Sự tác động của chính sách xã hội đối với gia đình thương binh liệt sĩ trong thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay

Tài liệu Sự tác động của chính sách xã hội đối với gia đình thương binh liệt sĩ trong thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay: LỜI CẢM ƠN Trước tiên cho phép em bày tỏ lòng biết ơn đối với các thầy, cô giáo trong Khoa xã hội học đã tận tâm giảng dạy truyền thụ tri thức cũng như những phương pháp khoa học, những kỹ năng cần thiết cho học tập và nghiên cứu các vấn đề cơ bản của khoa học xã hội học. Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn đối với thầy giáo, Giảng viên chính Thạc sĩ Lê Văn Phú, người đã tận tình hướng dẫn chi tiết quá trình làm khóa luận chuyên ngành xã hội học này. Qua đây cũng xin được bày tỏ lời cảm ơn đố... Ebook Sự tác động của chính sách xã hội đối với gia đình thương binh liệt sĩ trong thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1595 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Sự tác động của chính sách xã hội đối với gia đình thương binh liệt sĩ trong thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i với sự giúp đỡ tận tình của các đồng chí lãnh đạo Đảng, chính quyền đoàn thể huyện Văn Quan và các xã Tú Xuyên, Tri Lễ, Hữu Lễ. Các đồng chí lãnh đạo cùng bà con nhân dân đã cảm thông đầy tình nghĩa, tạo mọi điều kiện cho người viết thu thập các thông tin số liệu để hoàn thành các bước cơ bản cho việc nghiên cứu xử lý số liệu và viết khóa luận. Vì hạn chế về trình độ cùng do thời gian có hạn nên khóa luận tốt nghiệp này, chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Người viết rất mong được sự hướng dẫn và giúp đỡ của Thầy cô giáo và các bạn quan tâm. Xin trân trọng cảm ơn! MỤC LỤC BẢNG CHÚ THÍCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN BCH : Ban chấp hành BCH TW : Ban chấp hành Trung ương CNCS : Chủ nghĩa cộng sản CNXH : Chủ nghĩa xã hội CSXH : Chính sách xã hội CHXHCNVN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ĐCSVN : Đảng Cộng sản Việt Nam TB - LS : Thương binh - Liệt sĩ NXBĐHQG : Nhà xuất bản Đại học Quốc gia NXB CTQG : Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia XHHCSXH : Xã hội học chính sách xã hội XHCN : Xã hội chủ nghĩa UBND : Uỷ ban nhân dân PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Dân tộc Việt Nam đã trải qua những năm tháng chiến tranh tàn khốc và ác liệt. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, giữ gìn độc lập tự do cho Tổ quốc. Hơn bốn mươi năm qua đi, chiến tranh đã để lại hậu quả nặng nề, hàng triệu người con hy sinh, hàng chục vạn người đã góp một phần xương máu của mình cho Tổ quốc non sông, khi trở về mang bao nhiêu thương tật của chiến tranh. Tất cả họ lại tất bật với cuộc sống đời thường, họ gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt, hạn chế trong lao động sản xuất. Khắc phục những hậu quả đó, đảm bảo cuộc sống cho gia đình thương binh liệt sỹ là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân cần phải chăm lo, điều đó cũng là một trong những nội dung góp phần to lớn cho mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mà Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đề ra. Với truyền thống “Thủy chung, nhân nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc gia đình thương binh, liệt sỹ, người có công với cách mạng từ lâu đã được quan tâm. Đặc biệt, ngay trong thời kỳ đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhiệm vụ này cũng đã được đặt lên hàng đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc lúc bấy giờ rất quan tâm tới công tác chăm sóc, gia đình thương binh, liệt sĩ. Trong thư gửi cụ Vũ Đình Tụng - Bộ trưởng Bộ thương binh (cũ) nhân ngày 27/7/1956, Bác viết “Thương bệnh binh, quân nhân và gia đình liệt sỹ những người có công với Tổ quốc, với nhân dân cho nên bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ”. Cho đến lúc trước khi qua đời, trong Di chúc Bác không quên nhắc nhở Đảng, Nhà nước và nhân dân ta: “đối với những người đã hy sinh một phần xương máu của mình vì độc lập tự do cho đất nước, Đảng, Chính phủ và đồng bào phải bằng mọi cách làm cho họ có đủ nơi ăn, chốn ở yên ổn”. Trong gần nửa thế kỷ qua, trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh, kế tục và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc Đảng, Nhà nước và nhân dân ta không ngừng phấn đấu thực hiện tốt vấn đề chăm sóc thương binh gia đình liệt sỹ. Tuy nhiên bên cạnh những cố gắng nỗ lực đáng ghi nhận đó, công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ vẫn còn không ít những vấn đề bất cập và bức xúc đặt ra cần phải giải quyết. Chúng ta đã biết, việc hoạch định ra được một chính sách xã hội đúng đắn đã khó. Nhưng để đưa chính sách xã hội đó vào cuộc sống, được cuộc sống chấp nhận và đạt được mục tiêu đề ra lại càng khó khăn hơn. Điều đó đòi hỏi phải có những nghiên cứu cụ thể, xem xét sự tác động của chính sách xã hội tới đối tượng của nó để có thể thấy sự bất cập của một chính sách khi đi vào cuộc sống tới đối tượng cụ thể để nhận thức rõ hơn những vấn đề tích cực cũng như hạn chế để giúp cho công tác “đền ơn đáp nghĩa” với các gia đình thương binh liệt sỹ và các đối tượng khác ngày càng tốt hơn, phù hợp hơn với điều kiện phát triển xã hội hiện nay. Chính vì thế, tôi đã chọn đề tài “Sự tác động của chính sách xã hội đối với gia đình thương binh liệt sĩ trong thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay” thông qua khảo sát xã hội học ở huyện Văn Quan tỉnh Lạng Sơn làm khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành xã hội học của mình. 2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 2.1. Ý nghĩa khoa học Để thực hiện hoàn chỉnh đề tài: “Sự tác động của chính sách xã hội đối với gia đình thương binh liệt sĩ trong thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay” chúng tôi đã vận dụng nhiều tri thức, phương pháp nghiên cứu xã hội để phân tích nhiều hiện tượng đang tồn tại và bức xúc hiện nay. Ngoài ra đề tài còn được triển khai trên cơ sở kiến thức chuyên ngành xã hội học chính sách xã hội, đồng thời để kiểm nghiệm những tri thức, lý thuyết khoa học đang vận dụng trong thực tiễn xã hội hiện nay. 2.2. Ý nghĩa thực tiễn Tìm hiểu sự tác động của chính sách xã hội đối với đời sống gia đình thương binh liệt sỹ, qua đó thấy được thực trạng đời sống gia đình thuộc diện chính sách, trên cơ sở khắc phục được những hạn chế, thiếu sót của chính sách xã hội, hướng tới mục tiêu là tạo cho đời sống của gia đình thương binh, liệt sỹ có được mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú. Đó là khâu quan trọng trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khắc phục được những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Từ đó giúp cho mỗi gia đình thương binh, liệt sỹ yên tâm xây dựng cuộc sống gia đình, quê hương, bỏ qua những mặc cảm đời thường, hòa nhập với xã hội để xây dựng đất nước tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu chính sách xã hội đã và đang tác động đến đời sống thương binh, gia đình liệt sỹ như thế nào, đồng thời đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm đề xuất với các nhà hoạch định chính sách, có những chính sách hữu hiệu để nâng cao hơn nữa đời sống gia đình thương binh, liệt sỹ. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Đi sâu vào tìm hiểu thực trạng đời sống vật chất và tinh thần của các gia đình thương binh liệt sỹ trước và sau khi chính sách xã hội ra đời đối với đối tượng này. - Xem xét việc thực thi chính sách xã hội của địa phương. - Sự tác động của chính sách đến với đối tượng, những mặt tích cực, hạn chế của chính sách và nguyện vọng của các đối tượng chính sách. - Từ thực tiễn ở địa bàn khảo sát đưa ra các giải pháp và kiến nghị để giúp cho những người làm công tác chính sách xã hội ở địa phương thấy được thực trạng để điều chỉnh, bổ sung và làm tốt hơn nữa công tác “đền ơn đáp nghĩa” ở địa phương mình. - Đề tài cũng nhằm giúp cho các nhà hoạch định chính sách xã hội có được cái nhìn đúng đắn hơn về đời sống của các gia đình thương binh liệt sĩ nói riêng và các đối tượng chính sách nói chung và sự bất cập của một chính sách xã hội khi đi vào đời sống thực tế. Từ đó họ hoạch định những chính sách phù hợp với từng đối tượng xã hội. 5. Đối tượng - khách thể - phạm vi nghiên cứu. 5.1. Đối tượng nghiên cứu: “Sự tác động của chính sách xã hội đối với gia đình thương binh liệt sĩ ở huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn”. 5.2. Khách thể nghiên cứu: Đề tài được triển khai nghiên cứu đối với các gia đình thương binh, liệt sỹ ở huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. 5.3. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian Nghiên cứu trên địa bàn toàn huyện Văn Quan, nhưng tập trung chủ yếu ở ba xã: Tú Xuyên, Tri Lễ, Hữu Lễ. - Phạm vi thời gian: nghiên cứu trong những năm gần đây chủ yếu là ba năm 2005, 2006 và 2007. Thời gian khảo sát hai tháng từ tháng 01 đến tháng 02 năm 2008. 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp luận Ở nước ta, đối tượng của chính sách xã hội bao gồm nhiều tầng lớp giai cấp và nhóm xã hội khác nhau. Bởi vậy, để có một phương pháp luận đúng, đề tài phải dựa trên một số quan điểm sau: + Nghiên cứu phải dựa trên quan điểm, lập trường của chủ nghĩa Mác-Lê nin, cụ thể là chủ nghĩa duy vật biện chứng, nghĩa là nghiên cứu chính sách xã hội tác động tới đời sống gia đình thương binh, liệt sỹ phải đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với các chính sách xã hội đối với các giai cấp, các tầng lớp các nhóm xã hội khác nhau. Đồng thời, nghiên cứu phải dựa trên quan điểm duy vật lịch sử, nghĩa là vấn đề nghiên cứu phải đặt ra được những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể. Quá trình nghiên cứu phải đảm bảo điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng giai đoạn. Mặt khác, trong quá trình nghiên cứu không thể bỏ qua đặc trưng tính chất cụ thể của từng vùng, từng địa phương. + Nghiên cứu phải giữ vững lập trường quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh, được cụ thể hóa bằng các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam trong các chính sách xã hội nói chung, chính sách với gia đình thương binh liệt sỹ nói riêng. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều nhằm mục đích phát triển kinh tế, ổn định xã hội, xét đến cùng là vì mục đích cao cả - phát triển nhân tố con người. + Nghiên cứu phải dựa trên lập trường của giai cấp công nhân, đó là lập trường cách mạng triệt để, là lập trường kiên quyết đấu tranh, lập trường cách mạng thể hiện được yêu cầu, nguyện vọng cơ bản của quần chúng nhân dân. + Mỗi chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều nhằm vào mục đích phát triển kinh tế ổn định xã hội. Xét đến cùng là vì mục đích cao cả là phát triển nhân tố con người. Thương binh liệt sĩ là những người vì mục đích cao cả của đất nước mà hy sinh tàn phế nên khi đi vào nghiên cứu CSXH về các đối tượng này chúng ta phải xác định trước hết vì nhân tố phát triển con người phát triển xã hội. 6.2. Phương pháp nghiên cứu xã hội học Để thực hiện tốt mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu xã hội học như sau: 6.2.1. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu: Trong nghiên cứu xã hội học người ta thường sử dụng phương pháp chọn mẫu. Nghiên cứu mẫu có nghĩa là thay việc nghiên cứu toàn bộ bằng nghiên cứu một bộ phận đại diện. Từ kết quả của bộ phận đại diện đó suy ra toàn bộ tổng thể của địa bàn nghiên cứu. Ở đây tuân thủ theo các quy trình nghiên cứu chọn mẫu chúng tôi đã chọn địa bàn khảo sát ở huyện Văn Quan với 3 xã Tú Xuyên, Tri Lễ và Hữu Lễ. Từ kết quả của 3 xã này cũng có thể suy ra là kết quả của cả huyện Văn Quan tỉnh Lạng Sơn hiện nay. 6.2.2. Phương pháp phân tích tài liệu Đây là phương pháp thu thập thông tin gián tiếp thông qua những nguồn tài liệu có sẵn. Ở đây chúng ta dựa vào các tài liệu viết về truyền thống “uống nước nhớ nguồn” ở huyện Văn Quan cũng như 3 xã Tú Xuyên, Tri Lễ, Hữu Lễ. Dựa vào các số liệu trong các báo cáo như các báo cáo kiểm điểm công tác của các Đại hội nhiệm kỳ của Đảng bộ huyện và các xã; báo cáo của UBND huyện và xã trong 3 năm gần đây và các báo cáo của ngành Lao động Thương binh Xã hội huyện và xã trong quá trình thực hiện chính sách xã hội đối với người có công, trong đó có gia đình Thương binh liệt sĩ. Thông qua phương pháp phân tích tài liệu tác giả cũng đã sử dụng các tri thức của các nhà nghiên cứu trước đây đã viết về lịch sử như lịch sử Đảng huyện Văn Quan cũng như lịch sử Đảng bộ các xã đã nghiên cứu để làm cho thông tin đầy đủ hơn. Đó là những tài liệu vô cùng quý giá mà tác giả đã thâu lượm chắt lọc và phân tích phục vụ cho đề tài. 6.2.3. Phương pháp trưng cầu ý kiến qua bảng hỏi Bảng hỏi gồm 12 câu. Đó là những câu hỏi đóng, câu hỏi mở và câu hỏi hỗn hợp được thực hiện đối với 90 đối tượng khác nhau ở 3 xã nghiên cứu. Dự định ban đầu là gửi phiếu cho từng gia đình rồi sau đó thu lại. Phiếu gửi đến đối tượng theo thống kê của huyện. Tuy nhiên, qua thí điểm thấy rằng phương pháp này thu được kết quả không cao. Từ đó, chúng tôi đã chuyển sang hướng phỏng vấn trực tiếp. Phương pháp này rất công phu, tốn nhiều thời gian và kinh phí, nhưng lại thu được kết quả phong phú và chính xác. Vì vậy bộ phiếu 12 câu hỏi đó đều được thực hiện đối với 90 đối tượng ở 3 xã Tú Xuyên, Tri Lễ và Hữu Lễ. 6.2.4. Phương pháp phỏng vấn sâu: Ở đây tác giả đã tiến hành 10 cuộc phỏng vấn sâu cá nhân đã làm rõ chi tiết hơn và phong phú hơn. 6.2.5. Phương pháp quan sát: Sử dụng phương pháp quan sát ở đây chủ yếu là xác định rõ sự biến đổi của gia đình thương binh liệt sĩ qua đời sống vật chất và tinh thần của họ. Tìm hiểu xem sự tác động của chính sách xã hội làm cho cuộc sống của các gia đình thương binh liệt sĩ có biến đổi không. Sự biến đổi ở đâu được đánh giá ở mức độ cao. Có thể nói những kết quả quan sát và xem xét được ghi chép rất tỉ mỉ và thống kê số liệu rất cụ thể, về có sự thẩm định đối chiếu rõ ràng. 6.2.6. Phương pháp PRA Để trì sử dụng phương pháp này thông qua sự đánh giá có sự tham gia các cán bộ đảng viên trong quá trình phỏng vấn điều tra. Phương pháp PRA cũng được tiến hành thông qua nhiều phương pháp cụ thể, song do hạn chế về nhân lực điều tra, ít thời gian và kinh phí lại có hạn cho nên tác giả chỉ sử dụng một phương pháp đó là sự thống kê số liệu và phân tích các số liệu đó. Những số liệu thống kê về đối tượng chính sách và quan điểm chỉ đạo của địa phương. Từ thực tiễn đó thấy được mối liên hệ và tác động qua lại giữa đối tượng chính sách và người thực hiện chính sách những ưu điểm và hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách đến với đối tượng trong nền kinh tế thị trường hiện nay. 7. Giả thuyết nghiên cứu Căn cứ vào quá trình khảo sát và nghiên cứu bước đầu ở huyện Văn Quan trong đề tài này chúng tôi đưa ra một số giả thuyết nghiên cứu như sau: - Giả thuyết 1: Đảng bộ và chính quyền huyện Văn Quan đã từng bước thực hiện kịp thời chính sách xã hội đối với các gia đình thương binh liệt sỹ. - Giả thuyết 2: Chính sách xã hội đã có sự tác động rất lớn đối với gia đình thương binh liệt sĩ ở Văn Quan. - Giả thuyết 3: Việc thực hiện chính sách đối với gia đình thương binh liệt sĩ vẫn còn nhiều bất cập, nhiều gia đình thương binh liệt sỹ còn gặp khó khăn trong cuộc sống nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay. 8. Khung lý thuyết Trong quá trình nghiên cứu khảo sát ở 3 xã Tú Xuyên, Tri Lễ, Hữu Lễ huyện Văn Quan về thực hiện chính sách xã hội và tác động của nó đối với gia đình thương binh liệt sĩ, chúng tôi đã khảo sát các điều kiện kinh tế chính trị xã hội. Từ đó tìm hiểu sự tác động của chính sách xã hội đối với các hộ gia đình và đặc biệt là đối với gia đình thương binh liệt sĩ. Một mặt chúng tôi xem xét các yếu tố khác như cơ cấu giai cấp, các loại hình hoạt động kinh tế, văn hóa, giáo dục, nhà ở, sức khỏe … Mối quan hệ qua lại cũng như tác động của chính sách xã hội đối với các loại hoạt động trong từng đối tượng. Căn cứ vào cơ sở lý luận và phương pháp luận cũng giả thuyết nghiên cứu và những điều giải trình trên xin đưa ra một cách khái quát khung lý thuyết nghiên cứu như sau: Điều kiện TK-CT-XH Chính sách xã hội đối với gia đình TB-LS Chính sách ưu đãi phụ cấp trợ cấp hàng tháng Chính sách ưu đãi nhà ở Chính sách ưu đãi chăm sóc sức khỏe Chính sách ưu đãi giáo dục Chính sách ưu đãi thuế đất nông nghiệp Chính sách ưu đãi khác Đời sống gia đình TB - LS 9. Khả năng đóng góp của khóa luận Xuất phát từ thực tiễn nghiên cứu “sự tác động của chính sách xã hội đối với các gia đình thương binh liệt sĩ ở huyện Văn Quan trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”; khóa luận sẽ đóng góp vào việc xác định rõ chính sách xã hội và vai trò của nó đối với các gia đình thương binh liệt sĩ. Khóa luận tìm hiểu truyền thống tốt đẹp của dân tộc qua các mối quan hệ giữa con người với con người, “lá lành đùm lá rách”, “uống nước nhớ nguồn” quan hệ “tương thân tương ái”, yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Qua đó góp phần hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng mất đoàn kết, mất dân chủ ở một số địa phương hiện nay. Nghiên cứu này cũng làm rõ mối liên hệ giữa các cư dân trong cộng đồng qua các thời kỳ, đặc biệt là trong cơ chế thị trường hiện nay thì việc thực hiện chính sách xã hội đối với gia đình thương binh và gia đình liệt sĩ cần phải làm thế nào để đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Ở đây khóa luận này sẽ đề cập đến một số hạn chế và bất cập nảy sinh khi thực hiện chính sách xã hội đối với gia đình thương binh liệt sĩ. Từ đó giúp các nhà lãnh đạo và nhà hoạch định chính sách sát thực hơn nhằm làm rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chúng ta ngày nay. Kết quả nghiên cứu sẽ đưa ra những gợi mở về các mô hình chính sách xã hội từ đó kiến nghị với cơ quan Đảng và Nhà nước phải có chính sách xã hội phù hợp với công cuộc đổi mới nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. 10. Bố cục của khóa luận Khóa luận gồm 2 phần: - Phần mở đầu: Những vấn đề chung Trong phần này đề cập đến 10 mục từ trang 4 đến trang 16 - Phần nội dung chính: Những nghiên cứu xã hội học thực nghiệm tại huyện Văn Quan tỉnh Lạng Sơn. Phần này có 2 chương: + Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài 1.3. Những khái niệm công cụ + Chương 2: Kết quả nghiên cứu thực nghiệm tại huyện Văn Quan tỉnh Lạng Sơn, những giải pháp và kiến nghị. 2.1. Một số nét khái quát về địa bàn nghiên cứu 2.2. Kết quả nghiên cứu chứng minh 3 giả thuyết 2.3. Những giải pháp và kiến nghị 2.3.1. Những giải pháp 2.3.2. Những kiến nghị Cuối cùng là tài liệu tham khảo và phụ trương khóa luận PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Khắc phục hậu quả chiến tranh nhằm nâng cao và ổn định hơn nữa đời sống của gia đình thương binh, liệt sĩ ngoài các chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước và công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ của toàn dân, trong năm gần đây luôn được các cấp, các ngành, các cơ quan đoàn thể quan tâm nghiên cứu, xem xét một cách chủ động. Nhằm nâng cao hơn nữa và ổn định cuộc sống gia đình thương binh, liệt sĩ và những người có công với cách mạng, nhiều công trình, nghiên cứu, và nhiều cuộc hội thảo của các cơ quan, tổ chức xã hội và cá nhân về nhóm đối tượng đặc thù này đã được thực hiện trong nhiều năm qua. Những phương tiện truyền thông đã giành những trang lớn để nói về vấn đề này, tiêu biểu như các cuốn sách “Bác Hồ với thương binh, liệt sĩ”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Năm mươi năm công tác thương binh liệt sĩ”… Tất cả các công trình nghiên cứu và hội thảo đó là cơ sở để hình thành nhiều luận cứ và giải pháp khoa học cho thực tiễn để nhằm cải thiện đời sống gia đình thương binh, liệt sĩ. Qua đó khẳng định truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc ta đối với những anh hùng đã hy sinh cho Tổ quốc, những thương binh đã bỏ lại một phần xương máu cho dân tộc. Bên cạnh đó còn có các nghiên cứu của các vùng, các địa phương khắp nơi trên cả nước hướng về ngày 27/7 - ngày thương binh liệt sĩ. Hàng năm cứ đến ngày 27/7 nhân dân trong cả nước lại long trọng tổ chức kỷ niệm ngày thương binh, liệt sĩ và coi đó là sự kiện quan trọng có ý nghĩa chính trị rất sâu sắc. Năm 2002 cả nước ta kỷ niệm 55 năm “ngày thương binh, liệt sĩ” theo tinh thần chỉ thị 08/CT/TW của Ban Bí thư “lấy năm 2002 là năm đẩy mạnh công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng”. Ngoài những cuốn sách, tạp chí có giá trị cao thể hiện tính nhân văn, nhân bản của dân tộc, còn có những cuộc triển lãm, những cuộc trưng bày của các tổ chức xã hội, các cá nhân về đề tài chiến tranh, đề tài thương binh, liệt sĩ. Qua đó chúng ta thấy rõ những hy sinh, những cống hiến to lớn và lòng biết ơn đối với các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh, đối với những chiến sĩ đã không tiếc xương máu vì sự tồn vong của tổ quốc, của dân tộc. Những cuộc nghiên cứu, triển lãm, trưng bày đó đã nêu lên tương đối hoàn chỉnh vấn đề thương binh, liệt sĩ. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu các chính sách xã hội, sự tác động của chính sách xã hội đối với đời sống gia đình thương binh, liệt sĩ từ góc độ xã hội học để tìm ra những bất cập, bức xúc của chính sách thì chưa nhiều và còn hạn chế về số lượng, chất lượng, cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi không có tham vọng gì lớn, mà chỉ muốn tìm hiểu, phân tích các chính sách xã hội đã và đang tác động đến đời sống gia đình thương binh, liệt sĩ, tìm ra những nhân tố bất cập, đưa ra những giải pháp, kiến nghị góp phần thực hiện mục tiêu chung là nâng cao đời sống đối tượng chính sách xã hội, đó là các gia đình thương binh liệt sĩ hiện nay. 1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài 1.2.1. Cơ sở lý luận Như đã nêu trong phần “Phương pháp luận” cơ sở lý luận và phương pháp luận của đề tài là lấy Chủ nghĩa Mác-Lê nin làm nền tảng cho nghiên cứu. Phân tích các vấn đề xã hội và chính sách xã hội phải dựa trên phương pháp biện chứng và lịch sử cụ thể. Ở đây khi tìm hiểu các vấn đề xã hội, chính sách xã hội phải đứng trên quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh để xem xét và phân tích. - Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế - xã hội. Đó là phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững. Tăng trưởng kinh tế đi liền với thực hiện tiến bộ công bằng xã hội. - Quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh ở đây là “Uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”. Quan điểm này đã quán triệt trong một quá trình khảo sát phân tích các vấn đề thực hiện chính sách xã hội ở địa phương. - Vận dụng phương pháp, tiếp cận hệ thống Cách tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu xã hội học sẽ đem lại cho nhà xã hội học một cách nhìn tổng thể những yếu tố cấu thành hệ thống và mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố trong hệ thống. Về phương pháp luận khoa học: Xu hướng phân chia sự vật thành các phần nhỏ để nghiên cứu làm cho nhà xã hội học dễ quên đi cái nhìn tổng thể. Do vậy, để nắm bắt và có được cái nhìn tổng thể đòi hỏi phải có một quá trình tổng hợp lại. Về mặt thực tiễn: Nếu tách từng mặt từng yếu tố của tổng thể sẽ gây ra tính phiến diện không mang lại kết quả cần thiết cho nghiên cứu. Chính vì thế phải có sự tác động vào tổng thể để xem xét sự phát triển toàn diện của vấn đề nghiên cứu. Phương pháp tiếp cận hệ thống trong đề tài này là xem xét sự tác động của chính sách xã hội đối với từng hộ gia đình thương binh liệt sĩ cũng như xem xét tổng thể các hộ thuộc diện chính sách ở phạm vi toàn xã hoặc toàn huyện. Mặt khác sự chi phối bởi các quan hệ dọc (từ tỉnh xuống huyện xã và thôn bản) nhưng đồng thời cũng bị chi phối bởi chiều ngang. Có nghĩa là chịu sự tác động của các quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng làng xã. 1.2.2. Căn cứ thực tiễn Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong hơn 20 năm qua với việc thực hiện chính sách xã hội đối với những người có công với đất nước với dân tộc là một thực tiễn rất lớn. Khi nền kinh tế nước ta từng bước phát triển, những mặt tích cực và tiêu cực trong xã hội cùng nảy sinh. Chúng ta đã thực hiện từng bước chính sách “đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”. Những kết quả của cơ quan Đảng, Nhà nước trong các lĩnh vực của ngành Lao động - Thương binh - Xã hội đã có sự tác động tích cực đến các đối tượng chính sách đặc biệt là gia đình thương binh liệt sĩ. Ngoài bài học về sự thành công và chưa thành công lại càng cần có những thao tác phân tích tìm ra những nguyên nhân, cơ chế của chúng thì mới có thể phát huy được mặt tích cực hoặc nêu ra được các giải pháp tích cực khắc phục những mặt không thành công trong vận dụng chính sách. 1.3. Những khái niệm công cụ 1.3.1. Khái niệm về sự tác động - Theo từ điểm Tiếng Việt của Văn Tân: Tác động là gây ra sự biến đổi nào đó làm cho sự vật hành động hướng tới. Sự biến đổi ở đây là biến so sánh với một tình trạng khác trước theo chiều hướng đi lên-chiều hướng tiến bộ (Fichter). 1.3.2. Khái niệm chính sách xã hội. Cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Chúng ta có thể tham khảo, nghiên cứu một số quan điểm của những nhà khoa học như sau: - Theo quan điểm của VZ.Rôgôvin (Nhà XHH Liên Xô cũ) “Với tính cách là một bộ môn khoa học, chính sách xã hội là một lĩnh vực tri thức xã hội học nghiên cứu hệ thống các quá trình xã hội, quyết định hoạt động sống của con người trong xã hội xét theo khả năng tác động quản lý đến các quá trình đó. Chính sách xã hội, có đầy đủ cơ sở để xem như một sự hòa quyện của khoa học và thực tiễn như là sự phân tích phức hợp, dự báo về các quan hệ, các quá trình xã hội và sự vận dụng thực tiễn những tri thức thu nhận được nhằm mục đích quản lý các quá trình và quan hệ ấy” VZ Rôgô: CSXH trong CNXH phát triển . Có thể nói quan điểm Rôgôvin nhấn mạnh: * Trước hết chính sách xã hội đó là một lĩnh vực tri thức XHH: - Nghiên cứu hệ thống các quá trình xã hội, mà trong xã hội quá trình đó diễn ra trên rất nhiều lĩnh vực: Kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội. - Nó quyết định hoạt động sống của con người trong các quá trình đó (xét theo khả năng tác động quản lý). * Chính sách xã hội là một sự hòa quyện giữa khoa học và thực tiễn. * Chính sách xã hội là một sự phân tích phức hợp. * Dự báo về các quan hệ các quá trình xã hội. * Sự vận dụng thực tiễn những tri thức thu nhận được nhằm quản lý các quá trình và quan hệ xã hội ấy. - Theo quan điểm của GS.Winkler (nguyên viện trưởng viện XHH Chính sách xây dựng CHDC Đức cũ). “Chính sách xã hội là sự tổng hợp các biện pháp và phương pháp của Đảng của giai cấp công nhân của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, của các Liên hiệp công đoàn của Đảng phái và các tổ chức chính trị khác nhằm tiếp tục các quan hệ xã hội … Phục vụ những nhu cầu lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, trí thức và những người lao động khác” Tạp chí xã hội học và chính sách xã hội số 2 - 1982 trang 1-21. (Anthony Giddens: Lý thuyết xã hội và xã hội học hiện đại. Nhà xuất bản Policy Press Cambridge 1987 trang 44 - 46) . Theo quan điểm của Winker thì: * Chính sách xã hội thực chất là tổng hợp những phương pháp, biện pháp. * Chính sách xã hội đề cập đến sự phát triển các quan hệ xã hội. * Với tư cách là những quan hệ giữa những giai cấp, tầng lớp và nhóm xã hội trong quá trình xích lại gần nhau. Quan hệ giữa các quá trình xã hội giữa quan hệ chung nhất với quan hệ đặc thù (quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội). Qua quá trình hoạt động các mối quan hệ xã hội diễn ra không cô lập với các mối quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị quan hệ văn hóa, v.v… Vì vậy chính sách xã hội và các chính sách khác nhau như chính sách kinh tế, chính sách văn hóa, chính sách dân tộc, v.v… cũng không tách rời nhau. - Theo quan điểm của Anthony Giddens (Giáo sư Trường Đại học Cambridge của Anh, hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế Luân Đôn đã nêu rõ: “Sự nghiên cứu có hiệu quả về Xã hôi học, Khoa học chính trị, Khoa học kinh tế được chờ đợi nhằm biến đổi sự hoạch định chính sách trong chính phủ và do đó dẫn đến sự tiến bộ xã hội và thịnh vượng kinh tế. Mối quan hệ giữa nghiên cứu và chính sách được xem như một công cụ một phương diện nhằm mục đích thực tế kiểm soát tổ chức xã hội và biến đổi xã hội một cách có hiệu quả”. * Có thể nói Giddens nhấn mạnh tầm quan trọng của chính sách xã hội. * Sự nghiên cứu có hiệu quả của các lĩnh vực khoa học như XHH, khoa học chính trị, khoa học kinh tế được chờ đợi nhằm biến đổi chính sách trong Chính phủ. * Sự biến đổi chính sách xã hội dẫn đến sự phát triển xã hội và thịnh vượng kinh tế * Mối quan hệ giữa nghiên cứu và chính sách như là một công cụ, một phương diện nhằm mục đích thực tế kiểm soát tổ chức xã hội và biến đổi xã hội có hiệu quả. Vậy chính sách xã hội là gì? - Có thể nói chính sách xã hội là tổng hợp các phương thức các biện pháp của Nhà nước, của Đảng phái và tổ chức chính trị khác nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, phù hợp với trình độ kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. - Chính sách xã hội đó là cụ thể hóa, thể chế hóa bằng pháp luật những đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước, của các tổ chức chính trị khác dựa trên những quan điểm tư tưởng của chủ thể của chính sách xã hội phù hợp với bản chất chế độ chính trị xã hội nhất định. * Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam Nghị quyết VI (12-1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ “Chính sách xã hội bao trùm lên mọi mặt đời sống của con người, điều kiện lao động sinh hoạt giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình quan hệ giai cấp quan hệ dân tộc. Coi nhẹ chính sách xã hội tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng ta đã nhấn mạnh “Phương hướng lớn của chính sách xã hội là phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng bình đẳng về quyền lợi nghĩa vụ công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội” (Văn kiện, Đại hội VII (6-1991) của Đảng Cộng sản Việt Nam). Những quan điểm trên chính là tư tưởng cơ bản, có tính chất quyết định đối với mọi chính sách xã hội được hoạch định trong thời gian trước mắt cũng như trong chiến lược lâu dài của Việt Nam. 1.3.3. Đảm bảo xã hội Khái niệm đảm bảo xã hội được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1941 trong Hiến chương Đại Tây Dương và ngay sau đó được tổ chức lao động quốc tế trong Công ước lao động quốc tế ngày 28/6/1952: “Bảo đảm xã hội được hiểu là sự bảo vệ mà xã hội dành cho các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng chống lại những suy sụp về kinh tế và xã hội do nhiều nguyên nhân như: Thu nhập bị sụt đi do ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động, thất nghiệp, mất khả năng lao động, tuổi già, trợ cấp gia đình đông con”. 1.3.4. Ưu đãi xã hội “Ưu đãi xã hội là sự phản ánh trách nhiệm của Nhà nước, cộng đồng và toàn xã hội, là sự đãi ngộ đặc biệt ưu tiên hơn mức bình thường về mọi mặt trong đời sống vật chất và tinh thần đối với những người có công lao đặc biệt với đất nước và đang gặp khó khăn trong cuộc sống”. 1.3.5. Đời sống xã hội “Đời sống bao gồm toàn bộ những điều kiện sinh hoạt của con người, của xã hội. Đời sống của con người được chia ra thành hai mảng đời sống vật chất và._. đời sống tinh thần”. - Đời sống vật chất là những gì thuộc về nhu cầu ăn, ở, mặc, đi lại, nói chung là nhu cầu về thể xác của con người. - Đời sống tinh thần là những hoạt động về đời sống nội tâm của con người, là những suy nghĩ ý thức tình cảm của con người. 1.3.6. Liệt sỹ và gia đình liệt sĩ - Liệt sĩ là người hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của nhân dân, được Nhà nước truy tặng bằng “Tổ quốc ghi công”. - Gia đình liệt sĩ gồm các thân nhân liệt sĩ, cha mẹ đẻ, người có công nuôi liệt sỹ vợ hoặc chồng của liệt sĩ, con của liệt sĩ và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy “ Giấy chứng nhận gia đình liệt sỹ”. 1.3.7. Thương binh và gia đình thương binh - Thương binh là quân nhân, công an nhân dân do chiến đấu, phục vụ trong kháng chiến bảo vệ tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế hoặc trong đấu tranh chống tội phạm, dũng cảm làm nhiệm vụ đặc biệt khó khăn nguy hiểm, vì lợi ích của Nhà nước và nhân dân mà bị thương, mất sức lao động từ 21% trở lên được tặng “Huy hiệu thương binh”. + Thương binh hạng 1: Là đối tượng được hội đồng giám định y khoa có thẩm quyền quyết định kết luận mất sức lao động từ 81% trở lên. + Thương binh hạng 2: Là đối tượng được hội đồng giám định y khoa có thẩm quyền quyết định kết luận mất sức lao động từ 61-80%. + Thương binh hạng 3: Là đối tượng được hội đồng giám định y khoa có thẩm quyền quyết định kết luận mất sức lao động từ 41-60%. + Thương binh hạng 4: Là đối tượng được hội đồng giám định y khoa có thẩm quyền quyết định kết luận mất sức lao động từ 21-40%. - Gia đình thương binh gồm những thân nhân của thương binh như: Cha, mẹ, chồng, con, người có công nuôi thương binh, anh chị ruột của thương binh. 1.3.8. Chính sách đối với gia đình thương binh liệt sĩ và Người có công Chính sách chăm sóc thương binh và gia đình liệt sĩ và Người có công là một vấn đề xã hội, thương binh, gia đình liệt sĩ và Người có công là những người đã hy sinh xương máu, trí lực cho nền độc lập tự do hòa bình và sự phát triển của đất nước, họ xứng đáng được hưởng những chế độ ưu đãi của Nhà nước về mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần khi đất nước đã bình yên ổn định. Đảng và Nhà nước đã có những chính sách cụ thể đem lại cho thương bình và gia đình liệt sĩ và Người có công yên ổn về vật chất vui vẻ về tinh thần và có cơ hội tham gia các hoạt động có ích cho xã hội. Với mục tiêu trước mắt của công tác chăm sóc này là: Đảm bảo cho Người có công với đất nước với cách mạng có đời sống vật chất tinh thần ổn định và mở rộng phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”. Pháp lệnh ưu đãi người có công tai Mục II, Điều 9 điểm 1 quy định: Gia đình liệt sĩ gồm những thân nhân của liệt sĩ: vợ hoặc chồng, con cha mẹ đẻ, Người có công nuôi liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận Gia đình liệt sĩ. Điểm 2, Điều 9 quy định gia đình liệt sĩ được hưởng các ưu đãi sau đây: a. Được giúp đỡ có việc làm, phát triển kinh tế gia đình, ổn định đời sống như: ưu tiên giao đất, vay vốn với lãi suất thấp để sản xuất, miễn giảm các loại thuế, nghĩa vụ công ích theo quyết định của pháp luật... b. Gia đình liệt sĩ được hưởng Tuất một lần trong những trường hợp gia đình liệt sĩ không còn thân nhân. 1.3.9. Khái niệm thu nhập Thu nhập là sự nhận được tiền bạc, của cải vật chất từ hoạt động nào đó của cá nhân, gia đình trong khoảng thời gian nhất định, thường là một tháng hay một năm. 1.3.10. Khái niệm nghèo “Nghèo là tình trạng của có một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thỏa mãn một phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng với mức sống tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện”. Viện Xã hội học trong công trình: “Khảo sát Xã hội học về sự phân tầng” đưa ra tiêu chuẩn đánh giá về sự giàu nghèo như sau: - Nhóm hộ nghèo có thu nhập dưới 75.000đ đến 150.000đ/người/tháng. - Nhóm trung bình thu nhập từ 150.000đ đến 300.000đ/người/tháng. - Nhóm khá giả từ 300.000đ đến 600.000đ/người/tháng. Chỉ tiêu này dùng cho cả nông thôn và đô thị. Đơn vị này người ta tính đo bằng số tiền chi phí cho tiêu dùng về việc ăn uống chứ không tính tiền xây nhà cửa và các phương tiện hoặc bất động sản. (trích theo PGS.TS Vũ Hào Quang trong Xã Hội Học. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004). 1.3.11. Khái niệm thị trường và nền kinh tế thị trường * Khái niệm thị trường: “Thị trường là biểu hiện của các mối quan hệ kinh tế của những người trao đổi sản phẩm dưới hình thức sản phẩm xã hội trong quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm: Sản xuất và lưu thông hàng hóa, như vậy thị trường là môi trường để phát triển sản xuất hướng vào mục đích trao đổi và mua bán” (Trần Hậu Kiêm: Quản lý Nhà nước. Nxb CTQG 2001-tr.29). Về mặt biểu hiện có một số loại thị trường đặc trưng là thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn… * Khái niệm kinh tế thị trường: Kinh tế thị trường là một hình thức tổ chức của nền kinh tế trong đó người tiêu dùng và người sản xuất tác động qua lại lẫn nhau thông qua thị trường nhằm xác định ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế là: sản xuất ra cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Trong nền kinh tế thị trường mọi hoạt động sản xuất và trao đổi đều diễn ra một cách khách quan và tự phát. Song, không có nghĩa là hoàn toàn lộn xộn, không theo một trình tự nào. Nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế của nó - đó là cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường nhằm điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa theo các quy luật khách quan như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ… Có thể nói chính cơ chế thị trường đã tạo nên môi trường thuận lợi cho các chủ thể năng động sáng tạo vươn lên. Ý thức làm giàu cho bản thân, gia đình và đóng góp cho xã hội đã được hình thành và đứng vững trong xã hội. Người lao động trong nền kinh tế thị trường được “cởi trói” nên họ thực sự dám nghĩ, dám làm, độc lập tự chủ trong mọi công việc, tự mình tìm kiếm các cơ hội, điều kiện để làm giàu. Định hướng giá trị của người dân cũng có những biến đổi trong nền kinh tế thị trường so với trước đây. Thực chất sự biến đổi này là sự sắp xếp lại vị trí thứ bậc giá trị vật chất tinh thần và đạo đức. Cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường còn kích thích hình thành các nhu cầu mới và hoạt động để thỏa mãn các nhu cầu đó. Tuy nhiên kinh tế thị trường cũng có những tác động tiêu cực, người ta gọi là “mặt trái” đối với đời sống xã hội như: tư tưởng cá nhân chủ nghĩa tư tưởng chạy theo giá trị vật chất, ít coi trọng đến giá trị đạo đức, suy thoái đạo đức lối sống, nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội, tâm trạng hoài nghi, mơ hồ hay ngộ nhận, đánh giá một cách thiếu khách quan đối với các sự kiện và các yếu tố tiêu cực. Đó chính là những mặt trái của cơ chế thị trường mà trong quá trình quản lý xã hội chúng ta không thể coi nhẹ. CHƯƠNG 2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM Ở HUYỆN VĂN QUAN TỈNH LẠNG SƠN, NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu Văn Quan là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Lạng Sơn. Trung tâm của huyện cách thành phố Lạng Sơn 45km, nằm ở tọa độ: 24044’ vĩ bắc, 106043’ kinh đông. Phía Bắc giáp huyện Văn Lãng, phía Nam giáp huyện Chi Lăng, phía Đông giáp huyện Cao Lộc, phía Tây giáp huyện Bình Gia và Bắc Sơn. Có địa hình đồi núi trùng điệp, hiểm trở, trải dài từ đông sang tây, gồm nhiều vùng đất, núi đá vôi, xen kẽ các thung lũng và cánh đồng bậc thang, có độ cao trung bình là 400m so với mặt biển. Với hệ thống sông Kỳ Cùng và sông Mô Pya chảy qua 8 xã trong huyện. Văn Quan thuộc khí hậu vùng núi á nhiệt đới trong năm thường chia thành 2 mùa rõ rệt. Đời sống kinh tế của huyện còn gặp nhiều khó khăn thu nhập bình quân đầu người gần 6 triệu đồng/năm. Văn Quan là huyện miền núi đất rừng đồi chiếm 80% diện tích tự nhiên do đó nguồn lợi thu được trong nền kinh tế chủ yếu là lâm nghiệp sản xuất, phát triển cây công nghiệp dài ngày và các loại cây ăn quả. Đặc biệt là cây hồi mang lại giá trị kinh tế cao vừa có giá trị xuất khẩu vừa có tác dụng cải thiện môi sinh. Huyện Văn Quan có 23 xã và một Thị trấn với số dân trong năm 2007 là 656.689 người, gồm 4 dân tộc cùng sinh sống: Tày - Nùng - Hoa - Kinh. Trong đó dân tộc Tày, Nùng chiếm 90% dân số toàn huyện. Tổng diện tích tự nhiên là 54.944 ha, trong đó: + Đất lâm nghiệp: 28.683,19ha + Đất nông nghiệp: 5.679,93ha + Đất chuyên dùng: 448,7ha + Đất khác: 19.743,09ha Cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông lâm chiếm: 53,33%; dịch vụ: 31,67%; công nghiệp xây dựng cơ bản: 15%. Do cơ cấu địa lý của huyện không đều, chủ yếu là rừng núi, đât nông nghiệp ít, phụ thuộc và thiên nhiên, do đó đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, số hộ đói nghèo năm 2007 là 2387 chiếm 21,31%. Về giao thông, toàn huyện có 45 tuyến đường liên xã và 2 quốc lộ chạy qua, quốc lộ 1B thị trấn - Đồng Đăng chạy qua huyện theo hướng Đông Tây qua huyện Bình Gia, Bắc Sơn đến Thái Nguyên. Quốc lộ 297 đi từ thị trấn Đồng Mỏ huyện Chi Lăng đến Văn Quan qua Na Sầm huyện Văn Lãng giáp Trung Quốc, do đó thuận tiện cho việc giao lưu hàng hóa với miền xuôi và các vùng kinh tế của tỉnh. Kết cấu hạ tầng trên địa bàn được củng cố, có thêm các công trình phúc lợi dân sinh: như giao thông nông thôn phát triển, đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi để phục vụ tưới tiêu do công trình 135 và dự án xóa đói giảm nghèo của Chính phủ đối với 9 xã đặc biệt khó khăn. Nhờ đó kinh tế của huyện đã có nhiều chuyển biến trong những năm qua. + Trên lĩnh vực nông nghiệp: Trong năm 2007 toàn huyện đạt đỉnh cao mới cả về năng suất sản lượng lương thực có hạt: 24.661,6 tấn, trong đó thóc là 15.786 tấn. Bình quân lương thực 433kg đầu người. Chăn nuôi ngày một tăng, số đàn gia súc, gia cầm đều phát triển chủ yếu là trâu bò, lợn, gà, cá lồng … + Dịch vụ: Đạt 31,67% tăng 1,13% so với năm 2001 góp phần tăng thu nhập cho một bộ phận dân cư trong huyện. + Giáo dục văn hóa: Trên địa bàn huyện có 2 trường phổ thông trung học, gần 50 trường tiểu học và trung học cơ sở, một trường mầm non và 104 lớp ở các xã, tỉ lệ đỗ tốt nghiệp 2006-2007 là 99,8% tốt nghiệp phổ thông trung học là 91%, đã phổ cập xong tiểu học là 24/24 xã; trung học 9/24 xã. Số xã có điện lưới quốc gia là 19/24 xã đến năm 2007 đã có 20/24 xã có điểm bưu điện văn hóa. Các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao ngày một được xây dựng và phát triển, số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa đạt 68,9% toàn huyện đã công nhận 15 làng văn hóa và 108 đơn vị cơ quan văn hóa. Hoạt động văn hóa hướng vào nội dung xây dựng làng văn hóa mới, bài trừ mê tín dị đoan, xóa bỏ các tập tục phong kiến lạc hậu, thu thập thông tin về khoa học kỹ thuật, vui chơi, giải trí… giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc, văn hóa truyền thống. + Công tác y tế - dân số: toàn huyện có 1 bệnh viện, 3 phân viện, 100% số xã có trạm xá, phục vụ khám, điều trị, chăm sóc sức khỏe nhân dân, tỉ lệ tăng dân số liên tục giảm nhanh từ 0,82% năm 2001 xuống còn 0,71% năm 2007, tỉ lệ các cặp vợ chồng sinh con thứ 3 trở lên giảm từ 19% năm 2001 xuống còn 15,6% năm 2007. + Về chính trị xã hội: nhân dân các dân tộc trong huyện tin tưởng vào đường lối của Đảng và Nhà nước, gắn bó chặt chẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Với nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện Văn Quan lần thứ 19 tiếp tục định hướng đường lối cho công cuộc đổi mới đất nước thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội do Đảng và Bác Hồ lựa chọn. + Về an ninh quốc phòng: Thực hiện tốt chính sách dân tộc, chính sách phát triển kinh tế xã hội trong nhiều năm qua và nhất là chính sách chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ đã góp phần rất lớn vào việc tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc “chống diễn biến hòa bình” giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Văn Quan. Những đặc điểm kinh tế xã hội của huyện đã tác động đến việc thực hiện chính sách xã hội đối với gia đình thương binh, liệt sỹ của huyện. Vấn đề này luôn được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng và ngành lao động thương binh - xã hội, sự quan tâm tạo điều kiện của các cấp chính quyền, các ban ngành, đoàn thể toàn huyện. 2.2. Những nghiên cứu thực nghiệm kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu. 2.2.1. Đảng bộ và chính quyền Huyện Văn Quan đã từng bước thực hiện kịp thời chính sách xã hội đối với các gia đình thương binh liệt sỹ. Chính sách xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt cả vật chất lẫn tinh thần của Nhà nước, của xã hội nhằm đền đáp công lao của những người hay một bộ phận xã hội có nhiều cống hiến cho xã hội. Chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công với nước là một bộ phận cấu thành của chính sách xã hội. Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng toàn dân ta đã quan tâm đến chính sách đối với gia đình thương binh liệt sỹ. Để thực thi các chính sách ưu đãi này, trong thời gian qua, Nhà nước ta đã xây dựng nhiều trung tâm phục hồi chức năng, mở rộng các trại điều dưỡng, an dưỡng ở trung ương cũng như địa phương nhằm phục hồi sức khỏe cho thương binh. Các địa phương đều xây dựng các cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất tạo công ăn việc làm cho con em thương binh, bệnh binh và con em liệt sĩ. Gần đây, với việc ban hành pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và “pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng”, một lần nữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã thực hiện lòng biết ơn sâu sắc của mình với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng. Suốt nửa thế kỷ qua, tiếp nối truyền thống nhân ái của dân tộc, nhiều phong trào của các địa phương, các tổ chức xã hội, các cá nhân đã làm cho công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ trở thành công việc thường xuyên của xã hội. Tuy vậy với yêu cầu to lớn của công việc này, chúng ta còn phải cố gắng nhiều hơn nữa, phải tiếp tục hoàn thiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công phải tổ chức thực hiện mọi ngành, mọi cấp. 2.2.1.1. Khái quát về tình hình gia đình thương binh liệt sĩ ở huyện Văn Quan Với truyền thống quật cường của dân tộc, một đất nước yêu chuộng hòa bình, nhân dân Việt Nam đã chiến đấu và chiến thắng hai kẻ thù là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành được độc lập tự do cho dân tộc. Chiến tranh đi qua, để lại một hậu quả tàn khốc, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc đã anh dũng hy sinh, hàng chục vạn người đã để lại chiến trường một phần xương máu. Hòa chung với khí thế quật cường của dân tộc, nhân dân huyện Văn Quan đã góp sức cùng đồng bào cả nước đứng lên đấu tranh chiến thắng kẻ thù. Trong số những người con ra đi vì Tổ quốc, đã có hàng ngàn người nằm lại ở chiến trường. Trong tổng số 11.186 hộ gia đình của toàn huyện thì số hộ chính sách đã lên tới con số 732 chiếm 6,54% tổng số dân trong địa bàn. Trong số những hộ chính sách đó có 662 hộ gia đình thương binh, liệt sĩ chiếm 5,92% hộ gia đình trong toàn huyện. Để hiểu thêm cơ cấu hộ gia đình thương binh, liệt sĩ trong cơ cấu hộ gia đình chính sách ta có thể phân tích qua biểu đồ sau: Biểu đồ: Cơ cấu gia đình thương binh, liệt sĩ trong cơ cấu hộ gia đình thuộc diện chính sách (toàn huyện Văn Quan) (Nguồn: Số liệu khảo sát tại UBND huyện Văn Quan) Qua biểu đồ trên ta thấy, số hộ gia đình liệt sĩ gồm 552 hộ chiếm 75,4% tổng số hộ thuộc diện chính sách ưu đãi của toàn huyện. Cùng với hộ gia đình liệt sĩ có: 110 hộ gia đình thương binh, chiếm 15,02%. Đây là những hộ gia đình đang từng ngày, từng giờ vật lộn với cuộc sống đầy khó khăn. Ngoài ra, còn có 70 hộ gia đình chính sách khác, chiếm 9,56% như hộ gia đình hoạt động trước cách mạng tháng tám năm 1945, hộ gia đình có công với cách mạng, bà mẹ Việt Nam anh hùng, … Ngày nay, chúng ta-những người đang hưởng thành quả của cách mạng phải có trách nhiệm hỗ trợ, giúp đỡ những gia đình thiếu hụt đi lên hòa nhập với cuộc sống đời thường. Những hộ gia đình đó là những hộ gia đình chịu nhiều thiệt thòi và mất mát. 2.2.1.2. Chính sách ưu đãi xã hội đối với đời sống gia đình thương binh liệt sĩ ở Văn Quan. 2.2.1.2.1. Chính sách ưu đãi xã hội đối với đời sống gia đình liệt sĩ (1) Vài nét về cơ cấu liệt sĩ và gia đình liệt sĩ: Chiến tranh chấm dứt, hòa bình lập lại, đất nước thống nhất nhưng những tổn thương chiến tranh không thể hàn gắn một sớm một chiều. Không có sự mất mát nào to lớn hơn sự mất mát hy sinh về con người. Trải qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cùng chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, huyện Văn Quan có 564 liệt sĩ hi sinh trong các thời kỳ để minh chứng cho sự mất mát này, chúng ta xem xét bảng số liệu cơ cấu liệt sĩ qua các thời kỳ. Bảng 1: Cơ cấu liệt sĩ qua các thời kỳ STT Đối tượng Thời kỳ Số liệu Tỷ lệ % Ghi chú 1 Liệt sĩ chống Pháp 51 9,05 2 Liệt sĩ chống Mỹ 410 72,67 3 Liệt sĩ chiến tranh biên giới 103 18,28 Tổng 564 100 (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2007 của Phòng Nội vụ-LĐ-TB&XH huyện Văn Quan) Qua bảng số liệu trên ta thấy toàn huyện có 564 liệt sĩ, chiếm 0.99% dân số toàn huyện. Trong đó có 51 liệt sĩ hy sinh trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp chiếm 9,05% tổng liệt sĩ của toàn huyện. Thân nhân của liệt sĩ trong thời kỳ chống Pháp giờ đây tuổi đã già yếu, con của liệt sĩ giờ đã trưởng thành và là lực lượng lao động đông đảo của đất nước. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước phải luôn quan tâm tới nhóm thân nhân này. Trong hơn 20 năm chống Mỹ, Văn Quan có 410 liệt sĩ, chiếm 72,6% số liệt sĩ của toàn huyện. Khi chiến tranh chấm dứt, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, toàn huyện có 103 người con hy sinh, chiếm 18,28%. Số liệt sỹ này mới hy sinh trong những năm gần đây, những thân nhân của liệt sỹ còn rất trẻ, họ là những người đang trong độ tuổi lao động, con cái của họ đang trong độ tuổi đi học, do đó Đảng và Nhà nước phải có những chính sách ưu đãi làm cho họ tin tưởng vào sự nghiệp chung của đất nước. Khi xem xét về tình hình thương binh và liệt sỹ ở huyện Văn Quan ta thấy rõ cơ cấu gia đình liệt sỹ thể hiện như sau: Bảng 2: Cơ cấu phân loại gia đình liệt sỹ. STT Địa bàn Loại gia đình liệt sỹ Số liệt sĩ Tỷ lệ % Ghi chú 1 Gia đình có 01 con là liệt sỹ 540 97,82 2 Gia đình có 02 con là liệt sỹ 12 2,18 Tổng 552 100 (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2007 của PhòngNội vụ-LĐ-TB&XH huyện Văn Quan) Qua bảng số liệu trên, tổng số hộ gia đình liệt sỹ trong huyện là 522. Trong đó hộ gia đình có 01 con là liệt sỹ chiếm 97,82%, gia đình có 02 con là liệt sỹ chiếm 2,18%. Thông qua cơ cấu liệt sỹ qua các thời kỳ và cơ cấu phân loại liệt sỹ, chúng ta phần nào bù đắp được những thiệt hại và mất mát của gia đình liệt sỹ. (2) Trợ cấp tuất của thân nhân liệt sỹ Thương binh, liệt sỹ là những người vì sự nghiệp chung của Tổ quốc hy sinh gia đình và bản thân mình nên Đảng và Nhà nước cùng toàn thể nhân dân có trách nhiệm và bổn phận bù đắp thiệt thòi cho họ, để họ có cuộc sống yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh thần, có mức sống ngang bằng với mức sống trung bình của người dân nơi cư trú. Hàng tháng, thân nhân liệt sỹ được hưởng mức trợ cấp nhất định để đảm bảo cuộc sống gia đình. Nghị định 32/2007/NĐ-CP ngày 02/3/2007 qui định với bản thân liệt sỹ, khi hy sinh được trợ cấp tiền mai táng phí và một khoản tiền khác trong tổ chức tang lễ. Cụ thể: gia đình liệt sỹ được hưởng tiền trợ cấp tuất một lần 3.000.000đ/người. Đối với thân nhân liệt sỹ như bố, mẹ đẻ (kể cả người có công nuôi liệt sỹ), vợ hoặc chồng của liệt sỹ, con của liệt sỹ dưới 18 tuổi hoặc trên 18 tuổi vẫn còn đi học. Tất cả thân nhân liệt sỹ có đủ điều kiện trên được hưởng mức trợ cấp tuất hàng tháng là 470.000đ/người/tháng. Đặc biệt, thân nhân cô đơn không nơi nương tựa hoặc con mồ côi cả cha lẫn mẹ đều được hưởng mức trợ cấp là 794.000đ/người/tháng. Văn Quan với tổng số 476 thân nhân liệt sỹ, đây là đối tượng đang được hưởng chính sách ưu đãi xã hội. Để hiểu thêm về số lượng thân nhân được hưởng chính sách ưu đãi được thể hiện qua kết quả khảo sát sau: Bảng 3: Phân loại thân nhân được hưởng chế độ tuất STT Số lượng Chế độ Số thân nhân Tỷ lệ % Ghi chú 1 Chế độ tuất cơ bản 354 73,37 2 Chế độ tuất nuôi dưỡng 5 1,05 3 Chế độ thờ cúng một lần 117 24,58 Tổng 476 100 (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2007 của Phòng Nội vụ-LĐ-TB&XH huyện Văn Quan) Qua khảo sát ta thấy: Số thân nhân liệt sỹ được hưởng chế độ hàng tháng là 470.000đ chiếm 74,37% và có 5 thân nhân liệt sỹ được hưởng chế độ tuất nuôi dưỡng là 794.000đ chiếm 1,05%, có 117 thân nhân được hưởng chế độ thờ cúng một lần là 600.000đ, chiếm 24,58%. Những khoản trợ cấp ưu đãi xã hội không những mang ý nghĩa tinh thần mà còn phần nào bù đắp về vật chất, giúp cho gia đình liệt sỹ bớt những khó khăn trong cuộc sống. Mẹ Nông Thị L - Mẹ Liệt sĩ ở xã Tri Lễ đã tâm sự với chúng tôi: “... Trước đây mẹ ở với con dâu trong một căn nhà tranh cạnh chợ, tiện nghi sinh hoạt trong nhà không có gì đáng giá. Mùa đông không có chăn đắp đủ ấm. Bây giờ mẹ đã được sống trong căn nhà tình nghĩa xây dựng khang trang. Trong nhà có ti vi, giường tủ, bàn ghế chắc và đẹp, chăn ấm... Thật sướng quá, mẹ càng thấy khoẻ ra” (Trích phỏng vấn sâu số 1). (3) Chính sách ưu đãi về y tế, chăm sóc sức khỏe Sức khỏe là yếu tố quan trọng đối với mỗi người, thân nhân liệt sỹ là những người chịu nhiệt thiệt thòi về vật chất cũng như tinh thần, để bù đắp những thiệt thòi đó, Đảng, Nhà nước ta đã có chính sách ưu đãi về y tế, chăm sóc sức khỏe cho thân nhân liệt sỹ. Tất cả những thân nhân liệt sỹ, người có công nuôi liệt sỹ, vợ hoặc chồng của liệt sỹ đang hưởng trợ cấp hàng tháng đều được cấp sổ bảo hiểm y tế, khám bệnh định kỳ và được cấp phát thuốc miễn phí. Theo kết quả điều tra thì có 100% thân nhân liệt sỹ trong huyện đều được cấp sổ bảo hiểm y tế. Hàng năm đến ngày 27/7, những thân nhân liệt sỹ đều được trung tâm y tế của huyện khám sức khỏe định kỳ và cấp phát thuốc miễn phí. Điều đó, phần nào an ủi và bù đắp được những mất mát đau thương của bản thân và gia đình liệt sỹ. Để thực hiện tốt hơn nữa chính sách chăm sóc sức khỏe, chúng ta phải hiểu thêm tình trạng sức khỏe của thân nhân liệt sỹ. Qua khảo sát về tình trạng sức khỏe của thân nhân chủ yếu của liệt sỹ (bố, mẹ già) ở huyện Văn Quan thu được kết quả sau: Bảng 4: Tình trạng sức khỏe của thân nhân liệt sỹ Mức độ Đối tượng Thường xuyên ốm (%) Thỉnh thoảng ốm Thân nhân chủ yếu của liệt sỹ 56,67% 43,33% (Báo cáo Tổng kết năm 2007 của Phòng Nội vụ-LĐ-TB&XH huyện Văn Quan) Qua bảng số liệu trên ta thấy, số thân nhân chủ yếu của liệt sỹ là vợ, bố mẹ già thường xuyên ốm chiếm 56,67%, những thân nhân thỉnh thoảng ốm chiếm 43,33%. Đây là nhóm thân nhân có tuổi già sức yếu nên tình trạng sức khỏe không ổn định. Đối tượng này cần được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo hiểm y tế. Thực hiện tốt chính sách này là thể hiện truyền thống tốt đẹp “Uống nước nhớ nguồn”. Tinh thần, thái độ nhiệt tình của y, bác sỹ cũng là điều quan trọng tác động đến đời sống tinh thần của thân nhân liệt sỹ, đó là sự tác động quyết định. Ví dụ khi khám chữa bệnh, bệnh nhân cảm nhận được sự nhiệt tình của người chăm sóc, họ cảm thấy tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vào chế độ xã hội chủ nghĩa. (4) Chính sách ưu đãi giáo dục Để bù đắp những thiệt thòi của thân nhân liệt sỹ, Đảng và Nhà nước đã ban hành chế độ ưu đãi giáo dục đối với con em liệt sỹ và Phòng Nội vu-Lao động-TB và Xã hội huyện Văn Quan đã làm tốt về vấn đề này. Con liệt sỹ khi theo học tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông trung học được miễn học phí và miễn các khoản xây dựng trường sở, được ưu tiên trong tuyển sinh và tốt nghiệp, được trợ cấp mỗi năm học một lần với mức 60.000đ với học sinh mầm non, 90.000đ với học sinh trung học cơ sở, 120.000đ với học sinh phổ thông trung học. Con liệt sỹ khi học các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề, dự bị đại học được ưu tiên trong xét tuyển. Trong 5 năm qua toàn huyện có 8 cháu được xét đi học, có 2 cháu học đại học đã có việc làm. Số còn lại đang tiếp tục học cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, tạo điều kiện sau này có công ăn việc làm ổn định, đảm bảo cuộc sống bản thân và gia đình. Ngoài việc xét tuyển các cháu còn được trợ cấp một lần 150.000đ, khi học trung học chuyên nghiệp, dự bị đại học, trợ cấp 180.000đ khi học cao đẳng và đại học. Học sinh và sinh viên là con liệt sỹ được hưởng mức trợ cấp 100.000đ/tháng. (5) Chính sách miễn giảm thuế/đất, thuế/nông nghiệp. Thu nhập chính của người dân huyện Văn Quan là từ sản xuất nông nghiệp. Đời sống của người nhân dân trong những năm gần đây có nhiều thay đổi, nhưng cũng gặp không ít khó khăn trong cơ chế thị trường, chính sách ưu tiên phần đất tốt và miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp cho thân nhân chủ yếu của liệt sỹ phần nào giải quyết những khó khăn đó. Theo quy định, những thân nhân là bố, mẹ liệt sỹ, người có công nuôi liệt sỹ, vợ hoặc chồng của liệt sỹ được miễn 100% thuế sử dụng đất nông nghiệp. Trong 2 năm 2001-2002, toàn huyện đã phối hợp với các ngành thực hiện xét miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp cho đối tượng thuộc diện chính sách với tổng số 540 hộ và số thuế đề nghị miễn giảm là 8.947 tấn thóc đó là sự ưu đãi lớn của địa phương đối với đối tượng này. (6) Chính sách ưu đãi về nhà ở Trong 5 năm qua, với nguồn đóng góp quỹ “đền ơn đáp nghĩa”, huyện Văn Quan đã làm mới và nâng cấp 4 ngôi nhà tình nghĩa, và sữa chữa lại cho 30 nhà với số tiền hơn 100 triệu đồng, xây thêm một nhà mới với kinh phí là 32.123.450đ. Các tổ chức chính trị - xã hội còn đóng góp hàng ngàn ngày công giúp đỡ gia đình liệt sỹ. Ngoài số tiền hỗ trợ làm nhà và sữa chữa nhà tình nghĩa, những năm qua quỹ cấp huyện cũng như cấp xã đã trích 5 triệu đồng tặng 40 sổ tình nghĩa cho các đối tượng chính sách. (7) Ưu tiên trong vay vốn giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo. Trong những năm qua, để giải quyết việc làm cho con em các dân tộc trên địa bàn nói chung, con em các gia đình liệt sỹ nói riêng đã có nhiều tiến bộ. Ngoài việc tổ chức học nghề ở Trung tâm giáo dục thường xuyên, trạm khuyến nông huyện mở các lớp tập huấn với tổng số 120 người tham gia, nhiều hộ tổ chức vay vốn sản xuất, chăn nuôi tăng gia phát triển kinh tế vườn rừng trong các dự án 120 có 2 dự án của 2 gia đình chính sách tạo công ăn việc làm cho đối tượng và con em họ từng bước ổn định cuộc sống và trở thành hộ khá. Ví dụ: Hộ gia đình anh Triệu Văn Liên (con liệt sĩ), năm 2007 đã có thu nhập trên 120.000.000đ xây được nhà, mua sắm được những vật dụng sinh hoạt trong gia đình. 2.2.1.2.2. Chính sách ưu đãi xã hội đối với đời sống gia đình thương binh (1) Đôi nét về thương binh và gia đình thương binh Thương binh khi trở về cuộc sống đời thường họ mang bao thương tật và di chứng của chiến tranh trải qua các cuộc kháng chiến toàn huyện Văn Quan có 110 thương binh các hạng. Để hiểu thêm về cơ cấu thương binh, ta xem xét cơ cấu xếp hạng theo mức độ thương tật. Bảng 5: Cơ cấu thương binh theo tỉ lệ thương tật trong toàn huyện Văn Quan. STT Tổng số Phân hạng Số thương binh Tỷ lệ 1 Thương binh hạng 1 3 2,72 2 Thương binh hạng 2 18 16,3 3 Thương binh hạng 3 14 12,7 4 Thương binh hạng 4 75 68,2 Tổng 110 100 (Nguồn: Báo cáo Tổng kết năm 2007 của phòng Nội vụ - LĐ -TB&XH huyện Văn Quan) Qua bảng số liệu trên ta thấy, thương binh hạng 1 chiếm 2,72%. Đây là nhóm thương binh có vết thương nặng, bản thân không có khả năng lao động tạo thêm thu nhập cho bản thân và gia đình. Thương binh hạng 2 chiếm 16,3%, thương binh hạng 3 chiếm 12,7%, thương binh hạng 4 chiếm 68,2% trong tổng số thương binh của toàn huyện. Nhóm thương binh hạng 2, hạng 3 và hạng 4 vẫn còn khả năng lao động tạo thêm thu nhập cho bản thân và gia đình. Nếu Đảng và Nhà nước hỗ trợ về vốn, kinh nghiệm sản xuất thì nhóm thương binh này sẽ có điều kiện tốt hơn để tham gia lao động sản xuất, nâng cao thu nhập cho gia đình. Khi được phỏng vấn về vấn đề này, ông Chu Quốc Tài cán bộ Văn hoá Xã hội xã Tú Xuyên cho biết: “Cần có chính sách vay vốn ưu đãi để những gia đình trên có điều kiện phát triển kinh tế, họ có vốn tự mở rộng sản xuất. Mặt khác nhà nước cũng nên có kinh phí để tạo điều kiện cho họ được đi thăm quan đây đó, một mặt để nâng cao tầm hiểu biết về các địa phương và học được cách thức làm ăn mở rộng phát triển kinh tế tăng thêm thu nhập.” (Bảng phỏng vấn sâu số 3). Khi xem xét tình hình sức khỏe và khả năng lao động của thương binh ta thường xem cơ cấu tuổi của thương binh. Bảng 6: Cơ cấu tuổi của thương binh (Qua khảo sát số liệu ở các xã, thị trấn huyện Văn Quan) STT Số thương binh Tuổi Số thương binh Tỷ lệ % Ghi chú 1 40-50 35 31,8 2 51-60 68 61,8 3 61 trở lên 7 6,36 Tổng 110 100 (Nguồn: Báo cáo Tổng kết năm 2007 của phòng Nội vụ - LĐ - TB & XH huyện Văn Quan) Qua bảng số liệu trên ta thấy thương binh trong độ tuổi từ 40-50 chiếm 31,8% đây là nhóm thương binh đang độ tuổi lao động khi trở về cuộc sống đời thường, họ là trụ cột chính trong gia đình, sức khỏe không ổn định, gây nên những khó khăn trong sinh hoạt và trong lao động sản xuất, ngoài ra, nhóm thương binh này còn hạn chế nhiều kinh nghiệm sản xuất nên Đảng và Nhà nước ta cần tạo điều kiện thuận lợi cho thương binh tính tích cực tham gia hoạt động lao động sản xuất. Thương binh có độ tuổi từ 51 đến 60 chiếm 61,8%, nhóm thương binh có độ tuổi trên 61 chiếm 6,36%, thương binh trong nhóm này là những người già cả sức khỏe yếu kém. Ở độ tuổi này, thương binh cần sự chăm sóc chu đáo của gia đình, chính quyền địa phương. Mục tiêu của chính sách xã hội là hướng đến con người và cuộc sống hạnh phúc của con người. Thông qua cơ cấu tuổi của thương binh, chúng ta thấy được tình trạng sức khỏe của họ, qua đó Đảng và Nhà nước hoạch định những chính sách ưu đãi xã hội phù hợp để giúp thương binh tự vươn lên trong cuộc sống. Ở đây, chính sách không đồng nghĩa với việc cung cấp hỗ trợ về vật chất, tạo cho họ tính thụ động, trông chờ mà chính sách xã hội giúp cho thương binh và gia đình của họ những phương hướng và tiền đề để họ vươn lên bằng chính nội lực của bản thân mình. (2) Chính sách trợ cấp ưu đãi hàng tháng Mọi chính sách xã hội cũng như._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVXHH014.doc
Tài liệu liên quan