MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU HÌNH VẼ
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DTTS:
WB:
DFID:
BQLDA:
Dân tộc thiểu số
Ngân hàng thế giới
Bộ phát triển Vương quốc Anh
Ban quản lý dự án
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Số xã, huyện và tỷ lệ hộ nghèo trong vùng dự án năm 2002 15
Bảng 1.2: Tỷ lệ hộ DTTS và hộ nghèo được hưởng lợi từ xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng dự án giảm nghèo tính đến 31/12/2007 22
Bảng 1.3: Các loại mô hình có nhiều hộ tham gia nhất
95 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1302 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Sự tham gia của đồng bào dân tộc thiểu số trong dự án giảm nghèo tinh Phú Thọ 2002-2007: Thực trạng và một số kinh nghiệm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
25
Bảng 2.1: Tộc danh, dân số các DTTS trên địa bàn tỉnh Phú Thọ 34
Bảng 2.2: Sự phân bố của người DTTS theo các huyện của tỉnh Phú Thọ. 35
Hình 2.2: Tỷ lệ hộ nghèo theo nhóm DTTS. 37
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do lựa chọn đề tài
Phú Thọ là tỉnh trung du miền núi phía Bắc, một trong những tỉnh có tỷ lệ nghèo đói cao so với cả nước. Tỷ lệ nghèo đói của toàn tỉnh năm 2006 là 24,72%, riêng những vùng sâu vùng xa tỷ lệ nghèo đói lên tới 59,18%. Đến năm 2008, tỷ lệ nghèo đói của toàn tỉnh đã giảm xuống còn 17.4% nhưng vẫn còn cao so với tỷ lệ nghèo đói chung của cả nước (13%). Trong những năm qua, xóa đói giảm nghèo ở vùng nông thôn và miền núi vẫn là những mục tiêu cao nhất của tỉnh Phú Thọ. Trong công cuộc xóa đói giảm nghèo của mình, tỉnh đã có nhiều dự án hướng tới nhiều đối tượng, những khu vực có tỉ lệ nghèo đói cao, nhất là các vùng miền núi, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Nằm trong các chương trình xóa đói giảm nghèo của tỉnh, Dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ đã được triển khai từ năm 2002 và kết thúc từ năm 2007, vùng dự án là những xã nghèo nhất và cũng là nơi có đông các dân tộc thiểu số sinh sống nhất trên địa bàn tỉnh. Trong quá trình thực hiện dự án giảm nghèo, tỉnh đã huy động sự tham gia của người dân và đồng bào dân tộc thiểu số vào dự án, không phân biệt giữa các nhóm DTTS khác nhau, dù là người Mường chiếm đa số hay người Kinh chiếm đa số, dù sống ở trung tâm xã hay biệt lập ở các thôn xa, các dân tộc khác nhau về cơ bản có cơ hội và quyền tham gia là như nhau theo tinh thần của Pháp lênh dân chủ cơ sở. Tuy nhiên, tôi nhận thấy rằng sự tham gia của người dân, đặc biệt là người DTTS vào dự án còn chưa nhiều, sự tham gia đó ít nhiều mang tính thụ động, có sự áp đặt từ trên xuống, có những khoảng cách nhất định trong việc tham gia vào dự án giảm nghèo của các hộ DTTS và hiện nay sự tham gia của đồng bào DTTS vào các chương trình dự án giảm nghèo vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
Bên cạnh đó, kinh nghiệm về xoá đói giảm nghèo của các tỉnh, thành trong cả nước cho thấy, muốn dự án xoá đói thành công cần có sự tham gia đông đảo của người nghèo, bởi họ chính là đối tượng hướng tới đồng thời là đối tượng hưởng lợi trực tiếp từ các dự án giảm nghèo. Đặc biệt, đối với tỉnh Phú Thọ, khi tỷ lệ người nghèo vẫn còn cao, xoá đói giảm nghèo vẫn là chiến lược lâu dài đối của tỉnh thì đánh giá về sự tham gia của người nghèo (đặc biệt là người dân tộc thiểu số) sẽ góp một phần quan trọng đối với thành công trong chiến lược xoá đói, giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ.
Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của người dân, đặc biệt là người DTTS trong công tác xóa đói giảm nghèo và qua thời gian thực tập tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ, tôi đã chon đề tài: “Sự tham gia của đồng bào DTTS trong dự án giảm nghèo tinh Phú Thọ 2002-2007: Thực trạng và một số bài học kinh nghiệm” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Các câu hỏi nghiên cứu chính của đề tài
Để làm rõ nội dung nghiên cứu, đề tài sẽ tập chung trả lời những câu hỏi sau:
Thực trạng về sự tham gia của đồng bào DTTS trong dự án giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ là gì?
Làm thế nào để tăng cường sự tham gia của đồng bào DTTS trong các dự án xóa đói giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ?
Phương pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi 6 huyện thuộc vùng dự án giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ thông qua các phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thu thập thông tin qua nghiên cứu tài liệu thứ cấp và phân tích văn bản
Phương pháp so sánh.
Phương pháp thống kê.
Nội dung của chuyên đề: gồm 3 chương
Chương I: Sự cần thiết phải có sự tham gia của người dân trong dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ.
Chương II: Đánh giá sự tham gia của đồng bào dân tộc thiểu số trong dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ.
Chương III: Bài học kinh nghiệm và một số điều kiện để tăng cường sự tham gia của đồng bào dân tộc thiểu số trong công cuộc xóa đói giảm nghèo của tinh Phú Thọ.
Do hạn chế về kiến thức, thời gian và khó khăn trong việc thu thập thông tin nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu xót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cán bộ phòng Kinh tế đối ngoại- Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ và giáo viên hướng dẫn TH.s Nguyễn Thị Hoa đã giúp tôi hoàn thành chuyên đề thực tập này.
CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG DỰ ÁN GIẢM NGHÈO TỈNH PHÚ THỌ
I. Cơ sở lý luận cho sự tham gia của người dân trong dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ.
1. Khái niệm, các hình thức và phương pháp huy động sự tham gia của người dân
Khái niệm
Việc lấy ý kiến nhân dân tham gia vào các công việc chung của địa phương ở nước ta đã có từ lâu, nhất là những khi gặp khó khăn thì ý kiến của dân là vô cùng quý báu, điều đó đã được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Trong thời kỳ công tác kế hoạch hoá tập chung, sự tham gia của người dân trong công tác lập kế hoạch hoá đã không được coi trọng do đó đã không phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân. Sau đại hội Đảng XI, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm nâng cao tinh thần dân chủ nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Hiện nay nước ta đang thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở, đây là nền tảng quan trọng nhất để đẩy mạnh và phát huy sự tham gia của người dân. Trong các chương trình mục tiêu quốc gia, sự tham gia của người dân là yếu tố không thể thiếu được trong việc làm nên thành công của các chương trình.
Vậy thế nào là sự tham gia của người dân? Chúng ta có thể hiểu đây là hình thức tham vấn của người dân đối với các quyết định về hoạt động phát triển sẽ được thực thi; hay người dân đóng góp ý kiến, quan điểm, nguồn lực cho sự ra đời các quyết định, cho việc triển khai thực hiện hoạt động và cho quá trình sử dụng thành quả của hoạt động phát triển.
Đặc biệt, sự tham gia của người dân vào các chương trình dự án xóa đói giảm nghèo đã được thực tế chứng minh là rất quan trọng và góp phần đảm bảo tính thiết thực và bền vững của những dự án đầu tư cho người nghèo. Tăng cường sự tham gia của người dân ngay từ khâu lập kế hoạch của các chương trình dự án cũng đã trở thành một yêu cầu bắt buộc trong việc triển khai các dự án xóa đói giảm nghèo.
Các hình thức tham gia
Có thể mô tả sự tham gia mức độ tham gia của người dân vào các chương trình, dự án như một chuỗi liên tục bắt đầu từ tham gia theo chức năng nhiệm vụ cho tới khi tham gia hoàn toàn. Người ta đã xây dựng nhiều cách phân loại sự tham gia cũng như các tiêu chí đánh giá sự tham gia của người dân vào các chương trình dự án phát triển, tựu chung lại có thể phân cách hình thức tham gia thành 7 loại như sau:
Sự tham gia bị động
Người dân tham gia bằng cách họ được người ngoài phổ biến những việc sẽ xảy ra nên hiệu quả và lợi ích của sự tham gia này thấp, đôi khi còn làm cản trở cho các thành viên khác trong cộng đồng. Đây là hình thức tham gia đơn giản nhất, nó chưa hẳn là sự tham gia mà chỉ là tạo cơ hội cho sự tham gia mà chỉ là kiểu thông báo một chiều từ phía quản lý hành chính hay dự án, không cần lắng nghe sự phản hồi từ phía người dân. Thông tin được chia sẻ chỉ thuộc về phía chuyên gia.
Nhược điểm của hình thức tham gia này là người dân hoàn toàn thụ động trong việc tiếp nhận thông tin. Các thông tin chỉ mang tính chất một chiều do đó sẽ không có phản ứng lại từ phía người dân, chính vì vậy các mục tiêu của hoạt động có thể không phù hợp với mong muốn và cũng không có được sự hưởng ứng tích cực của người dân.
Sự tham gia với hình thức cung cấp thông tin
Là hình thức tham gia trong đó người dân tham gia trả lời các câu hỏi điều tra thông qua bảng hỏi nhưng không được biết kết quả điều tra, thông tin không được chia sẻ lại với người dân hay kiểm tra cho đúng.
Đây là hình thức tham gia mang tính chất quần chúng rộng rãi, ai cũng có thể tham gia được và nhiều khi cũng rất cần thiết cho các nhà lãnh đạo có được hệ thống thông tin tổng hợp, đồng bộ, để sàng lọc các dòng thông tin và từ đó ra quyết định chính xác.
Hạn chế của hình thức này là người cung cấp thông tin không nắm được mục đích, tầm quan trọng của thông tin mình cung cấp, do đó có thể những thông tin họ cung cấp không chính xác, không tập chung, gây khó khăn cho công tác tổng hợp, sàng lọc thông tin.
Sự tham gia với hình thức tham khảo ý kiến
Là hình thức tham gia trong đó người dân được hỏi ý kiến, được hội ý, được trình bày quan điểm của mình với các chuyên gia và các nhà quản lý về những vấn đề có liên quan đến quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện các dự án tai địa phương. Xét về tính chất, sự tham gia của người dân trong hình thức này mang tính chủ động hoàn toàn và tính hai chiều đầy đủ.
Phạm vi và đối tượng của hình thức tham gia này hẹp hơn hình thức trên và được áp dụng trong trường hợp không đủ thời gian tập hợp toàn thể cộng đồng hoặc là đối với một số hoạt động đòi hỏi “ độ khó” cao hơn. Tuy nhiên, đây cũng là một hình thức tham gia cần thiết vì khi không có điều kiện để tham khảo ý kiến của tất cả mọi người thì chúng ta phải tham khảo một số đối tượng chủ yếu trong cộng đồng nhằm đảm bảo cho các quyết định nhận được sự đồng tình của cộng đồng. Vì vậy điểm quan trọng khi thực hiện hình thức này là nên lựa chọn những đối tượng hỏi một cách hợp lý; có những thông tin phản hồi hay giải thích cụ thể cho các đối tượng được hỏi sau khi quyết định được ban hành.
Sự tham gia vì lợi ích
Sự tham gia của người dân trong trường hợp này là họ được đóng góp sức lực hoặc của cải vật chất để thực hiện các chương trình dự án được triển khai ở địa phương và được hưởng lợi từ sự đóng góp đó.
Đây là hình thức cần được mở rộng vì nó đảm bảo cho người dân được hưởng lợi ở mức cao nhất (tăng thu nhập bằng tiền, hưởng lợi từ các dịch vụ công ích của Chính phủ…). Nếu lợi ích càng chính đáng, càng nhiều thì càng động viên khuyến khích được đông người dân tham gia.
Nhược điểm cơ bản của hình thức này là người dân có thể vì quá ham mê lợi ích vật chất mà không chú ý đến lợi ích tổng thể của hoạt động chung. Do vậy khi thực hiện hình thức tham gia này cần giải thích rõ nghĩa, tác dụng của việc tham gia cho người dân hiểu để họ tham gia không chỉ vì lợi ích vật chất của cá nhân mà còn vì lợi ích của cả cộng đồng.
Sự tham gia vì nhiệm vụ
Đây là hình thức mà người dân tham gia gắn với quyền lực trách nhiệm hay vị trí cụ thể trong từng giai đoạn, từng công việc của toàn bộ hoạt động phát triển. Tính chất của sự tham gia này là nó tạo nên quyền lực cụ thể cho cộng đồng nói chung và người dân nói riêng, thể hiện sự phân cấp và trao quyền cho cộng đồng trong việc: lựa chọn mục tiêu, phân bổ nguồn lực, tổ chức thực hiện, quyền giám sát và kiểm tra, quyền sở hữu và sử dụng.
Tác dụng chủ yếu của hình thức này là tăng được trách nhiệm, tính tự chủ của người dân và các tổ chức chính quyền cơ sở trong việc tự giải quyết vấn đề ở cấp mình. Do đó yêu cầu khi thực hiện hình thức tham gia này là cần phải nâng cao năng lực cho cộng đồng dân cư.
Sự tham gia tương hỗ
Đây là hình thức tổng hợp tất cả các loại hình tham gia nói trên (trừ tham gia bị động) vì lợi ích tất cả các bên tham gia.
Ưu điểm của hình thức tham gia này là sự tác động tương hỗ lẫn nhau giữa các bên tham gia, cái hay của người này sẽ kích thích nẩy nở cái hay của người khác, bảo đảm sử dụng triệt để sức mạnh của cộng đồng dân cư.
Sự tham gia chủ động
Người dân chủ động tham gia vào các khâu công việc: xác định vấn đề, phân tích vấn đề, xây dựng dự án, thực hiện dự án và kiểm tra giám sát dự án. Hình thức tham gia này phản ánh sự tự giác của con người, của cộng đồng có trách nhiệm và trung thực, luôn luôn đảm bảo sự tiến bộ của bản thân và mọi người.
Một số phương pháp huy động sự tham gia của người dân
Trong phần này đề tài sẽ đưa ra nội dung, cách thức sử dụng ba phương pháp chủ yếu khi huy động sự tham gia của người dân, đó là phương pháp quan sát, phương pháp động não và phương pháp thảo luận nhóm. Mục đích của ba phương pháp này là cho phép chúng ta huy động được ý kiến khách quan của người dân và tìm được sự đồng thuận của cộng đồng về các vấn đề kinh tế xã hội ở địa phương.
Phương pháp quan sát
Mục đích: Quan sát nhằm mục đích cung cấp thông tin ban đầu, kiểm chứng những thôn tin đã được công bố hoặc bổ sung các thông tin đã được thu thập nhưng còn thiếu. Thông qua việc quan sát, người quan sát cũng có thể đưa ra các nhận định về thực trạng của đối tượng được quan sát.
Đối tượng quan sát có thể là vật thể (vị trí địa lý, địa hình, môi trường sống của cộng đồng…) hoặc con người (hoạt động của các thành viên trong cộng đồng, phong tục tập quán, hành vi cá nhân…)
Các phương pháp quan sát:
Quan sát có sự tham gia: Quan sát viên tham dự vào trong bối cảnh quan sát. Đây là một phương pháp tiếp cận mà ở đó, người quan sát trong một chừng mực nào đó trở thành một thành viên thực thụ của gia đình, cộng đồng mà họ muốn quan sát. Trong quan sát có tham gia, người dân biết được sự có mặt của người quan sát trong cộng đồng và mục tiêu quan sát. Phạm vi của quan sát có tham gia thường rất rộng, nhằm có được một hiểu biết toàn diện về hành vi của con người trong cộng đồng quan sát.
Quan sát không có sự tham gia: Quan sát viên quan sát tình huống một cách công khai hay kín đáo, nhưng không tham dự vào tình huống quan sát.
Phương pháp động não
Mục đích: Phương pháp kích thích sự sáng tạo tập thể nhằm tìm ra nhiều lời giải cho một vấn đề. Mục đích của phương pháp mày nhằm huy động được sự đóng góp về tư duy của mỗi cá nhân. Ý kiến của các cá nhân được đưa ra độc lập, sáng tạo, khách quan và không bị ảnh hưởng bởi ý kiến của các thành viên khác trong cộng đồng.
Nguyên tắc thực hiện:
Các quy tắc cho buổi động não cần được phổ biến trước khi tiến hành động não và phải đảm bảo rằng mọi người tham gai đều hiểu và nhất trí. Muốn vậy trước hết cần phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Không một thành viên nào có quyền đòi hỏi hoặc cản trở, đánh giá, phê bình hay thêm bớt vào các ý kiến, ý tưởng vừa được nêu ra, hoặc tự giải đáp ý kiến của các thành viên khác, không được đánh giá hay bình luận gì về các câu trả lời cho đến khi chấm dứt buổi động não.
Không có ý kiến, câu trả lời nào của các thành viên được coi là sai.
Tất cả các ý kiến cũng như các câu trả lời phải được thu thập một cách đầy đủ, cần lưu ý thu gọn những câu ý trùng lặp hay tương tự và loại bỏ những ý kiến hoàn toàn không phù hợp với buổi thảo luận.
Phương pháp này được sử dụng trong việc thu thập và phân tích thông tin về thực trạng phát triển của địa phương.
Phương pháp thảo luận nhóm
Mục đích: Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp huy động sự tham gia đóng góp ý kiến của một nhóm người nhằm phân tích và đạt được sự đồng thuận của những người tham gia về một vấn đề cụ thể nào đó
Đây là phương pháp quan trọng nhất nhằm huy động sự tham gia của cộng đồng, tạo điều kiện cho người dân với các trình độ khác nhau đều có thể tham gia và đưa ra ý kiến của mình về các vấn đề của địa phương. Thảo luận nhóm có thể được áp dụng để thu thập các thông tin, phân tích thông tin và tham khảo ý kiến cộng đồng về những vấn đề đã được thống nhất. Phương pháp này rất phù hợp trong các trường hợp cần tập hợp ý kiến của cộng đồng khi đánh giá thực trạng hoặc đưa ra các thông tin có tính chất phân tích, đánh giá và các đề xuất.
Tiến hành thảo luận nhóm:
Các thành viên trong buổi thảo luận được lựa chọn trong cùng hoàn cảnh kinh tế - xã hội hoặc có cùng hiểu biết cơ bản về vấn đề liên quan đến việc điều tra.
Cần khuyến khích mọi người tham gia thảo luận một cách sôi nổi và chân tình về vấn đề được nêu ra, tránh tình trạng người dân chỉ trả lời các câu hỏi do người hướng dẫn đưa ra.
Ý kiến của các thành viên tham gia thảo luận sẽ được tóm tắt và thống nhất lại.
2. Sự tham gia của người dân trong các dự án
Các tiêu chí đánh giá mức độ tham gia của người dân trong các dự án
Các tiêu chí đánh giá mức độ tham gia cho biết sự tham gia của người dân có tác dụng, hiệu quả và ý nghĩa đối với các dự án hay sự tham gia đó chỉ mang tính hình thức. Thông qua các tiêu chí: minh bạch, hiệu quả, công bằng, bền vững của dự án để đánh giá sự tham gia của người dân.
Minh bạch
Người dân cần được biết tất cả các thông tin có liên quan đến quyền lợi của họ như vốn từ đâu, ai được hưởng lợi, hưởng như thế nào, bao nhiêu... Trên cơ sở đó họ tham gia vào quá trình phân bổ và ra quyết định từ khâu tổ chức thực hiện, giám sát và kiểm tra, sẽ hạn chế thất thoát và tham nhũng. Nếu người dân được cung cấp thông tin đầy đủ về hoạt động của các chương trình dự án thì sự tham gia của họ sẽ có kết quả tốt hơn khi họ không nắm được thông tin gì và không biết phải tham gia như thế nào.
Công bằng
Đánh giá tính công bằng của các chương trình dự án được triển khai là việc xem xét các nguồn lực phục vụ cho đối tượng nào, ai là người được hưởng lợi nhiều nhất và biện pháp đảm bảo công bằng giữa những người được hưởng lợi.
Vấn đề ở đây là phải xem xét một cách cụ thể ai là người được hưởng lợi chính từ các chương trình dự án, vì lợi ích của các nhóm người khác nhau là khác nhau. Do vậy chúng ta phải phân rõ nhóm đối tượng hưởng lợi, có như vậy mới đảm bảo được tính công bằng của các dự án.
Tính công bằng trong tham gia còn thể hiện qua việc các đối tượng yếu thế có nói lên được tiếng nói của mình hay không? Họ có được tham vấn trong các hoạt động phát triển hay không? khi tham vấn các ý kiến của họ có được để ý, coi trọng hay không? đây cũng là những khía cạnh thể hiện tính công bằng trong quá trình tham gia của người dân.
Hiệu quả
Tiêu chí này được sử dụng để đánh giá mức độ phù hợp giữa đầu vào và đầu ra của các dự án. Các đầu vào được sử dụng hợp lý và hiệu quả cao nhất để đạt được các đầu ra và kết quả mong muốn. Tính hiệu quả ở đây không chỉ là hiệu quả của việc sử dụng đầu vào một cách không có thất thoát mà quan trọng là sử dụng đầu vào đó nhằm mục đích gì? kết quả đầu ra đó là các dự án đã hoàn thành mang lại lợi ích như thế nào và nó có thỏa mãn lợi ích của đa số quần chúng hay không? Dễ thấy rằng những dự án không hiệu quả là những dự án không đảm bảo được lợi ích của quảng đại quần chúng, nhất là nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. Do vậy, muốn đạt được tính hiệu quả của các dự án thì đòi hỏi người dân phải được tham gia ở mức độ nào đó trong các dự án.
Tính bền vững
Các chương trình dự án sẽ có sự bền vững như dự án hoàn thành đưa vào sử dụng, chuyên gia và nhà tài trợ rút đi, công trình vẫn phát huy tác dụng tốt, luôn duy trì được các hoạt động, quyền làm chủ của cộng đồng, trong đó có người nghèo được xác lập, ý thức đóng góp và năng lực của chính quyền cơ sở và người dân được nâng cao.
Tính bền vững của dự án còn phụ thuộc vào sự tham gia của người dân vào dự án có thường xuyên và liên tục hay không, người dân có trực tiếp tham gia trùng tu bảo dưỡng các công trình của dự án hay không. Nếu sự tham gia của người dân chỉ là hình thức, thì tính bền vững của dự án dễ bị phá vỡ. Người dân sẽ tham gia tích cực khi quyền làm chủ của họ được xác lập, có như vậy tính bền vững của dự án mới được đảm bảo.
Các bước của dự án cần có sự tham gia của người dân
Các dự án xóa đói giảm nghèo có sự tham gia của người dân nghĩa là người dân phải được tham gia vào tất cả các khâu công việc, từ thảo luận xác định các vấn đề, các câu hỏi được đặt ra trong khi xác định các khó khăn, những thuận lợi để lựa chọn các vấn đề ưu tiên, các nhu cầu của cộng đồng, đưa ra quyết định, lập kế hoạch, thực thi, đánh giá và quản lý dự án. Cụ thể sự tham gia của người dân vào các dự án được thể hiện qua các bước sau:
Lập kế hoạch dự án
Quá trình lập kế hoạch dự án là một giai đoạn trong chu kỳ dự án, nội dung này gồm các hoạt động: Phân tích thực trạng tại cơ sở triển khai dự án, xác định mục tiêu của dự án và cách thức tổ chức thực hiện. Trong các dự án xoá đói giảm nghèo, việc phân tích thực trạng cho phép xác định được các hộ nghèo đói cũng như các nguyên nhân dẫn đến đói nghèo, từ đó có thể xác định được nhu cầu của người dân, cộng đồng và đưa ra các mục tiêu phù hợp, chính xác.
Việc lập kế hoạch dự án dựa trên phân tích thực tế vì kết quả phân tích cho phép xác định được các vấn đề người dân đang gặp phải cũng như nguyên nhân của các vấn đề đó là gì. Việc tham gia của người dân ở đây có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì họ là người biết rõ nhất vấn đề vướng mắc đang gặp phải là gì cũng như nguyên nhân của những vướng mắc đó. Đặc biệt họ còn xác định được trong các vấn đề đó thì vấn đề nào mang tính phổ biến cần được ưu tiên giải quyết trước. Trên cơ sở đó, họ có thể giải quyết các vấn đề cũng như xác định nhu cầu về vốn, khả năng huy động vốn, cần tập trung ưu tiên vấn đề nào? Tất cả những việc làm này nhằm tạo thuận lợi cho việc triển khai các dự án, nhất là các dự án xóa đói giảm nghèo cũng như có kế hoạch sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả nhất.
Triển khai dự án
Triển khai dự án là một khâu chiếm phần lớn thời gian trong vòng đời của dự án. Khâu này thực hiện hai công việc chính là thực hiện đầu tư và đưa dự án vào khai thác sử dụng, trong đó việc thực hiện đầu tư có vai trò quan trọng nhất trong khâu này bởi đây chính là giai đoạn tạo nên các đầu ra của dự án.
Sự tham gia của người dân trong khâu này có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì họ nhận thức rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi dự án được triển khai tại địa phương mình. Do đó, họ sẽ có ý thức cao trong khi xây dựng cũng như bảo vệ sản phẩm của dự án sau này.
Giám sát thực hiện dự án.
Giám sát ở đây không chỉ đơn thuần là giám sát về tiến độ và kết quả thực hiện dự án mà còn giám sát luôn cả quá trình và kết quả đó được thực hiện như thế nào? Sự tham gia của người dân vào nội dung này cho phép biết dự án có được triển khai đúng nơi đúng chỗ đúng tiến độ hay không và quan trọng là đã hướng đúng đến nhóm đối tượng hay người được hưởng lợi chưa?
Đánh giá thực hiện dự án
Đây là qúa trình xác định một cách có hệ thống tính hiệu quả, tác dụng và ảnh huởng của dự án đối với các mục tiêu ban đầu đã được đề ra. Việc đánh giá thực hiện dự án sẽ được tiến hành qua ba giai đoạn như sau:
Đánh giá giữa kỳ: Bao gồm việc đánh giá tiến độ thực hiện của dự án, tính phù hợp, hiệu quả và tác dụng của dự án
Đánh giá kết thúc: Thường được tiến hành ngay khi dự án hoàn thành (thường là sau một năm sau khi dự án kết thúc). Đây là giai đoạn đánh giá các thành tựu, các lợi ích thu được của dự án và ảnh hưởng của dự án.
Đánh giá kiểm chứng: Đợc tiến hành một vài năm sau khi hoàn thành dự án, khi mà tất cả các lợi ích của dự án đều được phát huy đầy đủ
Sự tham gia của người dân ở bước này sẽ cho phép đánh giá chính xác kết quả mà ban đầu dự án được triển khai ở địa phương có đạt được các mục tiêu đề ra ban đầu hay không, hiệu quả của việc đạt được các mục tiêu đó ra sao. Ngoài ra thông qua đánh giá có sự tham gia của người dân cũng giúp xác định được vấn đề chưa được giải quyết để từ đó tìm cách khắc phục.
Quản lý dự án
Sau khi các dự án kết thúc cần phải có công tác quản lý để đảm bảo cho các đầu ra của dự án luôn hoạt động tốt và đem lại hiệu quả.
Đây là khâu quan trọng trong chu kỳ của một dự án, đặc biệt là các dự án XĐGN cho nên sự tham gia của người dân sẽ góp phần tăng tính bền vững của dự án.
II. Tổng quan về dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ
Giới thiệu chung về dự án
Dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ là dự án thành phần của Dự án giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc gồm 6 tỉnh: Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Hòa Bình, Bắc Giang. Thời gian hoạt động của dự án từ năm 2002 – 2007. Dự án được thực hiện trên địa bàn 40 xã thuộc khu vực III của 6 huyện: Thanh Sơn (19 xã), Yên lập (12 xã), Thanh Thủy (03 xã), Đoan Hùng (03 xã), Hạ Hòa (02 xã), Cẩm Khê (01 xã) – tỉnh Phú Thọ.
Bảng 1.1: Số xã, huyện và tỷ lệ hộ nghèo trong vùng dự án năm 2002
Huyện/tỉnh
Số xã có dự án
Tổng số hộ
(gia đình)
Số hộ nghèo
Tỷ lệ hộ nghèo
Thanh Sơn
19 trong 40 xã
41.111
23.433
57,0%
Yên Lập
12 trong 17 xã
18.096
9.500
52,5%
Cẩm Khê
1 trong 31 xã
28.840
10.873
37,7%
Hạ Hoà
2 trong 33 xã
25.881
9.006
34,8%
Đoan Hùng
3 trong 28 xã
25.057
7.893
31,5%
Thanh Thuỷ
3 trong 15 xã
16.757
4.926
29,4%
Vùng dự án
(6 huyện)
40 trong 164 xã
155.742
65.631
42,1%
Toàn tỉnh
303.964
94.472
31,08%
Nguồn: Dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ
Qua bảng 1.1 cho thấy tỷ lệ nghèo hộ nghèo chung trong toàn tỉnh là 31,08%, nhưng các xã của vùng dự án lại có tỷ lệ hộ nghèo rất cao. Tính chung trong 40 xã triển khai dự án thì tỷ lệ hộ nghèo lên tới 42,1%, cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ hộ nghèo chung của toàn tỉnh. Trong đó, huyện Thanh Sơn có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất 57%, thấp nhất là huyện Thanh Thủy 29,4%. Các xã vùng dự án có tỷ lệ hộ nghèo cao hơn nhiều so với bình quân toàn huyện, có nơi lên tới hơn 60% như xã Đông Cửu (66,67%), xã Tân Minh (66,28%) huyện Thanh Sơn (Nguồn: dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ). Qua đó có thể nhận thấy rằng vùng dự án là các xã nghèo nhất trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, việc bình chọn các xã tham gia vào dự án đã được thực hiện một cách tương đối công bằng.
Mục tiêu của dự án
Mục tiêu tổng quát của dự án
Phát triển nông thôn toàn diện, tạo ra nền sản xuất phát triển bền vững, nâng cao đời sống vật chất, phúc lợi xã hội, mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho đồng bào dân tộc miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tạo điều kiện để phát huy tiềm năng nguồn nội lực thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo cho người dân nghèo thuộc vùng dự án được sử dụng các công trình hạ tầng và các dịch vụ xã hội trên cơ sở phát triển bền vững, từng bước đưa nhân dân các vùng này thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu, hòa nhập vào sự phát triển chung của cộng đồng khác trong khu vực và cả nước.
Mục tiêu cụ thể của dự án
Các mục tiêu về phát triển kinh tế
Chuyển đổi cơ cấu sản xuất, đẩy mạnh sản xuất nông lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, đẩy mạnh chăn nuôi. Phấn đấu đảm bảo bình quân lương thực đầu người đến năm 2005 đạt từ 250kg trở lên.
Phát triển mạng lưới thương nghiệp, dịch vụ, khuyến nông, khuyến lâm, dịch vụ “ 2 đầu” cho nông dân, thúc đẩy thị trường nông thôn phát triển, xây dựng chợ, cửa hàng ở các trung tâm cụm xã và ở các tụ điểm dân cư lớn…
Xây dựng đường giao thông dân sinh kinh tế đến 100% các trung tâm xã, trên 70% diện tích lúa nước được tưới, tiêu chủ động, kiên cố hóa 80% công trình thủy lợi, hệ thống kênh mương, 80% hộ dân được sử dụng điện lưới.
Xây dựng và đẩy mạnh phát triển cây công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nhất là chế biến nông sản, bảo quản nông sản, phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống, thực hiện ngói hóa nông thôn, phấn đấu 80% số hộ có nhà lợp ngói, tấm lợp, nhà cấp IV.
Các mục tiêu về xã hội
Giảm tỷ lệ nghèo đói mỗi năm 3 – 5%, đến cuối năm 2005 tỷ lệ đói nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn còn dưới 15%, về cơ bản không còn hộ đói thường xuyên.
Tỷ lệ tăng dân số dưới 1,6%, giải quyết cơ bản số người trong độ tuổi lao động có việc làm, đảm bảo 70% số xã có bác sỹ phục vụ, 100% số trạm y tế xã được tiêu chuẩn hóa, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em còn 27%.
Giải quyết nước sinh hoạt cho người dân, đảm bảo năm 2005 có trên 85% số hộ sử dụng nước sinh hoạt đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh.
Phấn đấu có đủ trường lớp, đào tạo giáo viên, huy động trên 85% trẻ em các xã khu vực III trong độ tuổi đến trường, trên 80% học sinh tốt nghiệp lớp 5 được đi học cấp 2 và trên 50% học sinh tốt nghiệp lớp 9 được vào cấp 3. Đại bộ phận đồng bào dân tộc được bồi dưỡng, tiếp thu nội dung chương trình khuyến nông, khuyến lâm, kinh nghiệm sản xuất, kiến thức khoa học, văn hóa xã hội, chủ động vận dụng vào sản xuất và đời sống, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển thị trường nông thôn.
Kiểm soát dịch bệnh, xóa các căn bệnh sốt rét, khống chế bệnh bướu cổ và kiểm soát các dich bệnh nguy hiểm khác.
Đẩy mạnh phát thanh truyền hình đến các vùng sâu, vùng xa để phục vụ đáp ứng 100% số dân được nghe đài, 100% thôn bản có điểm xem truyền hình và đáp ứng thông tin.
Hỗ trợ đào tạo nâng cao năng lực cán bộ, nhân dân cộng đồng các DTTS để tham gia các hoạt động thực hiện dự án và hoạch định phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Nội dung của dự án
Dự án được kết cấu thành 6 hợp phần:
Đường giao thông và chợ
Dự án sẽ đầu tư xây dựng một số tuyến đường trục chính của xã (đường huyện đi các trung tâm xã, từ trung tâm xã đi các thôn); tập chung nhiều cho các tuyến đường liên thôn, bản, cầu nhỏ, cống qua đường; ưu tiên các công trình cải tạo, nâng cấp, nhiều người hưởng lợi, hạn chế làm mới hoặc quy mô đầu tư lớn.
Đầu tư nâng cấp và xây dựng mỗi xã không quá 01 chợ và xây dựng ở các khu trung tâm, thuận tiện giao thông, trao đổi buôn bán với các xã lân cận trong và ngoài vùng dựa án.
Nông nghiệp và phát triển nông thôn (các mô hình nông nghiệp, hệ thống thủy lợi, cung cấp nước sạch)
Đây là hợp phần quan trọng nhất, sẽ được tập trung nhiều vốn nhất, vì nó có tác động trực tiếp đến giảm đói nghèo, tạo điều kiện cho sản xuất nông lâm ngư nghiệp phát triển bền vững. Nội dung của hợp phần này bao gồm:
Hệ thống thủy lợi: Bao gồm các hồ, đập, các trạm bơm có quy mô nhỏ, cứng hóa kênh tưới, tập chung cho các công trình cải tạo, nâng cấp, thiết kế không phức tạp, người dân có thể trực tiếp làm được.
Hệ thống nước sạch: Đầu tư chủ yếu giếng nước để người dân có điều kiện dùng nước sạch, nâng cao sức khỏe.
Các mô hình về trình diễn và đào tạo: Các mô hình được lựa chọn tập chung vào phần lớn các lĩnh vực sử dụng có hiệu quả đất vườn, đất ruộng, đất vườn thông qua áp dụng kỹ thuật, phương pháp canh tác mới. Trong chăn nuôi tập chung vào cải tạo giống gia súc có chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, tập chung đào tạo cán bộ chuyên môn cho các làng, bản.
Y tế, giáo dục
Ngày nay, đầu tư vào phát triển kết cấu hạ tầng mới chỉ giải quyết được một nửa của vấn đề xóa đói giảm nghèo. Để duy trì và phát triển bền vững phải đào tạo con người có trình độ dân trí cao, có sức khỏe, có kiến thức mới có thể tiếp thu và phát triển được.
Nội dung của hợp phần này bao gồm:
Xây dựng các phòng học, lớp học cho trường tiểu học, các lớp cắm bản, nhà ở cho giáo viên, trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy; đào tạo và nâng cao trình độ, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên hiện có và cử tuyển con em đồng bào DTTS đi đào tạo giáo viên về phục vụ quê hương…
Xây._. dựng mới, cải tao và nâng cấp các trạm y tế xã, các trạm xá liên thôn xa khu trung tâm, các trang thiết bị cho trạm y tế, xây dựng nhà ở cho cán bộ y tế vùng ngoài công tác ở xã; đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ y tế đang công tác…
Ngân sách phát triển xã
Hợp phần này được giao cho các xã làm chủ đầu tư. Tập trung vào những công trình, dự án nhỏ để cải thiện, tạo môi trường ổn định hơn cho gia đình ở thôn, bản. Bên cạnh đó, hợp phần còn đào tạo, nâng cao năng lực quản lý đội ngũ cán bộ các cấp thông qua tiếp cận, lập kế hoạch, thi công, giám sát các công trình trong hệ thống quản lý Nhà nước và quản lý, sử dụng vốn…
Hỗ trợ quản lý dự án
Dự án thiết lập một đội ngũ cán bộ, chuyên gia về kinh tế, tài chính, kỹ thuật…để giám sát, quản lý và vận hành các hoạt động của dự án, các hạng mục công trình đầu tư.
Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ dự án cấp huyện,xã và các cán bộ chuyên môn địa phương để quản lý, sử dụng duy tu bảo dưỡng các công trình đã được đầu tư
Các chi phí cho quản lý dự án, chi phí văn phòng, phương tiện đi lại cho BQLDA tỉnh, BQLDA chuyên trách thực địa.
Quỹ cộng đồng
Quỹ cộng đồng được hình thành từ nhu cầu của cộng đồng dân cư, hộ gia đình. Tiền vốn được chuyển về tài khoản quỹ cộng đồng tại xã, do cộng đồng tự quản lý, xây dựng và hưởng lợi dưới sự giám sát của chính quyền địa phương. Các cấp chính quyền từ huyện, tỉnh có trách nhiệm hướng dẫn, tạo điều kiện cho cộng đồng tổ chức xây dựng và thực hiện có hiệu quả.
Kết quả thực hiện dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ
Trong 5 năm qua BQLDA giảm nghèo tỉnh Phú Thọ đã cùng cán bộ và nhân dân các huyện Thanh Sơn, Yên Lập, Đoan Hùng, Hạ Hòa, Cẩm Khê, Thanh Thủy và 40 xã đặc biệt khó khăn triển khai trên 340 hợp đồng cho mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Qua các lần giám sát của Ban quản lý Trung ương, WB, DFID, tất cả đều thống nhất đánh giá: Dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ đã thực hiện đúng kế hoạch, đảm bảo chất lượng và hiệu quả. Tính đến hết 31-12-2007 dự án giảm nghèo đã giải ngân được 16,464 triệu USD, đạt 98,58% mức vốn WB, cụ thể:
Đối với các hạng mục công trình xây lắp của dự án gồm có: Đường giao thông và chợ, xây dựng trường học, trạm tế và các công trình xây dựng khác.
Tổng cộng từ năm 2002 - 31/12/2007, hầu hết các hạng mục công trình xây lắp đều đã được triển khai và thực hiện đúng kế hoạch (285/295 hợp đồng).Tại 40 xã đặc biệt khó khăn, nơi nào ít cũng được đầu tư xây dựng 5-6 công trình về giao thông, thủy lợi, cấp nước chợ, trường học, trạm y tế. Đây là những xã ở vùng sâu, vùng xa điều kiện cơ sở hạ tầng, đời sống của người dân hết sức khó khăn. Sau khi được hưởng lợi từ dự án, điều kiện đi lại, việc học tập, khám chữa bệnh của người dân, môi trường sản xuất kinh doanh đã được cải thiện đáng kể. Tiêu biểu như vùng bắc Hạ Hòa, vùng Trung Sơn (Yên Lập), tây nam Thanh Sơn, Thanh Thuỷ... nhờ được đầu tư nhiều xã, nhiều vùng có đường ô tô từ xã nối liền đến thôn bản. Theo thống kê của BQLDA giảm nghèo, dự án đã làm mới và nâng cấp được 409 km đường, 6900 m2 chợ tại với 33 công trình, 368 công trình thủy lợi phục vụ tưới tiêu, làm mới và nâng cấp 311 phòng học (trong đó có 70 nhà trẻ, 109 lớp học cắm bản, 100 phòng học trường cấp một, 32 phòng học trường cấp hai) 36 trạm y tế…(Nguồn: BQLDA giảm nghèo tỉnh Phú Thọ). Khi các hạng mục công trình đi vào sử dụng đã mang lại tác động khả quan đến đời sống đồng bào các DTTS: Giao thông thuận lợi làm tăng sự giao lưu với cộng đồng của người DTTS, sự thuận tiện trong đi lại làm cũng làm thay đổi cách sống của người dân tộc… Theo lời của một trưởng thôn dân tộc Dao: “Bây giờ các dân tộc đều cho con em đi học như nhau cả thôi. Trẻ em không bỏ học nhiều như trước. Đường đi học cũng đỡ khó khăn hơn, ốm đau đều đến trạm xá, nếu không thì cũng có y tá thôn bản” (Nguồn: BQLDA giảm nghèo tỉnh Phú Thọ) từ đó cho thấy các công trình của dự án đã thực sự đem lại hiệu quả cho người dân địa phương. Bên cạnh đó, năng suất cây trồng tăng do hệ thống thủy lợi được cải thiện, trẻ em đến trường nhiều hơn, ốm đau bệnh tật giảm… Rõ ràng dự án đã đem lại cho người DTTS một sự thay đổi cơ bản về cơ sở hạ tầng và các dịch vụ thiết yếu như giáo dục, y tế.
Không những thế, đồng bào các DTTS được hưởng lợi từ các công trình xây dựng với tỷ lệ rất cao. Thấp nhất là trường học cũng có 84% số người hưởng lợi là DTTS, điều đó được thể hiện rất rõ qua bảng số liệu sau:
Bảng 1.2: Tỷ lệ hộ DTTS và hộ nghèo được hưởng lợi từ xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng dự án giảm nghèo tính đến 31/12/2007
STT
Các hạng mục công trình
Số xã hưởng lợi (xã)
Số người nghèo hưởng lợi
Số người DTTS hưởng lợi
Người
%
Người
%
1
Đường giao thông
40
143058
92.8
139135
90.1
2
Chợ
33
133542
95.4
116315
91.3
3
Trạm y tế
36
148325
93.7
118689
85.4
4
Trường học
40
75386
90.7
69817
84
5
Nước sạch
40
84373
98.6
77271
90.3
6
Thủy lợi
40
196892
91.7
182507
85
Nguồn: Báo cáo tổng hợp dự án giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc
Từ bảng trên cho thấy, tất cả các xã trong vùng dự án (40/40 xã) đều được hưởng lợi từ các công trình xây dựng của dự án. Chợ và trạm y tế có số xã được hưởng lợi ít nhất (có 33/40 xã và 36/40 xã được hưởng lợi), qua đó cho thấy mục tiêu “đảm bảo cho người dân nghèo trong vùng trong vùng dự án được sử dụng các công trình hạ tầng và các dịch vụ xã hội trên cơ sở phát triển bền vững” của dự án đã phần nào được thực hiện. Tiếp cận từ góc độ hộ nghèo được hưởng lợi từ dự án cho thấy các công trình có số hộ hưởng lợi là người nghèo, người DTTS rất cao, trong đó phải kể đến mô hình nước sạch có 98.6% số người nghèo được hưởng lợi, 90.3% số người DTTS được hưởng lợi, tiếp đến là đường giao thông và chợ, như vậy cho thấy dự án đã đầu tư theo đúng mục tiêu ban đầu (Đầu tư cho vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất), đây là kinh nghiệm cần phải phát huy trong các dự án xóa đói giảm nghèo tiếp theo của tỉnh.
Đối với công tác đào tạo cán bộ giáo dục và y tế, đào tạo tăng cường năng lực cho cán bộ thôn bản.
Tính đến 31/12 2007, các tiểu hợp phần đào tạo của dự án đã thực hiện được 106 lớp (khóa), trong đó do tỉnh tổ chức 72 lớp và phối hợp với BQLDA Trung ương tổ chức 34 lớp. Nội dung các lớp đào tạo phong phú, đề cập đến nhiều lĩnh vực, chủ đề khác nhau, phù hợp với từng đối tượng. Trong 72 lớp do tỉnh trực tiếp tổ chức 18 lớp đào tạo về y tế, 11 lớp đào tạo về giáo dục và 43 lớp đào tạo về các lĩnh vực khác (Nguồn: BQLDA giảm nghèo tỉnh Phú Thọ). Trong các khóa đào tạo, tỷ lệ học viên là nữ và người DTTS chiếm tỷ lệ khá lớn. Cụ thể, trong tiểu hợp phần giáo dục có 54% học viên là người DTTS, trong tiểu hợp phần y tế, số học viên là người DTTS chiếm 70.3% , có những lớp đào tạo có gần 100% só học viên tham gia là nữ như đào tạo giảng dậy mầm non 99,15% học viên là nữ, đào tạo hộ sinh có 98.6% là nữ (Phụ lục 1), điều đó cho thấy các tiểu hợp phần này đã tập thu hút được đông đảo sự tham gia của phụ nữ và người DTTS.
Chất lượng của các học viên được tăng lên rõ rệt sau các khóa đào tạo. Những kiến thức đào tạo đã được các học viên phát huy rất tốt trong việc giảng dạy và chăm sóc sức khỏe tại địa phương. Qua điều tra khảo sát của BQLDA cho thấy 91,7% học viên cho rằng những kiến thức đã học được áp dụng rất trong công tác của mình.
Bên cạnh đó, dự án cũng đã tiến hành xây dựng và biên soạn các tài liệu giảng dạy để tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ cơ sở cấp xã, thôn bản với các nội dung: Cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng, kế hoạch hóa ở các cấp, các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, quản lý nhà nước. Qua quá trình đào tạo, trình độ của cán bộ cơ sở được nâng lên, thể hiện qua các hoạt động của dự án ngày càng tốt hơn, từ đó đẩy nhanh tiến độ thực hiện của dự án.
Đối với các tiểu dự án thuộc hợp phần Ngân sách phát triển xã
Các loại hình tiểu dự án của hợp phần rất đa dạng tùy thuộc vào điều kiện của từng xã. Các tiểu dự án có quy mô nhỏ, từ 1 đến 20 triệu đồng. Lúc đầu Ban phát triển xã không quen thực hiện các nội dung xây dựng cơ bản, chưa chú ý triển khai, lại chưa thực hiện theo cơ chế vừa sử dụng vốn của dự án vừa huy động đóng góp một phần phía hưởng lợi nên khá lúng túng không giải ngân được.
Tuy nhiên sau 5 năm hợp phần đã thực hiện được 2807 tiểu dự án với tổng số vốn lên tới 43.071 tỷ đồng, giải ngân gần hết số vốn đầu tư của hợp phần với tỷ lệ giải ngân tính đên 31/12/2007 là 97.9% (Nguồn: BQLDA giảm nghèo tỉnh Phú Thọ). Các tiểu dự án đã góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn, đây là một trong những hợp phần được đánh giá là thành công nhất của Dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ.
Đối với các mô hình nông nghiệp thuộc hợp phần nông nghiệp và phát triển nông thôn
Dự án huy động hơn 22 tỷ đồng để triển khai xây dựng các mô hình ứng dụng nông nghiệp, chuyển giao kĩ thuật sản xuất, khuyến khích nông lâm, cung cấp giống cây trồng, vật nuôi cho các xã. Tính đến hết 31/12/2007, dự án giảm nghèo đã có 463 nhóm mô hình nông nghiệp đã được triển khai thực hiện với 9.082 hộ gia đình tham gia, trong đó có 9.051 hộ nghèo của 40 xã trong vùng dự án đã góp phần mang lại thu nhập cho người nghèo, giúp họ tiếp cân được với các giống cây trồng vật nuôi có năng suất cao, tiếp thu những kiến thức khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất. (Nguồn: BQLDA giảm nghèo tỉnh Phú Thọ)
Theo kết quả điều tra của BQLDA, trong 22 mô hình được triển khai thì có 8 mô hình có sự tham gia đông đảo nhất của các hộ gia đình trong vùng dự án, điều đó được thể hiện qua bảng 1.3:
Bảng 1.3: Các loại mô hình có nhiều hộ tham gia nhất
Đơn vị: %
STT
Tên mô hình
Thanh Sơn
Yên lập
Thanh Thủy
Đoan Hùng
Hạ Hòa
Cẩm Khê
1
Trồng lúa
12
41
2
32
22
19
2
Nuôi lơn nái
22
18
16
17
18
0
3
Nuôi trồng thủy sản
15
11
16
10
8
25
4
Nuôi lợn địa phương
8
13
26
6
12
30
5
Nông lâm kết hợp
22
5
0
0
16
0
6
Trồng đậu tương
11
0
3
0
6
0
7
Trồng ngô
7
0
0
6
0
0
8
Mô hình mới
0
0.53
15
14
0
0
Tổng
97
88
78
85
82
74
Nguồn: Dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ
Qua bảng trên có thể nhận thấy mô hình trồng lúa tại các huyện dự án có sự tham gia đông nhất của các hộ gia đình, điển hình là Yên Lập 41% và Đoan Hùng 32%, tiếp đến là các mô hình nuôi lợn nái, nuôi trồng thủy sản, nuôi lơn địa phương…Trong các huyện của vùng dự án thì Thanh Sơn có tỷ lệ hộ gia đình tham gia là nhiều nhất 78% (trong đó cao nhất là mô hình nuôi lợn nái và nông lâm kết hợp 22%). Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với điều kiện tự nhiên tại các huyện dự án. Những mô hình trên có tính phù hợp rất cao với những hộ dân nghèo, dễ thực hiện, nguồn giống sẵn có với những hộ dân nghèo và nhanh thu được sản phẩm, chính vì vậy những mô hình này luôn được quan tâm lựa chọn khi triển khai trong vùng dự án.
Bên cạnh đó, người nghèo có thêm thu nhập, được tiếp xúc với kinh tế thị trường qua việc giao lưu buôn bán các sản phẩm họ làm ra, nhờ đó góp phần xóa đói giảm nghèo cho chính gia đình của mình.
Đánh giá chung về dự án
Những thành tựu đạt được
Về mặt kinh tế
Dự án mang lại hiệu quả rất lớn về mặt kinh tế, góp phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất tinh thần cho người dân trong vùng dự án, đặc biệt là đồng bào các DTTS. Các hoạt động thông thương nhờ có kết cấu hạ tầng giao thông, chợ được duy tu và xây mới nên phát triển hơn rất nhiều, người dân tiết kiệm được chi phí đi lại, sự giao lưu buôn bán giữa các vùng được mở rộng, dự án đã đảm bảo cho người dân nghèo thuộc vùng dự án được sử dụng các công trình hạ tầng và các dịch vụ trên cơ sở phát triển bền vững. Theo lời nói của một cán bộ thuộc BQLDA đã đưa ra: “Phú Thọ có 40 xã tham gia dự án thì đã có 7 xã đã thoát nghèo đây là thành công lớn nhất của dự án. Do hưởng lợi từ ngày công, từ các công trình nên đời sống nhân dân được nâng cao, nguồn thu nhập được cải thiện” (Nguồn: BQLDA giảm nghèo tỉnh Phú Thọ), qua đó đã thấy được các tác dụng tích cực của dự án đối với cuộc sống của người dân, người DTTS.
Hoạt động nông nghiệp đạt năng suất cao hơn do có hệ thống thủy lợi được xây mới và kiên cố hóa, các mô hình chăn nuôi mang thành công đã được áp dụng mang lại lợi nhuận cao cho người dân.
Hoạt động lao động trả công góp phần làm cải thiện thu nhập cho người DTTS, nhiều hộ đã tự vươn lên thoát nghèo. Không chỉ trong phạm vi dự án mà các vùng lân cận cũng chịu tác động không nhỏ của dự án. Nhờ có giao thông được thuận tiện mà hàng hóa được lưu thông, buôn bán có điều kiện phát triển, đời sống của người dân được nâng lên.
3.1.2. Về mặt xã hội
Dự án đã góp phần nâng cao nhận thức cho người dân thông qua các hoạt động của mình, sự gắn kết trong cộng đồng qua dự án cũng được phát huy. Đây là yếu tố chủ chốt dẫn đến thành công của dự án. Việc nhóm người DTTS và nhóm người nghèo dễ bị tổn thương có cơ hội bằng nhau trong việc gia quyết định góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo, dân tộc.
Đây là một trong những dự án phát triển đầu tiên trao quyền thực sự làm chủ đầu tư cho các cấp cơ sở. Do đó đã phát huy tối đa sức mạnh của người dân trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, lòng tin của người dân ngày càng được củng cố.
Dự án giảm nghèo đã xây dựng hàng chục cơ sở y tế với các trang thiết bị cần thiết, đào tạo hàng ngàn lượt cán bộ y tế cấp cơ sở. Mạng lưới y tế được mở rộng, công tác khám chữa bệnh cho người dân ngày càng được cải thiện, người dân đến khám chữa bệnh tại các trạm y tế tăng lên, sức khỏe của người dân được cải thiện rõ rệt, góp phần tái tạo sức lao động và hạn chế bệnh tật. Hơn nữa thông qua các khóa đào tạo năng lực của các cán bộ y tế cơ sở được nâng lên, góp phần nâng cao nhận thức về sức khỏe cộng đồng thông qua công tác tuyên truyền cơ sở.
Hộp 1.1: Số liệu điều tra của BQLDA giảm nghèo tỉnh Phú Thọ
“60% số hộ cho rằng việc đến trạm y tế khám chữa bệnh tăng đã tăng lên trong thời gian qua; trong đó số người cho rằng việc đến trạm y tế tăng lên thì có 76,2% số người cho là nguyên nhân do trạm y tế được xây dựng tốt hơn, 37,5% cho là do nguyên nhân đường đến trạm y tế tốt hơn, 50% cho rằng nguyên nhân là do việc cấp phát thuốc và thái độ của nhân viên y tế tốt hơn.”
Nguồn: Dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ
Đối với công tác giáo dục, trong thời gian qua số lượng học sinh cũng như số trẻ em đến trường tăng nhanh, nhiều phòng học được nâng cấp và xây mới cải thiện môi trường học tập cho các em học sinh. Hàng ngàn trẻ em có cơ hội đến trường và học tập trong các lớp học khang trang, sạch sẽ. Bên cạnh đó dự án cũng đã góp phần nâng cao trình độ và kỹ năng giảng dạy cho giáo viên các cấp, từng bước hướng tới xây dựng xã hội học tập.
Dự án còn góp phần nâng cao nhận thức của người dân thông qua các hoạt động của dự án. Các nhóm DTTS và người nghèo có cơ hội ngang bằng nhau trong việc tham gia vào dự án đã góp phần xóa dần khoảng cách giàu nghèo, dân tộc, lòng tin của người dân ngày càng được củng cố, đây cũng là một trong những thành công quan trọng của dự án.
Những hạn chế còn tồn tại
3.2.1. Kết quả giảm nghèo chưa thật sự bền vững
Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn sinh sống của đồng bào các DTTS còn cao, tuy họ vừa thoát nghèo nhưng nguy cơ tái nghèo cao. Các hộ thoát nghèo còn nằm gần ranh giới của chuẩn nghèo, do vậy chỉ một chút điều chỉnh về chuẩn nghèo cũng có thể làm cho họ lại trở thành những hộ nghèo. Sự bấp bênh giữa ranh giới nghèo chứng tỏ sự bền vững trong công tác xóa đói giảm nghèo tại địa bàn sinh sống của người DTTS chưa thật sự cao.
3.2.2. Chất lượng đội ngũ cán bộ còn hạn chế
Chất lượng đội ngũ cán bộ đã qua đào tạo vẫn còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Các cán bộ cơ sở, nhất là các cán bộ thôn bản phần lớn có xuất phát điểm về dân trí thấp, thường mới chỉ học qua cấp I, đa số được bầu lên qua sự tín nhiệm của bà con trong thôn. Khi tham gia đào tạo, không tránh khỏi việc hạn chế trong tiếp thu các kiến thức. Đó cũng là một cản trở trong công tác xóa đói giảm nghèo của địa phương. Do còn hạn chế về năng lực nên các cán bộ thôn bản gặp nhiều khó khăn trong việc tham gia công tác quản lý các tiểu dự án được triển khai tại thôn bản của mình.
3.2.3. Công tác tuyên truyền vận động người dân tự đi lên thoát nghèo chưa được quan tâm đúng mức
Công tác tuyên truyền vận động người dân tự đi lên thoát nghèo chưa được quan tâm đúng mức. Các công trình truyền thanh, thu phát truyền hình, nhà văn hóa còn sơ sài, cán bộ làm công tác tuyên truyền vừa thiếu lại vừa yếu. Do đó việc đưa các thông tin, các chính sách đến tân người dân còn hạn chế, nhiều khi họ không biết mình đang có cách chính sách hỗ trợ gì, họ được hưởng những lợi ích gì. Ngoài ra, người dân nghèo vẫn còn có tư tưởng ỷ lại coi việc thực hiện dự án là việc của Nhà nước. Người dân chưa thực sự tự vươn lên thoát nghèo.
III. Sự cần thiết phải có sự tham gia của người DTTS trong dự án giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ
Công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ nói chung cũng như dự án giảm nghèo nói riêng đều cần có sự tham gia của người dân, người DTTS. Khi tham gia vào dự án, người DTTS sẽ thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong việc triển khai dự án ở địa phương.
1. Sự tham gia của người DTTS giúp việc lựa chọn mục tiêu cho dự án được chính xác, phù hợp với nguyện vọng của người DTTS
Người dân, đặc biệt là người DTTS là đối tượng hướng tới của dự án giảm nghèo, khi tham gia vào dự án, họ sẽ là những người cung cấp thông tin chính xác nhất về thực trạng nghèo đói cũng như nguyên nhân gây ra thực trạng đó. Khi đã biết được các nguyên nhân dẫn đến nghèo đói của địa phương, việc xác định các mục tiêu của dự án cũng trở nên chính xác và sát với thực tế cuộc sống của người DTTS.
Qua việc cung cấp thông tin, người dân cũng sẽ đề đạt tâm tư, những mong muốn, những nhu cầu cấp thiết của mình vào dự án. Chính vì vậy các mục tiêu của dự án sẽ phù hợp với mong muốn và nguyện vọng của người dân.
Ngoài ra có sự tham gia của người DTTS, đối tượng hưởng lợi chính của dự án còn đảm bảo được tính bền vững của dự án. Khi tham gia vào dự án, xác định dự án đầu tư thì họ biết được cái gì là cần thiết trước và nên được triển khai ưu tiên trong toàn bộ các hoạt động của dự án giảm nghèo. Điều đó có nghĩa toàn bộ dự án phải được xây dựng hoàn toàn xuất phát từ thực tiễn của địa phương, dựa trên những yêu cầu, nguyện vọng của người dân.
2. Huy động được tối đa nguồn lực tại chỗ, sự ủng hộ của đồng bào DTTS trong quá trình thực hiện dự án
Quá trình thực hiện dự án có thể huy động được lực lượng lao động nhàn rỗi của địa phương, vừa tạo việc làm cho người DTTS, lại tăng thêm thu nhập cho họ. Trước khi có dự án được triển khai tại các thôn bản, công việc chủ yếu của người DTTS là làm nông nghiệp, trồng trọt, đi rừng, trong những ngày nông nhàn, người DTTS thường không có việc làm. Khi các công trình được triển khai, người DTTS có thể tham gia vào quá trình xây dựng các cơ sở hạ tầng với phương châm xã có công trình, dân có việc làm. Ngoài ra dự án còn huy động nguồn vật tư tại chỗ (đối với các công trình cần vật liêu có thể có từ địa phương như gỗ, tre, đá hộc…) góp phần giảm chi phí vận chuyển cho dự án, tiết kiệm chi phí đồng thời nâng cao hiệu quả của dự án đầu tư.
Khi tham gia vào dự án, người DTTS đã trở thành một phần của dự án, lợi ích của người DTTS gắn liền với lợi ích của dự án, ngoài ra dự án được thực hiện với mục đích xóa đói giảm nghèo cho chính những người DTTS, do đó sự ủng hộ của người DTTS đối với dự án là điều tất nhiên. Nhờ có sự đồng tình ủng hộ của bà con giúp cho dự án triển khai thuận lợi và hiệu quả hơn.
3. Tính trách nhiệm và nghĩa vụ của người dân được nâng cao hơn, sự gắn bó đoàn kết trong cộng đồng tốt hơn
Khi tham gia vào chương trình dự án, người dân không chỉ là đối tượng thụ hưởng mà khi đó họ còn là chủ thể hoạt động, các dự án phát triển phục vụ trực tiếp cho lợi ích của mình. Do đó, tính trách nhiệm và nghĩa vụ của người dân được nâng cao, họ sẽ có trách nhiệm hơn với những công trình do chính bàn tay họ làm nên vì vậy các công trình sẽ được duy tu bảo dưỡng tốt hơn. Người dân không còn coi đó là các công trình của Nhà nước, việc duy tu bảo dưỡng là của nhà nước, không cần phải có trách nhiệm đối với các công trình, có thì sử dụng, không có thì thôi. Ngoài ra người dân còn có trách nhiệm trong việc giám sát các hoạt động quản lý của nhà nước, do có sự giám sát của người dân mà nạn tham nhũng, quan liêu, cửa quyền được đẩy lùi, gia tăng tính minh bạch của dự án.
Bên cạnh đó, sự tham gia của người dân còn làm cho sự gắn bó đoàn kết cộng đồng tốt hơn, người dân sống tốt hơn, hiểu nhau hơn, sống có ích hơn, đời sống cộng đồng lành mạnh, giảm bớt sự chia rẽ nội bộ, tăng cường đoàn kết nhất trí để xây dựng cộng đồng vững mạnh. Thực hiện được sự tương trợ cộng đồng hay giữa cộng đồng này với cộng đồng khác, tăng cường trao đổi thông tin trong cộng đồng để nắm bắt được các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
4. Sự tham gia làm nâng cao trình độ dân trí, tính chủ động và vị thế cho người DTTS.
Khi tham gia vào dự án, người dân sẽ hiểu được các vấn đề, nội dung và mục tiêu của dự án sau đó họ sẽ tự nghiên cứu, tìm hiểu xem họ nên làm cái gì, làm gì, phát huy sáng kiến giúp mình vượt qua đói nghèo. Điều đó sẽ làm cho các dự án xóa đói giảm nghèo có hiệu quả hơn vì nó sát với thực tế và phù hợp với chính người dân ở địa phương. Những thông tin thu thập được từ người dân chính là cơ sở cho việc xây dựng các chính sách để phát triển, xóa đói giảm nghèo.
Trong quá trình tìm hiểu học hỏi sẽ nâng cao sự hiểu biết cho người dân, họ biết phải làm sao để trồng lúa, trồng ngô cho năng suất cao, nuôi lơn, trâu sao cho nhanh lớn…Đồng thời tính chủ động của người DTTS được nâng cao hơn, họ không còn tư tưởng trông chờ ỷ lại vào sự hỗ trợ từ phía nhà nước mà phải tự mình vươn lên thoát nghèo.
Thông qua việc phân cấp trao quyền cho chính quyền cấp cơ sở năng lực của các cán bộ được nâng cao, tính sáng tạo và chủ động ngày càng nhiều, các tư tưởng ỷ lại trông chờ ngày càng giảm.
Bên cạnh đó, việc tham gia vào dự án còn tạo điều kiện cho người DTTS, những người không chỉ luôn thiếu thốn về kinh tế mà còn không có vị thế trong xã hội nói lên tiếng nói của mình. Người DTTS có thể phát huy quyền làm chủ thực sự của mình trong quá trình tham gia quyết định những vấn đề liên quan tới sự phát triển của họ cũng như cộng đồng của họ.
Nói chung sự tham gia của người dân, đặc biệt là người DTTS là hết sức cần thiết trong dự án giảm nghèo nói riêng là trong công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ nói chung. Chỉ khi có sự tham gia của người dân thì dự án mới thực sự có hiệu quả và phát huy được tác dụng của nó khi đi vào hoạt động. Vậy làm thế nào để huy động được sự tham gia của người DTTS vào dự án? để trả lời cho câu hỏi này trước hết cần phải xem thực tế sự tham gia của người DTTS như thế nào trong thời gian qua. Vì vậy chương II của chuyên đề sẽ đi sau vào phân tích sự tham gia của người DTTS trong dự án giảm nghèo của tỉnh và đưa ra các đánh giá chung về sự tham gia đó.
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ SỰ THAM GIA CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG DỰ ÁN GIẢM NGHÈO TỈNH PHÚ THỌ
I. Bức tranh chung về đồng bào DTTS và cơ sở pháp lý cho sự tham gia của người DTTS trong dự án giảm nghèo
Khái quát về đồng bào DTTS sinh sống trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Phú Thọ là một tỉnh trung du miền núi, cửa ngõ phía Tây Bắc của thủ đô Hà Nội, cách thủ đô 80km về phía Bắc, diện tích tự nhiên là 3.518,58 km2, chiếm 1,067% tổng diện tích tự nhiên cả nước. Tỉnh có địa hình phức tạp, toàn vùng núi có diện tích 3.327,54 km2, chiếm 79% diện tích tự nhiên toàn tỉnh; vùng trung du chiếm 14,35% diện tích; vùng đồng bằng chiếm 6,65% diện tích Về tổ chức hành chính, tỉnh có 11 huyện, 1 thành phố và 1 thị xã trực thuộc. Thành phố Việt Trì là trung tâm kinh tế-văn hóa-chính trị của tỉnh.
Trên địa bàn tỉnh có 20 dân tộc cùng sinh sống, đông nhất là dân tộc Kinh với số dân là 1.141.558 người, chiếm 84.91% dân số của tỉnh. Người DTTS là 202.800 người, chiếm 15.1% số dân toàn tỉnh. Trong số các DTTS thì dân tộc Mường chiếm đa số, có 183.414 người, chiếm 90.44% DTTS toàn tỉnh (Bảng 2.1)
Bảng 2.1: Tộc danh, dân số các DTTS trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
STT
Tên Dân tộc
Dân số (người)
%
1
Mường
183414
90.44
2
Tày
1533
0.76
3
Dao
12212
6.02
4
Nùng
204
0.10
5
Thái
238
0.12
6
H’mông
679
0.34
7
Kháng
3
0.00
8
Thổ
218
0.11
9
Vân Kiều
4
0.00
10
Cao Lan
3942
1.94
11
Pa Cô
15
0.01
12
La Chí
8
0.00
13
Ê Đê
21
0.01
14
Sê Đăng
15
0.01
15
Lô Lô
1
0.00
16
Sán Dìu
87
0.04
17
Hoa
184
0.09
18
Giáy
13
0.01
19
Khơ Me
9
0.00
Nguồn: Ban dân tộc-Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ
Các DTTS tỉnh Phú Thọ sinh sống chủ yếu trên địa bàn các huyện: Thanh Sơn (130995 người), Yên Lập (59180 người), Đoan Hùng (4765 người), Thanh Thủy (4922 người). (bảng 2.2).
Bảng 2.2: Sự phân bố của người DTTS theo các huyện của tỉnh Phú Thọ.
Huyện
Thanh Sơn
Yên Lập
Đoan hùng
Thanh Thủy
Hạ Hòa
Cẩm Khê
Người DTTS
(người)
130995
59180
4765
4922
409
533
% so với toàn huyện
68%
71.8%
4.5%
6.4%
0.36%
0.4%
Nguồn: Ban Dân tộc-Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ
Từ bảng trên cho thấy, sự phân bố của người DTTS trên địa bàn tỉnh Phú Thọ không đồng đều. Huyện Thanh Sơn và Yên lập có tỷ lệ người DTTS sinh sống cao nhất (68% và 12.8%), các huyện còn lại chỉ có một tỷ lệ nhỏ người DTTS sinh sống (Cẩm Khê có 0.4% dân số là người DTTS), điều này cũng hoàn toàn phù hợp với tập quán sinh sống của người DTTS. Thanh Sơn và Yên lập là 2 huyện vùng sâu vùng xa nhất của tỉnh, nên đây cũng là nơi sinh sống của đa số người DTTS.
Sự phân bố của các nhóm DTTS trên địa bàn tỉnh tùy thuộc vào phương thức sản xuất cũng như phong tục tập quán của họ. Người H’mông sống chủ yếu tại các vùng núi cao trong khi đó người Mường lại định cư ở những nơi thấp hơn, thường là chân các triền núi, gần với người Kinh. Người Mường có truyền thống làm ruộng từ lâu đời, lúa nước là cây lương thực chủ yếu, còn các dân tộc khác lại sống bằng nghề trồng trọt (trồng chè, ngô, lạc, lúa nương…). Người H’mông và người Dao sống tách biệt với các dân tộc khác, còn hầu hết đã có sự cư trú đan xen giữa các dân tộc và do trải qua quá trình sống cộng cư, các nhóm dân tộc có ít nhiều sự ảnh hưởng văn hóa lẫn nhau.
Các nhóm DTTS có đời sống kinh tế chậm phát triển hơn so với nhóm người Kinh và giữa các nhóm DTTS cũng có sự khác biệt trong trình độ phát triển. Các dân tộc có dân số đông hơn như người Mường, người Dao có trình độ phát triển kinh tế-xã hội, trình độ dân trí cao hơn so với các dân tộc khác.
Nói chung, trình độ dân trí của người DTTS thấp, thậm trí có những người chưa biết tiếng việt. Người dân tộc thường ít đi học, họ thường coi việc học hành là không cần thiết và làm mất thời gian cho các công việc khác (trẻ em ở nhà phụ làm nương hoặc đi rừng cùng cha mẹ), việc vận động người dân cho con em mình đi học gặp rất nhiều khó khăn, nhất là con em của dân tộc Mông (thường sống biệt lập với các dân tộc khác ở vùng núi cao). Do ít tiếp xúc với xã hội và thị thành nên một số tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan trong việc tang, việc cưới và các tệ nạn xã hội như: cúng ma, thách cưới bằng bạc, tảo hôn, nghiện hút, cờ bạc...vẫn còn tồn tại. Việc ăn ở của đồng bào DTTS còn mất vệ sinh, 100% gia đình dùng nước chưa sạch (nguồn nước sinh hoạt của đồng bào lấy từ 2 nguồn chính: đào giếng khơi và lấy nước trực tiếp từ các sông suối để sinh hoạt mà chưa qua xử lý), không có hố xí xây, trâu bò thường nhốt ở gầm nhà sàn…Do vậy sức khỏe của đồng bào không đảm bảo, bệnh tật phát sinh nhiều, đặc biệt là ở trẻ em và phụ nữ (bệnh phụ nữ chiếm tỷ lệ cao).
Địa bàn sinh sống của người DTTS tập chung ở các huyện miền núi vùng sâu, vùng xa của tỉnh, nên việc đi lại gặp rất nhiều khó khăn. Các công trình điện, đường, trường, trạm còn rất thiếu và tạm bợ, có những nơi chưa có điện lưới, khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội thấp, việc tiếp thu thông tin, sự giao lưu giữa các vùng miền còn hạn chế. Trừ người Mường sống gần người Kinh, còn các dân tộc khác thường ít có khả năng giao lưu với xã hội bên ngoài do sống cách biệt (nhất là người H’mông và người Dao, thường sống biệt lập với các dân tộc khác).
Thực trạng đói nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Tình hình đói nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số
Với những điều kiện về tự nhiên, xã hội như trên cho thấy đời sống của bà con DTTS trên địa bàn tỉnh còn gặp rất nhiều khó khăn. Theo thống kê, tỷ lệ nghèo đói chung của vùng dự án là 59.18%, riêng các DTTS luôn có tỷ lệ nghèo cao hơn lên đến 65,43%. Tỷ lệ nghèo đói giữa các nhóm dân tộc khác nhau là khác nhau. Các DTTS có xu hướng cư trú tại các vùng thấp, có dân số đông hơn như Mường, Tày thường có tỷ lệ nghèo ít hơn. Những nhóm định cư biệt lập như dân tộc H’mông lại có tỷ lệ nghèo cao hơn (hình 2.2).
Hình 2.2: Tỷ lệ hộ nghèo theo nhóm DTTS.
Nguồn: Dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ
Bên cạnh đó, tỷ lệ hộ của các DTTS còn phụ thuộc vào số người của dân tộc đó. Từ hình trên cho thấy Người Nùng, người Thổ có số dân ít hơn các dân tộc khác nhưng lại có tỷ lệ hộ nghèo rất cao (dân tộc Nùng có 204 người, tỷ lệ hộ nghèo lên tới 80.60%, dân tộc Thái có 238 người, tỷ lệ hộ nghèo 79.03%). Người Mường chiếm 90.44% sô DTTS nhưng lại có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất so với các dân tộc khác (41.80%), đây cũng là một đặc điểm của người DTTS trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nói riêng và cả nước nói chung. Các nhóm DTTS có dân số đông hơn, trình độ phát triển kinh tế xã hội cao hơn thì tỷ lệ hộ nghèo thường thấp hơn các dân tộc có dân số ít hơn.
Tài sản của người dân tộc không có gì, thiếu lương thực, quần áo, nhiều hộ gia đình đói đứt bữa, diện thiếu ăn từ 6-10 tháng/năm là phổ biến, chưa kể đói giáp hạt, đói do thất thu mùa vụ, thiên tai. Trẻ em ít được chăm sóc và học hành, diện học sinh từ lớp 9 trở đi đếm được trên đầu ngón tay. Thất nghiệp còn cao và rõ rệt, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan như thiếu đất đai, thiếu tư liệu sản xuất, trình độ người dân thấp…
Thu nhập của người DTTS thấp, từ 2,5-2,9 triệu đồng/năm, chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp và khai thác rừng, với trình độ tay nghề thấp, ít có khả năng tiếp cận các nguồn lực sản xuất, phương thức sản xuất còn lạc hậu, năng suất thấp, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, nguy ._. họp thôn thì dân tộc nào cũng đi như nhau thôi. Nhưng người Nùng, Hmông nhất là phụ nữ thì không phát biểu đâu. Họ chỉ nghe thôi...Đồng bào và cán bộ những dân tộc này ở đây học ít lắm, họ cũng có giám sát nhưng không biết nhiều đâu. Những người trẻ thì biết chứ người già trên 40 tuổi không biết nói tiềng phổ thông đâu”
Nguồn: BQLDA giảm nghèo tỉnh Phú Thọ
Nguyên nhân từ phía chính quyền cơ sở
Thứ nhất, trình độ văn hóa và năng lực của cán bộ thôn bản - nhất là các thôn bản vùng cao còn rất hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý của dự án. Mọi thông tin đều đi qua trưởng thôn nhưng nhiều khi trưởng thôn không nắm hết được, hầu hết trưởng thôn ở vùng cao mới có văn hóa (có thể chưa hết) cấp 1.
Thứ hai, chế độ đãi ngộ cho các cán bộ thôn bản còn nhiều bất cập. Phụ cấp dành cho trưởng thôn quá thấp “không đủ tiền mua dép đi báo mọi người đi họp” (mà thực tế việc báo đủ mọi người đi họp cũng đã rất khó khăn, có thôn muốn báo được phải đi mất cả ngày đường) trong khi đó công việc của trưởng thôn lại rất nhiều và vất vả nên không tránh khỏi việc chán nản, không đóng góp hết công sức cho công việc chung của cộng đồng. Có cán bộ xã khi được hỏi cho biết “ việc thì nhiều, mà anh em ở thôn trình độ có hạn, đi lại thì xa mà phụ cấp thì quá thấp, nên mình cũng phải nói nhẹ nhàng thôi, nói nặng họ bảo “mày đi mà làm””.
Thứ ba, các cán bộ cấp cao hơn thường có tâm lý đánh giá thấp năng lực của cán bộ cấp dưới. Với lý do năng lực của các cán bộ địa phương yếu nên thường không giao cho họ làm chủ các công trình, tiểu dự án có quy mô lớn. Chính vì vậy, họ không có cơ hội nâng cao học hỏi nâng cao nhận thức của mình. Và do không làm chủ đầu tư nên việc huy động sự tham gia của bà con cũng bị hạn chế. Người dân thường tin tưởng vào người của mình hơn là người ngoài, với tâm lý “sợ bị cai thầu lừa không được trả công”.
Thứ tư, các tổ chức đoàn thể trong thôn bản (hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh…)chưa thật sự phát huy được vai trò của mình trong việc vận động bà con tham gia vào dự án. Có những thôn các tổ chức đoàn thể hoạt động khó khăn hoặc hầu như không hoạt động. Lý do chủ yếu theo ý kiến của bà con là do năng lực cán bộ còn hạn chế (nhiều cán bộ đoàn thể không biết thạo tiếng phổ thông), cán bộ bận việc nhà (nhất là cán bộ hội phụ nữ)…Các đoàn thể ít tổ chức các hoạt động thiết thực để bà con tham gia.
Nguyên nhân khách quan
Địa bàn thực hiện dự án khó khăn phức tạp, phần lớn là các xã vùng sâu vùng xa, đi lại khó khăn. Có những thôn bản ở xa, phải đi bộ nửa ngày mới đến nơi, không có đường giao thông nên các phương tiện đi lại cũng không đến những nơi như vậy được. Chính vì thế việc tham gia vào dự án của đồng bào dân tộc nơi đây rất hạn chế (Nếu người dân tộc muốn tham gia một buổi họp về dự án ở trên xã, họ phải mất 2 đên 3 ngày để đi lại và họp hành), cũng như việc triển khai dự án tại các thôn bản này cũng gặp rất nhiều bất lợi. Ngoài ra do phong tục tập quán sinh sống của các dân tộc khác nhau là khác nhau, như người Mông thường sống ở những nơi cao và xa, tách biệt với các dân tộc khác, các DTTS thường không có sự giao lưu với xã hội bên ngoài (trừ người Mường) do vậy huy động sự tham gia của các dân tộc này là rất khó.
Trình độ phát triển không đồng đều giữa các DTTS trong vùng dự án. Những dân tộc sống ở vùng thấp, gần người Kinh như dân tộc Mường, dân tộc Tày lại có trình độ phát triển cao hơn dân tộc Mông, dân tộc Dao, do đó sự tham gia vào dự án cũng khác nhau. Người Mường thường tham gia nhiều nhất vào các hợp phần của dự án, các dân tộc khác cũng có tham gia nhưng sự tham gia còn hạn chế.
CHƯƠNG III:
BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ MỘT SỐ ĐIỀU KIỆN ĐỂ TĂNG CƯỜNG SỰ THAM GIA CỦA ĐỒNG BÀO DTTS TRONG CÔNG CUỘC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA TỈNH PHÚ THỌ
I. Bài học kinh nghiệm
Dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ đã góp phần đáng kể vào công cuộc xóa đói giảm nghèo của tỉnh. Qua quá trình nghiên cứu về sự tham gia của đồng bào DTTS trong dự án giảm nghèo, tôi đã rút ra một số bài học kinh nghiệm để tăng cường sự tham gia của người dân, đặc biệt là người DTTS trong các dự án giảm nghèo tiếp theo của tỉnh như sau:
Bài học thứ nhất: Sự tham gia của người dân, đặc biệt là của DTTS là cần thiết trong các hoạt động xóa đói giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ
Trong toàn bộ dự án giảm nghèo đều có sự tham gia của bà con dân tộc, tuy sự tham gia đó có khác nhau trong quá trình thực hiện nhưng cũng đã góp phần đáng kể vào thành công của dự án. Từ đó nhận thấy tầm quan trọng của việc huy động sự tham gia của người dân tộc vào các dự án xóa đói giảm nghèo.
Người DTTS cần được tham gia ở tất cả các khâu của dự án, từ lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát, duy tu bảo dưỡng. Sự tham gia đầy đủ vào các khâu của dự án đảm bảo cho tính hiệu quả, bền vững của dự án, và trên hết là các mục tiêu của dự án được đảm bảo, các nguồn lực được sử dụng một cách hiệu quả mang lại lợi ích cao nhất cho đối tượng hưởng lợi, cộng đồng hưởng lợi. Trước hết sự tham gia của người DTTS đảm bảo cho việc dự án đáp ứng đúng các nhu cầu bức thiết của người dân, các mục tiêu của dự án được sát với thực tế, bởi họ chính là đối tượng hướng tới của dự án. Sau đó là mục tiêu xóa đói giảm nghèo, nâng cao cuộc sống của người DTTS được thực hiện.
Có sự tham gia của người dân càng nhiều thì cơ hội thành công của dự án càng lớn, tính bền vững càng cao. Điều này cũng được thể hiện rõ trong quá trình thực hiện dự án giảm nghèo. Đối với các hợp phần có đông đảo sự tham gia của người dân như hợp phần NSPTX, hợp phần nông nghiệp và phát triển nông thôn luôn có được kết quả rất khả quan và được đánh giá là những hợp phần thành công nhất trong dự án. Tuy nhiên sự tham gia đó không chỉ dừng lại ở hình thức mà cần đảm bảo chất lượng. Có như vậy, tính bền vững của dự án có sự tham gia của người dân tộc cũng được nâng lên. Đây cũng là một bài học trong việc thực hiện các dự án tiếp theo của tỉnh.
Bài học thứ hai: Cần xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của người DTTS trong công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ
Người nghèo, người DTTS là chủ thể chính của các dự án xóa đói giảm nghèo, họ chính là đối tượng hướng tới đồng thời cũng là đối tượng hưởng lợi chính. Các dự án được xây dựng cũng nhằm mục đích cải thiện cuộc sống cho người dân. Xác rõ quyền lợi và trách nhiệm của người DTTS trong công tác xóa đói giảm nghèo sẽ là nền tảng để họ biết sự tham gia vừa đảm bảo mang lại quyền lợi đồng thời nâng cao trách nhiệm của họ đối với xã hội, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội. Khi người nghèo, người DTTS thấy được quyền lợi và trách nhiệm của mình trong các dự án, họ sẽ tham gia nhiệt tình, chất lượng của sự tham gia sẽ cao hơn.
Muốn vậy trước hết cần phải tôn trọng sự đóng góp của người dân, người DTTS, từ đó thúc đẩy sự tham gia của họ vào dự án. Ý kiến của người dân phải được quan tâm, được các cấp chính quyền lắng nghe và nghiên cứu. Khi họ nhận thấy rằng mình thực sự được lắng nghe, mình thực sự có vai trò trong các chương trình, dự án thì họ sẽ tích cực tham gia vào, đây là điều quan trọng để tăng cường sự tham gia của người dân vào các dự án giảm nghèo tiếp theo của tỉnh.
Bài học thứ ba: Cần tạo môi trường thuận lợi để người DTTS có cơ hội tham gia ngày càng nhiều vào các dự án xóa đói giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ
Dự án giảm nghèo của Tỉnh đã tạo môi trường thuận lợi để cho người dân tộc có thể tham gia vào. Người dân đã tham gia đóng góp ý kiến, lựa chọn các hạng mục công trình, tham gia xây dựng, bảo dưỡng sau khi công trình đi vào hoạt động. Họ cũng được tham gia đào tạo về giáo dục, y tế để phục vụ cho thôn bản của mình. Sự tham gia của người dân tộc - đối tượng hướng tới của dự án là rất quan trọng đối với thành công của dự án, điều này cũng đã được cũng đã được khẳng định trong suốt toàn bộ dự án.
Qua quá trình thực hiện dự án đã rút ra được các bài học về đảm bảo có môi trường thuận lợi để thu hút sự tham gia của người DTTS vào các dự án tiếp theo ngày càng nhiều.
Thứ nhất, phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của người dân để đề xuất, xây dựng các hạng mục công trình, các tiểu dự án cụ thể.
Thứ hai, cần phải thường xuyên tổ chức các cuộc họp để lấy ý kiến người dân. Các ý kiến của người dân được đưa ra qua các cuộc họp là chủ yếu, việc người dân đi tìm cán bộ để nêu ra ý kiến là rất hãn hữu (nếu không muốn nói là không có). Chính vì thế, họp dân phải được tiến hành thường xuyên, để các ý kiến đóng góp của người dân được phản ánh kịp thời trong quá trình thực hiện dự án.
Thứ ba, đưa các thông tin liên quan đến môi trường dự án vào thiết kế sự tham gia của người dân trong các tiểu dự án.
Thứ tư, sử dụng các “ hướng dẫn viên cộng đồng” là một cách làm mới trong quá trình thực hiện dự án. Vai trò của các “hướng dẫn viên cộng đồng” là cầu nối quan trọng giữa Trung ương, tỉnh, huyện và Ban phát triển xã. Sự giúp đỡ của các “hướng dẫn viên cộng đồng” là rất cần thiết trong quá trình thực hiện các tiểu dự án tại các thôn bản. Họ có trách nhiệm hướng dẫn, giúp đỡ cá cán bộ xã, cán bộ thôn bản từ khi xây dựng kế hoạch cho công trình, các tiểu dự án cho đến khi hoàn thành bàn giao đưa vào khai thác sử dụng. Chính vì thế trong các dự án tiếp theo cần phải có một đội “hướng dẫn viên cộng đồng” để đảm bảo cho các hoạt động của dự án được tiến hành thông suốt từ trên xuống dưới.
Thứ năm, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tích cực tham gia đóng góp ý kiến vào các chương trình xóa đói giảm nghèo của tỉnh. Ý kiến của họ sẽ giúp cho việc hoạch định các mục tiêu của dự án được sát và phù hợp với nguyện vọng của người dân.
Bài học thứ tư: Cần huy động đầy đủ các đối tượng tham gia vào công cuộc xóa đói giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ
Đối tượng tham gia vào các dự án giảm nghèo gồm có: Người nghèo, người DTTS – những người hưởng lợi trực tiếp từ dự án, chính quyền địa phương (UBND tỉnh, huyện, xã), các tổ chức đoàn thể (Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Mặt trận tổ quốc, Đoàn thanh niên…) và các cơ quan khác (truyền thông, giáo dục…). Dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ đã huy động các đối tượng tham gia vào dự án. Tuy nhiên mức độ tham gia là khác nhau đối với từng đối tượng, trong khi người dân tham gia nhiệt tình vào dự án thì các tổ chức đoàn thể lại chưa phát huy được vai trò của mình trong dự án…Chính vì vậy trong các dự án xóa đói giảm nghèo tiếp theo của tỉnh cần huy động đầy đủ các đối tượng tham gia vào dự án và cần phải đảm bảo sự tham gia đó là có hiệu quả và đủ mạnh trong việc làm nên thành công của các dự án. Các đối tượng khác nhau có những cách khác tham gia khác nhau:
Chính quyền là địa phương là cơ quan ra quyết định thực hiện các dự án, chịu trách nhiệm trong việc thiết lập, kiểm tra và thực hiện các chủ trương, chính sách thúc đẩy sự tham gia của người dân (Pháp lệnh dân chủ cơ sở).
Các tổ chức đoàn thể là các bên liên quan quan trọng trong việc thực hiện các hoạt động tuyên truyền và huy động sự tham gia của người dân thông qua các thành viên của mình.
Người dân là đối tượng hưởng lợi trực tiếp và cũng là đối tượng tham gia nhiều nhất vào các dự án xóa đói giảm nghèo. Khi thấy được lợi ích của dự án trong việc giúp bản thân họ thoát khỏi cảnh đói nghèo và quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong dự án, họ sẽ tham gia tích cực vào các dự án xóa đói giảm nghèo.
Bài học thứ năm: Tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ thật sự được tham gia vào các hoạt động xóa đói giảm nghèo
Trong dự án giảm nghèo nói riêng và các dự án khác của tỉnh nói chung, sự tham gia của phụ nữ còn rất hạn chế và mang tính hình thức. Vai trò của họ trong dự án chưa được quan tâm đúng mức. Sự mất cân bằng về giới trong quá trình tham gia vào dự án giảm nghèo có thể do hai nguyên nhân: Thứ nhất là phương pháp huy động sự tham gia của phụ nữ chưa phù hợp. Thứ hai là việc tổ chức huy động sự tham gia chưa hợp lý. Theo các đánh giá chung của BQLDA giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ thì phụ nữ lại có vai trò quan trọng nhất trong việc giảm nghèo của hộ gia đình, họ tham gia hiệu quả hơn và ít rui ro hơn nam giới. Chính vì vậy, đảm bảo vấn đề giới trong các dự án xóa đói giảm nghèo tiếp theo cần phải được chú ý, phải tạo điều kiện cho phụ nữ thật sự được tham gia vào các hoạt động xóa đói giảm nghèo.
Muốn vậy trước hết cần phải có phương pháp huy động phù hợp sự tham gia của phụ nữ, lúc này vai trò của Hội phụ nữ là cực kỳ quan trọng, đây chính là kênh huy động sự tham gia của phụ nữ một cách đơn giản và có hiệu quả nhất. Tiếp đến là cần phải tổ chức tốt công tác huy động sự tham gia của phụ nữ, có như vậy sự tham gia của phụ nữ mới thật sự có chất lượng và hiệu quả.
Bài học thứ sáu: Cần đảm bảo tính thống nhất trong thực hiện và lấy ý kiến người dân, người DTTS trong các dự án xoá đói giảm nghèo
Như trên đã phân tích, hình thức thông báo thông tin và lấy ý kiến của đồng bào dân tộc có hiệu quả nhất là qua các cuộc họp thôn. Việc dơ tay biểu quyết là cách thức lấy ý kiến phổ biến nhất trong các cuộc họp nhưng trong nhiều trường hợp, hình thức biểu quyết này lại không có hiệu quả do bị sức ép từ số đông, ảnh hưởng từ quan hệ họ hàng, làng xóm…Do vậy cần phải có một cách biểu quyết phù hợp để phắc phục những hạn chế của cách biểu quyết trên. Mọi quyết định của người dân nên được áp dụng theo nguyên tắc biểu quyết theo đa số tuyệt đối. Theo nguyên tắc này, một vấn đề chỉ được thông qua khi và chỉ khi nhận được sự nhất trí nhiều hơn mức đa số tương đối.
Để người dân thực sự phát huy được tiếng nói, thống nhất cách biểu quyết là vấn đề cần được quan tâm ở các địa phương. Nên đưa ra quy định thống nhất về việc biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu kín. Tuy nhiên để đảm bảo tính chính xác và trung thực của kết quả, ban kiểm phiếu phải có một thái độ nghiêm túc và nhận thức được tầm quan trọng trong công việc mình đang làm. Bên cạnh đó, Ban thanh tra do dân bầu ra phải thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình để giám sát hiệu quả bỏ phiếu.
Trên đây là một số bài học kinh nghiệm được rút ra từ những ưu nhược điểm trong quá trình thực hiện dự án giảm nghèo có sự tham gia của đồng bào DTTS. Các bài học này sẽ giúp khắc phục những yếu tố làm cản trở sự tham gia của người dân và cách thức tăng cường sự tham gia của họ trong các dự án xóa đói giảm nghèo tiếp theo của tỉnh Phú Thọ.
II- Các điều kiện để tăng cường sự tham gia của đồng bào DTTS trong công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ
Qua những phân tích về thực trạng sự tham gia của người DTTS trong dự án giảm nghèo, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế cùng với các bài học kinh nghiệm được rút ra từ sự tham gia của người DTTS trong dự án, đề tài đã đưa ra một số điều kiện để tăng cường sự tham gia của đồng bào DTTS trong công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ.
1. Trao quyền chủ động cho các cán bộ cấp cơ sở
Trao quyền giúp cho chính quyền cơ sở năng động và sáng tạo hơn, tự chịu trách nhiệm về những việc họ làm trước nhân dân và cộng đồng. Việc trao quyền chủ động cho cấp cơ sở giúp cho các dự án xoá đói giảm nghèo thực hiện có hiệu quả hơn.
Muốn vậy trước hết, các cán bộ cấp trên không nên làm thay công việc của cán bộ cấp dưới, không can thiệp vào công việc của cán bộ cấp dưới. Cán bộ cấp trên đóng vai trò chỉ đạo, hướng dẫn cho cán bộ cấp cơ sở thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Cán bộ cơ sở cũng cần phải chủ động tự tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của mình. Tiến hành phân cấp và trao quyền cho cán bộ cơ sở trong các dự án được triển khai tại địa phương (Quyền xác định yêu cầu, quyền xác định mục tiêu, quyền phân bổ nguồn lực đã có cho các mục tiêu, quyền tổ chức thực hiện, quyền giám sát kiểm tra, quyền quản lý vận hành và duy tu bảo dưỡng).
2. Nâng cao vai trò của các tổ chức đoàn thể, nhất là hội phụ nữ trong công tác xóa đói giảm nghèo
Trong các xã ngoài chính quyền địa phương có rất nhiều các tổ chức đoàn thể (Hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh, hội khuyến nông…) mà theo nguyên tắc là có tính độc lập với chính quyền. Mỗi hội có nhiệm vụ và đối tượng riêng của mình và có nhiệm vụ động viên các thành viên trong hội của mình tham gia vào các công việc do chính quyền đề ra. Ngoài ra họ còn có chức năng phản biện chính quyền. Từ đó cho thấy việc tham gia của các tổ chức đoàn thể là vô cùng quan trọng.
Các đoàn thể cần thường xuyên tổ chức các hoạt động thiết thực để thu hút sự tham gia của các thành viên (như thanh niên làm giàu, phụ nữ giúp nhau làm kinh tế…).
Tăng cường công tác đào tạo kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ thể. Mở các lớp đào tạo phù hợp với từng tổ chức. Cán bộ có năng lực thì việc thuyết phục thành viên trong tổ chức của mình cũng dễ dàng hơn.
Có chế độ khen thưởng kịp thời động viên sự tham gia tích cực của cán bộ trong công tác của tổ chức mình.
Có các chương trình, tiểu dự án phù hợp và giao cho hội làm chủ đầu tư để cuốn hút các thành viên trong hội tham gia.
3. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về cơ chế quản lý, điều hành giám sát cho cán bộ cơ sở
Đối tượng đào tạo bao gồm: các cán bộ lãnh đạo của Đảng, Chính quyền (HĐND, UBND), đoàn thể, các cán bộ chuyên môn nghiệp vụ cấp xã, trưởng thôn, trưởng bản, nội dung đào tạo phải phù hợp với từng đối tượng. Mở các lớp bồi dưỡng về kiến thức, kỹ năng quản lý điều hành xã hội tại thôn bản, các cách thức giải quyết các vấn đề hành chính trong cộng đồng, các kiến thức về giám sát đầu tư, lập kế hoạch…Phương pháp đào tạo có hiệu quả nhất là phương pháp giảng bài trong các lớp học tập chung, giáo viên sẽ giảng bài sau đó cho mọi người thảo luận với nhau để rút ra những kết luận thống nhất. Ngoài ra, việc đào tạo có thể tiến hành bằng cách cho cán bộ đi thăm quan học hỏi tại các xã, các thôn bản có công trình, dự án mà việc bố trí hoạt động, tổ chức thực hiện được tiến hành tốt để có thể rút kinh nghiệm áp dụng tại địa bàn của mình. Đối với cán bộ thôn bản thì việc đào tạo phải có giáo trình phù hợp với trình độ của họ.
Việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ cơ sở phải được tiến hành thường xuyên, trung bình mỗi năm 1lần.
Có chế độ phụ cấp phù hợp cho các cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo, nhất là các cán bộ thôn bản (trưởng thôn, trưởng bản) để khuyến khích sự đóng góp công sức của họ cho công việc chung của thôn bản. Ngoài chế độ phụ cấp theo quy định hiện hành của nhà nước, các huyện, xã nhất cũng cần phải có kinh phí hỗ trợ cho công việc của cán bộ thôn bản do tính chất công việc và địa bàn hoạt động của họ khó khăn hơn các cán bộ cơ sở khác. Nên chăng bổ xung thêm chế độ “phó thôn” để giúp đỡ công việc cho trưởng thôn, trưởng bản. Phó thôn là có thể là người trẻ tuổi hơn, có học vấn hơn, nhanh nhẹn hơn, có thể do dân bầu ra hoặc chỉ định. Phó thôn sẽ giúp trưởng thôn các công việc chuyên môn và cũng là để đào tạo cán bộ trẻ tại thôn bản của người dân tộc.
4. Tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cán bộ thôn bản
Thôn bản không phải là một cấp hành chính nhà nước nhưng là nơi giao tiếp giữa người dân và chính quyền, là nơi thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của người dân. Theo đợt khảo sát của BQLDA ở nơi sinh sống của đồng bào DTTS đã khẳng định vai trò cực kỳ quan trọng của cấp thôn bản trong việc đảm bảo sự tham gia của người dân và họp thôn gần như là kênh duy nhất để phổ biến và lấy ý kiến của dân trong mọi việc.
Trưởng thôn, trưởng bản không thuộc vào thiết chế chính thức của chính quyền nhưng đây là vị trí gần dân nhất, hiểu được từng gia đình và các mối quan hệ thân tộc cũng như mâu thuẫn trong thôn, bản. Họ chính là cầu nối giữa thôn bản và chính quyền. Tất cả mọi việc cấp xã triển khai đến dân đều qua trưởng thôn và người dân cũng qua trưởng thôn để nắm bắt các thông tin, đề đạt ý kiến. Sự tham gia của người dân tộc phụ thuộc nhiều vào sự nhiệt tình và năng lực của trưởng thôn, bản. Các cán bộ thôn bản là những người đóng vai trò quyết định trong công tác vận động quần chúng tham gia vào các chương trình, dự án.
Nhưng trên thực tế và qua dự án giảm nghèo cho thấy, hiện nay năng lực của các cán bộ thôn bản vẫn còn rất hạn chế, có những nơi (nhất là những bản vùng cao như bản của người Mông) trình độ văn hóa của cán bộ chưa qua cấp một. Chính vì vậy sự tham gia của người dân tộc vào dự án tại các thôn bản này bị hạn chế đi rất nhiều.
Từ đó cho thấy công tác đào tạo năng lực cho cán bộ thôn bản cần được thực hiện trước một bước. Dự án cũng cần phải dành một nguồn kinh phí hợp lý để tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ thôn bản, để họ có đủ năng lực khi đảm nhận các công việc quản lý trong dự án. (Đào tạo sơ cấp về kĩ thuật xây dựng, cách thức quản lý, kỹ năng về lập kế hoạch có sự tham gia của người dân…). Có chế độ phụ cấp họp lý và kịp thời để khuyến khích họ làm việc cho thôn bản. Việc đào tạo lặp lại cũng phải được tiến hành thường xuyên để đảm bảo tính bền vững của dự án.
Các dự án tiếp theo của tỉnh cũng cần tập chung vào việc đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ cấp thôn bản. Sử dụng phương pháp “lấy cộng đồng thuyết phục cộng đồng” là cách tốt nhất để huy động sự tham gia của người DTTS vào các dự án.
5. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, đầu tư thỏa đáng cho hệ thống thông tin tuyên truyền cấp cơ sở
Đào tạo các cán bộ tuyên truyền phục vụ công tác tuyên truyền tới đồng bào DTTS. Cán bộ tuyên truyền nên là người DTTS vì họ hiểu được các phong tục tập quán trong đời sống của người dân, đồng thời tâm lý cùng dân tộc sẽ làm cho người dân tin tưởng hơn. Các cán bộ tuyên truyền phải phát huy được vai trò nòng cốt của mình trong công việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tới người DTTS. Cần chú trọng việc tuyên truyền loại bỏ các phong tục tập quán lạc hậu trong đời sống của người DTTS cản trở sự phát triển của cộng đồng.
Đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật chất phục vụ công tác tuyên truyền như: hệ thống phát thanh, trụ sở để tiến hành các cuộc họp thôn. Chấm dứt tình trạng một số thôn không có địa điểm đủ rộng nên các cuộc họp chỉ mang tính chiếu lệ, không đảm bảo điều kiện để thực hiện quyền “dân biết, dân làm, dân kiểm tra”.
6. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sự tham gia của người dân vào các chương trình xóa đói giảm nghèo của tỉnh
Người dân tộc phải được tham gia ngay từ đầu vào việc xác định nhu cầu, đối tượng đầu tư, xây dựng, thực hiện, giám sát. Các nhóm DTTS ít người hơn phải được chú trọng tham gia gia tăng quyền tham gia đề xuất, thiết kế, giám sát các tiểu dự án phù hợp với đặc thù của họ.
Người DTTS phải được cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin cần thiết liên quan đến các dự án của tỉnh, được quyền khiếu nại và đề đạt nguyện vọng với chính quyền các cấp.
Phải có một đội ngũ cán bộ chuyên trách về DTTS khi triển khai dự án tại nơi sinh sống của người DTTS, họ phải được lựa chọn từ các nhóm DTTS để có thể am hiểu về văn hóa, phong tục tập quán của địa phương.
Động viên người dân tộc thiểu số tích cực tham gia vào công tác xóa đói giảm nghèo của địa phương. Để làm được điều này cần có các cán bộ chuyên trách bám sát các hộ DTTS, quan tâm gần gũi, chia sẻ những trở ngại tâm lý đối với người dân tộc;
Tăng cường sự tham gia của phụ nữ. Nên hình thành một quy định bắt buộc cho tỷ lệ nữ giới tham gia vào các dự án và coi đó như là một mục tiêu cần phải đạt được. Có những thiết kế, nguồn lực giành riêng cho phụ nữ để thu hút sự tham gia của phụ nữ trong các dự án có mục đích giảm nghèo.
7. Tăng cường các hoạt động đào tạo nâng cao dân trí cho người DTTS
Thất học và nghèo đói có mối quan hệ nhân quả. Việc thất học, mù chữ là nguyên nhân dẫn đến nghèo đói và ngược lại sự nghèo đói sẽ dẫn tới thất học, dân trí thấp. Mối quan hệ tác động qua lại này là cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói đeo đẳng từ ngàn đời nay đối với người DTTS. Bởi vậy chăm lo cho giáo dục, hướng dẫn người dân tộc cách làm ăn, xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, khuyến nông-lâm-ngư nghiệp, phát triển ngành nghề là rất quan trọng trong việc giúp đồng bào DTTS tự vươn lên thoát nghèo.
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác giáo dục văn hóa để cải thiện trình độ hiểu biết cho người dân. Phải mở rộng quy mô, đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tình nguyện tham gia giúp đỡ người dân tộc xóa mù chữ, ngăn ngừa tình trạng tái mù chữ. Chuẩn bị mọi điều kiện, cơ sở vật chất và sắp xếp đội ngũ giáo viên đảm bảo về số lượng, chất lượng, tập chung vào công tác huy động trẻ em trong độ tuổi đến trường là người DTTS.
Đa dạng hóa các loại hình dạy và học: phát triển và hoàn thiện các điều kiện phục vụ tại các điểm bán trú dân nuôi tại các trung tâm cụm xã, nâng cao chất lượng giáo dục tại các trường dân tộc nội trú, mở các lớp xóa mù chữ với sự tham gia học tập của những người DTTS.
Cần quan tâm đến các chính sách hỗ trợ sách giáo khoa, vở viết, dụng cụ học tập, miễn tất cả các khoản đóng góp đối với học sinh là con em người DTTS từ bậc tiểu học cho đến hết đại học.
Thứ hai, tăng cường các hoạt động hỗ trợ về kỹ thuật trong sản xuất cho người DTTS, hướng dẫn họ cách làm ăn sao cho có hiệu quả. Tổ chức các hộ đi thăm quan, trình diễn về các phương pháp canh tác mới. Có chương trình bồi dưỡng, tập huấn, hướng dẫn kinh nghiệm trồng trọt, chăn nuôi cho người dân tộc. Lựa chọn và cử đi đào tạo người dân trong thôn bản theo mùa vụ rồi chính những người này sẽ chỉ dẫn cho người dân thôn bản mình các cách thức làm ăn để có thể thoát nghèo.
8. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, đầu tư thỏa đáng cho hệ thống thông tin tuyên truyền cấp cơ sở
Đào tạo các cán bộ tuyên truyền phục vụ công tác tuyên truyền tới đồng bào DTTS. Cán bộ tuyên truyền nên là người DTTS vì họ hiểu được các phong tục tập quán trong đời sống của người dân, đồng thời tâm lý cùng dân tộc sẽ làm cho người dân tin tưởng hơn. Các cán bộ tuyên truyền phải phát huy được vai trò nòng cốt của mình trong công việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tới người DTTS. Cần chú trọng việc tuyên truyền loại bỏ các phong tục tập quán lạc hậu trong đời sống của người DTTS cản trở sự phát triển của cộng đồng.
Đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật chất phục vụ công tác tuyên truyền như: hệ thống phát thanh, trụ sở để tiến hành các cuộc họp thôn. Chấm dứt tình trạng một số thôn không có địa điểm đủ rộng nên các cuộc họp chỉ mang tính chiếu lệ, không đảm bảo điều kiện để thực hiện quyền “dân biết, dân làm, dân kiểm tra”.
KẾT LUẬN
Sự tham gia của người DTTS vào các dự án xoá đói giảm nghèo là rất cần thiết và cần được mở rộng và nâng cao. Sự tham gia của họ góp phần đem lại thành công cho các dự án giảm nghèo. Một mặt, nó góp phần đạt được các mục tiêu của dự án. Mặt khác, sự tham đó làm nâng cao nhận thức, trình độ dân trí cho người dân tộc, có thể huy động được nguồn lực tại chỗ, sự ủng hộ của người dân và làm tăng tính đoàn kết trong cộng đồng người DTTS. Nhận thức được điều này, dự án giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ đã tạo điều kiện cho người dân tộc tham gia vào tất cả các hợp phần của dự án, chính vì vậy đã khuyến khích được sự tham gia nhiệt tình của người dân.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, sự tham gia của người dân vẫn còn những hạn chế. Điều này được suất phát từ hai phía: người dân và lãnh đạo các cấp. Trong thờì gian tới , tỉnh cần phải có những biện pháp phát huy những mặt tích cực, khắc phục những mặt hạn chế để có thể tăng cuờng sự tham gia của người dân, đặc biệt là người DTTS trong công tác xoá đói giảm nghèo của mình, để có thể đạt được các mục tiêu giảm nghèo của tỉnh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Chương trình dự án phát triển Kinh tế xã hội, Nxb Thống kê Hà Nội.
TS Ngô Thắng Lợi, Th.s Vũ Cương (2007), Đổi mới công tác kế hoạch hoá trong tiến trình hội nhập, NXB Lao động – xã hội.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Sổ tay hướng dẫn lập KHPT KTXH hàng năm ở cấp xã.
Tổng quan về dự án “ Dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ”.
Báo cáo đánh giá tài chính với đoàn VICA của Dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ.
Báo cáo kết thúc dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ.
Báo cáo cuối cùng về giá trị đền bù và tái định cư của dự án giảm nghèo.
Các phụ lục báo cáo kết thúc dự án.
Tài liệu chuẩn của 15/20 xã thực hiện dự án giảm nghèo tỉnh Phú Thọ
Internet:
www.ubdt.gov.vn
www.beta.molisa.gov.vn
www.chiase.mpi.gov.vn
www.mpi.gov.vn
www.phutho.gov.vn
www.vietbao.vn
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: KẾT QUẢ VỀ ĐÀO TẠO GIÁO DỤC VÀ Y TẾ
Loại khóa học
Tổng số học viên tham gia
Học viên nam
Học viên nữ
Học viên người DTTS
Học viên
%
Học viên
%
Học viên
%
Giáo dục
543
83
15.3
460
84.7
293
54
1. ĐT giảng dạy mầm non
236
2
0.85
234
99.15
134
56.8
2. ĐT giảng dạy tiểu học
152
46
30.3
106
69.7
69
45.4
3. ĐT giảng dạy cấp cơ sở/nhiều cấp
155
35
22.3
120
77.7
90
58.1
Y tế
953
422
44.3
531
55.7
670
70.3
1. ĐT khóa ngắn hạn cho cán bộ y tế cấp thôn bản
360
154
42.7
206
57.3
242
67.2
2. ĐT hộ sinh, kỹ năng chăm sóc sản phụ ngắn ngày
71
1
1.4
70
98.6
51
71.8
3. ĐT cán bộ y tế thôn bản, nhận thức y tế cộng đồng
382
174
45.5
208
54.5
285
74.6
4. ĐT cán bộ trạm xá, bồi dưỡng tại chức
140
93
66.4
47
33.6
92
65.7
Nguồn: BQLDA giảm nghèo tỉnh Phú Thọ
Phụ lục 2: CÔNG CỤ SO SÁNH CẶP ĐÔI TRONG VIỆC HUY ĐỘNG SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN
Khái niệm
Đây là công cụ so sánh theo cặp vấn đề để xác định xem vấn đề nào cần được ưu tiên giải quyết. Công cụ này cho phép nhanh chóng xác định các ưu tiên hay các vấn đề chính của địa phương hay của một nhóm từng nhóm dân cư trong công đồng. đồng thời nó còn xác định được cả các tiêu chí phân loại và sẽ dễ dàng hơn khi so sánh các mức ưu tiên của các đối tượng khác nhau. So sánh cặp đôi là công cụ rất tốt cho việc lập ra các kế hoạch can thiệp vào cộng đồng.
Các bước tiến hành
Lựa chọn các vấn đề cần phân loại ưu tiên
Vẽ bảng phân loại so sánh.
Ghi lại các tiêu chí ưu tiên. Mức độ ưu tiên đối với từng vấn đề sẽ phản ánh qua số lần được lựa chọn trong bảng, lựa chọn xuất hiện càng nhiều thì điểm số càng cao. Trên cơ sở đó các vấn đề có điểm số cao nhất sẽ được xếp hạng ưu tiên.
Ví dụ về phương pháp so sánh cặp đôi được áp dụng tại xã Trung Sơn và xã Xuân Đài- Tỉnh Phú Thọ
Vấn đề
Đường
Chợ
Trạm y tế
Trường học
Nước sạch
Đường
x
Đường
Đường
Đường
Đường
Chợ
x
x
Chợ
Chợ
Chợ
Trạm y tế
x
x
x
Trạm y tế
Trạm y tế
Trường học
x
x
x
x
Trường học
Nước sạch
Cộng điểm
4
3
2
1
0
Xếp loại
1
2
3
4
5
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21872.doc