Sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

Lời mở đầu Khi nói đến CNH, HĐH là nói đến quá trình dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế cải tiến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng kĩ thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được năng suất cao nhất và là cái quyết định cho sự tồn tại của một chế độ xã hội, cách tiếp cận này cũng phù hợp với định nghĩa CNH, HĐH do Đại hội VII đề ra. Trước những thay đổi to lớn của thế giới đã ảnh hưởng đến nước ta (tích cực cũng như tiêu cực). Đảng ta đã xác định thời cơ và những thách thức lớn. Đó là th

doc17 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1311 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành tựu của công cuộc đổi mới tạo ra thế và lực mới (cả bên trong và bên ngoài). Mặt khác quan hệ của nước ta đối với nước ngoài cùng với khả năng hội nhập với cộng đồng thế giới được mở rộng hơn bao giờ hết. Những thời cơ này được tạo ra trước hết là do thành tựu của công cuộc đổi mới đồng thời cũng là do tác động của nhiều xu thế tích cực trên thế giới. Bên cạnh những thời cơ, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức lớn. Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII đã tạo ra bốn "nguy cơ". Đó là nguy cơ tụt hậu về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ về diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch. Các nguy cơ trên có mối quan hệ tác động lẫn nhau và đều nguy hiểm không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Đứng trước những thời cơ và thách thức đó Đảng ta chủ trương "... chủ động nắm bắt thời cơ luôn luôn tỉnh táo, kiên quyết, đầy đủ và khắc phục các nguy cơ, kể cả nguy cơ mới nảy sinh trong quá trình thực hiện, bảo đảm phát triển đúng hướng..." Để có một nền công nghiệp phát triển vững mạnh, đó là mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân ta. Vì vậy mỗi người dân của đất nước Việt Nam đều muốn góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc CNH,HĐH đất nước. I - Lý luận chung A. sự cần thiết phải tiến hành cnh, hđh đất nước 1. Sự ra đời của quá trình công nghiệp hoá ở Việt Nam ở nước ta công cuộc CNH đất nước đã được khởi đầu từ sau đại hội III (1960) của đảng. Chủ trương CNH của Đảng đã được định hướng thực hiện qua các kế hoạch dài hạn 5 năm. Song do điều kiện kinh tế vốn nghèo nàn lạc hậu, và do chính sách cấm vận của Mỹ làm cản trở sự giao lưu kinh tế của nước ta với thế giới. Nhưng quan tâm hơn cả là do lãnh đạo của đảng, nhà nước có sai lầm trong việc đề ra chủ trương cải tạo, xây dựng kinh tế thể hiện tư tưởng nóng vội chủ quan duy ý trí. Trong CNH do nôn nóng muốn đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng như ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, muốn hiện đại hoá nhanh nhưng nền kinh tế của ta vốn nhỏ bé, phân tán lạc hậu mà lại đầu tư nhiều vốn kỹ thuật, sức lực xây dựng lớn nhiều cơ sở công nghiệp nặng nhiều công trình công cộng trong khi đất nước còn nhiều khó khăn to lớn chưa đủ những tiền đề cần thiết. Chính những sai lầm trên đã dẫn tới hậu quả mất cân đối lớn trong nền kinh tế, SX phát triển chậm, thu nhập quốc dân, năng suất lao động thấp, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn nảy sinh nhiều tệ nạn XH. Đảng ta đã sớm nhận thức ra những sai lầm của mình Đại hội toàn quốc lần thứ VI của đảng (1986) là cái mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển sang thời kỳ đổi mới. Đại hội đã nhận định đặc điểm thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là cả một thời kỳ dài khó khăn traỉ qua nhiều chặng xác định, và chúng ta ở chặng đường đầu tiên. Nhiệm vụ mục tiêu của chặng đường quá độ đầu tiên là Trong 5 năm trước mắt (1986- 1990) cần tập trung sức người, sức của thực hiện bằng được những mục tiêu của 3 chương trình kinh tế: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Nội dung của 3 chương trình kinh tế là sự cụ thể hoá nội dung chính của CNH XHCN trong chặng đường đầu tiên. Đường lối đổi mới của Đảng đề ra từ đại hội VI đã thực sự đi vào cuộc sống, đã đạt được những thành quả bước đầu rất quan trọng. Trước tiên là trong lĩnh vực KTXH. Đời sống nhân dân đã dần dần ổn định, sản lượng lương thực đã đáp ứng được nhu cầu của cả nước, hàng hoá thị trường đa dạng, lưu thông tương đối thuận lợi. Các cơ sở sản xuất gắn chặt với nhu cầu thị trường, phần bao cấp của nhà nước về vốn, tiền lương... giảm đáng kể. Lạm phát được kiềm chế một bước, các cơ sở kinh tế có điều kiện thuận lợi để hạch toán kinh doanh, đời sống nhân dân giảm bớt khó khăn. Trên cơ sở phát huy những thành quả đã đạt dược, đại hội lần thứ VII (1991) của Đảng đã đề ra chủ trương kế thừa, phát huy những ưu điểm đã đạt được, khắc phục những khó khăn hạn chế mắc phải trong quá trình đổi mới đề ra từ đại hội VI, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới của đất nước tiến lên. Phương hướng và mục tiêu chính mà đại hội VII đã vạch ra là: “ Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát “ ổn định phát triển nâng cao hiệu quả SX, ổn định từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bước đầu có tích luỹ nội bộ nền kinh tế. Với sự nỗ lực của toàn đảng toàn dân ta đến nay nền kinh tế nước ta đã chấm dứt được tình trạng suy thoái và trên đà phát triển toàn diện. 2. Tính tất yếu phải tiến hành CNH - HĐH. Công nghiệp hoá có nhiều con đường, có con đường cổ điển của các nước tư bản như Anh, Pháp, trải qua từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Thường đó là những nước có nền khoa học công nghệ tiên tiến, do đó những bước tiến của CNH, HĐH thường gắn liền với những sáng chế phát minh của chính nó hoặc của thời đại. Vì vậy quá trình CNH thường kéo dài hàng trăm năm theo đà của sự phát triển khoa học kỹ thuật. Ngày nay các nước đi sau tình hình đã đổi khác. Để giải quyết một vấn đề trong công nghiệp hoá có rất nhiều giải pháp hay công nghệ đã sẵn sàng đem ra sử dụng. Vấn đề ở đây là phải nắm bắt kịp thời những công nghệ hiện đại nhất phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. Do đó CNH gắn với HĐH là một khả năng, một nhu cầu của các nước đi sau. Tuy nhiên để thực hiện CNH, HĐH đất nước cần phải nhận thức vấn đề sau một cách đúng đắn cụ thể. - Cùng với việc tiếp nhận công nghệ hiện đại cần phải chú ý đến đẩy mạnh cả công nghệ truyền thống trong nước. Không chỉ áp dụng các công nghệ tiên tiến mà còn phải biết tận dụng và hiện đại hoá công nghệ truyền thống. Đối với khu vực công nghệ truyền thống và cơ khí truyền thống thì khuyến khích chủ yếu bằng chính sách kinh tế. Khuyến khích mọi sự thâm nhập của công nghệ hiện đại, hiện đại hoá từng bước công nghệ truyền thống và công nghệ cơ khí thông thường. Còn về mặt đầu tư của nhà nước để phát triển tiềm lực khoa học và định hướng cho các hoạt động nghiên cứu triển khai chủ yếu là phải tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao như điện tử, tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới, cơ khí chính xác và tự động hoá... Để tạo điều kiện cần thiết cho việc đi thẳng, đi nhanh vào lĩnh vực có công nghệ cao. Không tự hạn chế trong các điều kiện tiền đề hiện có, công nghệ cao có nhiệm vụ. Cấp bách bởi vì. Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa với bên ngoài, những cơ sở SX áp dụng công nghệ truyền thống và công nghệ cơ khí thông thường không nâng được năng suất và chất lượng sản phẩm không đảm bảo được khả năng cạnh tranh ngay cả trong trường hợp có sự bảo hộ của nhà nước. Những cơ sở đó không thể đứng vững, phải thu hẹp hoặc đóng cửa. Sự thật đã diễn ra tại một số nơi trong thời gian qua. Về mặt quản lý KT- XH nếu không áp dụng rộng rãi các thành tựu của tin học và điện tử thì không thể nâng cao được trình độ quản lý lên ngang tầm thời đại, đòi hỏi cấp bách hiện nay của giao lưu kinh tế. Hiện nay một chính sách rất được quan tâm là, “ Đòn đấm công nghệ cao”. Từ sau thế chiến thứ 2 dựa và chính sách này mà một số nước như Nhật Bản, Triều Tiên và Đài Loan đã đuổi kịp các nước đi trước, vượt lên trong nhiều nghành công nghệ cao và đã tạo ra những kỳ tích kinh tế đáng kinh ngạc. Những biểu hiện của nền kinh tế đã hiện đại hoá được qui định bởi mức sống cao do cách mạng công nghệ, trình độ chuyên môn cao trong SX và năng suất lao động cao. Hiện đại hoá kinh tế còn biểu hiện ở sự ra tăng của vốn với những qui mô tích luỹ và đầu tư hiện đại, sự tham gia rộng rãi vào thị trường trên cơ sở một kết cấu hạ tầng hiện đại về giao thông vận tải và thông tin liên lạc. HĐH nền kinh tế càng không tách rời bộ máy hành chính quản lý hữu hiệu, một học vấn càng nâng cao của người lao động, một sự phổ cập rộng rãi các tri thức khoa học và đổi mới công nghệ. Bên cạnh HĐH nền kinh tế còn là quá trình HĐH xã hội và chính trị, đây là quá trình hoàn thiện cơ cấu XH, chuyên môn hoá các chức năng của cơ chế XH, thực hiện cuộc cách mạng tri thức thông qua việc phát triển thông tin, tăng chi phí cho giáo dục, đảm bảo sự ổn định chính trị, tập trung quyền lực vào nhà nước để tiến hành cải cách và đổi mới một cách triệt để. 3. Những quan điểm chỉ đạo của Đảng: - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nghị quyết đại hội lần thứ VII ban chấp hành trung ương đảng đã cụ thể hoá thành phần quan điểm chỉ đạo quá trình CNH, HĐH đất nước như sau: CNH, HĐH phải theo định hướng XHCN. Định hướng XHCN ở quá trình này được xác định bởi 4 nhân tố sau: - Mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài CNH, HĐH là vì lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng XH. - Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại cho một XH trong đố nhân dân làm chủ. - CNH, HĐH được tiến hành nhanh dưới sự lãnh đạo của đảng, của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Điều hành và quản lý quá trình đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân. - Phát triển một nền kinh tế nhièu thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh là chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác trở thành nền tảng. Quan điểm thứ hai. Là giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với nước ngoài kết hợpkinh tế với quốc phòng an ninh, xây dựng nền kinh tế hướng mạnh SX đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước có hiệu quả. Quan điểm này đòi hỏi quá trình CNH, HĐH phải được tiến hành trong điều kiện kinh tế mở, trong điều kiện đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với nước ngoài hướng mạnh và xuất khẩu. Mổt khác việc thực hiện nền kinh tế mở đó theo nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ, bảo vệ chắc chắn quốc phòng an ninh. Đồng thời cũng không được coi nhẹ thị trường trong nước. ngược lại nhập khẩu, điều kiện về vốn công nghệ thị trường để mở rộng SX trong nước. Phải tìm cách thay thế hàng nhập khẩu bằng những sản phẩm SX trong nước. Quan điểm thứ ba. CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ toạ được vận hành theo thị trường có sự quản lý của nhà nước. Mặt khác, đây là một vấn đề mới so với CNH trước đây- cho rằng CNH chỉ là sự nghiệp của nhà nước, của các tổ chức quốc doanh, ngày nay chúng ta cho rằng đó là sự nghiệp của toàn dân của mọi thành phần kinh tế. Nếu toàn XH không nhất trí quan tâm, không đề cao tinh thần tự chủ, tự cường, ra sức làm việc có hiệu quả, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô nếu mọi thành phần không coi đó là sự nghiệp của chính mình thì CNH, HĐH không thể thành công được Mặt khác, cần thấy rằng để CNH, HĐH thắng lợi, phải phát triển mạnh mẽ kinh tế nhà nước, làm cho nó thực sự giữ vai trò chủ đạo cả về tiềm lực kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả kinh tế XH thực sự có vai trò hướng dẫn, chi phối nền kinh tế đất nước. Không như vậy sự nghiệp CNH không tránh khỏi chệch hướng. Không có điều kiện vật chất để nhà nước có thể quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Quan điểm thứ tư là: Công cuộc CNH, HĐH phải lồng việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố căn bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, muốn vậy trong mọi chủ trương, chính sách phải nhằm giải phóng mọi tiềm năng của con người, phải thường xuyên quan tâm bồi dưỡng trí lực, thể lực, có chính sách sử dụng nhân tài. Tăng trưởng kinh tế phải gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng XH, bảo vệ môi trường. Quan điểm thứ năm là: Coi khoa học công nghệ là nền tảng của CNH, HĐH kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ tiên tiến tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở nhiều khâu quyết định. Quan điểm này đặt ra yêu cầu trong điều kiện quốc tế và sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay. Nếu không đánh giá đúng vai trò nền tảng của khoa học công nghệ, nếu không có những giải pháp , thì không thể đuổi kịp các nước, không thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu được. Do đó phải khai thác tối đa năng lực SX và công nghệ hiện có, tập trung vào những khâu quyết định có khả năng cạnh tranh sản phẩm, tranh thủ ở những khâu, những lĩnh vực công nghệ có điều kiện và ý nghĩa quyết định. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, ưu tiên cho loại công nghệ tốn ít vốn, tạo nhiều việc làm. Quan điểm thứ sáu là: CNH, HĐH phải lấy hiệu quả KT- XH làm tiêu chuẩn cơ bản. Để nâng cao hiệu quả kinh tế XH cần: - Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực SX hiện có. - Trong phát triển mới, cần ưu tiên qui mô vừa và nhỏ, công nghệ tiến tiến, thu hồi vốn nhanh. Đồng thời chỉ xây dựng những công trình lớn thật cần thiết và có hiệu quả. - Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực các địa bàn trọng điểm. Đồng thời quan tâm đáp ứng những nhu cầu phát triển thiết yếu của mọi vùng trong nước có chính sách hỗ trợ khó khăn. - Việc xác định các phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ phải căn cứ vào hiệu quả kinh tế XH quyết định. II. vấn đề thực tiễn và lý luận trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta. 1. Thực tiễn công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta. Trước năm 1986 CNH - HĐH ở nước ta còn lạc hậu. Từ năm 1986 đến nay quá trình CNH - HĐH có sự đổi mới toàn diện và đồng bộ cả về nhận thức, quan điểm và về tổ chức chỉ đạo thực hiện. Đại hội lần thứ VI đã xác định rõ những quan điểm, chủ trương, phương hướng đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNCH. Đại hội chỉ rõ: "Tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo"(1) (2) Văn kiện Đại hội VI của Đảng và "trước mắt là trong kế hoạch 5 năm 1986-1990 phải thật sự tập trung sức người, sức của vào thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu..."(2). Thực hiện 3 chương trình mục tiêu thực chất đó cũng là chuyển hướng chiến lược công nghiệp hóa từ ưu tiên phát triển công nghiệp năng sang lấy nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm. Từ những quan điểm và chủ trương đổi mới trên, Đảng và Nhà nước đã cụ thể hóa bằng cơ chế và thành các chính sách, biện pháp thực hiện, đáng kể nhất đó là: Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, chính sách kinh tế đối ngoại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính sách tài chính - tiền tệ kiềm chế lạm phát, chuyển cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhờ vậy mặc dù có "cú sốc" lớn là Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã làm mất đi khoản viện trợ khoảng 1 tỷ đô la năm, bằng gần 7% GNP và mất đi thị trường không chuyển đổi, mặc dù Mỹ còn gây khó khăn do tiếp tục chính sách cấm vận, nhưng nền kinh tế đã vượt qua trạng thái suy giảm, giảm lạm phát đáng kể, điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, tiếp tục công nghệp hóa. Lạm phát từ mức 3 con số: 1986: 587,2%; 1987: 416,77%; 1988: 410,9% giảm xuống còn 2 con số: 1989: 30%; 1990: 52,8%. Trong thời kỳ 1986-1990 tốc độ tăng bình quân hàng năm của tổng sản phẩm xã hội: 4,8%: thu nhập quốc dân: 3,9%, giá trị tổng sản lượng công nghiệp: 5,2%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp: 3,5%; giá trị xuất khẩu: 28%; cơ cấu công nghiệp, nông nghiệp trong thu nhập quốc dân sản xuất đã có sự điều chỉnh: Công nghiệp: 30% (1985); 23% (1990); còn nông nghiệp 47,3% (1985); 46,6% (1990). Cơ cấu công nghiệp bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng thích hợp và có hiệu quả hơn. Năm 1976 trong cơ cấu giá trị tổng sản lượng công nghiệp ngành điện lực chỉ chiếm 3,665; cơ khí (bao gồm cả điện tử) 9,65%; hóa chất phân bón, cao su: 8,26% thì năm 1990 tỷ trọng tương ứng của các ngành đó là 5,1%:15,9%:9,4%. Nếu so sánh giá trị tổng sản lượng công nghiệp của năm 1990 với năm 1976 thì chỉ số phát triển công nghiệp của cả nước là 2,13 lần, trong đó: Điện lực 2,96 lần; cơ khí 3,52 lần; hóa chất, phân bón, cao su: 2,13 lần. Giữa các ngành công nghiệp nhóm A và công nghiệp nhóm B đã bước đầu có sự điều chỉnh trong sự phát triển theo hướng chú trọng thích đáng hơn đến phát triển các ngành công nghiệp nhóm B để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước và để sử dụng tốt hơn các nguồn lực: vốn, kỹ thuật truyền thống, lao động, công nghiệp nhóm A chiếm 33,8% (thời kỳ 1976 - 1980): 33,5% (thời kỳ 1981-1985) và 32,9% (1990). Tương ứng với các thời kỳ đó, công nghiệp nhóm B chiếm tỷ trọng: 66,5% và 67,1%. Công nghiệp ngoài quốc doanh phát triển khá, lực lượng sản xuất bước đầu được giải phóng. Khu vực công nghiệp quốc doanh sau thời gian phải đương đầu với các thử thách quyết liệt khi chuyển sang cơ chế mới tưởng chứng không vượt qua nổi (năm 1989 giảm 2,5% so với 1988) nhưng đến năm 1990 công nghiệp quốc doanh đã thích nghi dần với cơ chế mới một số ngành, một số cơ sở chủ yếu là quốc doanh trung ương đã khôi phục đưọc sản xuất và tiếp tục phát triển. Nếu năm 1976 công nghiệp quốc doanh chiếm 58,6%; giá trị tổng sản lượng công nghiệp cả nước thì năm 1989 chiếm 57,0%, còn công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 31,4% (1976); 43% (1989). Tiếp tục những quan điểm, chủ trương, chính sách đổi mới, đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991) đã xác định rõ mục tiêu, phương hướng nội dung của phát triển kinh tế - xã hội và của công nghiệp hóa. Đại hội đã chỉ rõ: "Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải tiến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển... phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân"(1) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. "Mục tiêu tổng quát của chiến lược đến năm 2000 là: ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh vào đầu thế kỷ 21"(2) Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000 Đại hội VII cũng xác định mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm (1991-1995) là: "Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế"(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Quá trình đổi mới đã tạo nên những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, thành tựu CNH trong các năm 1991,1992,1993 cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực chất so với nhiều năm trước đây. Lạm phát tiếp tục được kiềm chế: chỉ số giá bán lẻ tăng bình quân tháng của năm 19911 4,4%; 1992:1,3%; 9 tháng đầu năm 1993: 0,5%. Chênh lệch giá trị nhập và xuất giảm đáng kể. Sự phát triển của công nghiệp trong những năm đổi mới, không chỉ thể hiện ở tốc độ tăng trưởng mà quan trọng hơn là ở việc chú trọng hơn tới đổi mới công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp ở sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng sản xuất gắn với thị trường trong và ngoài nước, phát triển nhanh các ngành có lợi thế so sánh, các ngành tác động tích cực đối với sự phát triển chung của nền kinh tế quốc tế, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và đa dạng hóa các loại hình tổ chức kinh doanh. Ngành dầu khí có sự phát triển vượt bậc. Ngành than bước vào thị trường thế giới với khối lượng xuất khẩu vượt 1,6 triệu tấn. Ngành sản xuất điện phát triển mạnh. Thúc đẩy quá trình thay đổi và phát triển cơ cấu kinh tế từ giản đơn, lạc hậu trì trệ kém hiệu quả dần dần tiến tới một cơ cấu có nhiều ngành, nhiều thành phần: Trong những năm đầu của quá trình đổi mới của CNH đã mang sắc thái mới, đã có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung và bước đầu đồng bộ hóa, cụ thể hóa bằng cơ chế và chính sách. Do vậy CNH đã được tiến hành phù hợp hơn với hoàn cảnh quốc tế và điều kiện, khả năng trong nước, các tiềm tàng, nguồn lực của đất nước bước đầu được khơi dậy, kinh tế phát triển thực chất hơn. - Tạo ra nguồn lao động và đội ngũ lao động dồi dào có trình độ dân trí được nâng cao, tỷ trọng lao động có trình độ nghề nghiệp, kỹ thuật ngày càng cao. Có đạt được những thành tích và kết quả đó vào bối cảnh cụ thể của đất nước: Điểm xuất phát ban đầu thấp, chiến tranh kéo dài nhiều năm và để lại hậu quả nặng nề, diễn biến tình hình quốc tế phức tạp, có đột biến và bất lợi... mới thấy hết những thành tựu của CNH mà chúng ta đã đạt được là to lớn và có ý nghĩa. Tuy nhiên Quá trình CNH XHCN ở nước ta hơn 30 năm qua còn nhiều tồn tại, nhược điểm. Những tồn tại chủ yếu là: - Quá trình CNH diễn ra quá chậm - Phân công lao động xã hội phát triển chậm chạp. Cơ cấu kinh tế thiếu năng động, hiệu quả thấp, chứa đựng nhiều bất hợp lý, nhiều mặt mất cân đối nghiêm trọng. Chưa kết hợp tốt cơ cấu ngành với cơ cấu thành phần và cơ cấu thành phần và cơ cấu lãnh thổ trong một trạng thái đồng bộ năng động có hiệu quả để thực hiện tốt nhất mục tiêu chung của phát triển kinh tế - xã hội. - Trình độ trang bị kỹ thuật công nghệ thấp kém, mất cân đối, đổi mới chậm. - Sự nghiệp CNH phải đương đầu với nhiều khó khăn do sai lầm trước đây để lại và do thách thức mới đưa tới. Đó là: tỷ lệ thất nghiệp còn cao, đời sống thấp, tỷ lệ tích lũy và đầu tư thấp, sản xuất kinh doanh đang gặp khó hăn về vốn và thị trường. 2. Phương hướng và mục tiêu CNH - HĐH từ nay đến năm 2000. - Về phương hướng và mục tiêu: Hội nghị chỉ rõ công nghệ gắn với quá trình CNH, HĐH ở tầm trung và dài hạn phải góp phần tích cực vào việc thực hiện cách đi kết hợp "tuần tự" với "không tuần tự" trên con đường phát triển, nhanh chóng thu hẹp dẫn khoảng cách về trình độ công nghiệp so với các nước phát triển trước trên là vơí các nước trong khu vực . Khoa học và công nghệ tập trung đóng góp có hiệu quảvào quá trình quyết định ở các cấp quản lý Nhà nước đến các doanh nghiệp, đảm bảo cho các chính sách, chủ trương dự án đầu tư có căn cứ khoa học đem lại hiệu quả kinh tế xã hội rõ rệt. Phát triển một số ngành công nghiệp có triển vọng dựa trên công nghệ cao tạo tiền đề cho việc đâỷ nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn tiếp theo. Nâng cao năng lực nghiên cứu triển khai công nghệ hiện đại trong nước, tạo được một đội ngũ cán bộ KHKT giỏi, có khả năng tiếp cận công nghẹ thế giới, phổ cập các loại hình công nghệ thích hợp trên địa bàn nông thôn, miền núi. Để thực hiện được những bước nhảy vọt về công nghiệp cần mạnh dạn tiếp cận, sử dụng công nghệ cao như: Vi điện tử, tin học, tự động hoá, sinh học, vật liệu mới... xóa bỏ quan niệm coi khoa học công nghệ chỉ là công việc của các nhà khoa học mà phải coi đây là công việc của mọi hoạt động kinh tế xã hội và tập trung cao ở các dự án quốc gia. Phấn đấu để lực lượng khoa học và công nghệ trở thành một phần quan trọng ở các khu tập trung công nghệ cao như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Về chính sách giải pháp. Từ nay đến năm 2000 chúng ta coi việc nhập công nghệ là một mục tiêưu tiên. Nhà nước vừa đưa ra các định hướng ưu tiên áp dụng các cơ chế chính sách nhằm khuyến khích việc chuyển giao công nghệ tiên tiến có hiệu quả cao, ngăn chặn việc nhập các công nghệ lạc hậu , gây ô nhiễm môi trường và các hậu quả xã hội tiêu cực khác, hoặc cản trở những bứơc phát triển tiếp thu. Đầu tư công nghệ hợp lý để vừa nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm nghị quyết đại nhiều việc làm. Phát triển các ngành sản xuất cần nhiều công nhân mà không sử dụng các công nghệ lạc hậu. Với quan điểm nàychính sách công nghệ của ta là mạnh dạn đi thẳng vào công nghệ hiện đại và chọn lọc ở những khu vực cần thiết. Đồng thời vẫn sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có với điều kiện được đồng bộ hoá, cải tiến và nâng cao hiệu quả sử dụng, chú trọng hiện đại hoá công nghệ truyền thống. Trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải ưu tiên hiện đại hoá công nghệ cho các k hu vực sản xuất nông nghiệp và dịch vụ xuất khẩu, các ngành nghề có sự tác động đến sự phát triển của các ngành nghề khác như: thông tin liên lạc, điện, hoá chất, chế tạo máy xây dựng cơ sở hạ tầng. Các quan điểm mục tiêu chính sách công nghệ nêu trên cần được hệ thống thành các chương trình, kế hoạch hoá và biện pháp cụ thể mang tính khả thi, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp CNH, HĐH đồng thời phát triển bản thân khoa học . Nhà nước áp dụng các chính sách đòn bẩy kỹ thuật để thúc đẩy các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ tiên tiến. Ưu đãi phần vốn dành cho việc nghiên cứu và đổi mới công nghệ. Nhà nước cần sớm ban hành các quychế kiểm soát các quá trình chuyển giao công nghệ theo các chỉ tiêu nghiêm ngặt về khoa học kỹ thuật và môi trường, ngăn chặn tình trạng biến nước ta thành bãi thải công nghệ lạc hậu của thế giới. - Hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với tổ chức và phân công lại lao động xã hội và điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư: Nội dung của công cuộc CNH đất nước hiện nay không còn được hiểu theo nghĩa cũ nữa. Công nghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH. Đó không chỉ là tăng nhanh tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới cơ bản về kỹ thuật và công nghệ, hiện đại hoá tất cả các ngành kinh tế quốc dân, tạo cơ sở cho sự tăng trưởng nhanh đạt hiệu quả cao và lâu dài cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân . Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng tiến bộ là một xu thế tất yếu khách quan của nền kinh tế nước ta. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ và phổ biến sang nền kinh tế có cơ cấu công nghiệp nông nghiệp và dịch vụ hợp lý theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá : từ một nền kinh tế tự nhiên (tự cấp, tự túc) sang nền kinh tế hàng hoá tương đối phát triển với thị trường nội địa thống nhất toàn quốc và mở rộng giao lưu trên thị trường thế giới. Cơ cấu kinh tế phải đa dạng để thích nghi được với những phát triển mới của cách mạng KHKT và công nghệ trên thế giới phải tăng nhanh khu vực công nghệ chế biến và dịch vụ, thực hiện CNH theo nghĩa xây dựng một cơ cấu kinh tế đa ngành bảo đảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao. Xuất phát từ thực tiễn nước ta, trong bối cảnh thế giới ngày nay, tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài có chọn lọc , nội dung chủ yếu của sự chuyển dịch cơ cấu trong quá trình CNH, HĐH là: + Cơ cấu ngành sản xuất gắn liền với cơ cấu công nghệ: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta sẽ tạo sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng phấn đấu trong vài thập kỷ tới tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm xuống còn khoảng trên dưới 10% công nghiệp và dịch vụ đạt tới khoảng 90%. Trong công nghiệp thì công nghiệp chế tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất (70 - 80%) phát triển mạnh các ngành công nghiệp chế biến nhất là chế biến thực phẩm, dệt, da, máy mặc, cơ khí, lắp ráp ô tô, xe máy hàng điện tử. Đẩy mạnh thăm dò và khai thác dầu khí, sử dụng có hiệu quả nguồn khí đốt. Xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng về điện, xi măng, luyện cán thép, phân bón. Hình thành một số ngành mũi nhọn trọng điểm trong vài thập kỷ tới như: khai thác chế biến dầu khí, công nghệ điện tử, thông tin, du lịch... + Cơ cấu công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, nông nghiệp. Trong 5 năm trước mắt chúng ta vẫn phải coi trọng nông nghiệp phát triển kinh tế nông thôn. Công nghiệp nông thôn cần được phát triển mạnh, xây dựng các nhà máy chế biến liên kết trực tiếp với việc trồng trọt và khai thác nguyên liệu tại chỗ. Chúng ta vẫn phải đặc biệt coi trọng phát triển sản xuất lương thực thực phẩm, phấn đấu đạt sản lượng 30 triệu tấn vào năm 2000. Về cơ cấu công nghiệp trong kế hoạch 5 năm có tính đến việc hình thành các khu công nghiệp tập trung (khoảng 20 khu) và điểm công nghiệp rải ra xung quanh các thị trấn và dọc theo một số trục lộ chính. Trừ một số ít khu công nghiệp nặng còn chủ yếu dành cho các cơ sở công nghiệp nhẹ hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu... Về phát triển công nghiệp nặng chúng ta cần tranh thủ thời cơ huy động vốn trong nước và nước ngoài để xây dựng một số công trình then chốt có tính cấp bách và hiệu quả. Vốn đầu tư cho các ngành công nghiệp nặng trong 5 năm tới chiếm khoảng 70% tổng vốn đầu tư cho các ngành công nghiệp, đây là lĩnh vực dùng vốn lớn song rất quan trọng trong sự phát triển toàn diện. + Phân công lao động: Với đặc điểm nước ta có được lượng lao động nông nghiệp chiếm khoàng 73% tổng số lao động cả nước. Vì vậy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn liền với việc điều tiết quá trình phát triển và phân bố lại dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp ở nông thôn gắn liền với việc đô thị hóa tại chỗ là một nội dung quan trọng của quá trình chuyển dịch kinh tế và phương hướng đi lên chủ yếu của kinh tế nông thôn trong quá trình CNH-HĐH. + Phân phối vốn: Một phần lớn vốn đầu tư của Nhà nước sẽ được giao cho các ngành do Trung ương quản lý để xây dựng nhiều công trình nằm ở các vùng khác nhau, phần còn lại thì giao cho địa phương quản lý. Khoảng 30% cho vùng trọng điểm, 70% cho các vùng khác. Đối với số vốn mà Nhà nước chỉ có thể hướng dẫn bằng các chính sách ưu đãi khuyến khích (như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc vốn của thành phần kinh tế khác) thì vùng trọng điểm chiếm khoảng 70% còn 30% là các vùng khác. Như vạy Nhà nước tuy không điều khiển toàn bộ song cũng khống chế được phần quan trọng vốn đầu tư, hướng đó trước hết vào việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và một số công trình then chốt bảo đảm sự hài hòa trong sự phát triển của các vùng. III - Các giải pháp cơ bản để tiến hành CNH-HĐH ở nước ta hiện nay đến năm 2000: Những quan điểm, phương hướng và bước đi của CNH-HĐH có được thực hiện đầy đủ đúng đắn và có hiệu quả không hoàn toàn phụ thuộc vào các điều kiện chủ yếu có được đảm bảo hay không. Để xác định đúng đắn những điều kiện cần thiết nhăm thực hiện CNH-HĐH trước hết chúng ta phải xác định rõ tiến hành CNH-HĐH cái gì, CNH-HĐH như thế nào, CNH-HĐH cho ai. Theo hướng này, khi tiến hành CNH-HĐH cần phải thực hiện tốt các giải pháp sau: 1. Vốn để công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta: Để đạt mục tiêu từ nay đến năm 2000 phải tăng gấp đôi GDP bình quân đầu người thì chúng ta phải có tốc độ tăng trưởng trên 9%/năm. Muốn có 1% tăng trưởng chúng ta phải đầu tư từ 25%-30% GDP, với giá trị tuyệt đối phải có khoảng 60 tỷ USD, trong đó vốn trong nước là chủ yếu. Vậy chúng ta phải làm gì và phải làm như thế nào để có vốn?. 2. Lựa chọn công nghệ thích nghi như thế nào để nước ta không bị tụt hậu về công nghệ sản phẩm của ta cạnh tranh được với sả._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0235.doc