Lời nói đầu
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Có thực mới vực được đạo”. Như vậy là cha ông ta từ xưa đã thấy rõ con người khi làm bất cứ điều gì nếu thiếu đi cái “thực” thì dù cho có những đạo lý đúng đắn soi đường cũng không bao giờ làm được. Giống như Mac-Anghen đã tìm ra quy luật phát triển của con người: Trước khi con người muốn làm một điều gì đó từ những việc giản đơn cho đến những việc lớn hơn như hoạt động chính trị, nghệ thuật, khoa học v.v... thì đầu tiên họ phải tồn tại, phải có những nhu
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1765 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn - Mối quan hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cầu cơ bản ăn – mặc – ở của con người.
Nhưng nếu con người cứ mãi chú tâm vào cái “thực” chỉ đuổi theo những điều kiện vật chất bình thường thì đương nhiên khó tránh khỏi lầm đường lạc lối. Cũng vì vậy mà trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay khi điều kiện sản xuất phát triển cũng như cơ hội làm giàu đã mở ra cho mỗi cá nhân có khả năng sáng tạo và tầm nhìn chiến lược thì việc tìm hiểu mối liên hệ, sự liên quan mật thiết giữa lý luận và thực tiễn để có thể vận dụng cái này để phát triển cái kia rồi từ đó mà phát triển kinh tế là điều hết sức quan trọng và cấp thiết.
Như đã nói ở trên, lý luận và thực tiễn luôn đòi hỏi phải được xem xét trong sự thống nhất biện chứng nghĩa là tuy thực tiễn quyết định lý luận nhưng khi quay trở lại thì lý luận sẽ chỉ đạo thực tiễn. Việc đảm bảo tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn sẽ thúc đẩy hoạt động của con người, tạo ra những chuyển biến lớn, những bước ngoặt trong cả lý luận và thực tiễn.
Nếu như việc nghiên cứu về mối liên hệ giưa lý luận và thực tiễn đã quan trọng thì vấn đề đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế lại càng quan trọng hơn bởi vì xét đến cùng mục đích của chúng ta là phát triển nền kinh tế - nền tảng của xã hội và cũng là trung tâm của các hoạt động xã hội khác. Chúng ta hiểu rằng đổi mới kinh tế phải là một quá trình chuyển biến có tính chất bước ngoặt về đường lối và chính sách kinh tế-xã hội. Xét nước ta, mặc dù mới được thực hiện trong thời gian gần đây nhưng công cuộc đổi mới kinh tế đã tạo nên những thay đổi căn bản trong đời sống xã hội nước ta. Quá trình đổi mới ở nước ta diễn ra từng bước tuy chậm nhưng đã và đang tạo nên nhiều hậu quả về kinh tế và xã hội mà phần đông nhiều nhà bình luận quốc tế thừa nhận là đáng kinh ngạc.
Sau một chục năm, nền kinh tế đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, đời sống xã hội trở nên sôi động hơn. Mức sống chung của dân cư có bước tiến bộ rõ nét. Các quan hệ và cơ cấu xã hội trở nên phức tạp và đa dạng hơn. Với những xu hướng biến động đó, nhiều công thức lý luận về các quy luật khách quan phát triển kinh tế, chính trị, xã hội một thời gian dài trước đây được coi là cơ bản và mực thước, thì nay tỏ ra không còn phù hợp và cần được xét lại. Thực tiễn kinh tế-xã hội sống động dường như đang đi trước tư duy lý luận và đang đặt ra trước đó hàng loạt vấn đề cấp bách và lâu dài cần phải giải đáp.
Như vậy, muốn đổi mới kinh tế không thể không đổi mới tư duy, và phải đổi mới tư duy làm sao để có thể áp dụng nó vào nền kinh tế đạt hiệu quả cao. Đó chính là mối liên hệ mấu chốt. Cũng giống như là sáng tạo bản thân nó đã mang tính chủ quan nhưng phải sáng tạo làm sao để mà phù hợp với cái khách quan thực tại thì là điều vô cùng khó khăn. Đương nhiên, giải quyết được vấn đề giữa lý luận và thực tiễn, giữa sáng tạo và hiện thực sẽ là cơ sở để nghiên cứu về mối liên hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới tư duy. Và một khi chúng ta có thể thấy rõ, hiểu rõ về vấn đề này thì không những chúng ta sẽ có một cái nhìn tổng quát về việc phát triển kinh tế, hiệu quả của nó cũng như đề ra phương pháp mới trong các hoạt động kinh tế, mà còn có thể kết hợp giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế để làm cho nền kinh tế nước ta có những bước nhảy vọt.
Bài tiểu luận này dựa trên những dữ kiện thu thập được để tạo nên một cái nhìn tổng quát về xu hướng đổi mới kinh tế dưới ảnh hưởng của các chính sách đổi mới, của đổi mới tư duy ở Việt Nam và sự liên quan mật thiết giữa hai lĩnh vực quan trọng này. Bài gồm hai phần chính: Trước tiên là phần trình bày về cơ sở lý luận của đề tài và trên cơ sở đó phần 2 sẽ phân tích cụ thể hơn về mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta.
Phần nội dung chính
1. Sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
1.1. Vai trò của thực tiễn đối với lý luận là vai trò mang tính quyết định.
Trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu quan điểm duy vật biện chứng về thực tiễn. Thực tiễn là gì?
Trong lịch sử triết học, phạm trù thực tiễn đã từng xuất hiện trước triết học Mác. Chẳng hạn trong triết học Phoi ơ Bắc và cả trong triết học duy tâm của Hêghen đã đề cập đến phạm trù thực tiễn nhưng ở Phoi ơ Bắc và chủ nghĩa duy vật trước Mác nói chung đều quan niệm thực tiễn chỉ thuần tuý là hoạt động kiếm miếng ăn, là “hoạt động con buôn bẩn thỉu”. Họ không thấy được vai trò sáng tạo, vai trò cải tạo thế giới của thực tiễn. Theo Hêghen thì thực tiễn là “hoạt động có ý chí của tư tưởng”. Vì triết học của Hêghen đặt trên nền tảng sự vận động của ý niệm tuyệt đối. Do đó thực tiễn chỉ được ông xem xét như 1 phạm trù logic thể hiện 1 giai đoạn phát triển của ý niệm tuyệt đối mà thôi.
Triết học Mác đã thừa nhận mặt vật chất, mặt cảm tình trực tiếp của hoạt động thực tiễn trong quan niệm triết học của Phoi ơ Bắc, đồng thời cũng thấy mặt “hoạt động có ý chí” trong quan niệm của triết học Hêghen. Nhưng cao hơn, triết học Mác còn thấy vai trò sáng tạo, vai trò cải tạo thế giới, vai trò nền tảng phát triển xã hội của hoạt động thực tiễn. Vậy thực tiễn là gì?
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính lịch sử-xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất, làm biến đổi chúng theo mục đích của mình. Những hoạt động như vậy được thực hiện một cách tất yếu khách quan. Thực tiễn là hoạt động đặc trưng, bản chất của con người, không ngừng phát triển bởi các thế hệ loài người.
Như vậy, thực tiễn không chỉ là những hoạt động vật chất của từng con người cá biệt mà là dạng hoạt động cơ bản của loài người trong quá trình phát triển lịch sử của mình. Xét từ nội dung cũng như phương thức thực hiện, hoạt động thực tiễn mang tính chất xã hội. Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay đổi được thế giới hiện thực, mới thực sự mang tính chất phê phán và cách mạng. Tất nhiên hoạt động thực tiễn không thể tách vai trò hướng dẫn của nhận thức, của lý luận nhưng lý luận tự nó không thể làm biến đổi được hiện thực.
Hình thức đầu tiên của hoạt động thực tiễn chính là hoạt động sản xuất vật chất đã tạo thành cơ sở của tất cả các dạng các hình thức khác của hoạt động của hoạt động sống của con người. Thực tiễn còn là hoạt động cải tạo xã hội bao gồm các hoạt động của con người trong các lĩnh vực chính trị, xã hội. Hoạt động thực nghiệm khoa học cũng là một dạng đặc biệt của hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn là trung tâm của lý luận, là cơ sở nền tảng, tiêu chuẩn, mục đích của lý luận. Thông qua thực tiễn mà con người đã làm cho sự vật hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ, bản chất của chúng. Trên cơ sở đó con người nhận thức chúng. Như vậy, thực tiễn đã đem lại nhiều tài liệu cho quá trình nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các qui luật vận động và phát triển của thế giới. Chính yêu cầu sản xuất vật chất và thực tiễn cải biến xã hội đã buộc con người phải nhận thức thế giới. Và cũng nhờ có thực tiễn, trước hết là lao động, con người đã nhận thức được thế giới xung quanh. Thực tiễn đưa ra nhiều vấn đề cho nhận thức hướng tới để giải đáp đồng thời cũng tạo ra các phương thức thực hiện cần thiết cho nhận thức, đem lại nhiều tài liệu kinh nghiệm cho nhận thức mà từ đó khái quát lên thanh lý luận. Hơn nữa qua nhiều thành bại trong hoạt động thực tiễn chúng ta mới có thể xác định được nhận thức, thực tiễn là đúng hay sai. Tức là thực tiễn còn là cái hiện thực hoá lý luận, làm cho lý luận có giá trị tham gia làm biến đổi hiện thực. Vì thế Lênin đã khẳng định: "Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức".
Ngoài ra thực tiễn còn là hoạt động vật chất giúp cho con người tích luỹ tri thức kinh nghiệm. Cha ông ta đã dạy: "Trăm hay không bằng tay quen". Có rất nhiều công việc ở thực tế khác xa so với lý thuyết mà nếu không có thực hành, thực tế con người không thể hiểu biết được. Rõ ràng là một tay thợ lành nghề sẽ dễ dàng trong lao động sản xuất còn một người lúc nào cũng chỉ chăm chú học thuộc lý thuyết sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Và đôi khi chính kinh nghiệm lại giúp cho ta phát hiện, sửa chữa những sai lầm của lý luận. Chẳng phải là nhiều người giàu kinh nghiệm, từng trải luôn được tôn trọng, hỏi ý kiến và họ cũng luôn cho ta những lời khuyên sáng suốt đó sao.
Tất cả những điều trên đã cho thấy thực tiễn phải là yếu tố quyết định của lý luận. Nhưng lý luận cũng tác động đến thực tiễn với 1 vai trò không nhỏ: chỉ đạo thực tiễn.
1.2. Khi lý luận quay trở lại thực tiễn nó sẽ chỉ đạo thực tiễn
Ta hiểu rằng lý luận là trình độ cao của nhận thức, là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh nhiều mối liên hệ bản chất, quy luật của thế giới khách quan. Mà ta đã biết theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: quá trình nhận thức là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người. Nó không phải là sự phản ánh giản đơn máy móc mà là sự phản ánh có tính chất biện chứng. Nó là quá trình phức tạp của hoạt động trí tuệ tích cực và sáng tạo. Như vậy lý luận đã nâng nhận thức lên 1 tầm cao hơn.
Tuy rằng tri thức kinh nghiệm có vai trò không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày của con người nhưng tri thức kinh nghiệm lại có hạn chế bởi trình độ tri thức kinh nghiệm chưa thể nắm bắt cái tất yếu sâu sắc nhất, mối quan hệ bản chất giữa các sự vật, hiện tượng. Anghen trong cuốn sách biện chứng về tự nhiên đã nhận xét: "Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu". Như vậy lý luận là 1 trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Nếu như kinh nghiệm chỉ là những kiến thức được tích luỹ đơn thuần từ hoạt động thực tiễn thì tri thức lý luận là tri thức khái quát từ tri thức kinh nghiệm, nó tồn tại trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật của lý luận.
Lý luận được hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm nhưng lý luận không hình thành 1 cách tự phát từ kinh nghiệm và không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao. Nhờ đó nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính quy luật của các sự vật hiện tượng khách quan. Theo Mác, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là " đem quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự".
Nhờ có những ưu điểm trên đây mà lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn. Lý luận là "kim chỉ nam" cho hành động soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lênin viết: "Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng".
Lý luận một kho thâm nhập vào quần chúng, được quần chúng tiếp thu, ủng hộ thì sẽ biến thành sức mạnh vật chất. Nếu như lý luận đó lại là đường lối, chính sách đúng đắn thì sẽ đưa đất nước tiến lên rất nhanh.
Một điểm quan trọng là lý luận có thể dự kiến được sự vận động của sự vật trong tương lai, rồi từ đó chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát. Vì vậy, chủ tịch HCM viết: "Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi". Một khi có lý luận vững chắc, chúng ta sẽ không sợ tình trạng mò mẫm hay lạc đường. Lý luận sẽ mang lại phương hướng cụ thể để ta bắt tay vào công việc.
Bất kỳ quốc gia, dân tộc nào cũng cần có cương lĩnh chính sách, 1 nền tảng tư duy lý luận thống nhất. Điều đó cũng góp phần ổn định nền chính trị và hoà bình của đất nước, bởi vì 1 khi tư tưởng có kiên cường, vững chãi thì mới mong bảo vệ được đất nước và thành quả của mình. Chính vì vai trò quan trong của lý luận là không thể thiếu đối với mỗi 1 cá nhân cho nên mỗi người cần phải tự trang bị cơ sở lý luận về cuộc sống, về phẩm chất, quan niêm đạo đức cho riêng mình. một danh nhân đã nói: "Sống mà không suy nghĩ thì là tồn tại chứ không phải sống".
Như vậy khả năng chỉ đạo thực tiễn của lý luận đã rõ ràng. Chúng ta cần phải hiểu rõ lý luận của mình mà từ đó dùng nó như 1 "kim chỉ nam" cho hành động. Có thế mới đảm bảo hiệu quả và tính đúng đắn về mục đích của công việc.
1.3. Sự cần thiết phải đặt lý luận và thực tiễn trong mối quan hệ thống nhất biện chứng
Rõ ràng là vai trò của lý luận cũng quan trọng không kém vai trò của thực tiễn. Vấn đề đặt ra là chúng ta cần phải nhìn nhận mối quan hệ này như thế nào.
Chủ nghĩa Mác-Lê nin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự thống nhất biện chứng-đó là nguyên tắc cơ bản trong chủ nghĩa Mác-Lê nin. Hoạt động của con người được chia làm hai loại: một là hoạt động thực tiễn tức là hoạt động vật chất và một là hoạt động nhận thức lý luận là hoạt động tinh thần. Hai hoạt động này không thể tách rời vì chúng song song diễn ra, bổ sung cho nhau.
Thực tiễn tuy có vai trò quyết định đối với lý luận nhưng nếu không có lý luận dẫn dắt sẽ trở thành thực tiễn mù quáng. Bởi vậy, mặc dù chúng ta cần coi trọng những kinh nghiệm do thực tiễn của bản thân đưa lại song nếu chỉ dựa vào kinh nghiệm của bản thân, tuyệt đối hóa nó, coi thường lý luận thì sẽ mắc bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ".
Hơn nữa, chúng ta đều biết rằng mặc dầu những vấn đề bức bách do cuộc sống, do hoạt động thực tiễn đặt ra bao giờ cũng là những vấn đề hết sức cụ thể, nhưng để giải quyết những vấn đề hết sức cụ thể ấy một cách có hiệu quả thì không một ai có thể lảng tránh việc giải quyết những vấn đề chung, là cơ sở cho việc giải quyết những vấn đề cụ thể đó.
V.I.Lênin đã từng nhận xét: "Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết các vấn đề chung thì kẻ đó, trên mỗi bước đi sẽ không sao tránh khỏi vấp phải những vấn đề chung đó một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng trường hợp riêng thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến chỗ có những sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc". (V.I.Lênin toàn tập) Chính vì vậy mà chúng ta lại càng phải coi trọng vai trò chỉ đạo của lý luận đối với thực tiễn.
Mặt khác, cũng phải thấy rằng do tính gián tiếp, trừu tượng cao trong sự phản ánh hiện thực nên lý luận đã có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng giáo điều. Vì vậy phải coi trọng lý luận nhưng không được cường điệu vai trò của lý luận, coi thường thực tiễn, tách rời lý luận với thực tiễn bởi vì lý luận mà xa rời thực tiễn sẽ trở thành lý luận suông, dẫn đến những suy nghĩ lầm lạc. Điều đó cũng có ý nghĩa là phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Thực tiễn không có lý luận dẫn đường thì thành thực tiễn mù quáng, lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông."
Như vậy thái độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi phải chống chủ nghĩa giáo điều. Không được tuyệt đối hoá lý luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận không được chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu tượng không xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Đồng thời cũng phải không ngừng trau dồi tư duy lý luận để tránh khỏi bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Bệnh kinh nghiệm và giáo điều đều là sai lầm không đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Tóm lại, chỉ có sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận mới mang lại hiệu quả cao cho công việc. Bất kì một sự lệch lạc nào cũng sẽ dẫn đến những sai lầm to lớn khó mà sửa chữa.
Cũng vì lý do này mà chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm hiểu kỹ lưỡng mối quan hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế để mà phát triển cả hai lĩnh vực này.
2. Mối quan hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta
2.1. Quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta đã đưa đến sự phát triển, đổi mới về tư duy
2.1.1. Thực trạng nền kinh tế nước ta những năm đầu khi chưa có đổi mới tư duy
Sau khi ra khỏi chiến tranh, cùng với quá trình thống nhất đất nước về thể chế chính trị, việc nhất thể hoá nền kinh tế cũng đã được triển khai một cách tích cực. Mô hình kinh tế đã từng bước được hình thành từ những năm 50 ở miền Bắc theo kiểu mẫu nền kinh tế kế hoạch tập trung, mặc dù trải qua mấy chục năm chiến tranh đã bị biến dạng nhiều nhưng vẫn mang một số đặc trưng lớn của nó.
Thứ nhất là, nhà nước trực tiếp điều khiển các hoạt động kinh tế quan trọng trong cả nước thông qua hệ thống các kế hoạch sản xuất và phân phối hàng hoá, thông qua hệ thống giá cả, tỉ giá, lãi suất được quy định nghiêm ngặt. Với mong muốn sớm làm cho sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể chiếm vị trí chủ đạo trên phạm vi toàn nền kinh tế; nhà nước trực tiếp đầu tư qua tín dụng để trợ giúp cho các thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể để ngày càng chiếm tỉ trọng lớn. Kinh tế tư nhân quy mô lớn không được khuyến khích phát triển và là đối tượng của sự cải tạo để dần dần trở thành kinh tế nhà nước hay kinh tế tập thể.
Trong khi đó, cơ chế thị trường chỉ hoạt động trong phạm vi kinh doanh nhỏ và kinh tế gia đình, tức là ở một phần nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và bán lẻ hàng tiêu dùng, dịch vụ. Phần lớn tư liệu sản xuất được coi không phải là hàng hoá, không được phép mua bán tự do trên thị trường mà được phân phối theo hệ thống kế hoạch hoá của nhà nước. Nhà nước còn độc quyền trong hoạt động ngoại thương. Do hoàn cảnh lịch sử, hầu hết các quan hệ mậu dịch quốc tế của Việt Nam là với Liên Xô và Đông Âu. Các công ty ngoại thương của Nhà nước thực hiện những hiệp định buôn bán đó. Lãi hay lỗ của hoạt động ngoại thương đều được đưa vào ngân sách Nhà nước. Còn tư nhân không hề được tham gia vào hoạt động này.
Ngoài ra, ngân sách Nhà nước còn bù đắp các khoản lỗ của doanh nghiệp quốc doanh và thu phần lớn lợi nhuận chung. Như vậy là tài chính quốc gia và tài chính của các doanh nghiệp quốc doanh không tách biệt nhau. Nhà nước còn trợ cấp cho toàn bộ hoạt động sản xuất thông qua việc bán với giá thấp nguyên vật liệu, máy móc thiết bị được nhập khẩu bằng tiền vay nợ của Nhà nước hoặc viện trợ cho Chính phủ. Vì thế thiếu hụt ngân sách và nợ nước ngoài tăng lên cùng với sự tăng trưởng của sản xuất. Chính sách kinh tế như vậy có ưu điểm là giúp cho Nhà nước thực hiện một cách trực tiếp đường lối kinh tế nhằm vào việc tập trung tích luỹ cũa xã hội trong tay Nhà nước, phục vụ công cuộc bảo vệ nền độc lập dân tộc trước những đe doạ to lớn từ bên ngoài và nhanh chóng công nghiệp hoá; nhưng chính sách kinh tế đó lại không tạo ra động lực cho các doanh nghiệp và cho cá nhân người lao động. Sự phụ thuộc hoàn toàn vào Nhà nước của các doanh nghiệp đã làm cho chính các doanh nghiệp này trở nên thụ động và kém phát triển, gần như là kìm hãm sự đi lên của từng doanh nghiệp.
Hơn nữa tính sáng tạo và năng động kinh doanh của họ đã không có chỗ đứng trong thể chế kinh tế như vậy. Cơ chế phân phối mang tính chất bình quân, không đủ sức kích thích người có tài năng và lao động tốt. Mà một khi đã không kích thích, thúc đẩy được các cá nhân phát huy tài năng của mình, đưa doanh nghiệp mình đi lên thì nền kinh tế cũng không thể nào phát triển thực sự được.
Tất cả những vấn đề trên đều là do chúng ta chưa biết gắn kết thực tiễn với lý luận. Ví dụ như kế hoạch 5 năm 1976-1980 là kế hoạch phát triển trung hạn đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất. Và với sự lạc quan quá cao trong đánh giá tiềm năng phát triển kinh tế khi chuyển từ thời kì chiến tranh sang thời kì hoà bình, chúng ta đã đề ra các mục tiêu, kế hoạch mà trên thực tế không thể thực hiện được. Đến năm 1980, so với kế hoạch đề ra thì các chỉ tiêu thực tế đạt được là: sản lượng lương thực 69%, than 52%, điện 72%, đánh cá biển 40%, vải 39%, giấy 37% v.v... Những mất cân đối của nền kinh tế sau chiến tranh chưa kịp khắc phục thì lại cộng thêm những mất cân đối do sự đầu tư vốn đồng thời cho một lượng tương đối lớn những công trình có quy mô lớn, lâu hoàn vốn.
Cuộc tranh luận về phương hướng đổi mới kinh tế gắn liền với xem xét lại các luận thuyết cơ bản trong kinh tế mới chỉ được bắt đầu và chưa đi đến câu trả lời rõ ràng. Tuy nhiên, mâu thuẫn ngày càng tăng giữa một bên là đòi hỏi nâng cao mức sống của người dân và đòi hỏi mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp và các cá nhân, với bên kia là các chính sách và thể chế kinh tế vĩ mô chưa phù hợp đã dẫn tới những biện pháp cải cách đồng bộ hơn.
2.1.2. Những điều kiện kinh tế đã làm nền tảng cho việc phát triển tư duy
Đầu tiên là việc cắt giảm nguồn viện trợ bên ngoài - vốn là nguồn thu đáng kể của ngân sách Nhà nước - vào những năm 1979-1980 đã làm bộc lộ rõ những điểm yếu và tính lỗi thời của các thể chế kinh tế kiểu thời chiến, điều hành tập trung vào bao cấp đó, thúc đẩy tìm kiếm các giải pháp mới.
Trong bối cảnh nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng, những ý tưởng cải cách trên một số lĩnh vực kinh tế quan trọng đã xuất hiện. Đầu tiên, đó là những cố gắng của "phía dưới", tức là của các đơn vị cơ sở và các gia đình, tìm cách "phá rào", luồn lách qua những khe hở của thể chế hiện hành để hoạt động có hiệu quả hơn. Đây quả là một điểm khá đặc biệt nhưng cũng dễ hiểu vì khi bị những chính sách lớn gò bó và hạn chế thì sớm hay muộn sức sáng tạo cũng sẽ tự nó thoát ra ngoài. Sau đó, "phía trên" - tức là bộ máy quản lý các cấp của Nhà nước, thấy được sự cần thiết và tính hợp lý của việc điều chỉnh các chính sách và thể chế.
Kết quả của quá trình đó là một số hình thức mới vận hành nền kinh tế đã được thử nghiệm, đi vào thực tế cuộc sống và được chấp nhận ở quy mô rộng. Những biện pháp tự do hoá hoạt động kinh tế được áp dụng từng bước và sự can thiệp trực tiếp của bộ máy hành chính vào lĩnh vực kinh tế cũng giảm đi một cách tương ứng. Những kết luận của hội nghị lần VI ( khoá 4 ) Ban chấp hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam tháng 9-1979 cho rằng phải coi trọng hiệu quả kinh doanh, nới lỏng sự quản lý hành chính đối với các hoạt động kinh tế nằm ngoài kế hoạch và ngoài thành phần kinh tế quốc doanh, chuyển trọng điểm đầu tư từ lĩnh vực công nghiệp nặng, quy mô lớn sang sản xuất hàng tiêu dùng quy mô vừa và nhỏ, chú ý đúng mức tới lợi ích của các tập thể và cá nhân người lao động. Theo hướng đó đã có một loạt thay đổi diễn ra trong các lĩnh vực kinh tế cụ thể. Những điều này đã cho thấy rõ vai trò của thực tiễn đối với lý luận tư duy.
Nước ta xây dựng Chủ nghĩa xã hội nhưng lại xuất phát từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản nên đòi hỏi Đảng ta luôn luôn phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự cường và sáng tạo. Chủ nghĩa xã hội như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin nhấn mạnh, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải tuân theo, nó là một phong trào hiện thực; chứ không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống, nó là sự nghiệp sáng tạo của bản thân quần chúng nhân dân. Do vậy, thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế ở các nước càng được mở rộng thì lý luận về nó càng trở nên phong phú hơn, giúp ta càng tích luỹ được nhiều kinh nghiệm hơn.
Hơn nữa, sự hình thành và phát triển của xã hội đều là một quá trình lịch sử tự nhiên, tuân theo những quy luật khách quan. Không phải ngẫu nhiên mà các Đảng Cộng Sản sau một thời gian lãnh đạo sự nghiệp xây dựng đất nước đều rút ra bài học giống nhau là không thể đốt cháy giai đoạn bằng nguyện vọng chủ quan, không thể giải quyết các nhiệm vụ bằng phương pháp duy ý chí, mà phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, phải xuất phát từ thực tế khách quan. Đại hội VI của Đảng ta đã rút ra những bài học quan trọng là Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Như vậy là tư duy mới đã ra đời có nguồn gốc sâu xa từ thực tiễn. Chính thực tiễn với những khó khăn gay gắt của đất nước buộc Đảng phải suy nghĩ, phân tích tình hình nguyên nhân, tìm tòi các giải pháp. Chính thực tiễn đổi mới bộ phận ở các cơ sở, địa phương đã cung cấp những tư liệu cho hoạt động tư duy của Đảng trong việc đề ra những chính sách cụ thể, có tính chất đổi mới từng phần. Ví dụ, ngay từ cuối những năm 60, ở nông thôn đã xuất hiện hình thức khoán đến hộ gia đình bắt đầu từ Đồ Sơn (Hải Phòng) và Vĩnh Lạc (Vĩnh Phú). Hình thức khoán hộ đã làm cho nông dân phấn khởi đẩy mạnh sản xuất. Việc "khoán chui" đó đã được Đảng xem xét để ra chỉ thị 100-CT/TƯ (1981) của Ban Bí thư Trung ương, tạo ra một động lực sản xuất mới trong sản xuất Nhà nước. Những hiện tượng "phá rào" để gỡ khó khăn cục bộ trong xí nghiệp cũng đã đi tới Quyết định 25-CP. Như vậy, chính sự thúc bách của cuộc sống đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới tư duy của Đảng mà bước ngoặt của nó là Đại hội VI. Sự năng động của quần chúng và sự nhạy cảm của lãnh đạo là nguyên nhân quan trọng dẫn đến quá trình đổi mới.
Như đã nói ở trên, so với công cuộc cải cách và chuyển đổi từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường ở các quốc gia khác, đổi mới ở Việt Nam có những nét đặc thù riêng: đổi mới ở Việt Nam diễn ra từ cả hai chiều: từ dưới lên - tức là từ các doanh nghiệp và trong nội bộ dân cư, và từ trên xuống - tức là từ các quyết định của hệ thống lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Mối quan hệ hai chiều tương đối nhanh nhạy giữa Đảng và nhân dân trong việc nảy sinh, nhận biết và đáp ứng yêu cầu điều chỉnh của các chính sách kinh tế, xã hội đã làm cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam diễn ra không có sự xung đột giữa "phía trên" và "phía dưới", cũng như không có các "cú sốc" quá mạnh được tạo ra bởi các chính sách và biện pháp điều chỉnh vĩ mô quá cứng rắn và duy ý chí của bộ máy lãnh đạo "phía trên". Và ở nước ta nhu cầu đổi mới các chính sách kinh tế đã xuất phát từ chính lĩnh vực kinh tế, từ thực tiễn, chứ không phải là hệ quả của những biến động chính trị. Sự chuyển từ thời kì chiến tranh sang hoà bình đã làm bùng nổ các nhu cầu về đời sống, từ đó làm nảy sinh yêu cầu tháo gỡ các cản trở về quản lý kinh tế và sau đó dẫn đến những thay đổi trong quan niệm về sự vận hành của nền kinh tế. Nói một cách khác là thực tiễn đã làm "tan băng" các quan niệm xơ cứng và thúc ép hình thành hệ thống lý luận và quan niệm mới phù hợp hơn. Tóm lại, một đặc điểm nổi bật của quá trình đổi mới ở Việt Nam là vừa có sự sáng tạo của quần chúng từ bên dưới lên, vừa có sự chỉ đạo từ bên trên xuống. Do đó, đổi mới đã dẫn đến những thành công. Có thể khái quát những nội dung của đổi mới kinh tế là: Chuyển từ nền kinh tế tập trung sang chế độ sở hữu toàn dân; Thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội và Mở cửa, tăng cường hợp tác với bên ngoài.
Qua thực tế hơn 15 năm đổi mới, Đảng đã rút ra những kết luận quan trọng điều chỉnh bổ sung cho nhiều chủ trương chính sách, từng bước phát triển đường lối đổi mới. Đây chính là khả năng của thực tiễn giúp cho lý luận thêm phong phú hay nói cách khác đổi mới kinh tế đã đưa đến đổi mới tư duy. Vậy thì liệu đổi mới tư duy sẽ tác động lại tới đổi mới kinh tế như thế nào?
2.2. Đổi mới tư duy đã trở thành động lực của đổi mới kinh tế
2.2.1. Đường lối đổi mới của Đảng được hình thành thông qua hàng loạt chuyển biến của tư duy
Đổi mới tư duy là yêu cầu đầu tiên mà Đảng ta đã đặt ra khi bước vào thời kì đổi mới. Đây là điều quyết định để Đảng xác định và từng bước phát triển đường lối đổi mới; và đặc biệt quan trọng là để đưa đường lối ấy đi vào cuộc sống, nhằm giành những thành tựu ngày càng lớn hơn cho sự xây dựng và phát triển đất nước.
Trước đây, trong một thời gian dài ở nước ta đã xảy ra tình trạng quan hệ sản xuất đi quá xa so với lực lượng sản xuất do đó nó đã là xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam đã để ra đường lối đổi mới toàn diện từ đổi mới kinh tế là trọng tâm, đến đổi mới chính trị, văn hoá xã hội; từ đổi mới tư duy, nhận thức tư tưởng đến đổi mới hoạt động thực tiễn. Phải đặt đổi mới tư duy lên hàng đầu vì có đổi mới tư duy mới đổi mới được các lĩnh vực khác.
Đổi mới tư duy không phải chỉ đơn giản là đưa ra những nhận thức, những tư tưởng và phương pháp tư duy khác với trước. Cái mới phải vừa bao hàm những gì đúng đắn đã có trước kia, lại vừa loại bỏ những gì sai trái, lệch lạc, lỗi thời của cái cũ, đồng thời bổ sung những gì mới mẻ, phản ánh đúng thực tiễn, hướng đất nước đi lên, phù hợp với những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, của sự phát triển của đất nước và con người Việt Nam. Điều này thể hiện sự phủ định biện chứng mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã nêu ra. Từ cái cũ đi đến cái mới, chính là sự tiếp biến, là sự vượt gộp, từ đó tạo ra sự phát triển theo hướng xoáy trôn ốc của tư duy.
Quá trình đổi mới ở Việt Nam không phân chia thành các giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị lý luận về đổi mới và giai đoạn áp dụng lý luận vào thực tế, mà là quá trình vừa khái quát lý luận từ thực tiễn đổi mới, vừa áp dụng ngay những lý luận đã có vào cuộc sống. Thông qua đó mà một loạt những chuyển biến được hình thành đã tạo động lực cho đổi mới kinh tế.
Chuyển biến thứ nhất là từ tư duy dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hoá sở hữu nhà nước và tập thể, với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất sang tư duy mới xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng chủ yếu, nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất. Đây là chuyển biến căn bản mà ý nghĩa sâu xa của nó là tôn trọng quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, và tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà từng bước thiết lập quan hệ sản xuất tương ứng, nhờ đó, mở đường giải phóng mọi tiềm năng xã hội, giải phóng sức sản xuất, trong đó có nhân tố quan trọng bậc nhất là con người với tất cả sự năng động, sáng tạo của họ. Bước chuyển này có ý nghĩa cách mạng. Nó đặt đúng vị trí và tầm quan trọng của cái tất yếu kinh tế trong sự phát triển của nước ta.
Chuyển biến thứ hai là từ tư duy quản lý kinh tế dựa trên mô hình một nền kinh tế chỉ huy tập trung, kế hoạch hoá tuyệt đối với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự điều tiết của ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35405.doc