Tài liệu Sự nghiệp phê bình thơ của Xuân Diệu: ... Ebook Sự nghiệp phê bình thơ của Xuân Diệu
147 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2108 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Sự nghiệp phê bình thơ của Xuân Diệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÁI NGUYÊN
------------&-------------
ĐÀO THỊ THU HIỀN
SỰ NGHIỆP PHÊ BÌNH THƠ
CỦA XUÂN DIỆU
LUẬN VĂN THẠC SỸ NGỮ VĂN
Thái Nguyên – 2007
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
------------&-------------
ĐÀO THỊ THU HIỀN
SỰ NGHIỆP NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH
THƠ CỦA XUÂN DIỆU
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SỸ NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. LƢU KHÁNH THƠ
Thái Nguyên – 2007
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3
MỤC LỤC
Trang
Mở Đầu 1
Chƣơng 1- Phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX và vị trí
của Xuân Diệu trong nền phê bình văn học
8
1.1. Vài nét về phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX 8
1.2. Vị trí của Xuân Diệu trong nền phê bình văn họcViệt
Nam thế kỷ XX
13
1.3. Quan niệm của Xuân Diệu về thơ và phê bình thơ 17
1.3.1. Quan niệm của Xuân Diệu về thơ 17
1.3.2. Quan niệm của Xuân Diệu về phê bình thơ 33
Chƣơng 2- Đóng góp của Xuân Diệu trong việc tôn vinh
các giá trị thơ ca dân tộc
45
2.1. Xuân Diệu với gia tài văn học cổ điển của dân tộc 45
2.1.1. Chân dung tâm hồn Nguyễn Trãi trong thơ Nôm 46
2.1.2. Những phát hiện về chủ nghĩa nhân đạo trong Truyện
Kiều
của Nguyễn Du
51
2.1.3. Giá trị đích thực và vẻ đẹp của thơ Nôm Hồ Xuân
Hương
57
2.1.4. Nguyễn Khuyến- Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam 63
2.2. Xuân Diệu với nền thơ Việt Nam hiện đại. 68
2.2.1. Vẻ đẹp tâm hồn Bác trong tập thơ Nhật ký trong tù 69
2.2.2. Tố Hữu- Nhà thơ của tình thương mến 72
2.2.3. Nét đặc sắc của hồn thơ Huy Cận 79
2.2.4. Trần Đăng khoa- Một hồn thơ nhạy cảm, với những
vần thơ “hồn nhiên như một bình minh ríu rít”
83
Chƣơng 3- Một số đặc điểm trong phong cách nghiên cứu
phê bình thơ của Xuân Diệu
90
3.1. Tìm hiểu nội dung tư tưởng tác phẩm bằng cách đi sâu
khám phá hình thức nghệ thuật thơ
91
3.2. Kết hợp bình và giảng 101
3.3. Lối phê bình giàu tính trực cảm 112
3.4. Cách hành văn sôi nổi mãnh liệt 117
4.4. Một số hạn chế 122
Kết luận 125
Tài liệu tham khảo 128
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Xuân Diệu (1916- 1985) là một trong những tác gia lớn, một tài
năng đa dạng của nền văn học Việt Nam hiện đại, với một phong cách
riêng đặc sắc. Hơn nửa thế kỷ cầm bút sáng tác, ông đã để lại cho đời
một khối lượng tác phẩm lớn, và có giá trị lâu dài ở nhiều thể loại :
thơ, văn xuôi, nghiên cứu phê bình , dịch thuật. Với nhà thơ tài năng
này, ở thể loại nào ông cũng đạt được những thành tựu, in đậm dấu ấn
riêng.Trong sự nghiệp sáng tạo của Xuân Diệu, bên cạnh phần sáng
tác thơ mà ông dành phần lớn bút lực của đời mình, còn một mảng
sáng tác không kém phần quan trọng, đó là phê bình tiểu luận. Bằng
vốn hiều biết phong phú cùng với dụng công tìm tòi nghiên cứu và sự
tinh tế nhạy cảm của một nhà thơ tài năng, bằng lối viết tràn đầy nhiệt
tình, tràn đầy cảm xúc, Xuân Diệu đã mang đến cho những trang phê
bình tiểu luận của mình một giọng điệu riêng độc đáo.Ông có nhiều
công trình nghiên cứu phê bình thơ Việt Nam từ cổ điển đến hiện đại,
bên cạnh đó ông còn phê bình giới thiệu thơ của nhiều tác giả nước
ngoài. Gần hai chục tập tiểu luận phê bình và rải rác nhiều bài khác
đăng trên các báo, tạp chí,khối lượng lớn những tác phẩm của ông
trong lĩnh vực này đã phần nào khẳng định công phu lao động miệt
mài của Xuân Diệu với tư cách một nhà nghiên cứu phê bình thơ.
Từ trước đến nay, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu
đã thu hút sự quan tâm của các cây bút nghiên cứu phê bình nhiều thế
hệ. Đặc biệt số lượng bài viết về thơ Xuân Diệu rất phong phú. Điều
đó đã nói lên rằng giới nghiên cứu phê bình văn học nước ta ngày
càng nhận thấy giá trị lớn lao của Xuân Diệu trong tiến trình lịch sử
văn học Việt Nam hiện đại. Mặc dầu vậy phần đóng góp rất quan trọng
của Xuân Diệu đối với phê bình văn chương chưa được nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5
đánh giá một cách công phu và đầy đủ. Số lượng bài viết về lĩnh vực
này còn rất ít ỏi.
Vì vậy luận văn chọn đề tài “Sự nghiệp nghiên cứu phê bình
thơ của Xuân Diệu” hy vọng góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên
cứu đánh giá vị trí vai trò và ý nghĩa của cây bút nghiên cứu phê bình
thơ Xuân Diệu trong nền nghiên cứu phê bình thơ Việt Nam hiện đại,
ghi nhận những thành tựu to lớn của ông, phát huy những tư tưởng và
phong cách riêng độc đáo của ông .
Xuân Diệu là một trong số các tác gia được chọn đưa vào giảng
dạy ở trường trung học phổ thông. Điều này đã nói lên vị trí của Xuân
Diệu trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên để góp phần
hiểu Xuân Diệu một cách đầy đủ hơn thì không thể không nghiên cứu
mảng phê bình của ông. Bởi ở đây nhà thơ, nhà phê bình Xuân Diệu
bộc lộ những quan niệm, những suy nghĩ của bản thân về sáng tác thơ
ca. Là người trực tiếp giảng dạy ở trường phổ thông chúng tôi thấy
việc tìm hiểu Xuân Diệu ở phương diện nhà phê bình thơ là hết sức
cần thiết. Nó sẽ giúp chúng ta hiểu rõ Xuân Diệu ở phương diện nhà
thơ. Bởi Xuân Diệu viết phê bình với kinh nghiệm của “ người làm
vườn vĩnh cửu”, kinh nghiệm của một nhà thơ lớn có nhiều đóng góp
cho nền thơ ca dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề:
Là một gương mặt sáng giá của văn học Việt Nam hiện đại,
thơ và văn của Xuân Diệu đã được sự quan tâm thường xuyên của giới
nghiên cứu phê bình văn học đã có những công trình nghiên cứu công
phu tâm huyết, có nhiều khám phá sáng tạo về tác gia Xuân Diệu trên
các chặng đường sáng tác, nhưng hoạt động nghiên cứu phê bình thơ
của Xuân Diệu chưa được nghiên cứu một cách đúng mức.
2.1 Những đánh giá chung về di sản nghiên cứu phê bình của Xuân
Diệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6
Đa số các bài nghiên cứu về Xuân Diệu chủ yếu đi sâu vào sự
nghiệp thơ cũng như văn xuôi, chỉ nói qua, nói lướt đến công việc
nghiên cứu phê bình thơ của ông- như bài viết của các tác giả: Nguyễn
Duy Bình, Huy Cận, Nam Chi, Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Trung
Thông.
Ở bài nghiên cứu Xuân Diệu thuộc quyển “ Nhà thơ Việt Nam
hiện đại”, bên cạnh việc chủ yếu phân tích quá trình Xuân Diệu
trưởng thành trong sáng tác thơ sau cách mạng Mã Giang Lân phát
hiện một số đóng góp của ông trong hoạt động phê bình giới thiệu thơ,
dịch thơ: “Ưu thế về kinh nghiệm sáng tác, năng lực cảm thụ thơ tinh
tế, cách xâu chuỗi, phát hiện, phân tích, liên tưởng độc đáo, khen
nhiều chê ít, làm cho các tác giả thơ như được xuân hoá trẻ thêm”
Trong cuốn Nhà văn Việt Nam tập I, ở bài Xuân Diệu, giáo sư
Hà Minh Đức là người đầu tiên đã nêu lên một số nhận xét khái quát
về mảng nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu. Ông khẳng định một
tấm gương cần mẫn đối với thơ cổ điển, thơ hiện đại, suy nghĩ về chất
lượng thơ và công việc phê bình thơ, giới thiệu thơ nước các nước và
dịch; một diễn giả hăng say giao tiếp, giao cảm, có mặt ở tất cả các
hoạt động của thơ, đưa thơ về với cuộc sống. Giáo sư đã có những
nhận xét xác đáng, chẳng hạn “ Xuân Diệu có khả năng tự phân tích
và trình bày sáng tỏ những diễn biến của mạch tư tưởng và cảm xúc
ngay ở những khía cạnh uẩn khúc và khó diễn đạt. Anh thường lấy
thực tế sáng tác thơ ca của mình từ trong quá trình sáng tạo đến thành
quả cụ thể để chứng minh cho những vấn đề lý luận mà anh đề xuất”
Trong Từ điển văn học hoạt động phê bình của ông được
Nguyễn văn Long nêu ngắn gọn “ Bằng một vốn hiểu biết phong phú
và sự tinh nhạy của nhà thơ, với lối viết văn tràn đầy nhiệt tình, cảm
xúc, những tác phẩm phê bình, tiểu luận , bút ký của Xuân Diệu có một
tiếng nói riêng đáng chú ý”. Cũng trong cuốn này Phan Cự Đệ ,Trần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7
Hữu Tá có đánh giá công lao đóng góp của Xuân Diệu cùng Đặng Thai
Mai, Xuân Trường, Hồng Chương.. trong đội ngũ lực lượng phê bình,
đã kịp thời phát huy vai trò của người chiến sỹ trên mặt trận đấu tranh
tư tưởng của Đảng bằng nhiều tiểu luận có giá trị và có tính chiến đấu
cao.Trong quyển sưu tập dày dặn Xuân Diệu Tác phẩm văn chƣơng
và lao động nghệ thuật (1999) tác giả Lưu Khánh Thơ dành khoảng
hai mươi trang giới thiệu khái quát về những đóng góp của Xuân Diệu
trong phê bình văn chương, phần còn lại của cuốn sách chủ yếu tuyển
chọn và giới thiệu những bài nghiên cứu về thơ của Xuân Diệu .
Với bài Xuân Diệu in trong giáo trình Văn học Việt Nam 1945-
1975 tập II, Nguyễn Trác nhìn nhận bên cạnh “ Xuân Diệu- nhà sáng
tác thơ văn” còn có “ Xuân Diệu- nhà bút ký, tiểu luận phê bình văn
học”. Bài viết chỉ ra những hướng chính mà Xuân Diệu gắn bó trong
suốt sự nghiệp văn học của mình: Dìu dắt các nhà thơ lớp sau, giới
thiệu các phong trào thơ quần chúng, phát hiện cái hay cái đẹp ở các
nhà thơ ưu tú, đi sâu vào thế giới tâm tình những nhà thơ nổi tiếng của
dân tộc, dịch và giới thiệu thơ nước ngoài. Bên cạnh đó , Nguyễn Trác
còn chú ý phát hiện một số nét phong cách phê bình của Xuân Diệu
với “ Nghệ thuật diễn đạt mạnh bạo, hồn nhiên từ rất khoẻ, ý rất
mạnh, tạo được những hình ảnh, những câu lý thú không thể quên
trong phê bình văn học”
Nói đến Xuân Diệu là người ta nhớ ngay đó là một nhà thơ nổi
tiếng, ít người quan niệm được đầy đủ rằng ông còn là một nhà
nghiên cứu phê bình thơ lỗi lạc.
2.2 Những bài nghiên cứu trực tiếp bàn về một số tập phê bình
tiểu luận của Xuân Diệu
Trước cách mạng hầu như chưa có ai nghiên cứu về phê bình
thơ Xuân Diệu. Sau hoà bình lập lại, có thể nói người đầu tiên bàn về
tiểu luận phê bình của Xuân Diệu là Chế Lan Viên, với bài “Đọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8
những bước đường tư tưởng của tôi”. Chủ yếu Chế Lan Viên đã khen
cái lý sống trong thể động của Xuân Diệu sau cách mạng và khen cái
tình ở nhà tiểu luận có lý này. Chế Lan Viên cũng chỉ ra những nhược
điểm chính của nhà phê bình Xuân Diệu lúc bấy giờ là “ còn thiếu
thực tế, thiếu vốn sống, nói quá ít đến những sự việc của thế giới xung
quanh anh sau cách mạng”.
Sau đó mỗi khi một tập tiểu luận phê bình của Xuân Diệu ra đời
lại có một vài bài viết trên báo đánh giá ưu khuyết về tập đó. Chẳng
hạn: Phê bình giới thiệu thơ(Lê Đình kỵ, Nam Mộc), Dao có mài
mới sắc (Đông Hoài), Và cây đời mãi mãi xanh tƣơi (Nguyễn Xuân
Nam), Mài sắt nên kim (Vũ Quần Phương), lƣợng thông tin và
những kỹ sƣ tâm hồn ấy (Chế Lan Viên, Thiếu Mai), Các nhà thơ cổ
điển Việt Nam (Mai Quốc Liên, Triều Dương, Vương Trí Nhàn),
ngoài ra còn có một số ý kiến điểm sách ngắn… những bài này thường
nêu nhận xét khen chê cụ thể một số đoạn, bài trong từng tập hoặc cả
tập
Phần lớn các bài báo, các tiểu luận đề cập đến những công trình
nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu chủ yếu từ sau Cách mạng
tháng Tám, ít nhiều đã khẳng định đóng góp của ông trong thời đại
mới của thi ca dân tộc. Các tác giả thống nhất khi nói đến cách phê
bình phát hiện, tìm tòi, sự nghiên cứu công phu, tài thẩm thơ tinh tế ,
khiếu thẩm mỹ sành và nhuyễn, tính trung thực, tính chiến đấu, tính
sáng tạo của Xuân Diệu- một cây bút phê bình có bản sắc….song đó
mới chỉ là những nhận xét chung, những nhận định quá ngắn, hoặc lẻ
tẻ từng phương diện.Cho đến năm 2000,chưa có những công trình
nghiên cứu, đánh giá toàn diện, nhiều mặt một cách có hệ thống các
hoạt động phê bình giới thiệu thơ của Xuân Diệu.
Thời gian gần đây sự nghiệp nghiên cứu phê bình của Xuân Diệu
đã được chú ý một cách thoả đáng hơn. Đã trở thành đối tượng nghiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9
cứu của một số công trình, bài viết, của một vài luận án và luận văn.
Đặc biệt là hai tác giả Trần Thị Thanh Hà và Phan Ngọc Thu đã đi vào
tìm hiểu những thành tựu trong công việc nghiên cứu phê bình văn học
của Xuân Diệu
Trên cơ sở tiếp thu và kế thừa ý kiến của những người đi trước
chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Sự nghiệp nghiên cứu phê
bình thơ của Xuân Diệu”, với suy nghĩ rằng, đối với những tác gia
lớn của một nền văn học cần có nhiều cách tiếp cận khác nhau, trong
những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau. Trong một chừng mực nhất
định, chúng tôi đã cố gắng đưa ra một cách nhìn và những cảm nhận
mới về những đóng góp đáng trân trọng trong sự nghiệp phê bình thơ
của Xuân Diệu.
3.Nhiệm vụ và đối tƣợng nghiên cứu.
Qua việc tìm hiểu những công trình, bài viết nghiên cứu trước
đây về phê bình văn học nói chung và phê bình văn học của Xuân
Diệu nói riêng luận văn sẽ hướng tới các nhiệm vụ sau:
Luận văn sẽ chỉ ra vị trí của nhà phê bình Xuân Diệu trong nền
văn học Việt Nam thế kỷ XX
Tìm hiểu một cách hệ thống và tương đối toàn diện về thành tựu
và bản sắc trong phê bình thơ của Xuân Diệu, bắt đầu từ quan niệm
của ông về thơ và phê bình thơ, đến một số đóng góp cơ bản của ông
trong việc nghiên cứu phê bình các hiện tượng thơ cụ thể, những đặc
điểm nổi bật trong phong cách nghiên cứu phê bình thơ của ông
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ các bài tiểu luận
phê bình của Xuân Diệu mà chúng tôi thu thập được. Tuy nhiên trong
khuôn khổ một luận văn thạc sỹ, không thể nghiên cứu toàn bộ sự
nghiệp phê bình của Xuân Diệu, luận văn chỉ tập trung đi sâu vào hai
mảng cơ bản: nghiên cứu phê bình thơ cổ điển và thơ hiện đại. Không
tiến hành nghiên cứu tất cả mọi hoạt động phê bình thơ, cũng như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10
không xem xét tất cả các tác giả tác phẩm mà Xuân Diệu đã đề cập,
chúng tôi tập trung đi sâu nghiên cứu những hiện tượng nổi bật, thể
hiện rõ quan niệm nhất quán của nhà thơ về thơ và phê bình thơ, để
bước đầu nhận định về Xuân Diệu với tư cách nhà nghiên cứu phê
bình thơ có nhiều đóng góp đối với nền thơ hiện đại Việt Nam
4.Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu trên luận văn kết hợp sử dụng
các phương pháp chủ yếu sau đây:
4.1 Phương pháp hệ thống.
Với quan niệm thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể, xuất phát từ
đặc điểm riêng trong thi pháp nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu,
luận văn chú trọng tìm ra những thành tố tạo nên diện mạo và qui luật
hoạt động nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu. Mọi đối tượng,
mọi vẫn đề khảo sát được chúng tôi đặt trong tương quan, hệ thống,
trong qui luật tác động lẫn nhau giữa quan niệm, tư tưởng, phương
pháp và phong cách cùng thành tựu của nhà phê bình
4.2 Phương pháp thống kê, tổng hợp.
Đối với từng thành tố luận văn thực hiện phương pháp thống kê
tổng hợp, nhằm tập hợp các ý kiến của các nhà nghiên cứu phê bình
văn học trong các bài viết, các sách báo…để có tư liệu phục vụ cho
luận văn.
4.3 Phương pháp so sánh đối chiếu
Luận văn sử dụng phương pháp đối chiếu so sánh để khẳng định
các mặt tiêu biểu và những nét độc đáo cá nhân về một phương diện
trong sáng tác của Xuân Diệu: nghiên cứu phê bình thơ.
4.4 Ngoài ra trong luận văn này chúng tôi còn sử dụng phương pháp
phân tích văn học, phương pháp khái quát hoá và một số phương pháp
khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11
5 Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của luận văn gồm
3 chương
Chƣơng 1: Vị trí và vai trò của Xuân Diệu trong nền phê bình
văn học Việt Nam thế kỷ XX
Chƣơng 2: Đóng góp của Xuân Diệu trong việc tôn vinh các giá
trị thơ ca dân tộc
Chƣơng 3: Một số đặc điểm trong phong cách nghiên cứu phê
bình thơ của Xuân Diệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12
Chƣơng 1
VÀI NÉT VỀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX VÀ
VỊ TRÍ CỦA XUÂN DIỆU TRONG NỀN PHÊ BÌNH VĂN HỌC
1.1 VÀI NÉT VỀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX
Phê bình văn học cùng với lịch sử văn học và lý luận văn học là
ba bộ môn chính của khoa học văn học. Khái niệm phê bình văn học
được các nhà nghiên cứu văn học bàn đến từ rất lâu và được tiếp nhận
dưới nhiều góc độ, tiêu chí khác nhau. ở góc độ lý luận Biêlinski xem
phê bình là “mĩ học đang vận động”. Về bản chất, đối tượng thì phê
bình vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Còn trên ranh giới giữa sáng
tạo và thưởng thức, phê bình văn học là chiếc cầu nối gắn kết hai công
đoạn của một quá trình nghệ thuật và công chúng. Các nhà nghiên cứu
văn học còn mở rộng thêm, phê bình văn học vừa là một hoạt động,
vừa là một bộ môn khoa học về văn học. Phê bình văn học vừa tác
động tới sự phát triển của văn học, vừa tác động đến độc giả góp phần
hình thành thị hiếu thẩm mỹ cho quảng đại quần chúng. Là một môn
khoa học, phê bình văn học “nhận thức các phương hướng vận động
của văn học đương đại, tìm kiếm chỗ làm bàn đạp cho văn học đi tới,
khám phá những nhân tố nghệ thuật có khả năng mở ra một quá trình
văn học mới và chỉ ra những nhược điểm trong sáng tác so với nhu cầu
của thời đại và nhu cầu của bản thân văn học” [18, 206].Theo Trần
Đình Sử thì “phê bình văn học là hoạt động nghiên cứu, phán đoán giá
trị đối với một hiện tượng văn học cụ thể bao gồm tác phẩm, nhà văn,
tiếp nhận và cả lý luận phê bình xuất phát từ một quan niệm lý luận
nhất định trên cơ sở cảm thụ, thưởng thức tác phẩm” [ 15, 665] . Như
vậy văn học gắn liền với phê bình văn học. Có văn học thì có phê bình
văn học. Nếu văn học là phát ngôn về nhân sinh dưới hình thức ngôn
ngữ nghệ thuật, thì phê bình văn học là nghệ thuật khám phá văn hoá
cảm nhận ẩn tàng trong tác phẩm. Mãi mãi, người sáng tác và người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13
đọc, người phê bình tiếp sức nhau trong cuộc chạy đua vô tận để tìm
bắt ý nghĩa cuộc đời và ý nghĩa nghệ thuật, ý nghĩa là niềm mê hoặc
lớn, là đầu đề tranh cãi lớn trong mọi quan hệ văn học và phê bình xưa
nay. Văn học tồn tại trong tiếp nhận, cũng tức là tồn tại trong phê bình
bởi phê bình là hình thức tiếp nhận tích cực nhất tự giác nhất. Dù
muốn hay không tác phẩm văn học vẫn được cảm nhận qua lăng kính
phê bình dưới mọi hình thức: Dư luận xã hội, giáo dục ở nhà trường,
những cây bút phê bình, nhà nghiên cứu văn học. Chính vì vậy phê
bình có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống văn học
Văn học viết Việt Nam ra đời từ thế kỷ X, với sự xuất hiện của
chữ Hán, chữ Nôm, sau này là chữ Quốc ngữ. Có văn học tất yếu có
phê bình văn học, nhưng lúc đầu phê bình văn học chỉ xuất hiện dưới
các dạng thức với các bài bi, ký, tự, bạt, thư , luận, xướng hoạ….Phê
bình lúc này chủ yếu mang tính chất thưởng thức, cảm thụ, hoặc với
tính chất hướng dẫn sáng tác theo các qui luật, nguyên tắc. Trước kia
các nhà thơ trung đại, không ý thức trở thành nhà thơ, nhà văn.
Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến…. và những người làm thơ khác họ
thường có quan niệm làm quan mới là con đường lập nghiệp. Làm thơ
văn chỉ là giãy bày cái gì đó bên trong về mặt tình cảm. Ngày xưa có
một ông Nguyễn Khuyến chẳng hạn viết xong một bài thơ đưa đi đâu,
ông gửi cho ai ? Nếu không tìm được tri kỷ trong làng ngoài xóm có ai
đó đủ chữ nghĩa, đáng mặt tri âm tri kỉ, thì ông đành phải bỏ tác phẩm
vào trong một cái tráp khoá lại. Ngày lại ngày, những bài thơ lần lượt
ra đời và lần lượt được xếp lên nhau trong chiếc tráp son đặt ở đầu
giường. Đợi đến một ngày đẹp trời, ông bạn Dương Khuê đi cáng đến
chơi- Đã bấy lâu nay bác tới nhà chủ nhân hấp tấp và mừng rỡ hối
thúc người nhà sửa ngay bữa rượu. Và khi đôi bạn ngà ngà thì là lúc
những cái tráp được mở ra và cuộc ngâm vịnh thù tạc tưởng như
không bao giờ dứt. Văn chương thuở ấy là như thế: Chỉ thu hẹp trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14
một số ít văn nhân tài tử, khó phân biệt ai là tác giả, ai là độc giả , ai là
nhà phê bình. Thường thì mỗi người đều “kiêm nhiệm” tất cả.Ta hiểu
vì sao khi nghe tin Dương Khuê mất- Bác Dương thôi đã thôi rồi…
thì Nguyễn Khuyến đau đớn đến rụng rời, lời thở than của Nguyễn
Khuyến phần nào giúp ta hiểu được văn chương lúc bấy giờ :
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa…
Nhà phê bình, nghề phê bình chưa thể có được vào thời ấy là
như vậy. Phải đến thế kỷ XX do sự vận động nội tại của văn học, dưới
sự tác động của hoàn cảnh lịch sử, cùng với nhu cầu đòi hỏi tất yếu
của sự phát triển văn học, phê bình mới chính thức trở thành một thể
loại. Các hoạt động báo chí, in ấn, xuất bản…ngày càng phát triển tạo
thuận lợi cho phê bình. Vì thế phê bình văn học ngày càng hoạt động
sôi nổi, có nhiều khởi sắc, các vấn đề mang tính thời sự của văn học
được phê bình quan tâm. Hơn một thế kỷ ra đời và phát triển, nền lý
luận phê bình văn học Việt Nam đã nhanh chóng trưởng thành, và
khẳng định được vị thế của mình. Phê bình văn học ngày càng thể hiện
được vai trò là người bạn tin cậy của độc giả và nhà văn, là cầu nối để
hoàn tất quá trình tồn tại một tác phẩm văn học. Phê bình văn học qua
các giai đoạn phát triển đã tạo ra nhiều gương mặt phê bình xuất sắc,
với nhiều tác phẩm có giá trị cho sự phát triển của văn học.Tuy nhiên
sự xuất hiện ấy là không đồng đều ở từng giai đoạn khác nhau.Theo ý
kiến chung của nhiều công trình nghiên cứu văn học Việt Nam, quá
trình phát triển lý luận phê bình có thể chia làm bốn giai đoạn.
Giai đoạn đầu thế kỷ đến năm 1931: Đây là giai đoạn mở đầu, là
bước chuẩn bị cho sự trưởng thành của lý luận, phê bình văn học Việt
Nam giai đoạn sau.
Giai đoạn từ năm 1932 đến năm 1945 : Giai đoạn trưởng thành
vượt bậc của lý luận phê bình, có những cuộc tranh luận sâu sắc động
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15
chạm đến những vấn đề cốt tử của văn học, có những công trình
nghiên cứu vượt thời đại và trở thành kinh điển, xu hướng tìm tòi lý
luận và phương pháp phê bình đa dạng nhiều hướng.
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985: Giai đoạn hình thành,
củng cố lý luận, phê bình văn học dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam. Phê bình lý luận trở thành vũ khí chiến đấu đắc lực của
Đảng nhằm chống lại văn học phi vô sản, khẳng định văn học cách
mạng, đem văn học cách mạng đến với đông đảo quần chúng nhân
dân. Phê bình văn học chủ yếu thực hiện nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng
và trưởng thành nhanh chóng qua các cuộc đấu đấu tranh ấy về mặt
chính trị; nội dung học thuật của công tác lý luận phê bình cũng được
phát triển nhưng vẫn còn những mặt hạn chế. Chính vì vậy mà cùng
với nhu cầu đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, lý luận phê
bình cũng tích cực tự cởi trói, đổi mới vào giai đoạn sau.
Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2000: Đây là giai đoạn đổi
mới mạnh mẽ của lý luận, phê bình văn học Việt Nam. Các vấn đề đặc
trưng của văn học, vấn đề con người, quan hệ văn học và chính trị, văn
học phản ánh và sáng tạo, thi pháp học được quan tâm chú ý và gây
được sự hưởng ứng rộng rãi. Vấn đề đánh giá lại các hiện tượng văn
học quá khứ được thực hiện khá thoả đáng, từ Thơ mới đến sáng tác
của trào lưu hiện thực, văn học Tự lực văn đoàn. Nghiên cứu văn học
cổ điển cũng có những bước tiến triển vượt bậc.Việc phê bình văn học
đương đại cũng sôi nổi khi có những tác phẩm mới thực sự xuất hiện.
Nhưng rồi từ năm 1995 hoạt động phê bình văn học chững lại. Có
nhiều cuộc tranh luận lời lẽ nặng nề nhưng nội dung học thuật rất
mỏng manh, nếu không muốn nói là không có gì. Lý luận, phê bình
đang chờ đợi một bầu không khí thuận lợi để bứt lên đáp ứng yêu cầu
phát triển của bản thân văn học dân tộc trong thời đại ngày nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16
Nhìn lại chặng đường phát triển của lý luận ,phê bình văn học
Việt Nam thế kỷ XX, giáo sư Trần Đình Sử đã tổng kết: “Nhìn lại lý
luận phê bình nghiên cứu văn học Việt Nam ta có thể thấy đó là một
quá trình phát triển mau lẹ, liên tục và không ít kịch tính. Bốn giai
đoạn lý luận phê bình, văn học trong thế kỷ hiện đại hoá văn học và
hội nhập vào đời sống văn học thế giới đã làm cho một nền văn học
vốn từ thời trung đại chưa thật sự phát triển về lý luận, phê bình trở
thành một nền lý luận phê bình tuy có phần hạn chế nhưng vẫn cố
gắng đồng hành với văn học dân tộc và lý luận phê bình văn học thế
giới trong những trào lưu lớn”[15, 795].
Làm nên diện mạo lý luận phê bình văn học Việt Nam hơn nửa
thế kỷ qua về cơ bản có hai lực lượng chính: các nhà phê bình chuyên
nghiệp và các nhà phê bình thuộc giới văn nghệ sỹ. Lý luận phê bình
Việt Nam ghi nhận sự đóng góp của thế hệ các nhà phê bình chuyên
nghiệp đầu tiên như: Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Hải
Triều, Đặng Thai Mai, Trần Thanh Mại, Đào Duy Anh, Nguyễn Bách
Khoa…Đến thế hệ các nhà phê bình chuyên nghiệp trưởng thành trong
kháng chiến chống Pháp như: Lê Trí Viễn, Huỳnh Lý, Trương Chính,
Đinh Gia Khánh, Đỗ Đức Hiểu, Hoàng Xuân Nhị, Đông Hoài, Hoàng
Như Mai, Lê Đình Kỵ, Vũ Khiêu, Hà Xuân Trường…Những người
được đào tạo trong chế độ mới như: Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Chu
Xuân Diên,Nguyễn Đăng Mạnh, Phùng Văn Tửu, Nguyễn Xuân Nam,
Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Văn Hạnh, Phương Lựu, Lương Duy Thứ,
Trần Đình Sử, Trần Hữu Tá, Mã Giang Lân, Phong Lê, Huỳnh Khái
Vinh, Nhị Ca…Các nhà lý luận phê bình thế hệ sau như : Phạm Văn
Long, Mai Quốc Liên, Trần Đăng Xuyền, Lê Ngọc Trà, Vũ Tuấn Anh,
Đỗ Lai Thuý,Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên Ân…Các nhà phê bình
chuyên nghiệp thể hiện tập trung nhất cho trình độ học thức, ý thức tự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17
giác về nghề nghiệp, quan niệm lý luận và phương pháp phê bình. Phê
bình chuyên nghiệp kết tinh thành tựu của phê bình thời đại.
Bên cạnh đó là các nhà phê bình thuộc giới văn nghệ sỹ, có thể
kể tên một đội ngũ đông đảo gồm nhiều thế hệ ,thế hệ các nhà phê bình
thuộc giới văn nghệ sỹ trước 1945 tiêu biểu là: Nhất Linh, Hoàng
Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ, Tú Mỡ, Nguyễn Công Hoan, LưuTrọng Lư,
Lan Khai,Vũ trọng Phụng… Thế hệ các nhà phê bình thuộc giới văn
nghệ giai đoạn sau 1945 tiêu biểu là: Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nguyễn
Tuân, Bùi Hiển, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đình
Thi, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc,…Thế hệ sau những năm 60, 70 như
Vũ Quần Phương, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Trọng Tạo, Trịnh Thanh Sơn… Xuất phát từ chỗ đứng của mình là
người nghệ sỹ viết phê bình, nên phê bình của họ có cái nhìn của
người trong cuộc.Theo Chế Lan Viên thì đó là “phê bình bên trong”,
có cái nhìn thấu suốt từ bên trong quá trình sáng tạo đó là thuận lợi cơ
bản nhất của người nghệ sỹ viết phê bình. Là người mẹ đã từng mang
nặng đẻ đau những đứa con tinh thần,hơn ai hết họ hiểu được kỹ thuật
và công việc “bếp núc”, hiểu được sản phẩm tinh thần ấy được ra đời
như thế nào. Tác phẩm phê bình của các nhà văn , nhà thơ rất giầu
chất văn, có tính trực cảm mạnh, và thường có những phát hiện độc
đáo tinh vi, chỉ có thể có được sự rung động sâu sắc của một người có
trái tim nghệ sỹ. Vì vậy, có thể nói những tác phẩm phê bình của họ
thực chất đã là những “siêu tác phẩm” đầy sáng tạo hấp dẫn, bởi
những nhà phê bình đó đã là những nghệ sỹ thực sự. Nói chung các
cây bút phê bình này thường chú trọng đến việc phát hiện ra những cái
mới, cái đẹp, cái độc đáo của tác phẩm văn chương trên cả hai phương
diện: nội dung và nghệ thuật, nhưng chủ yếu là phương diện nghệ
thuật- qua sự rung động, qua sự nhạy cảm của tâm hồn nghệ sỹ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18
Trong nền lý luận phê bình Việt Nam hai lực lượng phê bình
trên đều có vai trò vị trí riêng không thể thay thế, họ cùng nhau tạo
nên những thành tựu của lý luận phê bình nước nhà.
1.2 VỊ TRÍ CỦA XUÂN DIỆU TRONG NỀN PHÊ BÌNH VĂN HỌC
VIỆT NAM THẾ KỶ XX.
Bạn đọc biết đến Xuân Diệu, trước hết ở tư cách nhà thơ, từ một
“nhà thơ mới nhất”, “đại biểu đầy đủ nhất” cho phong trào Thơ mới
(1932- 1945),đến một nhà thơ tài năng gắn bó sự nghiệp của mình với
sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh đó ông còn là một nhà nghiên cứu phê
bình thơ, có vị trí và vai trò quan trọng. Suốt một đời lao động cật lực,
“ tay năng làm lụng, mắt hay kiếm tìm”. “ dao có mài mới sắc”, “ mài
sắt nên kim”, Xuân Diệu có nhiều đóng góp trong lĩnh vực nghiên cứu
phê bình văn chương. Dù biết rằng “ làm thơ tuy vất vả nhưng có cảm
xúc bù đắp khi suy nghĩ. Viết nghiên cứu dễ tổn thọ”, nhưng Xuân
Diệu đã đầu tư nhiều công sức vào lĩnh vực này. Ngay từ những năm
trước cách mạng Xuân Diệu đã tiến hành hoạt động phê bình song
song với sáng tác thơ, ông viết nhiều tiểu luận bàn về thơ, về nhà thơ
(Thơ khó, Thơ của người, Tính cách An Nam trong văn chương, Mở
rộng văn chương, Một thời trơ trẽn, Cái học quẩn quanh…), Ông
không chỉ giới thiệu thơ mình (Lời đưa duyên…) mà còn giới thiệu thơ
cổ điển (Nguyễn Du..), thơ cận đại (Tản Đà…), thơ hiện đại (Huy
Cận., Thế Lữ…). Sau cách mạng đến với công chúng mới, ngòi bút
phê bình của Xuân Diệu càng dồi dào, sung sức, ông là tác giả của
hàng ngàn trang phê bình, với gần hai chục công trình, kể từ Tiếng
thơ đến bài viết cuối cùng Sự uyên bác với công việc làm thơ. Có ý
kiến cho rằng: “Về căn bản, văn tài của Xuân Diệu ở giai đoạn này
phát triển chủ yếu theo ngả tiểu luận nghiên cứu, chứ không phải là
thơ” (Tế Hanh), Trần Đăng Khoa đánh giá: “ Sự đóng góp lớn lao của
Xuân Diệu sau cách mạng không phải là thơ ca, mặc dù thơ ông vẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19
hay, cũng không phải ở mảng dịch thuật…tài năng của Xuân Diệu sau
thời Thơ Thơ Gửi hương cho gió, một lần nữa lại chói sáng lên ở lĩnh
vực phê bình, nghiên cứu thơ ca”[20,54-55]. Nói như Chế Lan Viên,
một mình Xuân Diệu làm việc bằng cả một viện hàn lâm văn học, ở đó
ông vừa là viện trưởng vừa là một ông loong toong. “Chỉ tính riêng
các tác phẩm lí luận, phê bình đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại
gia”, đặc biệt những tác phẩm tìm hiểu về các nhà thơ cổ điển Việt
Nam, bàn về công việc làm thơ….xứng đáng là những công trình tầm
cỡ chỉ có những nhà nghiên cứu phê bình thực sự tài hoa uyên bác mới
vươn tới được.
Không viết tài tử như Nguyễn Tuân, hoặc chỉ tập trung vào từng
vấn đề như Chế Lan Viên, hoạt động nghiên cứu phê bình của Xuân
Diệu trải ra rất rộng, trên nhiều bình diện, nhiều lĩnh vực. Hầu hết các
sự kiện có tính chất tiêu biểu của nền văn học nước nhà ông đều tham
gia ý kiến đóng góp. Đối với công việc tìm hiểu gia tài văn học ông
cha, Xuân Diệu là người đi tiên phong và có công rất lớn. Ông đã viết
nhiều chuyên luận công phu về hầu hết các nhà thơ cổ điển lớn của
dân tộc. Bộ sách Các nhà thơ cổ điển Việt Nam(hai tập) là m._.ột công
trình nghiên cứu bề thế. Tác giả đã mang vào trong đó tất cả tâm huyết
và tình yêu đối với văn học cổ điển. Nhiều nhà thơ lớn của dân tộc :
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn
Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Đình Chiểu…đã được Xuân Diệu
nghiên cứu, phân tích và bình giải. Với những khám phá và nhận định
mới mẻ, tinh tế, ông đã làm cho những tên tuổi lớn trong kho tàng văn
học dân tộc thêm thăng hoa toả sáng, từ đó người đọc kính trọng và
yêu thích hơn các nhà thơ cổ điển. Điều đó giúp cho các bài viết của
ông có chất lượng và đạt hiệu quả cao. Công chúng và bạn bè đồng
nghiệp trong giới ghi nhận phần đóng góp đáng tin cậy đó của nhà thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20
Xuân Diệu. Nhà thơ Chế Lan Viên đánh giá về công việc này của
Xuân Diệu: “Chỉ một mình Xuân Diệu đã viết hầu hết các danh nhân
văn học. Viết hay khó ai thay thế được”.Việc nghiên cứu phê bình thơ
cổ điển có vai trò rất quan trọng trong đời sống văn học hiện đại. Phát
hiện giá trị mới trong văn học truyền thống cũ là con đường làm giàu
truyền thống đem năng lượng tiềm tàng trong quá khứ để đẩy nhanh
quá trình nâng cao tầm văn hoá. Nó là cái cầu nối giữa hiện tại và quá
khứ, giúp ta “ ôn cố tri tân”. Đúng như Xuân Diệu xác định: “ Muốn
xây dựng nền văn học mới, việc học tập cái gốc văn học Việt Nam cũ
là rất cần thiết”. Những trang viết và thái độ chân thành hết mình đi
vào nghiên cứu văn học cổ điển của Xuân Diệu đã giúp chúng ta có ý
thức và quyết tâm hơn trong việc kế thừa và tiếp thu truyền thống văn
học dân tộc, trong việc tìm hiểu các tác giả, tác phẩm đã trải qua sự
thử thách và chọn lọc khắc nghiệt của thời gian.
Đối với thơ ca hiện đại, những đóng góp của ông rất đa dạng
phong phú. Dù là ở thời nào, trong hoàn cảnh nào, Xuân Diệu bao giờ
cũng thiết tha đấu tranh cho những giá trị đích thực của thơ. Ông là
người có tư tưởng cách mạng, phấn đấu cho một nền nghệ thuật chân
chính vì nhân dân, vì con người. Hầu như ông có mặt trong tất cả các
hoạt động thơ: là thành viên của ban giám khảo trong các cuộc thi,
viết lời tựa cho các tuyển thơ, viết bài tổng kết đáng giá từng chặng
đường sáng tác thơ. Xuân Diệu là một trong những người hàng đầu
nhặt nhạnh tìm kiếm những bài thơ hay, câu thơ hay của
Tiếng thơ quần chúng trong kháng chiến. Người ta còn khâm phục
Xuân Diệu ở vai trò phát hiện tài năng, truyền luyện tay nghề, phát
triển lớp trẻ, xây dựng thơ ca cách mạng. Xuân Diệu chú ý phát hiện
những tài năng thơ ngay từ trong những sáng tác đầu tay của họ, ví dụ
từ thời Thơ mới là Huy Cận, từ kháng chiến chống Pháp đến sau này là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21
những nhà thơ như: Quang Dũng, Chính Hữu, Phạm Tiến Duật, Hữu
Thỉnh, Trần Đăng Khoa,….Ông đặc biệt quan tâm tới sáng tác của
những tác giả lớn như: Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan
Viên…. Ông hăng hái Phê bình giới thiệu thơ, thơ nghiệp dư, thơ
chuyên nghiệp, thơ bộ đội, thơ thiếu nhi….Ông theo sát các cuộc thi
thơ, làm giám khảo công minh, nghiêm khắc với mong muốn nâng cao
dần chất lượng thẩm mỹ của thơ theo yêu cầu thời đại. Trước sau
Xuân Diệu vẫn nhất quán tiếp tục đấu tranh bảo vệ những giá trị của
thơ ca chân chính, ông dũng cảm đi vào những vấn đề bức xúc đặt ra
cho phê bình thơ hiện đại: đó là vấn đề chất lượng thẩm mỹ của thơ,
chất lượng của việc phê bình và biểu dương thơ, đáng giá những thành
tựu thơ cách mạng. Xuân Diệu đã góp phần nâng cao cảm thụ thơ
thời đại. Đúng như Trần Đình Sử nhận định, ta gặp ở đây
“ Một Xuân Diệu uyên bác trung thực, dũng cảm và chí tình”, “ Thái
độ thẳng thắn đó là biểu hiện của một tinh thần trách nhiệm lớn, một
nhân cách lớn”.
Hoạt động nghiên cứu phê bình của Xuân Diệu khá phong phú
đa dạng,nhìn vào tổng thể các công trình lớn nhỏ mà ông để lại, ta
thấy được tầm vóc khổng lồ và bóng dáng sừng sững của ông trong
nền phê bình thơ hiện đại. Trong bối cảnh phê bình thơ hiện đại Việt
Nam còn thưa thớt, ta càng nhận thấy những đóng góp của Xuân Diệu
thật là to lớn. Những thành tựu mà ông để lại đã phát huy tác dụng
trong việc xây dựng và phát triển nền thơ Việt Nam hiện đại
1.3 QUAN NIỆM CỦA XUÂN DIỆU VỀ THƠ VÀ PHÊ BÌNH THƠ
1.3.1 Quan niệm của Xuân Diệu về thơ
1.3.1.1 Thơ trước tiên là cuộc đời, là hiện thực .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22
Trong bài Công việc làm thơ Xuân Diệu đã phát biểu: “ Trong
một tác phẩm văn học cái mà người ta yêu trước hết là cuộc sống,
chân lý cuối cùng và cao nhất của nghệ thuật là cuộc sống. Nghệ thuật
không thể là một thế giới riêng ở ngoài đời”[7, 33]. Cái chân lý dường
như hiển nhiên và giản dị ấy, với thế hệ nhà thơ như Xuân Diệu có
được là cả một quá trình nhận thức, quá trình ấy diễn ra vừa có tính
quy luật, vừa nhiều vẻ gắn với hoàn cảnh riêng của mỗi người.
Những năm trước cách mạng tháng Tám, sống trong xã hội thực
dân phong kiến, nhiều nhà thơ lãng mạn có khuynh hướng thoát ly ,
quay lưng với thực tại bằng cách tự đưa mình vào cõi tiên, trốn vào
thiên nhiên thơ mộng,
“ phiêu lưu trong trường tình”, tìm đến thượng đế, trốn vào đạo, thậm
chí cả điên loạn. Riêng cái tôi khát khao rạo rực, ham sống , ham yêu
của Xuân Diệu, cho dù có lúc không khỏi cô đơn, sầu tủi. Vẫn cứ bám
riết lấy cuộc đời:
“ Ta ôm bó, cánh tay ta làm rắn
Làm dây đa quấn quýt cả mình xuân
Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần,
Chân hoá rễ để hút màu dưới đất…
(Thanh niên)
Ngay cùng thời gian ấy, trên báo Ngày nay, Xuân Diệu đăng bài
tiểu luận Thơ của người; ở một dạng diễn đạt khác, tư tưởng và tâm
hồn Xuân Diệu vẫn gắn với “ Nhân sinh” đắm đuối xiết bao:
“Thoát ra ngoài cuộc đời, ồ! Mộng tưởng cao quý; nhưng cứ ở
trong cuộc đời, sự cao quý lại càng cao hơn. Công việc dễ dàng là
đuổi một người tình nhân phụ ta, nhưng ở với họ và còn yêu họ luôn,
điều ấy chỉ ai thi sỹ mới làm nổi. Sao những người tự xưng thi sĩ lại
không làm được cái công việc ngang tàng sâu sắc: ở với đời và còn
luôn luôn yêu đời, dầu đời phụ ta”[4, 102].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23
Giọng văn tranh luận có cái bồng bột của tuổi trẻ, nhưng chúng
ta một lần nữa lại thấy được thái độ sống và quan niệm nghệ thuật
nhất quán của Xuân Diệu. Ông khẳng định thơ là của người, là của đời
và phải ở trong cuộc đời; nhà thơ phải là những người yêu cuộc đời
nồng nàn thiết tha nhất, chỉ vậy mới xứng đáng với “sự rộng lớn mênh
mông” và “niềm bao dung quảng đại” của thơ. Nhà thơ Thế Lữ đã vô
cùng thấu hiểu và chí lý khi đề tựa tập Thơ thơ những dòng sau “Xuân
Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của
ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Tưởng như cho
đến nay, chưa có ai có thể khái quát đúng bản chất con- người – thơ-
Xuân Diệu và quan niệm – nghệ thuật của Xuân Diệu gọn và đủ đến
vậy.
Những năm sau cách mạng, cũng như rất nhiều nhà thơ cùng
thời,ở Xuân Diệu có sự chuyển biến sâu sắc và mạnh mẽ trong tâm
hồn và tư tưởng. Cuộc đời và hiện thực trong quan niệm cũng như
trong thơ Xuân Diệu trước cách mạng chỉ dừng ở mức chủ yếu là tâm
tư của cái tôi- cá nhân cá thể, “Chỉ tự quay nhìn vào trong”. “Cái vũ
trụ riêng tư ấy” nghe được những cái rất tinh diệu và rất đáng trân
trọng, nhưng không thể nào “giàu sức mạnh” bằng cái tôi sau này. Sau
này mỗi khi nhìn lại mình, chính Xuân Diệu vẫn tự suy nghĩ trăn trở :
“Làm thế nào mà một tâm hồn thi sĩ cảm thương đã chuyển thành một
tâm hồn thi sĩ tham gia cải tạo thế giới”. Đó là cả một quá trình phấn
đấu của người cầm bút dưới ánh sáng lí tưởng cách mạng, là sự hoà
quyện nỗi niềm Riêng chung để cái tôi của nhà thơ gắn bó máu thịt
với số phận chung của cộng đồng. Xuân Diệu đã diễn tả rất cảm động
và chân thực niềm tự hào của cái tôi ấy
“ …Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi
Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu
Tôi sống với cuộc chiến đấu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24
Của triệu người yêu dấu gian lao”
Khi đã nhận thức bằng cả con tim và trí tuệ như vậy thì cảm
quan của nhà thơ về đời sống và văn học ngày càng phong phú và
nhạy bén hơn. Trong nền thơ hiện đại nước ta sau 1945, Xuân Diệu là
nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng “cần phải mở rộng một cánh thơ
nữa: thơ trữ tình diễn đạt thực tại”[6,80]. Trong hàng loạt các bài phê
bình tiểu luận như Thơ với cuộc sống, thơ và thực tế, Quy luật cuộc
sống và quy luật tác phẩm trong thơ, Công việc làm thơ… tư tưởng lý
luận của Xuân Diệu về mối quan hệ giữa văn học nói chung và thơ nói
riêng với đời sống đã được thể hiện một cách nhuần nhuyễn, biện
chứng và toàn diện hơn.
Với Xuân Diệu, sự sống là Cây đời mãi mãi xanh tươi, là vô hồi
vô hạn “Không bao giờ chán nản”, cuộc đời sáng tạo nhanh hơn trí
tưởng tượng”; người văn nghệ muốn ca ngợi cuộc sống, không thể
không nói chuyện đâu đâu, mà phải vào trong bếp núc của cuộc đời.
Có lúc trong mạch “triều lên” ông cổ vũ: “Văn chương, sáng tác,
không tiếp xúc với đầu sóng ngọn gió của cuộc đấu tranh, thì sẽ thành
hoa giấy thôi”.Với Xuân Diệu “Thơ trước tiên là cuộc đời, là hiện
thực”, mà hiện thực lúc đó chính là thực tế cách mạng, thực tế chiến
đấu và sản xuất: “Thơ của chúng ta là thơ của sự sống, mà sự sống là
từ thực tế, thực tiễn; cái cốt lõi máu thịt của thơ chúng ta là thực tế
chiến đấu và sản xuất”. “Còn thực tế nào có ý nghĩa lịch sử hơn cái
thực tế chiến đấu hoàn thành giải phóng dân tộc ở miền Nam và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta ?”[6,84].Xuân Diệu nhắc
lại chân lý: “Đời sống, thực tế và quần chúng là kho vô tận, là nguồn
bồi dưỡng vô hạn cho nhà thơ”[6,79],ông gọi hiện thực đó chính là hạt
giống, hạt giống ấy gieo vào tấm lòng thơ của người thi sĩ thì có thể
nảy cây, khai hoa kết quả. Xuân Diệu coi hiện thực không những là
điều kiện tất yếu, mà còn là cái điều kiện tiên quyết. Xuất phát từ quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25
niệm đó ông khuyên nhà văn nghệ cần phải tắm mình trong cái nguồn
hiện thực và quần chúng,để mở rộng một cánh thơ nữa: thơ trữ tình
diễn đạt thực tại[6,80]. Xuân Diệu ca ngợi các nhà thơ cổ điển như
Đỗ Phủ:
“ Nhà thơ thiên tài nói về hiện thực của xã hội, đã đưa ào ạt thực tế
vào thơ, đã làm những câu thơ hiện thực rất sớm trong văn học thế
giới”,thi hào Victo Huy gô “trở thành nhà thơ đầu tiên thực sự là hiện
thực của nền thơ Pháp”[6, 80-81]. Tuy nhiên “tác phẩm thơ được sinh
ra do sự quyện xe của thực tại khách quan với tâm hồn, trí tụê con
người”[ 7,35] cái gì cũng trở thành thơ được cả” nhưng “muốn thành
thơ phải lọc qua tâm hồn người , thấm cảm xúc người”. Vì vậy, thơ nói
riêng văn học nói chung không phản ánh cuộc sống một chiều, mà sự
phản ánh ấy còn bao hàm cả sự sáng tạo ra chất sống , sự sống: Thơ là
sự sống.Đó không chỉ là vấn đề thơ phản ánh hiện thực không thoát ly
cuộc đời, mà thơ tràn đầy sự sống đắm say ấm nóng. “ Thơ trước tiên
là cuộc đời, là hiện thực, vì ngay bản thân nó cũng chính là cuộc
sống”. Xuân Diệu nhấn mạnh: “Theo tôi nghĩ suy và sắp xếp thì trong
sự sáng tạo của nhà thơ, thứ nhất là sáng tạo chất sống, thứ nhì là sáng
tạo chất sống, thứ ba, thứ tư mới đến sáng tạo ngôn ngữ. và tô i dám
nghĩ rằng loại thơ sáng tạo ngôn ngữ quá tài giỏi cũng chỉ là thơ loại
nhì”[7,58].Cuộc sống được tái tạo thêm nhiều lần qua cái nhìn và tài
năng thể hiện của người nghệ sỹ, người làm thơ không chỉ phản ánh
đời sống mà còn truyền thêm chất sống, sáng tạo thêm sự sống, có lẽ
chính bởi vì thế mà nhiều hình tượng nhân vật, nhiều bài thơ đã bước
ra cuộc đời, sống mãi trong lòng bạn đọc.
Càng đề cao chất sống chất đời trong thơ bao nhiêu Xuân Diệu
càng đề cao tính chân thật của tác phẩm thơ bấy nhiêu. Với Xuân
Diệu, Chân thật chính là nền tảng của thơ, trong nhiều bài viết Xuân
Diệu nhắc như một yêu cầu thường trực:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26
“ Thơ phải:
Chân, chân, chân !
Thật, thật, thật !”
Tức là thơ phải có cái gốc ở trong cuộc đời, trong sự sống, bắt
nguồn từ lòng người, từ tâm hồn người. “Chạm trổ bao nhiêu cũng
phải chân thật, nghĩa là có mang tình cảm của con người; chứ không
phải tỉa tót khéo léo những khoé tay vặt. Vì vậy, người ta xưa nay vẫn
phân biệt được những chân thi sĩ- là thi sĩ xúc cảm thật vào đến tận
gan ruột, rung động thật đến tận chân tơ kẽ tóc mình” [7, 49].Ông
giảng giải, nhấn mạnh chữ “Chân’’: “Trong thơ, phải chân, nghĩa là
mình có bao nhiêu tâm hồn thì viết bấy nhiêu, đừng gắng hơi, đừng cố
mượn hơi ở người khác mà thổi cái bong bóng của mình; phải chân,
chứ đừng định lừa người đọc; phải chân, như cái hương tự nhiên của
tâm hồn”[5,350]. Tính chân thật của thơ nói riêng và văn học nói
chung là biểu hiện sự kết hợp hữu cơ giữa khách quan và chủ quan,
giữa sự am tường đời sống và “ nội tâm rất đầy” của nhà thơ. “Chân
thật” ở đây tuyệt nhiên không phải là “ Sự thực” hiểu theo nghĩa máy
móc đơn giản.
Xưa nay, những nhà thơ nhà văn lớn bao giờ cũng khát vọng qua
tác phẩm của mình nói lên được những vấn đề bản chất của con người
và cuộc sống; nhưng ít có ai quan tâm đến tính chân thật của thơ một
cách thường trực và yêu cầu gay gắt quyết liệt như Xuân Diệu.Ông
không chấp nhận sự giả dối trong thơ, theo Xuân Diệu có nhiều loại
thơ: “Thơ hay, thơ khá, thơ thường, thơ kém, thơ dở….thơ thành công
ít, nhiều, hoặc không thành công, chứ nhất định đừng có thơ giả” [5,
350]. Nói trực tiếp như vậy chưa đủ, ông còn khắc sâu bằng hình ảnh
cụ thể: “Là vàng, là bạc, là đồng, là thiếc, hay là chì, chứ nhất định
đừng là mạ vàng” [5, 351]. Xuân Diệu dặn dò các nhà thơ trẻ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27
“Những bạn làm thơ phải ghét cái giả như ghét rắn độc, thấy nó
ở đâu phải triệt ! còn thơ non kém, thì ta dần dần rèn luyện mà nâng
lên. Chỉ có một con đường chân thực để bồi dưỡng cho sự làm thơ,
con đường ấy trước hết là đào sâu suy nghĩ, đào sâu xúc cảm” [5,
350]. Xuân Diệu đã trích lời của một nhà thơ nước ngoài: “Thơ là con
đẻ của lòng thành thật, vì thiếu cái đó, thì thi phẩm không còn đủ sức
sống”,ở đây không đơn thuần chỉ là quan niệm về thơ, về văn chương,
mà còn là vấn đề con người, vấn đề nhân cách người cầm bút, người
làm sao sẽ viết ra thơ văn làm vậy, thơ tức là người mà lại là
“ người ở phần tinh vi nhất” nên càng không chịu được sự giả dối.
Chân thật được Xuân Diệu coi như một trong những tiêu chí để phân
biệt “thứ thơ lớn” với “thứ thơ bé”, là nền tảng của phong cách lớn,
bút pháp lớn. “Thứ thơ bé’ là các bài thơ có tình cảm bé, suy nghĩ hẹp,
không chú ý gốc chân cảm, mà chỉ chú ý đi vào hình thức giả tạo,
“khôn vặt”, “kỹ thuật vặt”dùng cái khéo léo của câu chữ để loè
người,thứ thơ này “gầy và bé”, ngày càng còi cọc, sẽ chết dần theo
thời gian năm tháng. “Thứ thơ lớn” theo quan niệm của ông là thứ thơ
có chất, có kỹ thuật, nhưng tác giả không coi kỹ thuật là chính, mà
quan trọng chất hơn là hình. “Thứ thơ lớn” là thứ thơ có tình cảm lớn,
suy nghĩ rộng và có cách nói của phong cách lớn, bút pháp lớn. [7, 46 -
49]
Biết rằng văn chương cần hướng tới cuộc sống con người, nâng
cao chiều kích của nó lên, văn chương cần phải chân thực, chống cái
giả tạo, nhưng không có nghĩa là hiện thực trần trụi. Hơn ai hết đã
từng là người sáng tác thơ ca, Xuân Diệu đòi hỏi bên cạnh cái “chân
thực” còn phải “Say”, phải có yếu tố “mộng’’. Bởi: “Văn học nghệ
thuật là lấy những cái thường của ngày thường mà làm nên những cái
rất say sưa, nếu chưa có khả năng làm người ta say sưa, thì chưa phải
là văn nghệ. Làm thơ, là làm cho người đọc thơ phải say mê, muốn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28
như vậy, thì bản thân người thi sĩ phải thật say mê” [5,335]. “Thơ với
đời, thực với mộng không tách rời nhau nữa, đời nên thơ, thực chứa
mộng, cho nên thơ hiện nay phải mở rộng và đón những vật và sự của
cuộc sống mới” [6, 80]. “Thơ của ta phải rất tỉnh và rất mê; rất tỉnh :
chủ nghĩa Mác – Lê nin, chính sách của Đảng và chính phủ, khoa học
hiện đại, là cái thông minh của loài người và của dân tộc phải hướng
dẫn cho đường thơ; nhưng hướng dẫn mà không lộ ra; rất mê : nền thơ
đúng đắn vẫn sinh nở theo phương thức của mình, làm cho người ta
mê thú như đàn ngọt, hát hay,người xinh, cảnh đẹp. [10, 172]. Với
Xuân Diệu thơ muốn hay thì không thể thiếu niềm “say mê”, tuy nhiên
ông cũng nhấn mạnh: “Người thi sỹ phải say, nhưng say mà tỉnh, chứ
không phải say say…Là mờ mịt tất cả việc đời, thì là tuý luý, ù cạc,
chỉ còn cái chủ quan, mà không có cái khách quan, không những là
công chúng không thể ưa, mà thi sĩ cũng mất cả nhân cách. Phải rất
say mê mà rất tỉnh táo, phải dậy rực lên tất cả tâm hồn cho đến từng
cuống tóc, mà lại phù hợp với chân lý” [5, 335-336]. Xuân Diệu đã ca
ngợi cái “say thơ quyện kết với cái say đời” của Tố Hữu trong bài thơ
Huế tháng Tám: “Cái say sưa những ngày Huế tháng Tám sảng khoái
lạ thường; nhà thơ đã mượn một thoáng siêu thực để nói cái hiện thực
thần thánh”. Trong thơ nhiều khi cần phải “say” phải “mộng” mới lắng
nghe và hiểu được cái thực của cuộc đời sâu hơn, đa chiều và tinh diệu
hơn, “dùng cả những thoáng siêu thực, tượng trưng…để làm cho cái
tinh thần hiện thực thêm sinh động” [10, 126]. Gần với quan điểm này,
nhà thơ Chế Lan Viên trong câu chuyện Vào nghề cũng nói đến việc “
nên tăng cường chất tưởng tượng trong thơ, trên cơ sở “chân” cần có“
ảo”, Chế Lan Viên đã dẫn ra ví dụ:
Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím
Em có chồng rồi trả yếm lại cho anh
Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29
Yếm em, em mặc, yếm gì anh, anh đòi.
Và phân tích: “Hẳn chưa có nhà thảo mộc nào lại lấy hoa cúc
màu vàng nở ra hoa cúc màu khác, thậm chí là nở ra cái màu rất vô lý
là màu xanh. Nhưng ở đây là sự giáo dở có thực của lòng một người
nào đó, chứ không cốt nói cái màu có thực của một loài hoa. Do đó
hoa cúc xanh vẫn sống ! và khi hoa cúc xanh sống được thì quả tim
xanh cũng có quyền sống được chứ sao ?”[45,143]. Ảo và thực là hai
mặt của cuộc đời, là sự chuyển hoá không ngừng của tư duy sáng tạo
nghệ thuật, vấn đề đặt ra là người nghệ sĩ phải tìm tòi sáng tạo thế nào
để diễn đạt mà thôi.
1.3.1.2 Thơ là tinh chất của cuộc đời
Xuân Diệu quan niệm “Thơ trước tiên là cuộc đời, là hiện thực”,
nhưng thực tế cuộc sống vốn phong phú đa dạng , nếu người làm thơ
đưa vào thơ
“ngổn ngang trăm thứ” thì cũng khó mà “nên câu tuyệt diệu”.Vấn đề
đặt ra là người làm thơ phải biết rút lấy tinh chất của hiện thực. “Làm
thơ là lọc lấy tinh chất, lấy cái hồn sự vật” [7, 95]. Quy luật thẩm mỹ
trong tác phẩm thơ theo Xuân Diệu còn được thể hiện ở vẻ đẹp tinh
chất của thơ.Vẻ đẹp này đòi hỏi nhà thơ phải có năng khiếu thẩm mỹ
chắc chắn để nhạy bén phát hiện được cốt lõi của sự vật tức là cái
đánh thức được cảm xúc và trí tuệ của con người, có khi nó không
phải ở vỏ ngoài mà lặn vào bên trong. “Tinh chất của vật là cái đập
được vào sự xúc cảm, sự suy nghĩ của con người; nó không phải ở vỏ
ngoài, mà lặn ở bên trong; tìm tinh chất là tìm cái phần người, cái
phần nhân hoá trong sự vật” [ 7,38- 39] Mặt khác, nhà thơ còn phải
biết chọn lọc một số nét thông thường, có khi quen thuộc, nhưng chính
nhờ tâm hồn rung động của mình, những chi tiết sự vật tưởng như
quen thuộc ấy lại hoá thành “mới” trở lại.Tinh chất là cái tinh tuý, cốt
lõi, sâu sắc, bản chất đẹp đẽ, những gì có giá trị cao nhất rút ra từ mọi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30
sự vật và hiện tượng trong đời sống, như rượu nồng cất từ gạo nếp,
như tơ óng rút từ ruột tằm, như “ những viên ngọc từ hồn nảy
ra”…phẩm chất thẩm mĩ này của thơ là một nét để phân biệt sự khác
nhau giữa thơ và văn xuôi. Vẫn là sự sống nhưng thơ có một thế g iới
riêng, “ thơ khó” vì phải súc tích “ phải sắc lại như một thứ thuốc nấu
nhiều lần”. “ những sự vật thường thường vẫn nhạt, vẫn loãng, thi sỹ
đem kết lại, đọng lại, tụ lại, làm nên những câu thơ đậm đà; tài liệu thì
vẫn lấy trong đời thường, trong cuộc sống hằng ngày, trong những sự
rung động của trái tim, của xương thịt; nhưng khi đã đem vào thơ thì
tài liệu biến thành ngọc châu”.
“Vì sao thơ khó? vì thơ đi xa hơn văn xuôi, thơ ỏ trong một thế giới
riêng; thơ vẫn là sự sống, nhưng đầy sự sống đọng lại, kết tinh lại biến
thành cái đẹp” [35,145]. Thông thường người đọc chỉ in sâu vào trí
nhớ của mình những bài thơ hay những câu thơ hay mà họ cho là tinh
hoa nhất, độc đáo nhất, sâu sắc nhất. Người làm thơ trong khi sáng tác
muốn cho người đọc nhớ lâu thơ mình, cần phải rèn luyện một khả
năng “đi trước thời gian”, làm cái công việc mà trí nhớ vẫn làm,
nhưng lại không chờ đến năm tháng- “phải rút lấy tinh chất của sự vật
để gây ấn tượng” [7, 38- 39]. Xuân Diệu khuyên những người làm thơ
nên học kinh nghiệm rút tinh chất đời sống của Nguyễn Du trong
truyện Kiều.Cụ Tiên Điền chỉ dùng 3254 câu lục bát mà “hồi hồi lớp
lớp” là những “chuyện đời rất phong phú”, có cả “chiến tranh và hoà
bình” ”[7,275]. Trong từng chặng sự việc diễn biến 15 năm của cuộc
đời Thuý Kiều, “Nguyễn Du đều rút lấy cái tinh chất; từ trong cái dài,
đã rút lấy cái ngắn; cái ngắn này lại gợi lên được cả cái dài” [7,39].
Ngược lại ông nhận xét Trần Đăng Khoa chưa biết rút tinh chất khi
viết trường ca Khúc hát người anh hùng kéo dài ngót 1300 dòng thơ:
“Bởi vì kéo dài ra cho nên phải tả tỉ mỉ, đáng lẽ một chi tiết nên nói
một câu, thì tác giả nói đến hai ba câu- như vậy là đã sai với cái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31
nguyên lý thuộc về thơ rồi: là hàm súc, hàm súc, là vẽ phác hơn là vẽ
hết, là kêu gợi hơn là phô bày”. [7, 276].
Nhân làm giám khảo trong một cuộc thi thơ do tạp chí văn nghệ
tổ chức năm 1961,Xuân Diệu đã phê bình hai bài thơ Gửi quê hương
trung du của Xuân Hồng và Hoa vạn Thọ của Phù Thăng có ưu điểm
đưa chất hiện thực vào thơ, nhưng còn có nhược điểm đang dừng lại
nhiều ở tài liệu. “Rất tiếc tác giả Xuân Hồng không hy sinh bớt đi một
số nét, để rườm rà, làm cho những tình cảm sâu bị lộn xộn, rối rắm
như tác giả chưa gỡ ra được, chưa vượt lên được để nắm những nét
chính của sự sống, của đề tài”. Còn tác giả Phù Thăng trong bài thơ
Hoa Vạn Thọ đã nắm được khá kỹ, biết nhiều sự việc trong những
cảnh sống rất khác nhau, có một tầm bao quát, ôm trùm sự vật để làm
thơ. Nhưng bài thơ lại rơi vào “ sự bộn bề của sự vật và lời nói, làm
cho thơ đi đến một kết quả là truyền cảm khó khăn, khi đọc thì thấy
bài thơ, gấp lại không thấy rõ nữa”. Sở dĩ như vậy là bởi tác giả chưa
biết rút tinh chất thơ: “ôm trùm đến đâu cần phải rút tinh chất thơ đến
đó” [10,198- 199]. Đúng như quan niệm của Xuân Diệu: thơ là tinh
chất của cuộc đời, với thời gian thử thách, chỉ những bài thơ nào tinh
chất thì mới còn lại trong trí nhớ người đọc muôn đời.
1.3.1.3 Thơ là sự sống mãnh liệt được lọc qua tâm hồn trí tụê
Trong tiểu luận Công việc làm thơ Xuân Diệu đã phát biểu “Thơ
trước hết là cuộc đời, là hiện thực.Và thơ còn là thơ nữa”[7,35] .Thơ
không chỉ thoả mãn quy luật của cuộc sống, mà thơ còn phải tuân theo
những quy luật nội tại của một tác phẩm nghệ thuật.Ông cho rằng quy
luật quan trọng trước tiên của thơ là: “Sự cộng thêm vào thực tại một
tâm hồn, một trí tuệ, một tình cảm, một sáng tạo”. “Không xuất phát
từ thực tại thì thơ chán phèo, nhạt thếch…có thực tại mà người làm
thơ chưa tiêu hoá cái thực tại ấy qua tâm trí mình, thì theo tôi, hiện
tượng thơ cũng chưa được sản sinh”[7,36]. Quy luật lớn của thơ là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32
tình cảm, là những thực tế ngồn ngộn kia xúc động thế nào vào một
tâm trí, để rồi từ tâm trí, bản lĩnh cá thể hoá đó, tác động vào hàng
triệu tâm trí cá thể hoá khác” [ 7, 136]. Xuân Diệu gọi tâm hồn và trí
tụê của nhà thơ là “cái lò cừ nung nấu sự đời” mà qua đó những
nguyên liệu, chất liệu của cuộc sống phong phú ngồn ngộn được nhào
luyện, tái tạo để thành thơ văn [5, 715]. Thơ chính là cuộc đời, là sự
sống được lọc qua tâm hồn trí tuệ nhà thơ.Thơ là sản phẩm của tâm
hồn trí tuệ, “thơ là tiếng hát của tâm hồn, là sự thực trần trụi của tâm
hồn” [10, 228] thể loại này thiên về phía bộc lộ cảm xúc tình cảm.
Ngày xưa Lê Quý Đôn (1726- 1784) khi bàn về thơ cũng đã sắp xếp
theo thứ tự Tình, rồi mới đến Cảnh, và Sự:
“Ta thường cho làm thơ có ba điều chính: một là Tình, hai là
Cảnh, ba là Sự. Trong lòng có cảm xúc thật sự, rung cảm sẽ nên
lời….Tình là người, cảnh là tự nhiên, sự là sự hợp nhất cả trời và đất.
Lời tình tham cảnh, lấy cảnh hội việc, gặp việc thì nói ra thành lời,
thành tiếng.”
Ngô Thì Nhậm trò chuyện về thơ với Phan Huy ích cũng khẳng
định: “…Hãy xúc động hồn thơ để ngọn bút có thần”.
Kế thừa và phát huy truyền thống thơ ca dân tộc, Xuân Diệu đặc
biệt đề cao vai trò của cảm xúc tình cảm trong thơ: “Thơ là một vấn đề
của tâm tình, hơn là vấn đề bày biện. Thơ bảo ta phải nói cảm
xúc”[5,125]. “Quy luật lớn của thơ là xúc cảm và suy
nghĩ”[7,152].Theo ông xúc cảm không đơn thuần chỉ là rung động tình
cảm, bởi vì người ta có thể rung động rất nhiều thiết tha chân thành
đến ứa lệ, nhưng ra nước mắt chưa hẳn đã ra thơ; nói xúc cảm là nói
“những rung động tình cảm cộng với đồng thời một cơn rung động về
vần điệu, hình tượng âm thanh, một hứng thú sáng tạo” [6,85].Và suy
nghĩ ở trong thơ cũng phải cao hơn suy nghĩ bình thường “ tức là suy
nghĩ trở thành xúc cảm” [ 7,152]. Từ đấy Xuân Diệu xác định: “Bài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33
thơ hay kết hợp được cảm và nghĩ; cảm là xúc cảm tình cảm; nghĩ,
hiểu theo nghĩa rộng là có tính tư tưởng, chứ không phải bắt buộc bà i
thơ cứ phải suy nghĩ, cố mà “suy nghĩ” đến nỗi thành ra triết lý dễ
dàng; trong xúc cảm, tình cảm cũng mang tính tư tưởng” [7,178] .
Xuân Diệu quan niệm “bài thơ nên đầy nặng tư tưởng”, nhưng tư
tưởng trong thơ phải được diễn đạt qua xúc cảm, “văn học mang tư
tưởng xuyên qua tình cảm cảm xúc”. Khác với một nhà tư tưởng, một
nhà triết học là “nhà thơ đầy xúc cảm, diễn đạt bằng xúc cảm, suy nghĩ
qua xúc cảm” [7,178].Cái mà người đọc đòi hỏi ở thơ là tình cảm: “Dù
nói đến người, đến vật, đến việc cũng phải tràn trề tình cảm! người ta
đòi hỏi người thi sỹ phải nói bằng tất cả trái tim, linh hồn của mình,
càng dạt dào càng hay”. Thơ văn đối với Xuân Diệu bao giờ cũng ra
đời trong nỗi niềm “ đầy rẫy cảm xúc” của thế giới nội tâm của nhà
thơ, nhà phê bình này liên tưởng thật thú vị khi viết : “ Tác phẩm văn
học là sự cưới xin giữa ngoại vật và nội tâm nhà thơ”, nội tâm có sức
mạnh “ qui tụ cảnh vật bên ngoài vào quanh một cái trục, biến vật vô
tri thành ra tình cảm”[5, 1017].Có lẽ chính vì thế mà ông lưu ý các
bạn làm thơ không được coi thường nội tâm: “Thơ là kỹ sư của tâm
hồn hơn loại nào hết, là nội tâm của tình cảm…Làm thơ sao lại coi
thường nội tâm” [7,143] “hơn các thể loại khác, thơ diễn đạt xúc cảm
tình cảm…diễn đạt thế giới bên trong nội tâm. Làm thơ mà không chú
trọng nội tâm, thì sẽ bị sự thiếu sót đó quật lại mình,bài thơ sẽ không
ở lại trong trí nhớ người đọc.Trên cơ sở đó Xuân Diệu nhận xét về
nhược điểm của trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh, là
chưa quan tâm nhiều đến nội tâm của tình cảm, cho nên: Đường tới
thành phố để lại cho tâm trí tôi một cảm tưởng hơi rối, và tôi thấy lắng
đọng lại ít”.[7,142- 143].Ông ca ngợi tập thơ Từ ấy của Tố Hữu, tràn
đầy cảm xúc tràn đầy tình cảm; nó có một điệu cảm xúc say mê.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34
Thấy rõ vai trò của tình cảm trong thơ, Xuân Diệu nhận ra
những người trẻ tuổi và thơ là hai ý niệm thường gắn liền với nhau,
bởi “đã nói đến thơ là phải nói đến trẻ: sức sống trẻ, trí tưởng tượng
trẻ, cảm xúc trẻ, ngôn ngữ trẻ, vần điệu trẻ, tâm hồn mãi mãi trẻ”.Tuổi
trẻ là cái tuổi bắt đầu cuộc đời, người ta có trăm nghìn cảm xúc mới
lạ, người ta có sức trẻ cần thiết cho thơ, người ta thường tràn trề đầy
rẫy chứ không khô cạn; người ta dễ hăng hái, táo bạo; tâm hồn người
ta rất nên thơ, người ta yêu thơ”… [5, 331-332]. Trong bài Trò
chuyện với các bạn làm thơ trẻ Xuân Diệu tâm sự: các bạn làm thơ
muốn làm được thơ hay cái phải bồi dưỡng trước hết là cái gốc tình
cảm, bồi dưỡng tâm hồn, nếu người làm thơ yêu qua loa cảm xúc cạn
như đĩa đèn thì không bao giờ có được thơ hay:
“Bạn muốn làm thơ, bạn muốn làm thơ hay, mà bạn yêu cuộc
sống như thế nào..Bạn có nhìn cuộc sống như khi bạn nhìn khuôn mặt
thương yêu hay không? cuộc sống đây trước hết là những con người
làm nên xã hội, là nhân dân lao động..; cuộc sống đây là thiên nhiên
rất mực xinh đẹp…Mồ hôi nước mắt, nụ cười của những con người lao
động và đấu tranh xáo trộn lòng bạn sâu đến đâu. Bạn có thấy lòng
yêu, ghét đúng đắn và lớn lao vọt lên từ đáy trái tim bạn.Đó chính là
cái gốc của thơ” [5, 349].
Xuân Diệu nêu những suy nghĩ này ra không chỉ đòi hỏi ở các
bạn làm thơ trẻ mà còn là một yêu cầu với chính bản thân mình- một
nhà thơ. Đọc thơ Xuân Diệu từ tập thơ đầu tay Thơ thơ, ta đã gặp một
tâm hồn trẻ trung dào dạt sức sống ,với những cảm xúc tràn đầy.Ngay
từ Lời đưa duyên mở đầu tập Thơ thơ, nhà thơ trẻ này đã tự giới thiệu
những bài thơ của ông:
“Đây là hồn tôi đương thời sôi nổi, đây là hồn tôi vừa lúc vang
ngân, và đây là tuổi xuân của tôi, và đây là sự sống của tôi nữa: tôi
đem tặng cho mọi người….Tôi để lòng tôi trong những câu những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35
tiếng, tôi đã gửi nhịp máu trong nhịp thơ, đã gói gém hơi thở của tôi
trong ít nhiều âm điệu. Tôi sợ mất sự sống của tôi, không muốn nó rơi
rớt chảy trôi theo dòng ngày tháng, tôi đã ráng bỏ từng mảng đời tôi
trong hàng chữ, để gửi đi, gửi đi cho người, cho bốn phương”[34,36].
Chúng ta thấy ở đây sự sống ăm ắp trong tất cả nối niềm của thi
sĩ, đó là tiếng nói của một t._. mác lâng lâng của thi
sĩ Tản Đà.
Nhà phê bình, đồng thời cũng là nhà thơ tình nổi tiếng này đã
hồi hộp dõi theo mối tình Kim - Kiều, nào là đoạn Kim – Kiều gặp
nhau, Kim – Kiều tương tư, Xuân Diệu đã hình dung ra bảy bước mối
lái Kim – Kiều trong 283 câu thơ, từ lúc họ gặp nhau đến lúc họ thổ
lộ với nhau lời yêu đầu tiên,đúng là tầng tầng, lớp lớp, hồi hộp đợi
chờ, có tới có lui, có khấp khởi phập phồng đầy ắp tâm trạng [11, 177 -
181 ]. Cũng chỉ có Xuân Diệu mới có thể hình dung được dáng đi của
anh chàng si tình Kim Trọng “ Cứ từng hai bước một anh : Xăm xăm-
dè nẻo- Lam Kiều- lần sang, chăm chăm chúi chúi đi tìm lại cái bóng
ảnh mộng mơ, nếu có đụng trán vào cây anh cũng không biết” [ 11,
165 ]
Một yêu cầu mà các nhà phê bình nghiên cứu luôn khao khát
vươn tới đó là sáng tạo lại các tác phẩm theo những bình diện mới,
góc độ mới, đem đến cho bạn đọc những cách tiếp cận mới mẻ thú vị.
Với trí tuệ uyên bác và trí tưởng tượng diệu kỳ của mình, Xuân Diệu
không chỉ phê bình thưởng thức tác phẩm một cách thông thường ,mà
ông đã góp phần sáng tạo lại các tác phẩm ấy. Chúng ta hãy lắng nghe
đoạn văn Xuân Diệu sáng tạo lại thơ Xuân Hương bằng cách cảm hiểu
của mình:
“Xuân Hương bực bội có một nhu cầu cần xé, cần phá, xé phá
xã hội chưa được, thì Xuân Hương làm cho cảnh nhọn lên , xiên ngang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 132
mặt đất rêu từng đám, đâm toạc chân mây đá mấy hòn; Xuân Hương
muốn một cái gì như thụi, như đánh, lắt lẻo cành thông cơn gió thốc ,
chứ không còn là gió thổi…Cái chân của Xuân Hương cũng muốn làm
cho rách thêm cái động Hương Tích, người quen cõi phật chen chân
xọc; con mắt của Xuân Hương như giương chống lên, có thể bóc trần
tất cả: kẻ lạ bầu tiên ghé mắt dòm; cái tay của Xuân Hương không
đụng vào cảnh vật một cách nông cạn; mà lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp,
lách khe nước rỉ mó lam nham; đối với tai của Xuân Hương, các tiếng
động chẳng lướt qua mà nó sống lên, có khối trong không khí, gió đập
cành cây khua lắc cắc- sóng dồn mặt nước vỗ long bong…Xuân
Hương nhìn sắc màu, thì những sắc màu đó phải kêu lên, phải xé ra,
phải cao độ, phải là cửa son đỏ loét tùm hum nóc, hòn đá xanh rì lún
phún rêu”. [ 11, 474 ].
Bằng khả năng thẩm thơ của mình, Xuân Diệu đã chủ động hoà
vào người thơ, tác phẩm thơ của người xưa, như cùng “đồng sáng tạo”,
cách sáng tạo đó giúp người đọc tiếp xúc, suy nghĩ , đánh giá tác phẩm
một cách nguyên sơ như dạng vẻ ban đầu của nó.
Với lối phê bình trực cảm, Xuân Diệu luôn đề cao năng lực cảm
thụ lấy tình yêu say sưa đầy rẫy của mình, lấy trí tưởng tượng phong
phú, lấy mắt xanh tri âm tri kỷ, cái gu tinh nhạy để khám phá được
nhiều phương diện tinh tế của thơ, chinh phục được chân trời sáng tạo
của các nhà thơ.Từ trái tim mình, Xuân Diệu đã đem đến trái tim bạn
đọc cái đẹp, cái diệu kỳ của những áng thơ hay.Tuy nhiên cũng cần
phải thấy rằng phê bình trực cảm tự bản thân nó cũng có giới hạn, nếu
chỉ trực cảm người ta sẽ khó lòng đi sâu vào bản chất qui luật. Có lẽ
chính bởi vậy bên cạnh lối phê bình giàu tính trực cảm, Xuân Diệu
cũng cảm nhận thơ có lý luận ,ông dựa vào văn bản nghĩa chữ, vận
dụng nhiều phương pháp phân tích so sánh, đối chiếu công phu mang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 133
tính khoa học cao, khiến cho sự cảm thụ trực cảm chủ quan, nhưng
không tuỳ tiện, mà vẫn sắc sảo vững vàng.
3.4. Cách hành văn sôi nổi mãnh liệt.
Xuân Diệu là một trái tim dạt dào, sôi nổi, đắm say, ông rất sợ
sự lạnh nhạt ngay từ hồi Thơ thơ mới ra đời, trong Lời đưa duyên
Xuân Diệu đã nhắn gửi “Tôi rất sợ sự lạnh nhạt, sở dĩ tôi tha thiết như
vậy, là muốn xứng đáng với lòng bạn thiết tha…hỡi không gian xin
người đừng lạnh lẽo”. Xuân Diệu- thơ, Xuân Diệu – văn xuôi hay
Xuân Diệu- nghiên cứu phê bình thì cũng vẫn là một Xuân Diệu ấy-
con người của niềm khát khao giao cảm với đời . Viết phê bình cũng
chính là cách để ông giao cảm với đời, với thơ, có lẽ chính bởi vậy mà
hành văn phê bình của ông thường sôi nổi mãnh liệt, giàu tình cảm,
cảm xúc. Một thứ văn yêu ghét cao độ, xúc cảm cao độ. Xuân Diệu
viết rất tha thiết say sưa, viết bằng tất cả sự rung động của tâm hồn.
Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn cho rằng:
“Sở dĩ người ta nhớ và thích văn nghiên cứu của Xuân Diệu, cái
chính là do tác giả đã mang vào đây tất cả tâm huyết của một người
sống chết với văn học, yêu vô cùng tiếng mẹ đẻ, yêu sự nghiệp của cha
ông. Nói theo chữ Xuân Diệu thường dùng, cái “ tình yêu đầy rẫy” đó
đã thấm vào văn anh, làm nên mạch đập run rẩy trong mỗi dòng chữ,
làm nên sức cuốn hút của từng trang viết” [ 35, 284].
Đặc biệt khi viết về các nhà thơ cổ điển của dân tộc, lời văn của
Xuân Diệu như có cánh, bay bổng thăng hoa, tràn đầy chất trữ tình.
Xuất phát từ quan niệm coi trọng sự cảm thông và thấu hiểu
trong phê bình, cái tôi chính luận dào dạt chất trữ tình trong văn phê
bình Xuân Diệu thiên về phía trò chuyện tâm sự. Ngay ở nhan đề
nhiều bài viết của Xuân Diệu cũng nằm trong mạch tâm tình ấy : Trò
chuyện quanh một bài thơ mưa, Tâm sự với các em về tiếng Việt, Một
chút tâm sự về làm thơ chiến đấu, Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 134
Câu chuyện nhỏ trước các bạn viết văn trẻ, Bàn thêm với bạn, Tâm
tình cùng bạn… Khi tiếp xúc với 116 bài thơ của Nguyễn Trãi, Xuân
Diệu có cảm giác tâm hồn mình sực nức lan xạ của thơ người, và ông
hăm hở chia sẻ với bạn đọc một điều mà mình rất “khoái trá”, rất tâm
đắc: “Khoái trá biết bao, mình là con cháu sáu trăm năm sau được vào
đền thờ tổ tiên thuở trước, ôm từng cái cột, đếm từng chiếc kèo, ngửa
mặt lên nhìn từ bên trong mỗi phiến ngói, nắm từng cánh cửa, trân
trọng từng viên gạch…Suốt cái phần đời còn lại cho đến hơi thở cuối
chót sẽ vẫn còn cái tâm đắc này”[ 8, 19]. Có lúc Xuân Diệu lại níu kéo
trò chuyện với người nghe bằng một giọng kể xúc động say sưa, như
gợi một niềm say mê: “Tôi còn nhớ khi mình còn nhỏ độ mười bốn,
tình cờ tôi mở Kiều ra đọc; tôi chưa hề biết câu chuyện đầu đuôi ra
sao, các nhân vật thế nào, tôi cứ lao vào giữa trang, và vốc từng vốc
thơ, uống say sưa! Và tôi riêng chọn những câu nào tôi yêu mến nhất,
trữ tình nhất, cất vào trong trí nhớ non trẻ”[ 11, 194]. Cũng có khi cái
tôi chính luận lại tâm sự với chính mình như đau đáu một khát vọng
khôn nguôi: “Ôi! bao giờ thơ mình cũng được người ta mua như mua
một bao diêm, cùng với bao diêm; giá mà thơ cũng cần thiết cho sự
sống đến như một bao diêm! được người ta rung đùi mà “đọc thơ
Xương, ăn chuối ngự” thì chết cũng ngậm cười nơi chín suối” [ 8,
617]. Yêu mến, trân trọng thiết tha với nhà thơ Tản Đà, Xuân Diệu đã
tâm sự chân thành:
“Tôi sẽ là người bội bạc nếu tôi quên cả một thời tuổi nhỏ, thời
tôi đã yêu, đã mê thơ của thi sĩ Tản Đà. Người ta có thể đổi thay, tuổi
tráng niên không còn những cái thích của ngày thơ dại cũng như tấm
lòng không ở mãi trong một tình yêu. Nhưng ta không quên, kỷ niệm
còn đây để nhắc tôi cái hương xưa của những thơ mộng ban đầu”[34,
310 ].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 135
Xuân Diệu đã không giấu nổi nỗi xúc động của mình khi tìm
thấy tập thơ quý giá Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi: “Chao ôi hú
vía! nghĩa là 254 bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi rất có thể chúng ta nay
không được đọc một tí gì! Nghĩa là cái mảng tình cảm tinh vi nhất của
Nguyễn Trãi, chưa kể cái kho văn quốc ngữ cổ nhất do Nguyễn Trãi
sáng tác, rất có thể chỉ còn lại tên sách mà thôi”[ 11, 55]. Văn phê
bình của Xuân Diệu là loại văn thiên về trò chuyện giãy bày tâm sự,
văn của ông cho ta có cảm giác như “đối diện đàm tâm” với chính tác
giả của nó. Xuân Diệu hay sử dụng đại từ xưng hô ta, chúng ta lặp
đi lặp lại nhiều lần, nhưng người đọc không hề có cảm giác nhàm
chán, tẻ nhạt, thậm chí trong nhiều bài viết ta còn gặp cách Xuân
Diệu gọi đối tượng mà mình hướng tới một cách trìu mến, thân mật
như: “Các bạn viết văn trẻ ơi”, “Các bạn viết văn trẻ yêu quý” [7, 96-
98], “Các em thiếu nhi thân yêu” [6, 414]…Những cách xưng hô ấy đã
góp phần tạo nên một không khí giao tiếp ấm áp , rất hoà hợp với độc
giả, ta cảm giác có một Xuân Diệu bằng xương bằng thịt ở rất gần bên
ta, sẵn sàng chia sẻ lắng nghe. Bằng cách ấy Xuân Diệu đưa cái đẹp
cái hay của thơ, đi sâu vào thế giới tâm hồn của người đọc.
Văn phê bình của Xuân Diệu là một thứ văn giàu hình ảnh, giàu
cảm xúc, với cách sử dụng từ ngữ thật đặc biệt, thật ấn tượng ,như găm
vào trí nhớ người đọc, chúng lột tả đúng bản chất của sự vật và hiện
tượng, thể hiện được tình cảm của người viết và tác động vào cảm giác
của người đọc. Xuân Diệu không ngại sử dụng lớp từ đặc trưng cho
văn nói, về điểm này Trần Thị Thanh Hà nhận xét: “Ông đã đưa vào
văn phê bình (mà nhiều người coi là loại văn bác học”) một dáng dấp
văn nói rất đẹp, rất đa dạng, rất thanh thoát tự nhiên” [ 17, 174] . Đó là
những thán từ khẩu ngữ như: hú vía, ôi, chao ôi, trời đất ơi, khoái trá
biết bao…; những tính từ thể hiện cách đáng giá tuyệt đối hoá như:
xuất sáo, tót vời, đầy rẫy, say sưa … ; những động từ mạnh: phun,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 136
hộc, khạc, gãy lưng… Những từ ngữ này biểu lộ trực tiếp tình cảm,
cảm xúc của cái tôi trữ tình Xuân Diệu, bổ trợ cho những nhận xét
đánh giá của ông, đồng thời nó cũng lôi kéo được sự đồng cảm nơi
người đọc. Mỗi lần đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, là Xuân Diệu
không giấu nổi niềm say mê mãnh liệt. Khi nói về sức hấp dẫn của
Truyện Kiều, Xuân Diệu diễn đạt rất hình ảnh: “Cô Kiều quả thật sắc
sảo mặn mà, vẫn còn làm gãy lưng được nhiều nhà phê bình”, cách
dùng từ độc đáo rất Xuân Diệu. Ông gọi Xuân Hương là một nghệ sỹ
lớn “Biết phun tâm hồn mình vào cảnh vật, làm cho chúng sống lên
ngồn ngộn…Xuân Hương như một nhà điêu khắc tạc cho đá sống và
yêu, chính Xuân Hương là bà tạo hoá…Và một nữ thi sỹ, một nhà điêu
khắc truyền cả hơi sống, cả tình yêu vào đá, đến nỗi đá cũng ửng hồng
lên như có máu chạy: đá cứng lắm, nặng lắm, mà nó chẳng nằm chết
như đá, nó giãy ra, nó cọ mãi, nó già dặn tình xuân! ”[ 11, 478] .
Có lẽ chưa có ai viết về Xuân Hương với tình cảm sôi nổi và
niềm đam mê cháy bỏng như Xuân Diệu, người đọc sẽ còn nhớ mãi
một Xuân Hương với tài năng sử dụng ngôn ngữ tuyệt vời, và một
Xuân Diệu đầy “chất lửa” nhiệt tình trong văn phê bình. Còn đối với
Tú Xương, Xuân Diệu nhận xét:
“Một giọng nói trên đường đời rất mực tâm huyết, tôi thấy thơ
Tú Xương như là trong tiếng chim quốc có máu…đó là một người đã
làm thơ, đã nói thì muốn khạc cả tim phổi của mình vào văn” [8,
617].“Nhiều nhà thơ khác cũng trào phúng, nhưng chất lượng cười
không sâu bằng Tú Xương, không phải như Tú Xương hộc ra tiếng
cười[ 8, 566, 567]. “Thơ đả kích của Tú Xương thường làm theo lối
chửi, mà chửi là đánh vào lời nói, mà lời nói thì dễ gió bay. Tú Xương
không dành lòng thế, mà bám sát đối tượng: thơ Tú Xương như một
thứ axít đổ vào nó, cắn cho nó nát ra, cháy đi” [ 8, 554]. Đó là những
đoạn văn mà ở đó ta nhận thấy kỹ thuật diễn đạt giàu nội lực, đầy sức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 137
biến hoá, nhằm bộc lộ lí lẽ và cảm xúc. Nói về bất cứ nhà thơ nào con
mắt xanh của Xuân Diệu “cũng tìm bằng được cái lửa, cái điện riêng
của người đó. Mà tìm ở đâu? Tìm ngay ở những vang hưởng tác phẩm
gợi lên trong lòng mình”. [35, 284], và diễn đạt bằng mạch văn sôi
nổi, dạt dào, bằng những liên tưởng so sánh độc đáo theo cách riêng
của mình, điều đó tạo nên sức lôi cuốn, hấp dẫn cho mỗi trang viết.
Qua những dòng chữ sôi nổi ấy, người ta thấy hiện lên rất rõ,
rất đậm chân dung cái tôi Xuân Diệu: sôi sục, hăm hở hết mình với
văn thơ, chữ nghĩa, hết mình với sự sống , với cuộc đời. Ông lao vào
đống tư liệu lịch sử, văn hoá văn học, đau đớn vì chưa tìm được đích
xác lai lịch của Hồ Xuân Hương: “Chúng ta ngày nay rất tức tối và
đau đớn, đứng trước tình cảnh không biết ngày sinh tháng đẻ năm mất
của một thi hào như Xuân Hương [ 11, 411]. Ông day dứt, trăn trở vì
cảm thấy mình chưa phát hiện hết cái hay trong thơ Nôm Nguyễn Trãi:
“Chao ôi, cho đễn khi viết tới dòng này, tôi vẫn chưa nói hết được cái
hay trong thơ Nôm của Ức Trai”[ 11, 95]. Bực bội vì chưa hiểu rõ một
chữ trong thơ Nguyễn Trãi. Ghét cay ghét đắng cái thằng Sở Khanh,
cái con mụ Tú Bà, ông gọi Tú Bà là “Con hổ cái” và “Trời đất ơi! Mụ
nói không đầy nửa phút mà bọt mép của mụ văng ra mãi đến ngàn năm
! tưởng như mụ đã xé xác người ta rồi…Tưởng như mụ nói, rách cả
trang giấy Truyện Kiều” [ 11, 162-163]. Ông ghê sợ cho cái máu ghen
Hoạn Thư: “Cái mưu mô của mụ sâu sắc quá.. khiến ta nghĩ đến, vẫn
còn lè lưỡi, sởn gai, vẫn phải phục mụ “Khôn ngoan rất mực, nói năng
phải lời” [ 11, 165]. Tức giận phẫn nộ với trời làm Tú Xương hỏng
thi: “Mà chó thế! Lại cứ hỏng thi!” [ 8, 604], thích thú khi Tú Xương
đưa món quà ngô lúa vào thơ [ 8, 612]. Nếu như “ngòi bút Nguyễn Du,
tấm lòng Nguyễn Du cũng đi đi, về về với Kim, Kiều”, bởi “Nguyễn
Du yêu mến hai người tài tử như đẻ họ ra từ trái tim, xoắt xuýt quanh
họ không nỡ tiếc, không nỡ dời, toả hết những gì xinh đẹp, măng tơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 138
nhất, thanh tao và đằm thắm nhất” [ 11, 175- 176], thì Xuân Diệu-
nhà thơ số một của tình yêu hiện đại ấy, đã bao lần đắm say rạo rực
cùng với mối tình Kim – Kiều. Chúng ta cũng đã thấy nhà phê bình
thơ ấy sung sướng, khoái trá đến thế nào khi thưởng thức những chữ
nghĩa thần tình của Xuân Hương hay Nguyễn Khuyến Tú
Xương…Chứng kiến tài năng thơ của cậu bé “thần đồng” Trần Đăng
Khoa, Xuân Diệu không giấu được niềm sung sướng tự hào và niềm
tin vào lớp con cháu hậu sinh. Ta hãy nghe một lời bình của ông về sự
sáng tạo hình tượng trăng trong thơ Trần Đăng Khoa: “Một hình tượng
mà xâu chuỗi được từ trời sang biển, từ biển đến trời, trăng là mắt của
một con cá nào nhìn nghiêng kỳ diệu đến thế!... Tới hình tượng thứ ba,
thì chỉ có một trẻ em mới, lần đầu tiên, nghĩ ra trong thơ:
Trăng ơi từ đâu đến
Hay từ một sân chơi
Trăng bay như quả bóng
Đứa nào đá lên trời
Với giọng văn đầy hào sảng chan chứa niềm tự hào dân tộc Xuân
Diệu khẳng định: “Cái cú sút này hẳn là của một em thiếu nhi Việt
Nam, con cháu của một dân tộc anh hùng, mới đá được quả bóng sáng
bay lên thành mặt trăng như vậy” [ 34, 502- 503].
Với cách hành văn sôi nổi mãnh liệt, với một cái tôi giàu khả
năng giao cảm chân thành hết mình, Xuân Diệu đã đem đến cho nền lý
luận phê bình của chúng ta một phong cách thơ hết sức đa dạng và độc
đáo.
3.5. Một số hạn chế.
Ở trên ta đã nói đến một đặc trưng trong phong cách nghiên cứu
phê bình của Xuân Diệu, đó là kết hợp bình và giảng. Đây là mặt
mạnh, đồng thời người ta lại tìm thấy ở đó những hạn chế của ngòi bút
Xuân Diệu. Không phải bao giờ Xuân Diệu bình và giảng cũng hay,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 139
trong một số trường hợp Xuân Diệu quá ham giải thích, cái gì cũng
giải thích, cái gì cũng giải giải, giảng đến sơn cùng thuỷ tận, ông đã
để lộ quá nhiều nhiệt tình của mình ra ngoài lời, và do đó mắc vào cái
tật dài dòng, tham nói, trong khi cần một sự thâm trầm, ngắn gọn,
hàm súc hơn. Vì tham nói, nói nhiều , nhiều lúc Xuân Diệu cũng không
tránh khỏi lối suy diễn chủ quan. Không khó lắm để chỉ ra những chỗ
“bất thập toàn” ấy trong văn phê bình của Xuân Diệu. Ví dụ trong
Truyện Kiều có câu Trên yên sẵn có con dao, bản chữ Nôm ghi là
yên, phiên âm là yên. Nhưng Xuân Diệu thích là án hơn và do quá
say tưởng tượng, để dòng cảm xúc chủ quan cuốn đi, ông đã bình một
cách suy diễn: “Trên án, sẵn có, hai dấu sắc ánh lên như ánh con dao
sáng loáng, như ánh mắt nàng Kiều sáng quắc, quyết định nếu sau này
nhục quá thì sẽ liều thân tự tử” [ 11, 371], Xuân Diệu chê nhà bình
luận Tản Đà không thấy chỗ táo bạo ấy của Nguyễn Du nên chép thành
Trên yên sẵn có con dao, hoá ra là bằng phẳng vô vị! Yên thế nào
được! Đã vào sóng gió rồi không thể nào yên”[ 11,371]. Hay câu :
Sẵn thây vô chủ bên sông,
Đem vô để đó lộn sòng ai hay…
Xuân Diệu xem đó là sự phản ánh hiện thực của một thời đại
loạn ly cuối Lê đầu Nguyễn, ở đâu cũng gặp thây người vô chủ, ông
bình: “Nguyễn Du chỉ dùng một chữ mà tố cáo cao độ cái xã hội
phong kiến tàn ác…thì ra trong cái xã hội kia, xác chết vô thừa nhận
bao giờ cũng sẵn, chỉ cần quờ tay ra là nhặt được!”[11,143 -144], thực
ra từ sẵn thây nằm trong quy tắc tổ chức truyện của nhà văn chứ
không phải chi tiết phản ánh hiện thực, Xuân Diệu đã để chủ quan lấn
át ý nghĩa khách quan của văn bản ngôn từ.
Trong bài phê bình tập thơ Ánh sáng và phù sa của Chế Lan
Viên, Xuân Diệu đã nhắc đi nhắc lại rằng ông luôn luôn tự nhủ mình
“đừng hẹp hòi; vượt qua cái mà mình không thích thú lắm để hưởng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 140
lấy những ưu tú của một thi sỹ”.[10,229]. Đó là một quan niệm đúng
đắn, người sáng tác phê bình không thể đem cái phong cách riêng, cái
khẩu vị riêng của mình mà bắt mọi người khác phải theo. Tuy nhiên
đọc một số bài phê bình của Xuân Diệu còn thấy ông chưa vượt ra
khỏi sự phê bình thiên kiến, chủ quan, áp đặt, chưa vượt ra khỏi cái
“tạng” và khẩu vị của mình.
Mỗi con người là một vũ trụ thu nhỏ, ở đấy còn lắm điều bí mật,
còn lắm điều hay. Càng đi sâu nghiên cứu chúng ta càng thấy được
bản lĩnh, tài năng, và vẻ đẹp riêng của phong cách phê bình thơ của
Xuân Diệu.
Xuân Diệu là nhà nghiên cứu phê bình thơ có phong cách độc
đáo khác các nhà phê bình cùng thời. Trong hoạt động phê bình thơ,
Xuân Diệu luôn đề cao nội dung tư tưởng thông qua nghệ thuật thơ, đó
là thiên hướng nghiên cứu bình luận về hình thức nghệ thuật, đi sâu
khám phá vẻ đẹp tinh tế đa đạng, các giá trị thẩm mỹ của từ ngữ, hình
ảnh, nhạc điệu thơ…Từ câu chữ mà khám phá cái đẹp của nội dung tư
tưởng.
Trong văn phê bình của Xuân Diệu Bình và giảng là hai thao tác
quen thuộc, bình kết hợp với giảng, vừa bình vừa giảng một cách công
phu tỉ mỉ, ít nhà phê bình nào có được khả năng bình giảng như Xuân
Diệu. Nét riêng trong nghệ thuật bình giảng của Xuân Diệu vừa thể
hiện được vốn kiến thức uyên bác, vừa gắn liền với những kinh
nghiệm đời trải nghiệm sống của bản thân, đặc biệt điểm thú vị trong
cách bình giảng của Xuân Diệu là luôn liên hệ với chuyện tình yêu ,
với quy luật của tình yêu.
Xuân Diệu có lối phê bình giàu tính trực cảm, lối phê bình này
cho ông khả năng tưởng tượng phong phú đề thổi hồn vào các văn bản
nghệ thuật, đánh thức vẻ đẹp, gọi dậy giá trị của những tác phẩm thơ
dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 141
Xuân Diệu có hành văn sôi nổi mãnh liệt, ẩn chứa bên trong một
cái tôi chân thành, nhiệt tình đến hết mình. Văn ông giàu hình ảnh
giàu cảm xúc với cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh độc đáo sáng tạo, kỹ
thuật viết văn giàu nội lực, đầy sức biến hoá.
Với những đặc điểm này, lối phê bình của Xuân Diệu khác hẳn
Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân, ông đã mở một lối đi riêng
để thơ đến với trái tim người đọc.
KẾT LUẬN
1. Để làm nên một Xuân Diệu trong nền văn học Việt Nam hiện
đại, không chỉ có gia tài thơ đồ sộ, mà còn có phê bình tiểu luận. Ông
đến với phê bình thơ với tư cách là một nhà thơ chuyên nghiệp, chứ
không phải là một nhà phê bình chuyên nghiệp.Tuy không phải là
người thuộc thế hệ mở đường cho phê bình văn học Việt Nam, nhưng
Xuân Diệu là một nhà phê bình xuất sắc, một trong số những cây bút
phê bình có uy tín và tạo được sự đón đợi nơi người đọc. Do đó tư
cách nhà phê bình văn học phải là một tư cách cần được xem xét và
khẳng định mạnh mẽ trong sự nghiệp văn thơ của ông.
2. Là một nhà thơ và nhà phê bình thơ, Xuân Diệu đã xây dựng một
quan niệm đầy đủ đúng đắn và khoa học về thơ về phê bình thơ.
Đồng thời với việc sáng tạo thơ ca, làm ra những bài thơ cụ thể,
Xuân Diệu qua phê bình muốn trình bày thêm những suy nghĩ của
mình về thơ như là một sự bổ sung cho thơ mình và thơ của người
khác.Ở đó là những quan niệm về thơ, về phê bình, về cái được và cái
chưa được của bản thân cũng như của các nhà thơ khác. Không phải
nhà thơ nào cũng làm được cái công việc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 142
“nhìn lại chính mình” và “nhìn lại người khác” như Xuân Diệu. Cả
một đời lao động nghệ thuật miệt mài đã giúp ông có bản lĩnh vững
vành để làm cái việc bình giá “khen chê”, mà ít người nghệ sỹ có
được. Nhìn lại lịch sử văn học và lịch sử phê bình văn học chúng ta có
thể đếm trên đầu ngón tay những người vừa sáng tác vừa viết phê
bình, ở họ nếu làm được, phải là những người thực sự tài năng, giàu
kinh nghiệm và đam mê với nghiệp văn chương.
Đối với Xuân Diệu Thơ là trước tiên là hiện thực, là cuộc đời ,
thơ là sự sống đã trở thành xúc cảm, tình cảm, nội tâm, nó là sản phẩm
của tâm hồn trí tuệ. Thơ là tinh chất của cuộc đời. Thơ mang cá tính
sáng tạo của tác giả như hương sắc riêng của các loài hoa…Quan niệm
về thơ của Xuân Diệu không những là kim chỉ nam cho ông sáng tác
mà còn là cơ sở cho hoạt động phê bình của ông.
Phê bình thơ đối với Xuân Diệu là hoạt động nhằm mục đích làm
cầu nối giữa tác giả, tác phẩm và người đọc, định hướng thẩm mỹ,
giúp công chúng ngày càng nâng cao trình độ thưởng thức, đánh giá
thơ, qua đó góp phần nâng cao chất lượng của thơ. Nhiệm vụ quan
trọng của phê bình thơ là đưa cái đúng cái tốt cái hay của thơ vào
trong công chúng, giúp các bạn yêu thơ hiểu một thời đại , một nền
thơ, một nhà thơ. Ý thức được điều đó, Xuân Diệu đặc biệt quan tâm
đến khoa học phê bình, nghệ thuật phê bình, phương pháp phê bình
thơ. Nhà phê bình phải coi trọng vai trò của công chúng, lấy công
chúng làm đối tượng phục vụ. Nhà phê bình phải có ý thức về mục
đích nhiệm vụ phê bình. Làm công việc phê bình cũng rất cần đến một
khát vọng cảm thông, thấu hiểu, và con mắt xanh biết thẩm bình tinh
tế ở mỗi nhà phê bình.
3. Bất kỳ ở thời đại nào cũng rất cần sự tôn vinh. Sự tôn vinh đúng
mực, sẽ là động lực thúc đẩy quá trình sáng tạo của con người, dù là
người lao động làm ra của cải vật chất hay người sản sinh ra các giá trị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 143
tinh thần. Xuân Diệu đã có nhiều thành tựu lớn, đóng góp lớn trong
việc tôn vinh các giá trị thơ ca dân tộc. Với trí tuệ uyên bác của mình
Xuân Diệu đã phát hiện lại, phát hiện mới những giá trị thơ ca truyền
thống và hiện đại, đánh giá đúng vị trí của các nhà thơ lớn của dân
tộc. Ông giúp chúng ta chiêm ngưỡng bức chân dung tâm hồn của đại
thi hào Nguyễn Trãi - một bậc vĩ nhân nhưng vẫn là “con người nhất
thế giữa trần gian”. Ông có những khám phá bất ngờ thú vị về chủ
nghĩa nhân đạo trong Truyện Kiều. Tôn vinh Hồ Xuân Hương là Bà
chúa thơ Nôm, Xuân Diệu khẳng định vẻ đẹp đích thực và giá trị của
thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Nguyễn Khuyến, được trân trọng gọi là nhà
thơ đặc sắc của quê hương làng cảnh Việt Nam, và là nhà thơ cổ điển
“ hầu như duy nhất” của mùa thu Việt Nam . Những trang viết về thơ
Bác là một sự xúc động chân thành trước vẻ đẹp tâm hồn của một nghệ
sỹ tài hoa phong nhã tỏa ra từ những câu thơ giản dị. Những nhận định
táo bạo, có tính chất tiên phong về những vấn đề có ý nghĩa học thuật
đối với thơ Tố Hữu- Nhà thơ của tình thương mến. Còn đối với Huy
Cận, người bạn thơ từ thủa hoa niên, Xuân Diệu đã dành một sự ưu ái
đặc biệt để cảm nhận những nét tinh hoa của thơ Huy cận phát sáng từ
ngọn Lửa thiêng. Cậu bé thi sĩ Trần Đăng Khoa cũng có mặt trong
những trang phê bình của Xuân Diệu với một tâm hồn bé thơ sớm
nhạy cảm, cùng với những vần thơ giàu sức sáng tạo, mang cái duyên
tinh sương của một buổi sớm của đời người, mang cái hồn nhiên như
một bình minh ríu rít.
Những đóng góp của Xuân Diệu rất nhiều mà trong khuôn khổ
của luận văn không cho phép trình bày kỹ hết, song chừng ấy đóng
góp đã xác nhận tầm cỡ Xuân Diệu là một nhà phê bình lớn có tác
động tích cực vào tiến trình thơ Việt Nam.
4. Xuân Diệu là nhà phê bình có phong cách độc đáo, có thiên
hướng tìm hiểu nội dung bằng cách khám phá hình thức nghệ thuật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 144
Nghệ thuật bình và giảng đặc sắc thể hiện vốn kiến thức uyên bác và
kinh nghiệm sống giàu có. Với lối phê bình giàu tính trực cảm, với
con mắt xanh, cái Gu tinh nhạy, và sức tưởng tượng phong phú, Xuân
Diệu đã gọi dậy vẻ đẹp của thơ.Trực cảm chủ quan nhưng đó không
phải là chủ quan cảm tính, “ấn tượng chủ nghĩa” mà ông luôn bám sát
vào văn bản, chữ nghĩa, đối chiếu so sánh một cách công phu, đầy tính
khoa học. Ông còn là một nhà phê bình có cách hành văn sôi nổi mãnh
liệt, thể hiện một cái tôi chân thành say mê, có khả năng giao cảm đặc
biệt với người đọc. Văn phê bình của ông giàu hình tượng, giàu cảm
xúc, cách dùng chữ có “thần” như đóng đinh vào trí nhớ người đọc.
5. Cũng như sự nghiệp thơ ca, sự nghiệp phê bình thơ của Xuân
Diệu không phải không có những hạn chế nhất định. Nhưng di sản mà
ông để lại là vô giá. Ông đã để lại cho nền lý luận phê bình văn học
Việt Nam nhiều bài học có giá trị. Đó là những quan niệm về thơ, về
phê bình thơ. Đó là tinh thần thái độ trong phê bình không vì riêng tư
cá nhân. Đó là sự đóng góp của một phong cách phê bình nghệ sỹ
riêng, không trùng lặp.
THƢ MỤC NGHIÊN CỨU VÀ THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân, (1984), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới
Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội.
2. Huy Cận(1995), “ Lời tựa tập thơ Lửa Thiêng”, Huy Cận Lửa
Thiêng, Nxb Hội nhà Văn, Hà Nội.
3. Xuân Diệu (2001), Toàn tập1, Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Xuân Diệu (2001), Toàn tập2, Nxb Văn Học, Hà Nội.
5. Xuân Diệu (2001), Toàn tập3, Nxb Văn Học, Hà Nội.
6. Xuân Diệu (2001), Toàn tập 4, Nxb Văn Học, Hà Nội.
7. Xuân Diệu (2001), Toàn tập 5, Nxb Văn Học, Hà Nội.
8. Xuân Diệu (2001), Toàn tập 6, Nxb Văn Học, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 145
9. Xuân Diệu (1986), “Lời giới thiệu”, Tuyển tập Huy Cận, Tập 1,
Nxb Văn Học, Hà Nội, 15- 104.
10. Xuân Diệu (1963), Dao có mài mới sắc, Nxb Văn Học, Hà Nội.
11. Xuân Diệu (2001), Ba thi hào dân tộc, Nxb Thanh Niên, Hà nội.
12. Xuân Diệu (1987), “Lời đưa duyên”, Thơ thơ- Gửi hương cho gió,
Sở Văn hoá Thông tin Nghĩa Bình, 9- 10.
13. Trương Đăng Dung, Nguyễn Cương (1990), Các vấn đề của Khoa
học văn học, Nxb KHXH, Hà Nội.
14. Phan Cự Đệ (1995), “Tập thơ Riêng chung của Xuân Diệu”,Cuộc
sống và tiếng nói nghệ thuật, Nxb Văn học, Hà Nội.
15. Phan Cự Đệ, (2004), “ Lí luận, phê bình Văn học Việt Nam thế kỷ
XX”,Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Bích Hà (2006), Xuân Diệu một cái tôi khao khát nồng nàn, Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội.
17. Trần Thị Thanh Hà, (2002), Xuân Diệu- Nhà nghiên cứu, phê bình
thơ, Luận án Tiến sỹ, Đại học sư phạm Hà Nội.
18. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
19. Nguyễn Hoành Khung (1973), “Thơ mới”, Lịch sử văn học Việt
Nam
1930- 1945, Tập 1, Nxb Giáo dục. Hà Nội.
20. Trần Đăng Khoa, (1998), “Xuân Diệu”, Chân dung và đối thoại,
NXB
Thanh Niên, 26- 55.
21. Thanh Lãng (1995), Mười ba năm tranh luận văn học , Tập 3, Nxb
Văn
học, Hội nghiên cứu và giảng dạy Văn học thành phố Hồ cHí
Minh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 146
22. Mã Giang Lân (1984), “ Xuân Diệu”, Nhà thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
23. Mai Quốc Liên (1996), “Xuân Diệu qua thi hào dân tộc Nguyễn
Du”, Xuân Diệu- tình đời và sự nghiệp, Nxb Hội Nhà Văn, 116-
122.
24. Nguyễn Văn Long (1998), Cuộc thảo luận về tập thơ Từ ấy , Nxb
Hội Nhà Văn, Hà Nội.
25. Nguyễn Đăng Mạnh (1990), “ Vài suy nghĩ về phê bình văn
học”,Các vấn đề của khoa học văn học, Nxb KHXH, Hà Nội.
26. Nguyễn Đăng Mạnh (1990), “Xuân Diệu và niềm khát khao giao
cảm với đời”, Xuân Diệu- thơ và đời, Nxb Văn học, 180- 190.
27. Nguyễn Đăng Mạnh, (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại Chân
dung và phong cách, Nxb Trẻ thành phố Hồ Chí Minh.
28. Vương trí Nhàn (1982), “Xuân Diệu và việc tìm hiểu gia tài văn
học của ông cha”, Xuân Diệu về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
29. Nhiều tác giả (2004), Từ điển Văn học, “ Xuân Diệu”- “Thơ thơ”-
“Riêng chung”, Nxb Thế giới,2101,1691,1499
30. Hồ Đình Quỳnh, (2005), Chế Lan Viên Phê bình văn học , Luận
văn thạc sỹ, Đại học Sư phạm Vinh.
31. Trần Đình Sử (1995), “Một hồn thơ còn vọng mãi”, Báo Văn
Nghệ (50).
32. Hoài Thanh (1996), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
33. Hoài Thanh (1982), Tuyển tập Hoài Thanh, Tập 2, Nxb Văn học,
Hà Nội.
34. Lưu Khánh Thơ (biên soạn) (1999), Xuân Diệu tác phẩm văn
chương và lao động nghệ thuật , Nxb Giáo dục, Hà Nội.
35. Lưu Khánh Thơ (biên soạn)(1998), Xuân Diệu về tác gia và tác
phẩm, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 147
36. Nguyễn Ngọc Thiện(chủ biên) (1997), Tuyển tập phê bình văn học
Việt Nam(1900- 1945), tập 1, Nxb Văn Học, Hà Nội.
37. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên) (1997), Tuyển tập phê bình văn học
Việt Nam (1900- 1945), tập 4, Nxb Văn Học, Hà Nội.
38. Phan Ngọc Thu (2003), Xuân Diệu nhà nghiên cứu phê bình văn
học,Nxb Giáo dục, Hà Nội.
39. Trần Thị Việt Trung (1999), Lịch Sử phê bình văn học Việt Nam
giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
40. Nguyễn Tuân (2003), Tuyển tập nguyễn Tuân, Tập 4, Nxb Văn
Học,
Hà Nội.
41. Nguyễn Tuân (2003), Tuyển tập nguyễn Tuân, Tập 5, Nxb Văn
Học,
Hà Nội.
42. Nguyễn Tuân (1999), Bàn về văn học nghệ thuật , Nxb Hội nhà
văn,
Hà Nội.
43. Chế Lan Viên (1962), “ Đọc Những bước đường tư tưởng của tôi”,
Phê bình văn học (1956- 1961), Nxb Văn Học, Hà Nội.
44. Chế Lan Viên (1981), Nghĩ cạnh dòng thơ, Nxb Văn Học, Hà Nội.
45. Chàng Văn (Chế Lan Viên)(1962), Vào nghề, Nxb Văn Học, Hà
Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9470.pdf