cầu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... thúc đẩy” [dẫn theo 42, tr. 12-13 ] Theo Phan Ngọc, tiếp xúc ngôn ngữ không phải là vay mượn từ vựng. Trong sự giao tiếp giữa tộc người A và tộc người B, khi tộc người A bắt gặp những đồ vật, những sự vật mà nó không có tên gọi và nó cũng chưa tìm được cách dịch sang ngôn ngữ của mình thì tất yếu nó sẽ gọi bằng những từ chỉ đồ vật, sự vật này của tộc người B đã đem sự vật, đồ vật ấy lại cho họ. Nhưng sự vay mượn từ dù có nhiều đến đâu đi nữa, cũng chưa chắc đã đụng chạm tới cái cấu trúc của ngôn ngữ. Khi nói đến tiếp xúc ngôn ngữ là nói đến những thay đổi rất sâu sắc diễn ra trong cấu trúc của A do B đưa đến, hay nói khác đi, nếu trong quá trình phát triển lịch sử, A không tiếp xúc với B thì tự nó không có cái diện mạo ngày nay, hay muốn có phải chờ đợi một thời gian lâu dài hơn rất nhiều, và kết quả cũng không thể hết như ngày nay được.[ 25, tr.9-10] 1.1.2. Tính tất yếu của sự tiếp xúc ngôn ngữ Theo Nguyễn Thiện Giáp, dựa vào những đặc trưng quan trọng của ngôn ngữ loài người, chúng ta có thể chấp nhận một định nghĩa về ngôn ngữ như sau: Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu âm thanh đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng người; ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống văn hóa – lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như vậy, ngôn ngữ được xem là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Bản chất xã hội của ngôn ngữ thể hiện ở chỗ: 1) Ngôn ngữ phục vụ xã hội với tư cách là phương tiện giao tiếp giữa mọi người, phương tiện trao đổi ý kiến trong xã hội, phương tiện giúp cho người ta hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau tổ chức công tác chung trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người. 2) Ngôn ngữ thể hiện ý thức xã hội. Chính vì thể hiện ý thức xã hội nên ngôn ngữ mới có thể làm phương tiện giao tiếp giữa mọi người. 3) Ngôn ngữ có khả năng hình thành văn hóa và là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn hóa; khả năng giao tiếp của con người tùy thuộc vào kiến thức ngôn ngữ, kĩ năng giao tiếp và kiến thức văn hóa. 4) Sự tồn tại và phát triển của ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. [ 8, tr.28 – 29]. Từ những bản chất đó của ngôn ngữ, chúng ta thấy ._.rằng sự tiếp xúc giữa các ngôn ngữ là một vấn đề tất yếu. Bởi lẽ, trong quá trình sống, giữa các cá nhân con người, giữa các tộc người luôn phải tiếp xúc với nhau. Sự tiếp xúc này hoặc là do điều kiện về khoảng cách địa lí sống gần nhau hoặc do nhu cầu trao đổi với nhau về thương mại, văn hóa, tôn giáo, thậm chí là nhu cầu về quân sự. Và đây chính là những điều kiện dẫn đến một hệ quả không thể tránh khỏi là sự tiếp xúc giữa các cộng đồng ngôn ngữ với nhau. Trong “ Tiếp xúc ngôn ngữ và tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á”, Phan Ngọc cho rằng hiện tượng một tộc người nói một ngôn ngữ A phải tiếp xúc , giao tiếp với một tộc người khác nói ngôn ngữ B là chuyện hết sức bình thường. Trên thế giới không có một tộc người nào sống cô lập, không tiếp xúc với một tộc người khác. [ 25, tr.10]. Sự tiếp xúc ngôn ngữ là hiện tượng chung cho ngôn ngữ loài người. Thế giới của một ngôn ngữ không phải là một thế giới riêng, chỉ tuân theo những quy luật của chính nó mà ngôn ngữ còn chịu sự tác động của nhiều yếu tố ngoài bản thân nó nó như: tiếp xúc với các ngôn ngữ khác, quan hệ xã hội, văn hóa, tư tưởng và cả các yếu tố như dân tộc, lịch sử của sản xuất và của xã hội. Sự tiếp xúc ngôn ngữ là hiện tượng một ngôn ngữ A sẽ thay đổi cấu trúc do tiếp xúc với ngôn ngữ B. Nếu quá trình tiếp xúc diễn ra trong một quãng thời gian dài, giữa các ngôn ngữ có xu hướng ảnh hưởng, vay mượn lẫn nhau. Có những ảnh hưởng tồn tại rất lâu dài, ngày càng mở rộng, phổ biến trong toàn bộ tộc người để rồi nhập vào ngôn ngữ của dân tộc đó, vẫn tồn tại cho dù sự tiếp xúc thực tế giữa các ngôn ngữ không còn nữa. Tất nhiên, cũng có những ảnh hưởng chỉ xảy ra nhất thời, biểu hiện trong khoảng thời gian nhất định, trong một nhóm người nhất định rồi mất đi, không nhập vào ngôn ngữ đó. Nói tiếp xúc ngôn ngữ là nói đến những thay đổi rất sâu sắc diễn ra ngay trong cấu trúc của A do B đưa đến, hay nói khác đi, nếu trong quá trình phát triển lịch sử, A không tiếp xúc với B thì tự nó không có diện mạo ngày nay, hay muốn có phải chờ đợi một thời gian lâu dài hơn rất nhiều, và kết quả cũng không thể hệt như ngày nay được.[25, tr.10] Theo cách tiếp cận song ngữ luận, trong khi thừa nhận tính cấu trúc của ngôn ngữ và sự phát triển theo những quy luật nội tại của nó, có những trường hợp cần phải chấp nhận bên cạnh nguyên nhân nội tại, có sự tiếp xúc ngôn ngữ. Sự tiếp xúc đóng vai một yếu tố cần phải tính đến trong sự miêu tả đồng đại cũng như trong sự phát triển lịch sử, khi qua sự khảo sát hiện tượng giao tiếp song ngữ giữa tộc người nói ngôn ngữ A với tộc người nói ngôn ngữ B, ta thấy có những hiện tượng liên quan đến cấu trúc của A do cấu trúc của B đưa đến. Đó là cách tiếp cận song ngữ luận (bi – lingualism). Nhìn theo góc độ này, một ngôn ngữ là một thể thống nhất biện chứng giữa cái cấu trúc nội tại có những khả năng phát triển do một cấu trúc khác đưa lại. Chẳng hạn, do sự tiếp xúc với tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn tiết và có hệ thống thanh điệu, mà tiếng Chàm từ chỗ là một ngôn ngữ đa tiết và không có thanh điệu đang trên đường chuyển thành một ngôn ngữ đơn tiết và có thanh điệu; hay tiếng Thái Lan vì tiếp xúc với với tiếng Khmer mà có thêm một vài nguyên âm hay vì tiếp xúc với các ngôn ngữ châu Âu mà các ngôn ngữ Thái Lan, Việt Nam, Miến Điện đều biểu lộ một xu hướng mạnh mẽ đang xích lại gần ngữ pháp châu Âu bằng biện pháp sao phỏng ngữ pháp, đây đều là những cách nói theo cách tiếp cận song ngữ luận. [25, tr. 10 – 11] Như vậy, tiếp xúc ngôn ngữ là một hiện tượng ngôn ngữ mang tính tất yếu, xảy ra với mọi ngôn ngữ trên thế giới. Quá trình tiếp xúc sẽ làm tác động đến cấu trúc nội tại của các ngôn ngữ tiếp xúc với nhau. Kết quả của quá trình này sẽ tồn tại thậm chí khi hai ngôn ngữ không còn tiếp xúc với nhau nữa. 1.2. Tiếp xúc ngôn ngữ ở Nam Bộ 1.2.1. Sự hợp cư và bức tranh tiếp xúc ngôn ngữ ở vùng đất Nam Bộ Như đã nói ở trên, tiếp xúc ngôn ngữ là một vấn đề tất yếu. Từ thời xa xưa, phải nói rằng, rất hiếm có một quốc gia chỉ sử dụng một ngôn ngữ duy nhất. Bất kì ở quốc gia nào, thời đại nào cũng có hiện tượng hai hay nhiều ngôn ngữ cùng tồn tại trên cùng một địa phương mà không lẫn lộn vào nhau. Ở Việt Nam, cuộc Nam tiến đã hình thành nên sự hợp cư cũng như đã tạo nên bức tranh tiếp xúc ngôn ngữ ở vùng đất Nam Bộ. Năm 1620, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên gã công chúa Ngọc Vạn cho Quốc vương Chân Lạp Chey Chettha II làm hoàng hậu. Dưới sự bảo trợ của hoàng hậu Ngọc Vạn, cư dân Việt từ vùng Thuận – Quảng vào làm ăn sinh sống ở lưu vực sông Đồng Nai ngày một đông thêm. Cùng với các nhóm cư dân người Việt, trong thời gian này cũng xuất hiện một số người Trung Quốc đến khai khẩn vùng đất hoang và sinh sống ở vùng đất Nam Bộ. Nhân việc nhà Thanh thay thế nhà Minh ở Trung Quốc, một số quan lại và quân lính trung thành với triều đình nhà Minh không chấp nhận sự thống trị của nhà Thanh đã vượt biển đến Đàng Trong tìm đất sinh sống và thúc đẩy nhanh hơn quá trình khai phá vùng đất đồng bằng Nam Bộ. Sách Đại Nam thực lục chép: “ Kỉ mùi, năm thứ 31 (1679), mùa xuân, tháng giêng, tướng cũ nhà Minh là Long Môn tổng binh trấn Thượng Xuyên và phó tướng Trấn Anh Bình đem hơn 3000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển Tư Dung và Đà Nẵng. Tự Trấn là bộ thần của nhà Minh, không chịu làm tôi nhà Thanh, nên đến để xin làm tôi tớ”. Được Chúa Nguyễn cho phép, họ đến Gia Định và Biên Hòa, vỡ đất khai hoang, dựng phố xá. Thuyền buôn của người Thanh và các nước Tây Dương, Nhật Bản, Chà Và đi lại nơi đây tấp nập. Theo sách Đại Nam thống chí, căn cứ vào các dấu tích hoạt động cụ thể đã cho biết nhóm Trần Thượng Xuyên đến Biên Hòa “ mở đất, lập phố”, còn nhóm Dương Ngạn Địch đến Mĩ Tho “ dựng nhà cửa, họp người Kinh, người Di, kết thành làng xóm”. Cùng thời gian này, Mạc Cửu là người xã Lôi Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) cũng vì việc nhà Minh mất mà “ để tóc chạy sang phương Nam, khai khẩn vùng đất Hà Tiên, phát triển thành khu vực cát cứ của dòng họ mình”. Trên vùng đất Nam Bộ, chúa Nguyễn thi hành chính sách khuyến khích đặc biệt đối với việc khai phá đất hoang, cho phép người dân biến ruộng đất khai hoang được thành sở hữu tư nhân. Trước làn sóng tự phát di cư vào Nam tìm đất sinh sống của người dân Thuận – Quảng, chúa Nguyễn cho người đứng ra tổ chức các cuộc di cư này và lập thành các xã, thôn, phường, ấp của người Việt. Chúa Nguyễn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những địa chủ giàu có ở Thuận – Quảng đem tôi tớ và chiêu mộ nông dân lưu vong vào đây khai hoang lập ấp. Chính sách này được thực thi lâu dài và nhất quán như một phương thức khai hoang chủ yếu ở Nam Bộ. Lực lượng khai hoang chủ yếu là là lưu dân người Việt và một bộ phận những người gốc Chămpa, Chân Lạp. Ngoài ra, một số lính đồn trú , một số người Trung Quốc, người dân tộc thiểu số khác cũng được sử dụng vào việc khai khẩn và canh tác. Chỉ sau hơn nửa thế kỉ, tính từ đầu đến giữa thế kỉ XVII, vùng đất Nam Bộ nhanh chóng trở thành vùng phát triển kinh tế - xã hội rất năng động. Thành quả này phải kể đến vai trò lao động cần cù và sáng tạo của tất cả cộng đồng dân cư, trong đó vai trò của các lớp cư dân người Việt, người Khmer, người Chăm và người Hoa là rất nổi bật.[Theo 7] Kết quả của quá trình trên đã hình thành nên một đặc điểm chung của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là sự cộng cư của các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa, Chăm. Ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, bốn dân tộc Kinh, Khmer, Hoa, Chăm có nơi sống tập trung thành từng khu, từng vùng, từng thôn xóm riêng biệt nhưng nhiều nơi thường sống xen kẽ. Cả ở những vùng nông thôn và thành thị, chúng ta đều thấy các dân tộc cùng làm ăn sinh sống một cách gần gũi và chan hòa với nhau. Tình hình đa dân tộc, đa văn hóa ( Kinh, Khmer, Hoa) không chỉ phổ biến trong từng vùng ở đồng bằng sông Cửu Long mà còn diễn ra ngay trong nhiều gia đình. Có những gia đình tồn tại cả ba nền văn hóa và ba thành phần dân tộc này. Hôn nhân giữa những người khác dân tộc là hiện tượng khá phổ biến ở đây. Người Kinh kết hôn với người Khmer, người Khmer kết hôn với người Hoa, người Kinh kết hôn với người Hoa, rồi con cái của những người khác dân tộc đó lại kết hôn với nhau hoặc kết hôn với người thuộc dân tộc thứ ba. Chẳng hạn, con của người Kinh – Khmer tiếp tục kết hôn với người Kinh hoặc người Khmer, người Hoa; con người Kinh – Hoa kết hôn với người Kinh, người Khmer,... Sự quy tụ và tập hợp cư dân này đưa đến một hệ quả được kéo theo là sự tiếp xúc không thể tránh khỏi giữa các cộng đồng ngôn ngữ với nhau. Với một cộng đồng cư dân đa dạng, đa chủng như vậy, có thể nói rằng sinh hoạt ngôn ngữ là một trạng thái pha trộn ngôn ngữ. Và trong trường hợp này, thông thường một trong những ngôn ngữ hay phương ngữ có ưu thế nào đó sẽ đóng vai trò hạt nhân cho toàn bộ quá trình giao tiếp của cộng đồng cư dân mới hình thành. Vai trò hạt nhân ấy, theo các cứ liệu lịch sử cho thấy, là thuộc về cộng đồng người Việt trong tập hợp cư dân mới này. Sinh hoạt ngôn ngữ thời ấy hẳn là một trạng thái vừa lưỡng ngữ (diglossia) và vừa đa ngữ (multilingualism). Hơn một thế kỉ sau, tác giả Trịnh Hoài Đức còn ghi nhận: người nói tiếng ta nơi đây thường pha trộn tiếng Tàu, như nói “quát mãi” là mua sỉ, “khí ngổ” nghĩa là dối phỉnh, “nói xá” nghĩa là vái chào, “bốc chòe” nghĩa là đánh nhau, “nói thưng xỉ” nghĩa là cái muổng, “tư yên” nghĩa là cật lợn, “nói mì xọn” nghĩa là miếng sợi, ấy là nói theo tiếng của người Quảng Đông. Còn như sang sông thì nói là “tầm long”, người chủ sự thì nói là “tăng nhạo”, thần ghe thì nói là “thần đục”, cái bao làm bằng bàng thì gọi là “cà ròn”, đổi trừ thì gọi là “gật”. Ấy là nói theo tiếng Cao Miên.[ 46, tr.34] Ngày nay, dựa vào thành tựu lí thuyết tiếp xúc ngôn ngữ, chúng ta có thể nói: do sự tác động qua lại giữa các phương ngữ của tiếng Việt và giữa tiếng Việt với ngôn ngữ của cư dân bản thổ và các ngôn ngữ của những nhóm cư dân đến từ các nước, các vùng lãnh thổ khác, đã hình thành một phương ngữ mới – phương ngữ Nam Bộ.[ 46, tr.34] 1.2.2. Đặc điểm của tiếng Việt, tiếng Khmer và những điểm tương đồng, dị biệt giữa chúng 1.2.2.1. Quan hệ nguồn gốc giữa tiếng Việt và tiếng Khmer Căn cứ vào hình cây phổ hệ, chúng ta thấy tiếng Việt và tiếng Khmer là hai ngôn ngữ cùng thuộc họ Nam Á, nhánh Môn – Khmer. Sơ đồ 1: Hình cây phổ hệ của họ ngôn ngữ Nam Á Như vậy, có thể nói, tiếng Việt và tiếng Khmer có quan hệ họ hàng với nhau, cùng thuộc về một họ, một nhánh ngôn ngữ. Nhưng ta thấy quan hệ họ hàng này là khá xa. Thuộc nhánh Môn – Khmer gồm nhiều nhóm ngôn ngữ (nhóm Khasi, Môn, Khmer, Pear, Bahnar, Katu, Việt – Mường, Khmú, Palaung), mỗi nhóm lại bao gồm các tiểu nhóm, trong mỗi tiểu nhóm có nhiều ngôn ngữ khác nhau. Họ Nam Á Nhánh Môn – Khmer Nhóm Việt – Mường Tiểu nhóm song tiết Tiểu nhóm đơn tiết Việt Mường chung Tiếng Tiếng Tiếng Tiếng Tiếng Tiếng Tiếng Tiếng Arem Chứt Mã Liềng Aheu Pọng Nguồn Mường Việt Munđa Bắc Munđa Nam Nihal Nicobar Aslian Nam Khasi Môn Khmer Aslian Trung tâm Aslian Bắc Pear Bahnar Katu Việt – Mường Khmú Palaung Nicobar Munđa Nam Aslian Trung Môn - Khmer Họ Nam Á Sơ đồ 2: Cây phổ hệ nhóm ngôn ngữ Việt – Mường Tiếng Việt và tiếng Khmer không cùng tiểu nhóm, nên mặc dù chúng có quan hệ họ hàng về mặt nguồn gốc nhưng quan hệ này là khá xa. Từ đó, có thể nói rằng, giữa tiếng Việt và tiếng Khmer chắc chắn sẽ có những điểm giống nhau đồng thời cũng có những điểm khác biệt . Để có cơ sở cho vấn đề nghiên cứu, chúng tôi không chỉ xem xét đặc điểm của tiếng Việt và tiếng Khmer ở góc độ loại hình mà còn xem xét đặc điểm của hai ngôn ngữ trong phạm vi một vùng phương ngữ - phương ngữ Nam Bộ để tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt giữa chúng. Bởi lẽ, vấn đề của chúng tôi là chỉ nghiên cứu sự tiếp xúc của hai ngôn ngữ diễn ra trên một phạm vi ngôn ngữ thuộc phương ngữ Nam Bộ. 1.2.2.2. Đặc điểm của tiếng Việt (1) Đặc điểm loại hình của tiếng Việt Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập. Đặc điểm này thể hiện rõ ở các mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của tiếng Việt. (a)Đặc điểm ngữ âm Trong tiếng Việt, âm tiết (hay tiếng) là đơn vị phát âm tự nhiên rất dễ nhận biết. Âm tiết tiếng Việt có những đặc điểm như: Thứ nhất, âm tiết tiếng Việt có cấu trúc chặt chẽ và rõ ràng. Mỗi âm tiết ở dạng đầy đủ thường gồm ba phần: phụ âm đầu, vần và thanh điệu. Mỗi âm tiết luôn mang một thanh điệu nhất định. Tiếng Việt là một ngôn ngữ có thanh điệu và tất cả có sáu thanh. Thứ hai, về mặt ngữ nghĩa, âm tiết tiếng Việt thường tương ứng với hình vị. Nhiều âm tiết vừa có nghĩa vừa được dùng độc lập như một từ đơn hoặc được dùng như một thành tố cấu tạo nên từ (hình vị). Thứ ba, về mặt ngữ pháp, mỗi âm tiết tiếng Việt thường xuất hiện với tư cách một từ. Thời xa xưa, đại đa số các từ trong tiếng Việt là các từ đơn tiết. Thời đó, tiếng Việt là một thứ chữ đơn âm. Và ở thời kì lịch sử muộn hơn, tiếng Việt có cấu tạo nhiều từ láy và từ ghép (trong đó phần nhiều là các từ song tiết). Tuy thế, trong nhiều trường hợp, các từ láy hay các từ ghép này khi sử dụng trong hoạt động giao tiếp vẫn có thể được tách ra dùng lâm thời như một từ đơn.[ 39, tr 30 – 31] Hệ thống âm vị tiếng Việt * Âm vị âm đầu: Về số lượng âm vị âm đầu, việc thừa nhận hay không thừa nhận âm vị này, âm vị kia ( đối với trường hợp phụ âm /p/, /ʔ/; trường hợp /k/ có 3 hình thức chữ viết là “k, c, q”) đã làm nảy sinh những bất đồng trong quan điểm về số lượng âm vị âm đầu của tiếng Việt. Phần lớn tác giả các giáo trình Tiếng Việt có quan điểm giống nhau về số lượng âm vị âm đầu, đó là 21 hoặc 22 âm vị phụ âm. Các tiêu chí khu biệt âm vị học của hệ thống phụ âm đầu là dựa vào phương thức cấu âm và vị trí cấu âm. Dựa vào phương thức cấu âm có thể chia các phụ âm đầu tiếng Việt thành hai nhóm: tắc và xát _ Nhóm phụ âm tắc gồm có âm tắc - ồn và âm tắc - vang. Các âm thuộc nhóm tắc ồn đối lập nhau ở hai tiêu chí bật hơi / không bật hơi , vô thanh / hữu thanh, gồm: / tPhP, p, t, τ, c, k, q, b, d /. + Các âm thuộc nhóm âm vang gồm: / m, n, N, /. - Nhóm các âm xát cũng chia thành xát - ồn và xát - vang. Các âm thuộc nhóm xát - ồn đối lập nhau ở tiêu chí vô thanh / hữu thanh, gồm các âm: / f, s, ʂ,χ , h, v, z, ʐ, γ /. + Các âm thuộc nhóm xát – vang có âm: / l /. Dựa vào vị trí cấu âm có thể chia các phụ âm đầu tiếng Việt thành các nhóm sau: - Nhóm phụ âm môi: + Các phụ âm hai môi: / p, b, m/ + Các phụ âm môi – răng: /v, f, / - Nhóm phụ âm lưỡi gồm: + Nhóm phụ âm đầu lưỡi : đầu lưỡi thẳng ( /tPhP, t, d, n, s, z, l/); đầu lưỡi cong (/τ , ʂ, ʐ/). + Nhóm phụ âm mặt lưỡi gồm: /c,  / + Nhóm phụ âm cuối lưỡi gồm : /k, χ , ŋ, γ/ - Nhóm phụ âm thanh hầu gồm : /h / *Âm đệm: Tiếng Việt có một âm đệm là bán âm /-w-/. Âm vị này có đặc điểm gần giống nguyên âm /u/ (nguyên âm hàng sau, tròn môi, có độ há hẹp) nhưng phát âm rất lướt. *Âm chính: Tiếng Việt có 16 âm vị nguyên âm làm âm chính. Trong đó có 13 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi. - Các nguyên âm đơn gồm: /i (i/ y), e (ê), E (e/ a), ∝ (ư), Φ (ơ, aâ) , a (a), ă (ă/a), u (u), o (ô), ɔ (o)/ - Nguyên âm đôi gồm: : / iΦ(ia / ya iê / yê)/, / ∝Φ (ưa / ươ)/, / uΦ (ua / uô)/ * Âm cuối: Trong tiếng Việt, ở vị trí là âm vị âm cuối có hai bán âm (là / - i/ và / -u/); bốn phụ âm tắc, vô thanh ( / p, t, c, k/) và bốn phụ âm tắc, mũi (/ m, n, N, /). (b) Đặc điểm từ vựng Đặc điểm loại hình tiêu biểu của từ tiếng Việt là không biến đổi hình thái. Từ tiếng Việt, dù thuộc từ loại nào, dù thực hiện chức năng ngữ pháp nào trong câu, cũng luôn luôn có một hình thức ngữ âm ổn định, duy nhất. Hình thức này không biến đổi theo ý nghĩa ngữ pháp, quan hệ ngữ pháp và chức năng ngữ pháp khác nhau trong câu. Trong tiếng Việt, mỗi tiếng nói chung là một yếu tố có nghĩa. Tiếng là đơn vị cơ sở của hệ thống các đơn vị có nghĩa của tiếng Việt. Từ tiếng, người ta tạo ra các đơn vị từ vựng khác để định danh sự vật, hiện tượng..., chủ yếu nhờ phương thức ghép và phương thức láy. Việc tạo ra các đơn vị từ vựng ở phương thức ghép luôn chịu sự chi phối của quy luật kết hợp nghĩa, ví dụ: đất nước, máy bay, nhà lầu, xe hơi, nhà tan cửa nát... Hiện nay, đây là phương thức chủ yếu để sản sinh ra các đơn vị từ vựng. Theo phương thức này, tiếng Việt triệt để sử dụng các yếu tố cấu tạo từ thuần Việt hay từ vay mượn các ngôn ngữ khác để tạo ra từ ngữ mới, ví dụ: tiếp thị, thư điện tử, thư thoại, xa lộ thông tin, siêu liên kết văn bản, truy cập ngẫu nhiên,... Việc tạo ra các đơn vị từ vựng theo phương thức láy thì quy luật phối hợp ngữ âm chi phối chủ yếu ở việc tạo ra các đơn vị từ vựng, chẳng hạn: chôm chỉa, chỏng chơ, đỏng đa đỏng đảnh, thơ thẩn, lúng ta lúng túng,... Vốn từ vựng tối thiểu của tiếng Việt phần lớn là từ đơn tiết (một âm tiết, một tiếng). Sự linh hoạt trong sử dụng, việc tạo ra các từ ngữ mới một cách dễ dàng đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển vốn từ, vừa phong phú về số lượng, vừa đa dạng trong hoạt động. Cùng một sự vật, hiện tượng, một hoạt động hay đặc trưng, có thể có nhiều từ ngữ khác nhau biểu thị. Tiềm năng của vốn từ ngữ tiếng Việt được phát huy cao độ trong các phong cách chức năng ngôn ngữ, đặc biệt là trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Hiện nay, do sự phát triển vượt bậc của khoa học kĩ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin, tiềm năng đó còn được phát huy mạnh mẽ hơn. (c) Đặc điểm ngữ pháp Tiếng Việt theo trật tự cú pháp S – V – O. Từ của tiếng Việt không biến đổi hình thái. Đặc điểm này sẽ chi phối các đặc điểm ngữ pháp khác. Khi từ kết hợp thành các kết cấu như ngữ, câu, tiếng Việt sử dụng các phương thức ngữ pháp chủ yếu là trật tự từ và hư từ. Việc sắp xếp các từ theo một trật tự nhất định là cách chủ yếu để biểu thị các quan hệ cú pháp. Trong tiếng Việt khi nói “Anh ta lại đến” là khác với “Lại đến anh ta”. Khi các từ cùng loại kết hợp với nhau theo quan hệ chính phụ thì từ đứng trước giữ vai trò chính, từ đứng sau giữ vai trò phụ. Nhờ trật tự kết hợp của từ mà “củ cải” khác với “cải củ”, “tình cảm” khác với “cảm tình”. Trật tự chủ ngữ đứng trước, vị ngữ đứng sau là trật tự phổ biến của kết cấu câu tiếng Việt. Phương thức hư từ cũng là phương thức ngữ pháp chủ yếu của tiếng Việt. Nhờ hư từ mà tổ hợp “anh của em” khác với tổ hợp “anh và em”. Hư từ cùng với trật tự từ cho phép tiếng Việt tạo ra nhiều câu có cùng nội dung thông báo cơ bản như nhau nhưng khác nhau về sắc thái biểu cảm. Ngoài trật tự từ và hư từ, tiếng Việt còn sử dụng phương thức ngữ điệu. Ngữ điệu giữ vai trò trong việc biểu hiện quan hệ cú pháp của các yếu tố trong câu, nhờ đó nhằm đưa ra nội dung muốn thông báo. Trên văn bản, ngữ điệu thường được biểu hiện bằng dấu câu. (2) Đặc điểm về ngữ âm, từ vựng của tiếng Việt Nam Bộ Sự hình thành các phương ngữ tiếng Việt có nhiều nguyên nhân : nguyên nhân lịch sử, nguyên nhân địa lí, nguyên nhân kinh tế, nguyên nhân từ tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa. Ngoài 4 nguyên nhân trên, sự hình thành các phương ngữ tiếng Việt còn có các nguyên nhân khác như nguyên nhân xã hội (sự kiêng kị, kị húy), nguyên nhân từ bản thân ngôn ngữ (sự biến âm, biến nghĩa)... Từ những nguyên nhân trên, tiếng Việt đã hình thành nên các vùng phương ngữ. Việc phân chia các vùng phương ngữ đối với tiếng Việt có nhiều quan điểm khác nhau. Tuy vậy, có thể xem tiếng Việt có 3 vùng phương ngữ chính là : vùng phương ngữ Bắc Bộ, vùng phương ngữ Trung Bộ và vùng phương ngữ Nam Bộ. Giữa các vùng phương ngữ này có những điểm khác biệt nhau, thể hiện đặc trưng riêng của từng vùng. Riêng vùng phương ngữ Nam Bộ, chúng ta có thể nhận ra những đặc trưng cơ bản về ngữ âm và từ vựng. Về đặc điểm ngữ âm (a)Tiếng Việt Nam Bộ chỉ có 5 thanh điệu. Trong đó, hai thanh hỏi và ngã không được phân biệt rạch ròi. (b) Khác với phương ngữ Bắc, các cặp phụ âm /r – d/gi/, /s – x/, /ch – tr/ được phân biệt tương đối rõ. Tuy nhiên, sự phân biệt này không đồng đều nhau giữa các vùng ở Nam Bộ. Một số nơi do có sự tiếp xúc với tiếng Hoa (như Long An, Kiên Giang, Cà Mau, Tiền Giang, Bạc Liêu... phụ âm quặc lưỡi /r/ biến thành phụ âm /g/ hoặc /j/, /s/ thành /x/, /tr/ thành /ch/. Không có các phụ âm /v, gi, tr/ mà thay vào đó là là các âm tắc /d, ch/. (c) Người Nam Bộ không có thói quen phát âm âm đệm nên có hiện tượng rơi rụng âm đệm trong phát âm (như duyên phát âm thành diêng , luyện -> liệng..). (d) Xuất hiện âm W (âm môi – mạc – hữu thanh) từ sự hòa nhập âm đệm vào các âm đầu /k, ng, h/, thể hiện trong các trường hợp như: qua ->WA, (bà) ngoại -> (bà) WẠI, hoãn ->WÃNG,... (e) Số lượng và cách phân bố các cặp nguyên âm đối lập dài – ngắn khác hẳn phương ngữ Bắc. Chẳng hạn như có các nguyên âm /e/ (e, en, eng), /ê/ (ê, êm, êp) dài nhưng không có /e, ê/ ngắn như trong phương ngữ Bắc. (f) Có những cặp nguyên âm đối lập dài – ngắn như phươmg ngữ Bắc nhưng lại khác về quy tắc kết hợp với phụ âm cuối: /i/ dài (y, im, ip) – /i/ ngắn ( in, inh, it, ich), /ơ/ dài (ơ, ơn, ên, ênh) – /ơ/ ngắn (ân, âng, ât, âc), /a/ dài (a, an, ang) – /a/ ngắn (ăn, ăng, anh). (g) Số lượng các vần ít hơn phương ngữ Bắc do sự đồng nhất của các vần: ên – ênh, êt – êch, iêt - iêc, im – iêm, in – inh, ip – iêp, it – ich, iu – iêu, oc – ôc, om – ôm – ơm, ong – ông, op – ôp – ơp, ưn – ưng, ưoi – ưi, ươc – ươt, ưu – ươu – u, ưt – ưc,... (h) Bảo lưu nhiều hình thức ngữ âm đặc thù, thường là hình thức ngữ âm cổ. Phương ngữ Bắc Bộ - Phương ngữ Nam Bộ Phương ngữ Bắc Bộ - Phương ngữ Nam Bộ UbệnhU - Ubịnh UcảnhU - Ukiểng UcụcU - Ucuộc UcưỡiU - Ucỡi UchânU - Uchưn UchấyU - Uchí UchínhU - Uchánh UchuU - Uchâu Uchuột nhắtU - Uchuột lắt UdĩaU - Unĩa UdoanhU - Udinh UđắtU - Umắt UđĩaU - Udĩa UgiậtU - Ugiựt UgiầuU - Utrầu UgioU - Utro UgiunU - Utrùn UgửiU - Ugởi UhạtU - Uhột UhoaU - Uhuê UhoàU - Uhuề UhoànU - Uhuờn UhoãnU - Uhuỡn UhoàngU - Uhuỳnh UhồngU - Uhường UhônU - Uhun UkênhU - Ukinh UkínhU, UgươngU - Ukiếng UngẩngU - Ungửng UngửiU - Uhửi UnhấtU - Unhứt UnhậtU - Unhựt UnhọU - Ulọ UnhòmU - Udòm UquyềnU - Uquờn UrếtU - Urít UtầngU - Utừng UtôiU - Utui UthậtU - Uthiệt UthốiU - Uthúi UthưU - Uthơ Uthư kýU - Uthơ ký UtrượtU - Utrợt Uvàng anhU - Uhoàng oanh UvàoU - Uvô UvẹtU - Ukét v.v. v.v. Về đặc trưng từ vựng, tiếng Việt Nam Bộ thể hiện các đặc trưng tiêu biểu như: (a) Tiếng Việt Nam Bộ gắn liền với đặc trưng văn hóa nơi đây . Đó là sự phong phú đến mức cực đại về từ ngữ chỉ các loại hình và hoạt động sông nước, về tên gọi các giống lúa, gạo, các loại trái cây. (b) Từ vựng của tiếng Việt Nam Bộ có đặc trưng thứ hai gắn liền với đặc trưng văn hóa của vùng, đó là sự bảo lưu nhiều từ gốc Môn – Khmer, sự tiếp biến nhiều từ gốc Chăm, Hoa, Khmer, Pháp, Mỹ... Hệ quả là làm hình thành trong tiếng Việt Nam Bộ một bộ phận từ vựng đặc thù, khác với phương ngữ Bắc Bộ. UPhương ngữU Bắc Bộ - UPhương ngữ UNam Bộ Phương ngữ Bắc Bộ - Phương ngữ Nam Bộ anh/chị UcảU - anh/chị Uhai UảnhU - Uhình UbáoU - Ubeo UbátU - Uchén UbéoU - Umập Ubí đỏU - Ubí rợ Ubí ngôU - Ubí đao Ubít tấtU - Uvớ UbơiU, UlộiU - Ulội UbútU - UviếtU, Ubút Ucà chuaU - Ucà tô-mát Ucá quảU, Ucá tràuU - Ucá lóc Uca-vátU - Ucà-vạtU, Ucà-la-oách Ucăng-gu-ruU - Uchuột túi UcắtU tóc - UhớtU tóc UcốcU – Utách, ly Ucốc vạiU - Uly cối UcừuU - Utrừu UchănU - Umền UchânU - UchưnU, UcẳngU, Ugiò UchénU - Uchung UchèoU - UchèoU, Ubơi Uchiếu bóngU - Uchớp bóng UchumU - UluU, Ukhạp Uchuột chùU - Uchuột xạ Uchuột rútU - Uvọp bẻ Uchụp ảnhU - Uchụp hình Udầu hoảU - Udầu hôi Udầu nhờnU - Unhớt Udưa bởU - Udưa gang UdứaU - Uthơm Uđánh điệnU - Uđánh dây thép Uđánh rắmU - Uđịt Uđào lộn hộtU - Uđiều Uđậu hủU - Utàu hủ Uđi ngoàiU, Uđi cầu UđiêuU - Uxạo UđịnhU - Utính UđỗU - Uđậu Uđồng hồ điệnU - Ucông-tơ điện Uđũa cả U- Uđũa bếp UđượcU - UđượcU, Uđặng UgáyU - Uót UgầyU - Uốm UgiốngU - UgiốngU, Uin Uhắc làoU - Ulác UhoaU - Ubông Uhoa đạiU - Ubông sứ UhòmU - Urương Uhòm thưU - Uhộp thư UhổU - Ucọp Uhố xíU, Unhà xíU - Ucầu tiêu UkemU - Ucà-rem Ukhăn tayU - Ukhăn mu-soa Ulại sứcU UlàmU - UlàmU, Umần UlọU - Uchai UlợnU - Uheo UlúaU, UthócU - Ulúa UmácU - Umạc UmànU - Umùng Umáy ảnhU - Umáy chụp hình UmặcU, UvậnU - Ubận Umì chínhU - Ubột ngọt UmuỗmU, UquéoU - Uxoài Umướp đắngU - Uhủ quaU, Ukhổ qua UnaU - Umảng cầu UnóiU - UnóiU, Urằng UnónU, UmũU - Unón UngãU - Uté UnganU - Uvịt xiêm Ungày kiaU - Ungày mốt UngòiU, UlạchU - UrạchU, UxẻoU, Utắt UngôU - Ubắp Unhà cao tầngU - Unhà lầuU, Ucao ốc UnhặtU - Ulượm UnhẫnU - Ucà ráU, Ukhâu Unhật báoU - Unhựt trình UnhìnU - Ungó ô - Udù UốmU, UđauU - Uđau Uphó cạoU - Uthợ hớt tóc Uphó cốiU - Uthợ cối Uphó nhòmU - Uthợ chụp hình Uquan tàiU, Uáo quanU - Uhòm Uquần bòU - Uquần jeans UrặtU - Utoàn UsắnU - Ukhoai mì UtáoU - Ubôm Utắc-teU - Uchuột UtéU - Utạt UtemU - Ucò UtháiU - Uxắt thi UđỗU - thi Uđậu thi UtrượtU - thi Urớt UthìaU - Umuỗng Uthợ nềU, Uthợ xâyU - Uthợ hồ UthuêU - Umướn UthuyềnU - UgheU, Uxuồng UthươngU, UyêuU - Uthương UtrôngU - Ungóng Utrống rỗngU - Utồng phộc UvởU - Utập UvungU - Unắp UvữaU - Uhồ UvừngU - Umè Uxà-phòngU - Uxà-bông Uxe quệtU - Ucộ UxemU - Ucoi UxiếcU - Uxiệc Đối với các từ ngữ chỉ phương tiện đi lại mới du nhập từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX thì sự khác biệt giữa phương ngữ Nam Bộ với phương ngữ Bắc Bộ hầu như là tuyệt đối. Điều này cho thấy hai vùng đã tiếp nhận các sản phẩm này của phương Tây một cách hoàn toàn độc lập với nhau. (c) Sự thay thế và lược bỏ đại từ “ấy”: trong tiếng Việt, ẤY là một đại từ đi liền sau danh từ để biểu thị một không gian, thời gian, sự vật hoặc con người khiếm diện khi hội thoại diễn ra (bên ấy, hôm ấy,...). Khi xuất hiện trên văn bản viết, đại từ ấy thường được viết là “ấy” hoặc “í”. Nhưng trong thực tế hội thoại, tất cả các phương ngữ Bắc, Trung, Nam đều nhược hóa đại từ này thành âm tiết “í”, phát âm không có trọng âm (bên í, hôm í...). Trong phương ngữ Nam Bộ, ẤY càng bị nhược hóa mạnh hơn, hòa nhập vào danh từ đứng trước dưới dạng: THANH ĐIỆU HỎI (bển, đẳng, trỏng, ngoải,...). Bằng cách đó, phương ngữ Nam Bộ đã hình thành một nhóm đại từ có ý nghĩa khiếm diện mang thanh hỏi, không có trong phương ngữ Bắc,Trung. Trong trường hợp danh từ đứng trước mang thanh hỏi, ngã, sắc như khoảng, tháng, dưới, bữa, chú, thiếm,.. , khiến cho đại từ “ấy” không thể hòa nhập được, tiếng Việt Nam Bộ sẽ chọn một trong 3 cách: - Trong một số trường hợp, nhược hóa ẤY thành thanh hỏi cho từ đi trước nó: bên ấy -> bển, ông ấy -> ổng, bà ấy -> bả, trong ấy -> trỏng, trên ấy -> trển, .... - Thay thế Ấy bằng đại từ ĐÓ: “Bánh trái thì ở dưới đó chứ đâu, không lo kiếm mà cứ hỏi hoài?” - Lược bỏ ẤY:Trên này bày biện xong rồi, ở dưới xong chưa?”. (d) Ưu tiên sử dụng các từ xưng hô lâm thời: Trong tiếng Việt, từ xưng hô là một lớp từ vô cùng phức tạp, do chín nhóm từ khác nhau hợp thành là danh từ thân tộc (cố, cụ, ông , bà, nội, ngoại...); danh từ chỉ quan hệ xã hội (thầy, bạn, thủ trưởng,...); danh từ chỉ người (người, ngươi, ngài, quý vị, ...); tên cá nhân ( Nam, Hùng, Hoa, Tuyết,...); tên con cháu (bố Cu, mẹ Hím,..); đại từ hoặc danh ngữ chỉ nơi chốn (đấy, đây, bển, đẳng; đại từ nhân xưng (tao, qua, ta, toa, mày, mi,...). Trong số đó, chỉ có một nhóm từ xưng hô thực thụ duy nhất là đại từ nhân xưng, còn lại đều là những nhóm từ xưng hô lâm thời. Tuy nhiên, nhóm từ xưng hô lâm thời là nhóm từ được ưu tiên sử dụng trong giao tiếp. Còn nhóm từ xưng hô thực thụ chỉ được sử dụng trong hoàn cảnh giao tiếp thân mật hoặc suồng sã mà thôi. Tiếng Việt Nam Bộ cũng vậy. Xét về mặt này, tiếng Việt Nam Bộ có mấy điểm khác biệt so với phương ngữ Bắc và phương ngữ Trung: - Trong nhóm danh từ thân tộc, không dùng bố, u, mạ, mệ,... mà dùng cố, cụ, ông, bà, nội, ngoại,... Một số vùng, do ảnh hưởng của tiếng Hoa nên có cách xưng hô như kiểm, tía, tỉa, củ, chế, hia,... - Sử dụng các đại từ : đẳng, bển, trỏng, cẩu, ảnh,.. (e) Sử dụng các phó từ chỉ mức độ đặc thù: Bên cạnh các phó từ chỉ mức độ dùng chung với phương ngữ Bắc như thật, rất, lắm, quá,.. phương ngữ Nam Bộ còn sử dụng các từ chỉ mức độ đặc thù: lậng, hà, thiệt, hung, dữ lắm; và các phó từ chỉ mức độ đi kèm với tính từ: dở ẹc, tối hù, cụt ngủn, ốm nhom, mập ù,... (f) Sử dụng các ngữ khí từ đặc thù: hả, hén, hèng chi, hong, nghen, chèng ơi, dữ ác hong, trời ơi là trời,... (g) Sử dụng các quán ngữ đặc thù: Bên cạnh các quán ngữ chung với phương ngữ Bắc, còn hình thành các quán ngữ đặc thù của Nam Bộ: quá cỡ thợ mộc, quá xá quà xa, hết nước hết cái, mút chỉ cà tha, mút mùa Lệ Thủy, tan nát đời cô Lựu, tiêu tấn thoòng, xí lắt léo, cà kê dê ngỗng, trần ai khoai củ, ... [theo 12] 1.2.2.3. Đặc điểm của tiếng Khmer (1) Đặc điểm loại hình a)Đặc điểm ngữ âm Trong tiếng Khmer, âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất trong chuỗi lời nói. Âm tiết tiếng Khmer không thuần tuý là đơn vị trống nghĩa. Âm tiết tiếng Khmer không chỉ có vỏ ngữ âm mà còn có ý nghĩa cụ thể. Ví dụ: pôon đôol (giải thích), âm tiết thứ nhất pôon, âm tiết thứ hai đôol. Theo quan niệm truyền thống, âm tiết thứ nhất được xem như không có nghĩa, nhưng thực ra nó vẫn có nghĩa, đó là nghĩa tiềm tàng, nghĩa khu biệt. Khi nó kết hợp với âm tiết thứ hai để tạo thành tổ hợp từ pôop đôol thì nghĩa của nó đã được thể hiện. Trong tiếng Khmer, một từ đơn có thể có hai hình thức ngữ âm thể hiện nó: từ đơn đơn tiết và từ đơn song tiết. Một từ đơn song tiết gồm hai âm tiết: âm tiết mạnh (main-syllable) có người còn gọi là âm tiết chính, âm tiết tỏ, v.v. và âm tiết yếu (pre-syllable) có người còn gọi là tiền âm tiết, âm tiết phụ, âm tiết mờ, v.v. Âm tiết mạnh tiếng Khmer là âm tiết mang trọng âm có khả năng đứng một mình để cấu tạo từ, có thể tồn tại độc lập với chức năng làm hình thức ngữ âm của ._.hiểu số ở Việt Nam: từ chủ trương, chính sách đến thực tế”, Ngôn ngữ, (11). 21. Nguyễn Đăng Khánh (1996), “Sự giao thoa ngữ nghĩa chỉ số phát triển của quá trình tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa”, Kỉ yếu Hội nghị khoa học, Trường ĐHTH TP.HCM. 22. Trường Lưu (chủ biên) (1993), Văn hóa người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, NXB Văn hóa Dân tộc. 23. Ngô Chân Lý (2008), Từ vựng Khmer – Việt, NXB Thông tấn 24. Nguyễn Quang Minh (2007), Phương pháp dạy học chữa lỗi dùng từ ngữ, ngữ pháp cho học sinh THPT dân tộc Khmer, Luận văn thạc sĩ Giáo dục học, Trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh 25. Phan Ngọc, Phạm Đức Dương (1983), Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á, Viện Đông Nam Á, Hà Nội. 26. Đoàn Thanh Nô (2002), Người Khmer ở Kiên Giang, NXB Văn hóa Dân tộc. 27.Vũ Đức Nghiệu (2002), “So sánh ngữ nghĩa, ngữ pháp của được, bị, phải trong tiếng Việt với ban, trâu trong tiếng Khmer”, Tạp chí Ngôn ngữ, (3). 28. Tô Diễn Phong (1999), “ Vài nét về nghiên cứu ngôn ngữ qua văn hóa”, Ngôn ngữ và Đời sống, (4). 29. Đào Thản (2001), “Phương ngữ Nam Bộ - tiếng nói của quê hương vùng cực nam tổ quốc”, Ngôn ngữ và Đời sống, (1+2), . 30. Nguyễn Kim Thản (1984), Về tiếng nói vùng đồng bằng sông Cửu Long; trong Mấy đặc điểm văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội, Viện Văn hóa. 31.Nguyễn Phương Thảo sưu tầm tuyển chọn (1994), Huyền thoại miệt vườn, NXB Văn hóa – Thông tin. 32. Bùi Khánh Thế (2002), Đề cương chi tiết bài giảng môn học Lí thuyết tiếp xúc ngôn ngữ và vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam ( Tài liệu lưu hành nội bộ). 33. Bùi Khánh Thế (2005), Lí thuyết tiếp xúc ngôn ngữ và vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 34. Bùi Khánh Thế (2005), Tiếp xúc ngôn ngữ và việc vận dụng tiêu chuẩn về đặc trưng ngôn ngữ trong khi nghiên cứu các vấn đề dân tộc ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 35. Bùi Khánh Thế (2006), “Từ ngòi bút sắt đến chiếc máy tính và những vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học Xã hội (8) . 36. Bùi Khánh Thế (1993), Ngôn ngữ văn hóa các dân tộc thiểu số từ góc nhìn quan hệ ngôn ngữ ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 37. Đinh Lê Thư, Trần Thanh Pôn, Nguyễn Khắc Cảnh, Đinh Lư Giang (2005), Vấn đề giáo dục vùng đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long, NXB Đại học Quốc gia, Tp.HCM. 38. Huỳnh Công Tín (1996), “Một số đặc điểm phát âm tiếng Việt của người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Ngôn ngữ học trẻ 96. 39. Bùi Minh Toán, Đặng Thị Lanh (2006), Tiếng Việt đại cương – Ngữ âm, NXB Đại học Sư phạm. 40.Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng Văn hóa – Dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. 41. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, NXB Khoa học Xã hội Hà Nội. 42. Lê Văn Trung (2010), Hiện tượng chuyển di từ tiếng Hán sang tiếng Việt, Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, Trường ĐH Sư phạm Thành Hồ Chí Minh, Thành phố Hố CHí Minh 43. Nguyễn Kiên Trường (chủ biên), Tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội. 44. Nguyễn Kiên Trường (1997), “Địa danh Hải Phòng – nguồn cứ liệu về sự giao thoa và tiếp xúc ngôn ngữ”, Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Nghiên cứu Đông nam Á, Trung tâm Khoa học Xã hội Nhân văn Quốc gia, Hà Nội, (1) . 45. Nguyễn Kiên Trường (1998), “Mã văn hóa và ngôn ngữ của người Việt qua tên làng”, Báo cáo khoa học trong Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học ngày15 – 17/7/1998, NXB Thế giới. 46. Nguyễn Kiên Trường (chủ biên) (2004), Tiếp xúc ngôn ngữ trong quá trình hình thành không gian văn hóa đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh, Đề tài cấp Viện 2003 – 2004, Trung tâm nghiên cứu Ngôn ngữ học. 47. Hoàng Tuệ (1979), “ Một số vấn đề về chuẩn mực hóa ngôn ngữ”, Ngôn ngữ (3,4). 48. Lâm Xai, Thạch Xarắt, Sô Phin (1998), Ngữ pháp tiếng Khmer, NXB Văn hóa Dân tộc. 49. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội 50. Nhiều tác giả (2003), Phát triển giáo dục vùng dân tộc Khmer Nam Bộ, NXB Đại học Quốc gia, Tp.HCM. 51. Viện ngôn ngữ học, (2010), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng. 52.Viện Dân tộc học (1984), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. B. TIẾNG ANH 53. Matthews, P. H. (1997), The concise Oxford dictionary of linguistics, Oxford University Press. 54. Odlin , T. (1989), Language transfer, Cambridge University Press. 55. Trask, R. L. (2000), The dictionary of historical and comparative linguistics, Edinburgh University Press PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1 BẢNG PHỤ LỤC 1.1 Số thứ tự TỪ TIẾNG VIỆT TIẾNG KHMER VAY MƯỢN 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 Ăn sáng Áo dài Áo lạnh Bánh đồng tiền Bông cải Bông giấy Cải bắp Cải củ Cải gỗ Cải trắng Cải xanh Cạo lông mặt Đậu đen Dầu lửa Đau mắt Đậu trắng Đậu xanh Gối ôm Hoa mười giờ Móc (treo quần áo) Nóng mặt Nước đá Ống nước Quần lót Quần tây Quậy Xương (mua thịt xương) Xi p – hem Ao/ào wêng/wèng (w bật hơi) Ao/ào lnghia/nghè (ngbật hơi) Num că/cặ Pcà xpei (ph hai môi) Pcà cđặ Xphầy tdôn Xpei mơm/mờm (m bậthơi) Xppei chhơ (ch bật hơi) Xpei xo Xpei khêu Cồ lmị mục Đệk khmâu Khlanh/prêng phlơn Chư (ch bật hơi) phnêk Đệk xo Đêk khiêu Khnơi ôp/ộp Pcà mồn đop/đọp Ầm phộc Cđâu/đầu mục/mục (m bậthơi) Tức cọt/thmo Phòng tưc Khô thnọp(n bật hơi)/thnọp Khô prăng/prằng Cô Ch - âng/ầng BẢNG PHỤ LỤC 1.2 Số thứ tự TỪ TIẾNG VIỆT TIẾNG KHMER VAY MƯỢN 1 2 3 4 5 ảnh hưởng Bác sĩ Bàn chải Bản đồ Bán rao Ành hường Bac xì Bàn chài Bàn đồ Ban rao 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 55 56 57 Bảng cửu chương Băng vệ sinh Báo Bảo lãnh Bao ngạn Bảo tàng Bắt mạch Bến đò Bến phà Bến xe Bệnh viện Bênh vực Bí mật Bí thư Bia lon Biểu diễn thời trang Bổ Bộ đội Bộ giáo dục Bộ nông nghiệp Bộ trưởng Bóng đèn Bóp Bớt (đau) Bực bội Bức rức Bún tàu Cà phê đá Cải lương Cải ngọt (Cái) vỉ Cấm Cấm cản Cắm trại Cảng Cảnh (trong hát tuồng) Cảnh sát Cao su Cấp cứu Chả Chán Chất độc Chính trị Chủ nhật Chủ nhiệm Chủ tịch Chủ tịch xã Chuẩn bị Chung kết Cơ hội Cốm Bàng cùc hương Băng dề xinh Bao Bào lành Bào ngang Bào tàng Băc mạch (m bật hơi) Bênh đò Bênh phà (ph hai môi) Bênh xe Bình diền (d bật hơi) Binh dực (d bật hơi) Bi mật Bi thư Bia lòn Biều diền (d bật hơi) thời trang Bồ Bồ đồi Bồ dao dục Bồ nông nghiệp Bồ trường Bong đèn Bôp Bơt Bực bồi Bưc rưc Bun tàu Cà phe (ph hai môi) đa Cài lương Cài ngọt Dì (d bật hơi) Câm Câm càn Căm trài Càng Cành Cành xat Càu xu Câp cu Chà Chan Chât độc (ô phát âm hẹp hơn) Chinh trì Chù nhực Chù nhiềm Chù tịch Chù tịch xã Chừng bì Chung kêch Cơ hồi Cồm 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 Cơm mẻ Cúm gia cầm Cuốn sách Cuốn sổ Đá bào Đại hội Đại lí Đại úy Đảng ủy Danh dự Đầu đĩa Đầu máy Đậu que Dây cáp Dây chì Dép Đĩa Địa lí Điện Điện giật Điện thoại Diễn viên điện ảnh Điều kiện Dính dấp Đỡ (đau) Dòng họ Đóng vai Dựa (hàng) Dược sĩ Đường tráng nhựa Gấp Ghiền Giả Giải quyết Giám đốc Giành Giấy khen Giỏi Giường Gỏi Hạng nhất Hiệu phó Hiệu trưởng Hình chữ nhật Hình tam giác Ho gà Học bỗng Hội nghị Hội phụ nữ Hộp quẹt Hợp tác hóa Côn mè Cum da cằm Cuôn xach Cuôn xồ Đa bào Đài hồi Đài li Đài wi Đàng wì Danh dừ Đầu đìa Đầu mai Đầu we Dây cap Dì (d bật hơi) chi Dệp Đìa Đìa li Điền Điền dựt Điền thòi Diền diên điền ành Điều kiền Dình (d bật hơi) dọp (d bật hơi) Đờ Dòng hò Đông dai Dừa (d bật hơi) Dược xì Đường trang nhừa Râp Riềng (r bật hơi) Dà (d bật hơi) Dài wiết Dam đôc Dành (d bật hơi) Dây khen Dòi (d bật hơi) Dường (d bật hơi) Ròi (r bật hơi) Hàng nhức Hiều pho (ph hai môi) Hiều trường Hình chừ nhực Hình tam dac Ho rà (r bật hơi) Hộc bồng Hồi nghì Hồi phù (ph hai môi) nừ Cwẹt Hộp tac wa 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 159 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 Hợp tác xã Hột vịt lộn Hột vịt muối Hứa Hứa hẹn Huyện Kế toán Kế toán trưởng Keo dán sắt Khánh thành Khẩu trang Khiếu nại Kỉ luật Kĩ sư Kí tên Kiểm tra Kiến thiết Kiểu Kinh Làm bộ Lăn lộn Lãnh Lắp ráp Lặt vặt Lễ Lịch sử Liếp Liều mạng Lỡ Luận văn Lưới Luôn luôn Mai chuỗi Mắm Mật thám Màu tím Máy Máy cày Máy in Máy quạt Máy sấy Máy vi tính Máy xới Mĩ phẩm Món (ăn) Món tái Một công Mục đích Mứt Mỹ phẩm Năng lượng Hộp tac xà Hột dịt lồn Hột dịt muôi Hưa Hưa hèn Wiền Kê ton Kê ton trường Keo dan xăt Khanh thành Khầu trang Khiêu nài Kì lực Kì xư Ki tênh Kiềm tra Kiên thiêt Kiều Kênh (ênh phát âm giống phương ngữ Bắc) Lầm bồ Lăn lồn Lành (anh phát âm giống phương ngữ Bắc) Lấp rap Lặt dặt (d bật hơi) Lề Lịch xừ Liep Liều màng Lờ Lừng dăn Lưi Luôn luôn (uôn phát âm rộng hơn) Mai chùi Măm Mật tham Mào tiêm Mây Mây cài Mây in Mây quạt Mây xây Mây wi tinh Mây xơi Mì phầm Mon Mon tai Mò công Mục đích Mưc Mì phầm (ph hai môi) Năng lường 161 162 163 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 Nem nướng Nghỉ hè Nghĩa vụ Ngũ cốc Ngược ngạo Nguyên chất Nhập khẩu Nhảy đầm Nhảy dù Nhõng nhẽo Nhúc nhích Nịnh bợ Nước ngọt Nước tẩy Ổ điện Ống bơm Phá Phá hoại Phá sản Phái đoàn Pháo Pháp luật Phát Phạt Phát triển Phim Phó chủ tịch xã Phó giám đốc Phòng cháychữa cháy Phỏng vấn Phù hiệu Quan trọng Què Quẹo Quý giá Quýt Rối loạn tiêu hóa Sân vận động Sản xuất Sổ danh bạ Sổ sách Sở thú Sữa Sửa (chữa) Sữa đậu nành Sửa soạn (trưng diện) Suy dinh dưỡng Tác giả Tài khoản Tài liệu Tài sản Nem nương Nghì hè Nghì dù (d bật hơi) Ngù cốc Ngươc ngào Nguyên chất Nhập khầu Nhầy đầm Nhầy dù (d bật hơi, u hẹp hơn) Nhoòng nhèo Nhuc nhic Nình bờ Nước ngòt Nươc tầy Ồ điền Ông bôm Pha (ph hai môi) Pha wài Pha xàn Phai (ph hai môi) đòn Phao (ph hai môi) Phap (ph hai môi) lực Phat ( ph hai môi) Phat (ph hai môi) Phat (ph hai môi) triền Phin (ph hai môi) Pho (ph hai môi) chù tịch xà Pho dam đôc Phồng (ph hai môi) chai chừa chai Phồng dân Phù hiều Wan trồng Cwè Wèo Wi da Cwic Rôi lòn tiêu wa Xân dần đồng Xàn xưc Xồ danh bà Xồ xach Xờ thu Xừa Xưa Xừa đầu nành Xưa xòn Xi dinh dường Tac dà (d bật hơi) Tài khoàn Tài liều Tài xàn 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 550 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 Tâm lí Tạm thời Tạm trú Tấn Tập thể dục Tàu hủ Tay lái Thang máy Thành phố Thành thạo Thất vọng Thầy kí Thêm Theo dõi Thí nghiệm Thị xã Thiếu úy Thỏa thuận Thông báo Thử Thứ ba Thứ bảy Thứ hai Thư kí Thứ năm Thủ quỹ Thứ sáu Thứ tư Thủ tướng Thức ăn (gia xúc) Thuế Thuế hải quan Thùng Thùng vòi Thùng xăng Tỉ mỉ Tiệm (bán hàng) Tiến bộ Tiện nghi Tiết kiệm Tiểu thuyết Tín dụng Tỉnh Tình trạng Tỉnh trưởng Tổ chức Toán Toàn bộ Toán đố Tối đa Tổng cộng Tăm li Tàm thời Tàm tru Tân Tặp thề dục Tào hù Tai lai Thang mây Thành phô (ph hai môi) Thành thào Thất dồng (d bật hơi) Thầy ki Them (phát âm giửa e và ê) Theo dòi (d bật hơi) Thi nghiềm Thì xà Thiêu wi Thò thừng Thông bao Thư Thư ba Thư bầy Thư hai Thư ki Thư năm Thù wì Thư xao Thư tư Thù tương Thưc ăn Thue (e có độ rộng giữa e và ê) Thue hài wan Thung Thung dòi (d bật hơi) Thung xăng Tì mì Tiêm Tiên bồ Tiền nghi Tiêt kiềm Tiều thiết Tin dùng Tình Tình tràng Tình trường Tồ chưc Ton Tòn bồ Ton đô Tôi đa Tồng cồng 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 Tổng thống Trà đá Trại lính (Trái) táo Trạm Trạm xá Trán (xi măng) Trang điểm Trang trại Trang trí Trị Triễn lãm Trở ngại Trực tiếp Trừng trị Trung úy Từ điển Tự động Tử hình Tủ lạnh Tự tử Tục tĩu Tức tối Tương ớt Tựu trường Tuyên bố Ủng hộ Ủy ban Ủy quyền Uy tín Vai chính Vai phụ Ván ép Văn phòng Vật lí Vật liệu Vắt sổ Vi khuẩn Viêm phổi Việt kiều Vòi Vốn Vớt (lên) Vượt biên Xã Xà lách Xe máy (xe đạp) Xếp hàng Xét Xích đu Xỉu Tồng thông Trà đa Trài linh (inh phát âm giống phương ngữ Bắc) Tao Tràm Tràm xa Tran Trang điềm Trang trài Trang tri Trì Triền làm Trờ ngài Trực tiêp Trừng trì Trung wi Từ điền Từ đồng Từ hình Tù lành Từ từ Tục tìu Tưc tôi Tương ơt Tù trường Tiên bô Ùng hồ Wì ban Wí wiền Wi tinh Dai chinh Dai phù (ph hai môi) Dan ép (e có đọ rông giữa e và ê) Dăn phồng (ph bai môi) Dật li Dật liều Dắt xồ Wi khuần Diêm phồi (ph hai môi) Diệt kiều Dòi (d bật hơi) Dôn Dơt Dực (d bật hơi) Xà Xlạch (ach phát âm giống phương ngữ Bắc) Chà mầy Xăp hàng Chhec (e có đọ rông giữa e và ê) Xich đu Xìu 316 317 318 319 Xuất khẩu Ỷ (lại) Y sĩ Y tá Xưc khầu Ì Y xì Y ta BẢNG PHỤ LỤC 1.3 Số thứ tự TỪ Số thứ tự TỪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 Li Lịch Liên hoan Liều (thuốc) Lo (lo lắng) Lời Lồng đèn Lớp Luông Màn Màu hồng Màu nâu Mê Mét Mờ mờ Mời Môn thi Mực Nem Ngân hàng Nghề nghiệp Nghẹt xăng Nghi ngờ Ngược chiều Nhà kho Nhà thương Nhân viên Nhờ Nhớt Phân công Phần trăm Phòng Phụ tùng Phức tạp (ph hai môi) Rạp hát Riêng (riêng chung) Rước Sầu riêng 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 Sơn Tập (phim) Tập đọc Tập trung Tem Thanh tra Thầy thông Thịt nạt Thời tiết Thu băng Thực đơn Thước Thuộc bài Thuốc lắc Thuốc tê Thương binh Thường trực Thường xuyên Tình cờ Tình hình Tòa Tôn (Trái) bôm Lê Nho Trung bình Truyền hình Tư nhân Từ từ Tương đương Tuyên truyền Tuyên truyền viên Ung thư Ưu tiên Văn phòng Vật tư Vật tư(ư phát âm hẹp hơn) Viết chì 39 40 41 42 Sinh (môn sinh) Sinh nhật Sơ sơ Soạn giáo án 81 82 83 84 Xe buýt Xi măng Xích đu BẢNG PHỤ LỤC 1.4 Số thứ tự TỪ TIẾNG VIỆT TIẾNG KHMER VAY MƯỢN 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 Áo mưa Áo sơ mi Áo sọc Bà ngoại Bà nội Bà phước Cá kho Chả cá Chả cá lóc Cơm dĩa Con hà mã Dây điện Đồ giũa móng tay Đổ khuôn Đồng hồ điện Giấy cam kết Giấy chứng minh nhân dân Giấy khai sinh Giấy mời/ thư mời Giấy tạm trú Heo quay Học cấp hai Khoai mì Khuôn hình Kiểu mới Lính nhảy dù Một chỉ vàng Mủ cao su Nhà chung cư Nhà lầu Nhà một tầng Nồi điện Nón bảo hiểm Nước cốt dừa Nước nông thôn Nước phun tên Nước tương Ào mưa Ào xmi Ào xộc Dầy (d bật hơi)ngoài Dầy (d bật hơi) nồi Dầy (d bật hơi) phước ( ph hai môi) Trây kho Chà trây Chà trây pthộc Bài dìa (d bật hơi) Côn hà mà Cxe điền Pđặp dùa cchoọc đầy Chặc khuôn Nè (n bật hơi)/ nia lề ca điền Cđặ cam kêt Cđặ chưng minh nhân dân Cđặ khai xinh Cđặ mời Cđặ tàm tru Chrụt cwầy Riền ( r bật hơi)/ riên câp hai Lôn mây Khuôn ruôp/ ruộp (r bật hơi) Kiều mây ( m bật hơi) Linh nhầy dù ( d bật hơi) Mò chì mẹ ( m bật hơi, ê < e <e) Chò ( ch bật hơi) càu xu Thặ chung cư Thặ lâu/lù Thặ mò từng Năng (n bật hơi điền) Đuôl bào hiềm Tưc côt đôn Tưc nông thôn Tưc phun tênh Tưc tương 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 Ông ngoại Ông nội Phòng ngủ Quán bán cơm Quần rin ( zean) Rau càng cua Sọc đen Sọc đỏ Sọc trắng Sọc vàng Sọc xanh Tầng dưới Tàu hủ chiên Thùng phiếu Thùng thư Tiệm uốn tóc Tiền chuyên chở Tiền lương Trái sầu riêng Trái thanh long Trường cao đẳng TrườngDân tộc Nội trú Vườn cà phê Vườn cam Vườn cao su Vườn quýt Xe chữ thập đỏ Xe du lịch Xe tốc hành Xe xích lô Tà ngoài Tà nồi Phòng ( ph hai môi) đất Quan lộc ( l ab6t5 hơi) bài Khô rin Lề càng cua Xỗc khmâu Xộc c – hom Xộc xo Xộc p – hut Xộc khiêu Từng crồm Tàu hù chiên Thung chnột (n bật hơi) Thung xầm bach Tiêm ut xooc Cặ chiên chờ Cặ lương Phlê xầu riêng Phlê thanh long Xlà cao đằng Xlà dân tộc nồi tru Chòm cà cà phe ( ph hai môi) Chòm cà cam Chòm cà càu xu Chòm cà cwic À thệ chừ thập đò À thệ du lịch À thệ tốc hành À thệ xích lô BẢNG PHỤ LỤC 1.5 Số thứ tự TỪ TIẾNG VIỆT TỪ TIẾNG KHMER 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Ếch kho Tép kho Khô cá khoai Khô cá bống Khô cá dứa Khô cá đuối Khô cá đường Khô cá lù đù Khô cá mặn Khô cá mực Bông huệ Bông hồng Cồng kẹp kho Khè kho Nghiệt khô cá khoai Nghiệt khô cá bông Nghiệt khô cá dưa Nghiệt khô cá đuôi Nghiệt khô cá đường Nghiệt khô cá lù đù Nghiệt khô cá mằn Nghiệt khô cá mực Pcà bông huệ Pcà bông hồng 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 Bông cúc Bông lan Bông trang Hột vịt kho Cá bạc má Cá điêu hồng Cá ba sa Cábông lau Cá bống trứng Cá bống xao Cá chép Cá chỉ vàng Cá linh Cá mập Cá mực Cá nục Cá phèn Cá phi Cá tai tượng Thịt gà kho Thịt heo kho Thịt vịt kho Pcà bông cúc Pcà bông lan Pcà bông trang Pồn tè kho Trây ca ma Trây cá điêu hồng Trây ca ba sa Trây ca bông lau Trây ca bông trưng Trây ca bông xao Trây ca chép Trây ca chỉ vàng Trây ca linh Trây ca mập Trây ca mực Trây ca nục Trây ca phèn Trây ca phi Trây ca tai tường Xách mòn kho Xách chrụt kho Xách thè kho PHỤ LỤC 2 BẢNG PHỤ LỤC2.1 Số thứ tự TỪ TIẾNG KHMER TỪ TIẾNG VIỆT 1 2 3 Chuôl chnăm thmây Nùm lất Wát Thôm Vô năm Bánh lá Chùa lớn BẢNG PHỤ LỤC 2.2 Số thứ tự TỪ TIẾNG KHMER TỪ TIẾNG VIỆT 1 2 3 4 5 6 7 8 Bài chhâu Pphề (ph hai môi, e <e <ê) Bâng/bầng Pchât/pchật Tưc khmâu Nhắc nhơch (nh bật hơi) Cxăng Cràn Bãi xàu Bồ - piêl Bưng Cà chắc Cà Mau Cà nhắc Cà săng Cái Răng 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 Cần thô Cần chhe (e <e <ê) Chiên Cần thuột Đòn chhoóc Duôc kê Cxách Là bồi Lộp (l bật hơi) Mằng khút Mề xo Nek tà pphè (e <e <ê) Nek tà prạch Ooc ombóc Phuôm (ph hai môi) Rô/rồ băm/bằm Xlà/xla Xróc Ping pông/phìng phồng (p bật hơi) Xlầu Dèm (d bật hơi) Xbeng Chneng (ch bật hơi)/chniêng (n bật hơi) Chngôm/chngồm Xno Xrông/rồng Cần Thơ Cần xé chiên Chùm duột Đòn xóc Dù kê Kế Xách Là bôi Lọp Măng cụt Mỹ Tho Niếc – tà Bồ - piêl Niếc – tà Ba Rạch Ok om bóc Phum Rô băm Sa la Sóc Tầm vông Thao lao Vàm Xà beng Xà neng Xà ngôm Xà no Xà rông BẢNG PHỤ LỤC 2.3 BẢNG PHỤ LỤC 2.4 Số thứ tự TỪ 1 2 Đuông Sên dolta Số thứ tự TỪ TIẾNG KHMER TỪ TIẾNG VIỆT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Dầy dèm Trây cần chôh Trây cần thô Trây prà Trây slát Wọt (w bật hơi)Lân Pnằng tuk/thụk ngô Mòn chề Tuk ngô/ngồ (ng bật hơi) Bà giam Cá chốt Cá lò tho Cá tra Cá thát lát Chùa Leng Đua ghe ngo Gà che Ghe ngo 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 Xrâu pxăc Xrâu bột cthung Xrâu cà àng Xrâu cà bươi Xrâu cđằng bôn châu Xrâu cđằng chhem Xrâu cđằng đôt Xrâu cđằng nhen Xrâu cđằng sol Xrâu tđột Xrâu pđôm Xrâu cđuôi Xrâu cdây Xrâu cmò Xrâu cnhèn Xrâu crôm Xrâu cxach Xrâu cthăng Xrâu ctiêu Xrâu chò chầy Xrâu choc chạp Xrâu chồng bè (e <e <ê) Xrâu chùm (ch bật hơi) Xrâu rồng wềng (r,w bật hơi) Xrâu nèng (n bật hơi) cà Xrâu nèng cầnthi Xrâu Nèng chmuôn Xrâu neng khồ Xrâu nèng nột Xrâu nèng cocki Xrâu nèng cồn Xrâu nèng khồm Xrâu nèng dầy Xrâu nèng dầy lè (l bật hơi) Xrâu nèng dồ (d bật hơi) Xrâu nèng rồn (r bật hơi) Xrâu nèng è (e<e <ê) Xrâu nèng rít (r bật hơi) Xrâu nèng ẹk (e<e <ê) Xrâu nèng dài Xrâu nèng dây Xrâu nèng rồ (r bật hơi) Xrâu nèng rộttho (r bật hơi) Xrâu nèng rột (r bật hơi) Xrâu nèng hôn Xrâu nèng huốt Xrâu nèng kè (ê <e < e) Xrâu nèng khlây Xrâu nèng khột Xrâu nèng lay Xrâu nèng mâu (m bật hơi) Lúa ba sắt Lúa bót ca tung Lúa cà an Lúa cà bưởi Lúa cà đang bông châu Lúa cà đang chim Lúa cà đang đông Lúa cà đang nhen Lúa cà đang son Lúa cà đốc Lúa cà đum Lúa cà đuôi Lúa cà giây Lúa cà mo Lúa cà nhen Lúa cà rum Lúa cà sậy Lúa cà thăng Lúa ca tiêu Lúa cho chay Lúa chóc cháp Lúa chông be Lúa chum Lúa gòng vẹn Lúa nàng ca Lúa nàng caty Lúa nàng chà muộn Lúa nàng cô Lúa nàng nốc Lúa nàng cocki Lúa nàng công Lúa nàng cụm Lúa nàng dai Lúa nàng dại là Lúa nàng dù Lúa nàng gon Lúa nàng e lúa nàng rít Lúa nàng ết Lúa nàng giai Lúa nàng giây Lúa nàng go Lúa Nàng gòng to Lúa nàng gót Lúa nàng hôn Lúa nàng huốt Lúa nàng ke Lúa nàng kha lai Lúa nàng khuốt Lúa nàng lai Lúa nàng mâu 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 12 Xrâu nèng meo Xrâu nèng mẹt (m bật hơi Xrâu nèng mịt (m bật hơi) Xrâu nèng mồ (m bật hơi) Xrâu nèng nẹt (n bật hơi) Xrâu nèng nhèn (nh bật hơi) Xrâu nèng nột (n bật hơi) Xrâu nèng phia (ph hai môi) Xrâu nèng phiêt (ph hai môi) Xrâu nèng phóp (ph hai môi) Xrâu nèng phôt (ph hai môi) Xrâu nèng quốc c - hom Xrâu nèng quốc xo Xrâu nèng quốc Xrâu nèng rùm (r bật hơi) Xrâu nèng xai Xrâu nèng xmach Xrâu nèng samia soth Xrâu nèng xây Xrâu nèng xít Xrâu nèng xuốt Xrâu nèng tay Xrâu nèng the (ê <e < e) Xrâu nèng thì Xrâu nèng wì (w bật hơi) Xrâu nèng wồ (w bật hơi) Xrâu nèng xi Xrâu nèng xinh Xrâu nợp cà đung Xrâu nợp thuôl/tuôl Xrâu nợp đôc khùm Xrâu nợp nèng chuôl Xrâu nợp mộc (m bật hơi) Xrâu nợp xrơ (r bật hơi) Xrâu nhèm (nh bật hơi) Xrâu nhùm (nh bật hơi) khmâu Xrâu nhùm (nh bật hơi) xo Xrâu nhung Xrâu pxắc Xrâu sạ tiêu Xrâu kombor Xrâu sậy Xrâu chum ca Xrâu xróc chạp Xrâu sróc pchùm (ch bật hơi) Xrâu xróc rằng (r bật hơi) Xrâu prêk chóp Xrâu xra pei Xrâu komba Xrâu thâuke Xrâu thmo Lúa nàng meo Lúa nàng mét Lúa nàng mít Lúa nàng mô Lúa nàng nạt Lúa nàng nhen Lúa nàng nốt Lúa nàng phia Lúa nàng phít Lúa nàng phóp Lúa nàng phốt Lúa nàng quốc đỏ Lúa nàng quốc trắng Lúa nàng quốc Lúa nàng rùm Lúa nàng sai Lúa nàng samath Lúa nàng samia soth Lúa nàng sây Lúa nàng sít Lúa nàng suốt Lúa nàng tay Lúa nàng thé Lúa nàng ty Lúa nàng vi Lúa nàng vô Lúa nàng xi Lúa nàng xính Lúa nếp cà đung Lúa nếp cantoul Lúa nếp đốc cụm Lúa nếp hàng chol Lúa nếp mốc Lúa nếp sơ rớ Lúa nhim Lúa nhum đen Lúa nhum trắng Lúa nhung Lúa sạ sắc Lúa sạ tiêu Lúa sarau kombor Lúa sậy Lúa so chum ca Lúa sóc chập Lúa sóc chủng Lúa sóc răng Lúa sông chóp Lúa sra ei Lúa srau komba Lúa theike Lúa tho mo BẢNG PHỤ LỤC 2.5 Số thứ tự TỪ TIẾNG KHMER TIẾNG VIỆT VAY MƯỢN 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 Tà Khâu Tà Kim Tà Mềm Tà Mẹt (m bật hơi) Cà Nọt Tà Ồn Tà Ột Tà Phọt (ph hai môi) Tà Phồ (ph hai môi) Tà Quýt Tà Quýt Tà Sât Tà Sốt Crò Tà Uông Tà Mặc (m bật hơi) Dèm Rây (d, r bật hơi) Xa Phum Xrùm (r bật hơi) X-xi Xphồ (ph hai môi) Xoai Xiêm Xrôc Tức Xa thồ Dầy (d bật hơi) Đèng Chành prich Sô prich Thnôt (n bật hơi) Tà Nì (n bật hơi) Maha cxach Cà chầy (ch bật hơi) Ấp Trà Kháo Ấp Trà Kim Ấp Trà Mềm Ấp Trà Mẹt Ấp Trà Nóc Ấp Trà Ôn Ấp Trà Ốt Ấp Trà Phọt Ấp Trà Pô Ấp Trà Quýt A Ấp Trà Quýt B Ấp Trà Sất Ấp Trà Sốt Ấp Trà Tro Ấp Trà Uôn Ấp Trăng Mặt Ấp Vàm Rây Ấp Xà Phun Ấp Xã Rùm Ấp Xa Xi Ấp Xô Pô Ấp Xoái Xiêm Ấp Xốc Tức Ấp Xóm Tộ Bà Đênh Bài thần chú Chanh – bờ - rích Bài thần chú Sô – bờ - rích Bánh thốt nốt Bền đò Tà Nị Bồ tát Mahô Sâth Bún nước cà chơi 113 114 115 116 117 118 119 120 Xrâu tbâu Prêk thè/tia Prêk tà cuôl Sróc wot Sróc xre Chặc cliêc Thè xiêm Xoai Thum Lúa tra bau Rạch tìa Sông Trà Cuông Sóc chùa Sóc ruộng Thọt léc Vịt xiêm Xoài Thum 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 Cà làng Cà om/cà òm Cràn Cquầu Neng/chneng (n, chn bật hơi) Xầm lò Cà Nhun Chà Kha Ch bâu Cầm phồ (ph hai môi) he Tà Nèng (n bật hơi) Xa Xiem Ầm bạt Thnôt (n bật hơi) Ành đọp/ đop Rèmmsua (r bật hơi) Cà làng Cà hom Nộp Chằng Bè Xách Maha Khrưt Sróc wềng (w bật hơi) Trọt Wot Ầng Tà Đột Tà Đột Cà Nhun Đờm rồn Chắc còm phằng (ph hai môi) Cồ Khia Tđột dèm (d bật hơi) Rạch Tìa Sróc xlầu Sróc wềng Sróc wềng Sróc Xoai Tà Mùn (m bật hơi) Tà mẹt (m bật hơi) Xa Nhi Xa Nhi Bành bạt Tức Dụp (d bật hơi) Thnốt Cxol Cămmaviết Duôc kê xră Anốti Thnốt (na bật hơi) Tà Câu Tà Ồn Nèng Mâu (m bật hơi) Xno (n bật hơi) Cà lang rơm Cái cà om Cái cà ràng Cái quảu Cái xà/cà neng Canh sâm lo Cầu Cà Nhum Cầu Chắc Kha Cầu Chưng Bầu Cầu Kapohe Cầu Tà Niên Cầu Xà Xim Cây bình bát Cây thốt nốt Chằm đốp Chằn Ramasua Chất cà lang rơm Chiếu cà hom Chiếu nóp Chim Chằng Bè Chim thần Maha Khờrứt Chợ Sóc Ven Chợ Trà Trót Chùa Âng Chùa Cả Đuốc Lớn Chùa Cả đuốc Nhỏ Chùa Cà Nhung Chùa Cây Trôm Chùa Chắc Băng Chùa Cỏ Khía Mới Chùa Đuốc Vàm Chùa Rạch Tìa Chùa Sóc Sau Chùa Sóc Ven Chùa Sóc Ven Cũ Chùa Sóc Xoài Chùa Tà Mun Chùa Tràm Mẹt Chùa Xà Nhi Chùa Xà Nhi Mới (ông lục) đi bal bát Đồi Tức Dụp Đường thốt nốt Gió thiêng Cămmaviết Hát dù kê Hồ Anốti Huyện Thốt Nốt Huyện Trà Cú Huyện Trà Ôn Kinh Nàng Mau Kinh Xà No 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 Chồng cò Tà Cuôn Cbặp Pr - hoc Pr - ọt Lột (l bật hơi) chanh (ch bật hơi) Hoọc xdam /xdàm Nèng Mêkhala Chồn hôn Dầy banh Acha/chà Lột (l bật hơi) Mê/mề (m bật hơi) Niêc/nẹc (n bật hơi) ta/tà Sombơrom Côđom Xră chịch (ch bật hơi) M - òm thnôt chrạch phlặc (phl bật hơi) Maha Prum pr bật hơi) Prặ (r bật hơi) In Prặ ( r bật hơi) Kao tôn Prặ (r bật hơi) Chanh Pră Atich Riahu Nèng Mâu Chằng Năm Cwach (w bật hơi) Lá chông co Láng Trà Côn Lạt cà bắp Mắm bò hóc Mắm bò ót Mời (đám) ông lục sal Múa sadam Nàng tiên Mêkhala Ngồi chồm hổm Núi Bà Panh Ông Acha Ông lục Ông Mê Ông Tà Phật Sombơrom Côđom Rạch Xã Chích Rau om Rượu thốt nốt Sông Ba Rạch Thần Komphônlác Thần Maha Pờrum Thần Pờ - rặc In Thần Pờ - rặc Kao tôn Thần Pờ rắc Chanh Thần Pờrặc Atít Thần Rìahu Thị trấn Nàng Mau Tổ Chằng Năm Trái quách ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5639.pdf
Tài liệu liên quan