Sự mất cân đối và bất bình đẳng trong việc hưởng thụ thông tin giữa các khu vực trên thế giới

Tài liệu Sự mất cân đối và bất bình đẳng trong việc hưởng thụ thông tin giữa các khu vực trên thế giới: MẤY LỜI THƯA TRƯỚC Đề tài nghiên cứu “Sự mất cân đối và bất bình đẳng trong việc hưởng thụ thông tin giữa các khu vực trên thế giới” là một đề tài thú vị thuộc lãnh địa Lịch sử Báo chí Thế giới. Việc thực hiện đề tài này sẽ tạc dựng một bức tranh toàn cảnh về thực trạng hưởng thụ thông tin hiện nay trên thế giới, những khu vực tràn ngập thông tin và những khu vực thiếu thốn thông tin hết sức. Nhóm tác giả đề tài, với vốn kiến thức ít ỏi của mình, hy vọng làm sáng rõ các cực hưởng thụ thông tin... Ebook Sự mất cân đối và bất bình đẳng trong việc hưởng thụ thông tin giữa các khu vực trên thế giới

doc152 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Sự mất cân đối và bất bình đẳng trong việc hưởng thụ thông tin giữa các khu vực trên thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trên thế giới, sự mất cân đối và bất bình đẳng trong việc hưởng thụ thông tin. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cố gắng trỏ ra căn nguyên của thực trạng, hệ luỵ cũng như kiến nghị những giải pháp bước đầu. Đây là một địa hạt thú vị của truyền thông nhưng chưa có những đề tài nghiên cứu một cách bài bản và hệ thống. Nhóm tác giả đề tài dựa trên đối tượng, phạm vi nghiên cứu là các tài liệu hữu ích trên báo, đài, internet; các tài liệu là các cuốn sách, giáo trình về lịch sử báo chí... giải quyết vấn đề trên cơ sở các thao tác khoa học: tổng hợp, phân tích, đối chiếu so sánh... Đề tài gồm 3 chương, được cấu trúc như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về việc hưởng thụ thông tin của công chúng trên thế giới Chương 2: Sự mất cân đối và bất bình đẳng trong việc hưởng thụ thông tin giữa các khu vực trên thế giới Chương 3: Sự mất cân đối và bất bình đẳng trong việc hưởng thụ thông tin của công chúng Việt Nam Hy vọng đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích, thú vị cho các bạn sinh viên khoá sau của Khoa Báo chí - Truyền thông và cũng là tài liệu tham khảo cho bất cứ ai quan tâm tới lĩnh vực này. Do hạn chế về khả năng, chắc chắn đề tài của chúng tôi còn có nhiều bất cập. Chúng tôi mong đợi những đóng góp thiện chí trên tinh thần xây dựng. Hà Nội, 5/2008 Nhóm trưởng nhóm 4: Ngô Thành Vũ MỤC LỤC Trang Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC HƯỞNG THỤ THÔNG TIN CỦA CÔNG CHÚNG TRÊN THẾ GIỚI. 7 1.1. Các quan điểm về “thông tin”, “hưởng thụ thông tin”, “mất cân đối” và “bất bình đẳng” trong việc hưởng thụ thông tin. 7 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới vấn đề hưởng thụ thông tin của công chúng báo chí 16 1.3. Phân chia các khu vực hưởng thụ thông tin trên thế giới theo hệ tiêu chí. 30 Chương 2 SỰ MẤT CÂN ĐỐI VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG TRONG VIỆC HƯỞNG THỤ THÔNG TIN GIỮA CÁC KHU VỰC TRÊN THẾ GIỚI. 32 2.1. Tổng quan chung về thực trạng mất cân đối và bất bình đẳng trong việc hưởng thụ thông tin giữa các khu vực trên thế giới. 32 2.2. Khu vực Châu Á. 50 2.3. Khu vực Châu Âu. 62 2.4. Khu vực Châu Phi. 75 2.5. Khu vực Châu Mỹ. 89 2.6. Khu vực Châu Đại Dương. 100 2.7. Hậu quả của sự mất cân bằng và bất bình đẳng trong việc hưởng thụ thông tin 108 2.8. Giải pháp giải quyết thực trạng mất cân đối và bất bình đẳng trong hưởng thụ thông tin giữa các khuc vực trên thế giới. 112 Chương 3 SỰ MẤT CÂN ĐỐI VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG TRONG VIỆC HƯỞNG THỤ THÔNG TIN CỦA CÔNG CHÚNG VIỆT NAM. 127 3.1. Thực trạng hưởng thụ thông tin của công chúng Việt Nam. 127 3.2. Các giải pháp giải quyết thực trạng mất cân đối về hưởng thụ thông tin của công chúng Việt Nam. 142 TÀI LIỆU THAM KHẢO 155 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC HƯỞNG THỤ THÔNG TIN CỦA CÔNG CHÚNG TRÊN THẾ GIỚI. Các quan điểm về “thông tin”, “hưởng thụ thông tin”, “mất cân đối” và “bất bình đẳng” trong việc hưởng thụ thông tin. 1.1.1. Quan điểm về “thông tin”, vấn đề “hưởng thụ thông tin” của công chúng. Khái niệm “thông tin” được bắt nguồn từ tiếng La Tinh infometio, gốc của từ tiếng Anh information. Lần đầu tiên thông tin được con người chú ý nghiên cứu về mặt ý nghĩa xã hội của nó và được đề cập đến trong lý thuyết báo chí vào những năm 20 - 30 của thế kỷ XX. Theo cách hiểu kinh điển thì thông tin chính là những cái mới khác với những điều đã biết. Kế thừa tư tưởng trên, khái niệm thông tin đi vào khoa học hiện đại, trước hết là lý thuyết thông tin của Shannon (nhà toán học, vật lý) đưa ra năm 1948. Có rất nhiều định nghĩa về thông tin. Ngoài cách tiếp cận theo góc độ trên, một số cách tiếp cận đã có tầm khái quát hơn, chẳng hạn "thông tin là dữ liệu mà có thể nhận thấy, hiểu được và sắp xếp lại với nhau hình thành kiến thức", hay "thông tin là sự truyền đưa độ đa dạng" (R.Esbi) hoặc "thông tin là nội dung thế giới bên ngoài được thể hiện trong sự nhận thức của con người" (N.Viner). Trong cuốn sách bùng nổ truyền thông, hai ông Philippe Breton và Serge Proulx giải thích theo hai hướng nghĩa: Thứ nhất là, nói về một hành động cụ thể để tạo ra một hình dạng (forme), thứ hai là, nói về sự truyền đạt một ý tưởng, một khái niệm hay một biểu tượng. Hai hướng này cùng tồn tại, một nhằm vào sự tạo lập cụ thể, một nhằm vào sự tạo lập kiến thức truyền đạt. Nó thể hiện sự gắn kết của hai lĩnh vực kĩ thuật và kiến thức. Theo từ Đại điển Tiếng Việt - Nguyễn Như Ý thì thông tin được hiểu một cách khái quát là: truyền tin, đưa tin báo cho nhau biết hoặc: tin tức được truyền đi cho biết; tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế giới xung quanh. Trong lĩnh vực truyền thông đại chúng, các thành viên của nó hoạt động chủ yếu dựa trên nội dung của cá thông điệp, nhất là khi tiếp xúc với công chúng. Người ta gọi đó là thông tin chất lượng. Trong lí luận báo chí, khái niệm thông tin cũng đang tồn tại hai cách hiểu: Một là, sự loan báo cho mọi người biết. Hai là, tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực cuộc sống. Nó là công cụ chủ yếu để nhà báo thực hiện mục đích của mình. Tiếp cận vấn đề hưởng thụ thông tin giữa các khu vực trên thế giới, chúng ta hiểu khái niệm nghiêng về nghĩa thứ hai. Hưởng thụ: hưởng do có lao động, có cống hiến, Đại từ điển Tiếng Việt – Nguyễn Như ý. Hưởng thụ đó là quyền được hưởng những lợi ích trong xã hội. Hưởng thụ là thước đo đời sống của con người, con người được hưởng thụ càng nhiều thì chứng tỏ đời sống của họ càng cao. Việc hưởng thụ thông tin, được coi là quyền lợi chính đáng trong xã hội của mỗi công dân. Bởi xét cho cùng, thông tin là tri thức chung của nhân loại, con người cần có thông tin để ứng xử và hoạt biến trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể nhất định cho phù hợp và có lợi. Vấn đề hưởng thụ thông tin được thể hiện qua việc sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng như số lượng báo, số đài, số tivi, số lượng máy internet... Tuy nhiên, trên thực tế, để đạt được sự đồng đều trong hưởng thụ thông tin đối với mọi người là một việc vô cùng khó khăn, đòi hỏi sự cố gắng không chỉ riêng từng cá nhân mà cần nỗ lực chung của cả cộng đồng. Hưởng thụ là hưởng do có cống hiến, tức là muốn hưởng thụ phải có sự cống hiến. Trong hưởng thụ thông tin, nếu hiểu khái niệm cống hiến một cách linh hoạt thì đó là những điều kiện căn bản, là “lượng” đảm bảo sự ra đời tương ứng của “chất” hưởng thụ thông tin. Nghĩa là phải có những tiền đề nhất định thì mới có kết quả theo nó. Ở đây phải hiểu là những yếu tố kinh tế, chính trị xã hội, văn hóa – giáo dục, khoa học - kỹ thuật … làm nền tảng tác động đến việc truyền tải thông tin tới công chúng. Việc hưởng thụ thông tin có sự khác biệt giữa các khu vực, các nước, thậm chí là các địa phương khác nhau trong cùng một quốc gia, tạo nên sự bất bình đẳng và mất cân đối trong việc hưởng thụ thông tin, kéo theo hàng loạt hậu quả trong đó phải kể đến sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, trình độ dân trí… giữa các khu vực quốc gia đó. Ở những nước có điều kiện kinh tế phát triển, các phương tiện truyền thông đại chúng phát triển mạnh mẽ vì vậy hàng ngày công chúng được tiếp cận với một khối lượng thông tin đa dạng, khổng lồ, phong phú từ các loại hình truyền thông đại chúng khác nhau. Ở những nước kém phát triển và chậm phát triển thì người dân ít có điều kiện tiếp cận với các phương tiện truyền thông đại chúng, hơn nữa chính người dân ở những vùng này chẳng mấy quan tâm đến những tin tức, những sự việc đang hàng ngày, hàng giờ xảy ra xung quanh mình. Nên việc tiếp nhận thông tin của công chúng ở những khu vực này còn hạn chế. 1.1.2. Quan điểm về “bất bình đẳng” trong hưởng thụ thông tin của công chúng. Đại Từ điển Tiếng Việt – Nguyễn Như Ý định nghĩa bình đẳng (tính từ) ngang nhau về nghĩa vụ và quyền lợi Theo Từ điển Tiếng Việt (The Free Vietnamese Dictionary project) thì Bình đẳng (bình: đều nhau, đẳng: thứ bậc) được hiểu là ngang hàng nhau về địa vị, về quyền lợi. Từ đó có thể suy ra, bất bình đẳng là không ngang hàng nhau về địa vị, nghĩa vụ, quyền lợi. Bất bình đẳng không tồn tại một cách ngẫu nhiên mà là một hiện tượng xã hội phổ biến mang tính tất yếu do yếu tố cơ cấu xã hội và lành thổ tạo ra. Có nguồn gốc khi một số cá nhân (một số nhóm xã hội) có đặc quyền kiểm soát và khai thác một số cá nhân (một số nhóm xã hội) khác trong một số lĩnh vực chủ yếu của xã hội nhằm chiếm lấy đặc quyền đặc lợi xã hội. Những xã hội khác nhau đã tồn tại những hệ thống bất bình đẳng khác nhau do thể chế chính trị quyết định. Nó quyết định đến phân tầng xã hội. Biểu hiện rõ rệt nhất về mặt kinh tế là sự phân cực thành những nước giàu và những nước nghèo, những nước cực giàu có và những nước khốn khó đến cùng cực với các khoản nợ chồng chất không có khả năng trả. Điều này làm cho sự phân hoá giàu - nghèo trở thành một đặc điểm của toàn cầu hoá hiện nay, nó thể hiện sự bất bình đẳng của các nước và các dân tộc tham gia toàn cầu hoá. Đáng chú ý là sự bất bình đẳng không chỉ thể hiện giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, tức là giữa các nước phương Tây giàu có và phần còn lại của thế giới. Sự bất bình đẳng còn thể hiện ngay trong số các nước phát triển, cũng như giữa các nước chậm phát triển, giữa các khu vực khác nhau trong một quốc gia và giữa các dân tộc trong một quốc gia nhiều dân tộc. Từ khác nhau về địa vị dẫn đến sự khác nhau về nghĩa vụ, quyền lợi, mà trước tiên là quyền lợi kinh tế như đã nói ở trên. Sự bất bình đẳng trong hưởng thụ thông tin theo đó có thể hiểu là sự không ngang nhau về địa vị và theo đó cũng không ngang bằng nhau về quyền được hưởng thụ thông tin. Có người bán thông tin trong khi những người khác phải mua thông tin. Có những người tiếp cận được loại thông tin này mà không tiếp cận được loại thông tin khác. Hoặc có người dù có đủ điều kiện cũng không thể tiếp cận được thông tin... Trong tiếp nhận truyền thông, sự phân phối tin tức hai cực, một cực có những đặc quyền đặc lợi, được hưởng thụ những thành quả của truyền thông (có đặc quyền, đặc lợi), và một cực bị “lờ” đi quyền được hưởng thụ thông tin (không có đặc quyền, đặc lợi) lẽ ra là tất yếu. Bất bình đẳng trong truyền thông do đó làm gia tăng bất bình đẳng giữa các nhóm xã hội, sự phân hoá giàu nghèo, địa vị chính trị; bất bình đẳng giữa các tộc người; bất bình đẳng giữa giới nam và giới nữ....giữa các quốc gia, khu vực. Trong một thế giới của sự phát triển khoa học kỹ thuật ngày càng tăng, khi mà xã hội lẽ ra phải đang được hưởng những lợi ích từ sự đi lên của kinh tế, thì nhiều nước đang phải đối mặt với tình trạng mà trong đó sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo "đang gia tăng với tốc độ đáng báo động". Ngay những nước phát triển như Mỹ, Canada và Anh cũng không thoát khỏi xu thế này. Và mặc dù đã và đang được chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế ngoạn mục, hai quốc gia lớn nhất châu Á là Trung Quốc và Ấn Độ cũng thất bại trong việc giải quyết vấn đề bất bình đẳng. Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở nhiều nước tại châu Á, châu Mỹ Latin và châu Phi. Chỉ riêng tại khu vực phụ cận sa mạc Sahara, số người nghèo đã tăng lên tới gần 90 triệu trong thời gian hơn 1 thập kỷ (từ 1990 tới 2001). Tại khu vực châu Mỹ Latin, số người thất nghiệp đã tăng từ gần 7% năm 1995 lên 9% năm 2002, với nhiều người lao động buộc phải chuyển sang khu vực kinh tế phi chính thức, nơi mà những điều kiện làm việc được miêu tả là "phi nhân tính" và mức lương rất thấp. Tại những nước như Brazil, Guatemala và Bolivia, chủng tộc và giới vẫn là những nhân tố quyết định đối với khả năng tiếp cận các cơ hội kinh tế. Con cháu của người da vàng bản xứ và người gốc Phi có thu nhập trung bình thấp hơn người da trắng từ 35% đến 65%, và có ít cơ hội tiếp cận với hệ thống giáo dục và nhà ở hơn. Trên thực tế, gần đây cường quốc giàu nhất thế giới này đã bắt đầu áp dụng những sửa đổi luật nhằm loại trừ việc đưa ra những cam kết viện trợ cho các nước nghèo, thay vào đó tập trung vào những vấn đề như an ninh và khủng bố. 8 mục tiêu trong Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ gồm: giảm 50% tỷ lệ đói và nghèo; phổ cập giáo dục cơ bản; giảm 2/3 tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh; giảm 3/4 tỷ lệ tử vong của sản phụ, thúc đẩy bình đẳng về giới; đảm bảo sự bền vững của môi trường; ngăn chặn sự lây lan của HIV/AIDS, bệnh sốt rét và các loại bệnh khác; xây dựng sự cộng tác toàn cầu dành cho phát triển giữa các nước giàu và nghèo - tất cả đều phải được thực hiện vào năm 2015. Cộng đồng quốc tế đã cảnh báo về hậu quả của việc không hành động. "Thất bại trong việc giải quyết tình trạng bất bình đẳng sẽ khiến cho việc nâng cao điều kiện sống cho người nghèo và tạo lập công bằng xã hội trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Nguy hiểm hơn, nó có thể dẫn đến sự bất ổn về mặt xã hội trên toàn thế giới. Khi đó, tất cả mọi người trong chúng ta đều phải trả giá". Xét trên một khía cạnh nào đó, truyền thông vẫn là “con đẻ” của chính trị, của kinh tế, khoa học kỹ thuật... Sự bất bình đẳng trong chính trị, trong kinh tế, kéo theo sự bất bình đẳng về truyền thông. Chừng nào trên thế giới còn tồn tại bất bình đẳng giữa người với người, giữa dân tộc này với dân tộc khác, chừng đó còn tồn tại bất bình đẳng về truyền thông. 1.1.3. Quan điểm về “mất cân đối” trong việc hưởng thụ thông tin của công chúng. Cân đối là hợp lý, hài hòa giữa các phần khác nhau, Đại từ điển Tiếng Việt – Nguyễn Như Ý. Mất cân đối, do đó có thể hiểu là không hài hòa, không hợp lý giữa các phần khác nhau trong môt chỉnh thể chung thống nhất; chủ yếu nhấn mạnh đến cấu tạo, cơ cấu của chỉnh thể đó. Mất cân đối về hưởng thụ thông tin được hiểu là sự không hài hoà, không cân xứng, không đồng đều giữa các vùng miền, quốc gia và giữa các lãnh thổ trên thế giới, là sự chồng chéo ở nội dung và phân bố, thiếu hụt ở một số lĩnh vực và địa bàn trong việc tiếp nhận thông tin. Nhu cầu về việc thông tin của một số bộ phận chưa được đáp ứng đầy đủ là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Một số bộ phận dân cư nằm trong diện “đói thông tin”, tập trung chủ yếu ở những nơi có địa lí hiểm trở khó khăn cho việc vận chuyển các ấn phẩm báo chí, lắp đặt đường dây, những vùng có nền kinh tế kém phát triển, xã hội phức tạp… Mất cân đối trong hưởng thụ thông tin cần được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau trên phương diện công chúng - chủ thể của việc tiếp nhận đối với các loại thông tin: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa – giáo dục, khoa học – kỹ thuật… Chẳng hạn xét về khách quan, thì sự mất cân đối đó có phải là tất yếu không (do chưa đáp ứng đủ yếu tố tiền đề cần thiết như đã nói ở trên). Hoặc sự mất cân đối là do đã đáp ứng đủ yếu tố cần thiết để hưởng thụ một lượng thông tin tương ứng (trong trường hợp bình thường); nhưng khu vực, quốc gia đó lại không nhận được lượng thông tin tương xứng (tức là không bình thường). Có thể là do chính sách của nhà nước khu vực đó (mang đấu ấn giai cấp, dân tộc), hoặc cũng có thể là do tác động ép buộc của thế lực bên ngoài (chỉ phổ biến loại thông tin này mà cấm loại thông tin khác)… Đây cũng là một phần của hệ lụy bất bình đẳng trong hưởng thụ thông tin mà đề tài nghiên cứu đề cập. Xét về mặt chủ quan, thì sự mất cân đối về hưởng thụ thông tin còn phụ thuộc vào nhu cầu loại thông tin mà công chúng ở nhóm khu vực, quốc gia đó có nhu cầu. Chẳng hạn nhóm công chúng ở các nước kém phát triển (như Châu Phi) thì cần lượng thông tin về y tế, giáo dục, kỹ thuật… hơn là thông tin về thời trang, điện ảnh, các loại phương tiện kỹ thuật quá hiện đại… như ở các quốc gia, khu vực phát triển. Sự cân đối trong tiếp cận thông tin, xét cho cùng cũng chỉ là tương đối, không thể tuyệt đối hoàn toàn. Vấn đề hậu quả của mất cân đối trong hưởng thụ thông tin cũng nên nhìn nhận ở cả măt tích cực và hạn chế. Mặt tích cực thể hiện ở chỗ nó cung cấp những thông tin mà công chúng cần, công chúng muốn chứ không phải tất cả những thông tin mà thế giới có (nếu như chính nhóm công chúng ở khu vực hoặc quốc gia đó được đáp ứng loại thông tin mong muốn). Điều này có tác động rất lớn tới việc thúc đẩy xã hội đó phát triển theo hướng tiến bộ, đặc biệt là kinh tế. Mặt hạn chế là chính chính sách của từng quốc gia khu vực, của thế lực bên ngoài tác động… nên công chúng từng quốc gia, khu vực thiếu đi những thông tin cần thiết về thế giới, có thể làn trì hoãn sự tiến bộ và phát triển của chính họ. Đôi khi chính họ cũng không ý thức được tầm quan trọng của nó với bản thân, do vậy chưa có nhu cầu lớn. Vấn đề đặt ra là sự cân đối giữa lượng thông tin họ cần và lượng thông tin họ được tiếp nhận. Điều này lại chịu sự chi phối rất lớn của những yếu tố nền tảng (kinh tế, chính trị xã hội, văn hóa – giáo dục, khoa học - kỹ thuật…) đề cập ở trên. Dựa vào đặc điểm riêng của mình mà từng quốc gia, khu vực sẽ có cách thức giải quyết vấn đề phù hợp. Việc mất cân đối trong hưởng thụ thông tin đã làm cho thế giới bị chia mảng thành những màu sắc đậm nhạt khác nhau. Ở một số bộ phận dân cư có đời sống cao, mức hưởng thụ thông tin lớn, họ có cuộc sống phát triển đầy đủ, toàn diện cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Số khác sống dưới mức tối thiểu, chẳng hạn một số quốc gia ở Châu Phi lại thiếu thốn nghiêm trọng dẫn đến không thể tự cân đối chính lượng thông tin của mình. 1.1.4. Mối quan hệ giữa bất bình đẳng và mất cân đối trong hưởng thụ thông tin So sánh một cách tương đối thì, bất bình đẳng trong hưởng thụ thông tin là do tác động ở bên ngoài lên chủ thể tiếp nhận thông tin (tức là nó mang tính khách quan, ngoài ý muốn của chủ thể), còn mất cân đối lại nghiêng về phía chủ quan (chính sách, hay chính chủ thể có mong muốn tiếp nhận loại thông tin như vậy). Bất bình đẳng trong hưởng thụ thông tin là sự khác biệt về mức độ thông tin hưởng thụ giữa nước này, khu vực này với nước khác hay khu vực khác (so với mặt bằng chung) – biểu hiện bằng số liệu cân báo in, số tivi, số máy tính/ 1 đầu người… còn mất cân đối là sự chênh lệch cơ cấu thành phần các loại thông tin trong một “ gói” thông tin tương đối hoàn chỉnh. Bất bình đẳng là sự không công bằng trong việc sở hữu (có) thông tin còn mất cân đối là sự không đồng đều trong việc sử dụng (dùng) thông tin. Bất bình đẳng và mât cân đối trong việc hưởng thụ thông tin giữa các khu vực trên thế giới thể hiện sự chênh lệch, không cân bằng, bất hợp lý trong quá trình tiếp cận thông tin của công chúng giữa các khu vực khác nhau. Có khu vực công chúng được cung cấp một khối lượng lớn thông tin theo những hình thức đa dạng khác nhau nhưng bên cạnh đó lại có những khu vực công chúng không được thường xuyên cập nhật những thông tin mới, các phương thức truyền thông còn hạn chế tạo nên sự chênh lệch về trình độ dân trí, trình độ nhận thức và hơn nữa chính là trình độ phát triển của chính các khu vực. Bất bình đẳng trong hưởng thụ thông tin cũng là 1 trong những nguyên nhân dẫn đến mất cân đối trong tiếp nhận thông tin. Việc giải quyết vấn đề bất bình đẳng trong hưởng thụ thông tin khó hơn là việc giải quyết vấn đề mất cân đối trong hưởng thụ thông tin. Cốt lõi của mọi vấn đề bất bình đẳng hay mất cân đối ở trên chính là cơ sở hạ tầng (lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất..) và kiến trúc thượng tầng ( chính trị, tôn giáo, luật pháp…) của chính quốc gia, khu vực đó trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò chính yếu. Để giải quyết tình trạng bất bình đẳng, cần phải điều chỉnh sự mất cân đối kinh tế giữa các nước cũng như trong nội bộ từng nước. Hiện nay, khoảng 80% tổng sản phẩm quốc nội của thế giới thuộc về 1 tỷ người sống tại các nước phát triển, trong khi đó 5 tỷ người sống tại các nước đang phát triển chia sẻ 20% còn lại. Lo lắng về tiến độ chậm trễ trong việc đạt được các Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG), tổng thư ký Liên Hiệp Quốc vừa mãn nhiệm Kofi Annan đã nhiều lần thúc giục các nước giàu thực hiện cam kết của họ về việc chi ít nhất 0,7% tổng thu nhập quốc dân cho công cuộc phát triển ở các nước nghèo. Thế kỷ 21 là kỷ nguyên xã hội thông tin trong đó khoa học công nghệ cao và tri thức con người có vị trí đặc biệt quan trọng. CNTT&TT trở thành lĩnh vực then chốt trong xã hội thông tin hiện đại và được khẳng định là động lực phát triển kinh tế - xã hội, thu hẹp khoảng cách số giữa các quốc gia và giữa các vùng miền trong mỗi quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, CNTT&TT vừa đem lại cơ hội tạo ra sự công bằng hợp lý chung cho mọi người nhưng cũng khoét sâu hố ngăn cách thông tin giữa các nước đang phát triển và phát triển cũng như giữa nông thôn và thành thị do trình độ khác nhau về phát triển các loại hình ứng CNTT&TT. 1.2.Các nhân tố ảnh hưởng tới vấn đề hưởng thụ thông tin của công chúng báo chí Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới vấn đề thụ hưởng thông tin của công chúng báo chí. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, xin trỏ ra một số nhân tố cơ bản, có ảnh hưởng sâu sắc tới việc hưởng thụ thông tin của công chúng trong bối cảnh hiện nay: Chính trị, kinh tế, giáo dục, khoa học - kỹ thuật... và xu hướng toàn cầu hoá. 1.2.1. Tác động của chính trị tới việc thụ hưởng thông tin của công chúng. Mối liên hệ của chính trị với thông tin – truyền thông cũng đặt ra những vấn đề trong việc hưởng thụ thông tin của công chúng giữa các khu vực khác nhau trên thế giới. Trước hết, hệ thống chính trị là nền tảng để lãnh đạo và điều chỉnh xã hội, vì thế nó có sức ảnh hưởng đến các lĩnh vực của đời sống, trong đó có sự phát triển, phân phối thông tin. Tính chất của mỗi nền chính trị, sự lạc hậu, áp đặt… là yếu tố quan trọng, quyết định sự phát triển – không phát triển của con người. Lĩnh vực thông tin cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng của chính tri. Đặc biệt, trong những thập niên gần đây, thế giới bùng nổ về thông tin, kéo theo các vấn đề kinh tế, xã hội…thì các nền chính trị ra sức quản lí và điều hành thông tin sao cho thông tin trở thành công cụ lãnh đạo. Trong vấn đề sự mất cân đối và bất bình đẳng trong việc hưởng thụ thông tin của công chúng có thể chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng từ chính trị : Chính trị mỗi khu vực sẽ bảo vệ cho quyền lợi chế độ và hệ tư tưởng của mình. Do đó, báo chí hay thông tin nói chung sẽ được chế độ chính trị ở nước đó áp đặt về hệ tư tưởng. Nơi nào cũng muốn phát triển thông tin theo hướng có lợi cho lợi ích dân tộc, giai cấp mình. Khi nào trên thế giới còn tồn tại những tư tưởng về phân chia quyền lực, phân chia thành các nhóm phát triển, thì sự mất cân đối trong thông tin còn chưa được giải quyết. Nền chính trị nào cũng muốn tạo ra những thông tin có lợi cho mình. Chính trị định hướng sự phát triển của hệ thống thông tin. Đồng hành cùng điều này có sự cân nhắc trong mối liên hệ với chiến lược phát triển các lĩnh vực khác. Chính trị quyết định quyền tiếp cận thông tin cho công chúng. Những thông tin nào được phép công bố và những thông tin nào thuộc bí mật quốc gia. Quyền tiếp cận thông tin cũng là một trong những yếu tố gây nên mất cân đối và bất bình đẳng thông tin. Với những đặc thù về địa lí, văn hóa, phong tục.. chính trị ở các nơi có sự ảnh hưởng trong nội dung thông tin được xuất bản ra. Quyền tự do thông tin hầu như đã dược phổ biến trên toàn thế giới. Chính trị qui định phạm vi của quyền tự do ấy. Ở Hoa kì, dư luận rất phẫn nộ vì những thông tin cá nhân không được tôn trọng và bảo mật xứng đáng Chính quyền Mĩ cho phép mình xâm phạm những thông tin riêng tư của công dân vì lí do an ninh chính trị. 1.2.2. Tác động của nhân tố kinh tế tới vấn đề hưởng thụ thông tin của công chúng. Kinh tế có ảnh hưởng, chi phối tới mọi hoạt động của xã hội. Hoạt động tiếp nhận thông tin của công chúng cũng không nằm ngoài sự chi phối của nó. Ở những điều kiện kinh tế khác nhau, khả năng tiếp nhận và việc hưởng thụ thông tin của công chúng cũng khác nhau. Sự chênh lệch về kinh tế dẫn tới mức độ và cơ hội hưởng thụ thông tin của công chúng cũng không đồng đều. Kinh tế phân chia khu vực công chúng hưởng thụ thông tin Sự chênh lệch về kinh tế đã tạo ra những khu vực khác nhau trong việc hưởng thụ thông tin của công chúng. Thứ nhất là khu vực công chúng có nhiều cơ hội hưởng thụ thông tin do điều kiện kinh tế phát triển cao. Ở những nước có nền kinh tế phát triển, mức sống cao, các phương tiện truyền thông cũng phát triền nên công chúng có nhiều cách khác nhau để tiếp cận với thông tin, cơ hội hưởng thụ thông tin của công chúng ở đây cũng lớn hơn. Thông tin từ chữ viết (báo in, sách), từ tiếng nói (đài phát thanh, truyền miệng), từ hình ảnh (truyền hình, điện ảnh), từ Internet, từ hãng thông tấn đều dồi dào và sẵn có. Công chúng có điều kiện khai thác nguồn thông tin khổng lồ này hầu như ở mọi nơi, mọi lúc: cơ quan, trường học, tại nhà, quán caffe… Thứ hai là khu vực công chúng có cơ hội hưởng thụ thông tin còn hạn chế do điều kiện kinh tế còn kém phát triển. Những khu vực có nền kinh tế kém phát triển (như các nước ở châu Phi, một số nước vùng Nam Mỹ…) radio là phương tiện chủ yếu. Chi phí thấp là yếu tố quan trọng để loại hình truyền thông này chiếm ưu thế ở đây. Báo in, truyền hình và Internet còn hạn chế, phổ biến hơn ở thành phố và đô thị của những nước này. Ở khu vực này, công chúng có ít cơ hội hơn trong việc hưởng thụ thông tin. Có thế lấy Việt Nam làm một ví dụ cho thấy sự phân chia này. Mức độ hưởng thụ thông tin giữa thành thị và nông thôn qua các phương tiện thông tin đại chúng rất chênh lệch. Trên 70% dân số sống ở nông thôn nhưng tỷ lệ được hưởng thụ báo chí ở nông thôn chỉ chiếm 25%. Khu vực công chúng có nhiều cơ hội hưởng thụ thông tin tập trung ở thành thị. Kinh tế chi phối cách tiếp nhận thông tin của công chúng Mọi người đều có nhu cầu tiếp cận với thông tin để nhận thức về bản thân về cuộc sống và sử dụng thông tin vào những mục đích riêng. Nhưng do điều kiện kinh tế khác nhau dẫn tới khả năng tiếp nhận thông tin và cách tiếp cận thông tin cũng khác nhau với mỗi khu vực công chúng. Với đối tượng công chúng có điều kiện kinh tế ổn định, đầy đủ, họ hướng tới nhu cầu giải trí nhiều hơn. Những thông tin về kinh tế, chính trị - xã hội luôn được cập nhật hằng ngày hàng giờ qua tất cả các phương tiện truyền thông, họ quá đầy đủ về thông tin và chủ động đi tìm những thông tin họ cần. Tức là họ tiếp nhận thông tin một cách chủ động. Đồng thời khả năng tiếp nhận thông tin và tiêu thụ thông tin của họ cũng cao hơn do được tiếp xúc với những phương tiện truyền thông hiện đại một cách thường xuyên. Ngược lại là khu vực công chúng có ít cơ hội hưởng thụ thông tin. Cuộc sống khó khăn, những cuộc mưu sinh đã chiếm phần lớn thời gian của họ. Họ cũng không có nhiều cơ hội lựa chọn cho mình loại hình truyền thông để tiếp cận và tìm kiếm thông tin. Vì vậy họ tiếp nhận thông tin một cách thụ động, không có định hướng, mục đích và khả năng tiếp nhận, tiêu thụ thông tin của họ cũng kém hơn so với khu vực công chúng trên. 1.2.3. Tác động của khoa học kỹ thuật tới vấn đề hưởng thụ thông tin của công chúng. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã tạo ra những điều kiện và phương tiện vật chất mở đường cho sự hình thành và phát triển nhanh chóng của toàn cầu hóa. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mà đặc biệt là công nghệ thông tin (CNTT) và viễn thông đã tạo điều kiện cho các hoạt động thông tin với tốc độ nhanh và cường độ mạnh. Xa lộ thông tin siêu cao tốc đang dần trở thành đường dẫn truyền quan trọng bậc nhất cho sự lan rộng, sâu và nhanh của các quan hệ quốc tế. Những rào cản về thời gian và khoảng các địa lý dần được khắc phục. Các quốc gia dân tộc ngày càng gần gũi hơn nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Những hình ảnh và thông tin được truyền hình trực tiếp về các sự kiện đang diễn ra ở mọi miền trên trái đất. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật có ý nghĩa to lớn về xã hội và kinh tế, khiến dân chúng có thể tìm kiếm thông tin nằm ngoài cộng đồng họ, kết nối với dân cư các cộng đồng khác, chia sẻ quan tâm và học hỏi từ những người có kinh nghiệm và kiến thức. Một điều không thể phủ nhận là tất cả các nước có nền kinh tế và KHKT phát triển thì hệ thống truyền thông của họ cũng rất phát triển. Sự phát triển mạnh mẽ của KHKT tác động trực tiếp đến cung cấp thông tin cũng như nhu cầu thông tin của công chúng. Mỹ và Châu Âu là nơi có mặt bằng KHKT phát triển chính điều đó khiến cho ngành CNTT của họ phát triển như vũ bão. * Mỹ không chỉ là cường quốc số một về kinh tế, về KHKT, về quân sự…mà còn là người khổng lồ trong lĩnh vực truyền thông. Trung bình cứ 1 người dân Mỹ sở hữu tới 2 radio và 1 tivi. Để đáp ứng nhu cầu thông tin của số lượng máy thu khổng lồ này, nước Mỹ có 1.285 đài truyền hình và hơn 10.000 đài phát thanh (1994). Đại bộ phận đài phát thanh và truyền hình Mỹ thuộc sở hữu tư nhân. Một đối thủ không thể xem thường của truyền hình là mạng lưới truyền hình cáp với 67 triệu thuê bao (1996). * Trung bình mỗi người Anh ngồi trước màn hình 3 giờ rưỡi để thu nhận thông tin. Hơn 97% hộ gia đình Anh có tivi màu, 73% có đầu máy video. Nhà nào cũng có radio và có tới 70% người Anh bắt sóng radio hàng ngày. Ngành phát thanh, truyền hình phát triển khá mạnh nhờ sự can thiệp của KHKT. Đài phát thanh và truyền hình Anh (BBC) cung cấp thuê bao duy nhất với 2 kênh truyền hình BBC1, BBC2, 5 đài phát thanh phủ sóng toàn lãnh thổ. Hệ thống điện tử Anh tăng trưởng với tốc độ chóng mặt về số lượng với 3 kênh truyền hình tư nhân, 3 đài phát thanh tư nhân phát sóng toàn quốc và khoảng 200 đài khu vực. Báo in: 10 tờ báo hàng ngày và 9 tờ báo có phạm vi phát hành trên cả nước thêm vào đó là khoảng 1400 tờ báo địa phương và 6500 tạp chí định kỳ, tạo nên diện mạo phong phú cho báo chí Anh. Tiêu thụ số lượng báo không nhỏ này là một trong những lượng độc giả đông đảo nhất các nước phát triển: 60% người Anh trưởng thành đọc 1 tờ báo hàng ngày thuộc báo quốc gia, hơn 65% mua báo chủ nhật. Số lượng độc giả lớn hơn vậy thường xuyên đọc báo địa phương. * Pháp. Nước Pháp sở hữu 117 tờ báo hàng ngày với 12,7 triệu bản mỗi ngày hay 216 bản/1000 dân(1996). Tạp chí thì trung bình 1.350 bản/1000 người. Theo số liệu thống kê 1996 cứ 1000 người dân Pháp thì có 943 radio và 596 tivi, đài phát thanh: 41 đài AM và 846 đài FM. * Nhật: đất nước mặt trời mọc, đất nước có nền KHKT phát triển nhất ở Châu Á cũng là một cường quốc về báo chí, gần 126 triệu người dân Nhật mỗi ngày tiêu thụ tới 73 triệu bản báo xuất bản hàng ngày của 122 đầu báo khác nhau (580 bản/1000 dân). Trung bình 1000 người Nhật có 684 tivi và 957 radio. Các quốc gia có tiềm lực khoa học kỹ thuật mạnh, kéo theo sự phát triển của truyền thông. Xét trên nhiều khí._.a cạnh, khoa học kỹ thụât không phát triển, truyền thông cũng không thể phát triển được. Trong thời đại phát triển mạnh mẽ của CNTT, toàn cầu hóa truyền thông đại chúng, sự phát triển nhanh chóng của các phương thức, tư duy kỹ thuật đã khiến cho nhu cầu thông tin ngày càng cao của con người và xã hội. Những đổi mới trong công nghệ thông tin đã đưa thế giới đến một kỷ nguyên của các phương tiện truyền thông dân chủ, trong đó con người tiếp cận với tin tức và thông tin mà không bị giới hạn bởi những rào cản nào. Sự đổi mới này đã làm xuất hiện các loại phương tiện truyền thông mới, với những phương thức phân phối mua bán và sử dụng thông tin mới.. Một số dạng truyền thông mới xuất hiện mà nhờ có sự phát triển như vũ bão của CNTT đem lại trong tiêng Anh dọi là: blogs, podcast, digital music (âm nhạc kỹ thuật số), digital Djs ( người giới thiệu đĩa hát KTS), digital Film making ( làm fim KTS), và cả digital citizens ( những công dân KTS) Những chiếc điện thoại thông minh và người sử dụng không chỉ dùng để gọi, nghe, mà còn có thể nghe nhạc, chơi game, xem video, rồi chiếc máy tính cũng được nâng đời để có thêm chức năng truyền tin như máy quay, truyền hình trực tiếp, truyền hình ảnh trực tiếp (Webcam) hay các bản tin tự gửi (newsletter) ngoài ra những phương tiện đa năng kết hợp với TV, đài, điện thoại đang tạo ra những giá trị gia tăng vô cùng to lớn và cũng rất tiện ích cho người sử dụng. Sự nhanh chóng và tiện ích này chính là nhờ sự phát triển của KHKT. Với công nghệ kỹ thuật số chi phí thấp và việc phát song nhờ vệ tinh đã vượt qua các biên giới để đưa tin tức với đủ mọi quan điểm trên thế giới. Tính đến cuối 2005, hơn 2 tỷ người, gần 1/3 dân số thế giới đã có điện thoai di động, gần 800 triệu điện thoại di động được bán ra mội năm trên thê giới. Đến năm 2008, ước tính có khoảng 600 triệu người có thể có ngay lập tức có được thông tin của các sự kiện nhờ các camera kỹ thuật số tinh vi, trong đó phần nhiêu nhờ tính năng của những chiếc điện thoại di dộng của họ. Những công cụ này tạo ra một “hệ thống thông tin toàn cầu” có khả năng chưa từng có để tạo lập, sản xuất, chia sẻ và tham gia vào những gì diễn ra của cuộc sống. Mạng lưới toàn cầu cho phép con người đưa tin tức, suy nghĩ, ý tưởng và hình ảnh đi bất cứ đâu, vào bất kỳ thời điểm nào. Chính sự phát triển của khoa học kỹ thuật, của công nghệ thông tin, mạng thông tin toàn cầu internet đã giúp con người hy vọng vào sự bình đẳng, cân đối trong phân phối thông tin và hưởng thụ thông tin của mọi đối tượng công chúng trên thế giới. 1.2.4. Tác động của giáo dục tới vấn đề hưởng thụ thông tin của công chúng. Giáo dục và truyền thông đại chúng có mối quan hệ trực tiếp và mật thiết với nhau. Việc tiếp nhận bất cứ thông tin gì đều phụ thuộc vào trình độ giáo dục của mỗi cá nhân. Thông tin ấy được tiếp nhận theo chiều hướng đúng hay sai, sâu hay nông đều phụ thuộc vào nhận thức, tri thức của mỗi người. Giáo dục là một phức hợp tác động, có ba hình thái chính gồm: Giáo dục từ phái gia đình (Giáo dục học đã thừa nhận nề nếp, gia phong, truyền thống gia đình như một yếu tố giáo dục cực kỳ quan trọng không thể coi nhẹ); Giáo dục từ phía nhà trường (Giáo dục hiện đại, dựa trên nền tảng của các thành tựu khoa học giáo dục, chính là con đường thuận lợi nhất, hiệu quả nhất để hình thành và phát triển các phẩm chất, năng lực của nhân cách phù hợp với những tiêu chuẩn, giá trị xã hội và thời đại); Giáo dục từ xã hội (giữ vai trò then chốt và được thực hiện chủ yếu thông qua các quan hệ ứng xử xã hội). Các hình thái của giáo dục ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề tiếp nhận thông tin và hưởng thụ thông tin. Thông qua, giáo dục đã hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân – thành viên của xã hội. Đồng thời nó cũng có vai trò to lớn trong việc quyết định “cách tiếp nhận” trong lĩnh vực truyền thông của con người. Không chỉ giống như môi trường xã hội là tạo cơ hội cho các cá nhân lựa chọn chiều hướng phát triển nhân cách, mà do đặc thù và ưu thế riêng có, giáo dục đã hướng nhân cách phát triển hướng thiện, phù hợp với các quan niệm và các chuẩn mực chân, thiện, mỹ của xã hội. Sự định hướng nhân cách được thực hiện thông qua mục đích giáo dục, hệ thống các mục tiêu giáo dục, thông qua tính mục đích, tính hệ thống của nó…luôn đi trước và kéo theo sự phát triển nhân cách. Tính định hướng, môi trường giáo dục có ảnh hưởng sâu sắc tới việc ý thức sự cần thiết của các phương tiện truyền tin tới con người. Có thể thấy với việc nhìn nhận thông tin thì giáo dục đóng vai trò hàng đầu và có tính quyết định. Tuy nhiên cũng không nên tuyệt đối hoá vai trò của giáo dục. Giáo dục chỉ là một tác nhân, vai trò của giáo dục có thể thực hiện trong mối quan hệ tích hợp với các nhân tố môi trường, hoạt động của chủ thể và vai trò tiền đề của các yếu tố sinh học( yếu tố bẩm sinh,thông minh sẵn có). Thực tế truyền thông thế giới đã chứng minh, giáo dục, trình độ dân trí quyết định sản phẩm, phương tiện truyền thông của các quốc gia. Sự phát triển radio tại châu Phi như một phương tiện thắng thế tuyệt đối là minh chứng cho thực trạng dân châu Phi có trình độ dân trí rất thấp. Một số lượng cư dân không nhỏ mù chữ, họ không thể tiếp cận với các kênh thông tin văn tự. Radio là kênh thông tin hữu ích nhất, đến gần công chúng nhất, phù hợp và rẻ tiền nhất. Lấy từ thực tế báo chí Việt Nam. Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển radio và truyền hình tại các địa phương. Căn nguyên là vì những nơi này trình độ dân trí chưa cao, việc tiếp cận với báo in, hay báo mạng sẽ gặp nhiều trở ngại. Trong khi đó, radio rẻ tiền, tiếp cận công chúng vùng cao bằng cả ngôn ngữ quốc gia (tiếng Việt) và ngôn ngữ bản địa. Thông tin qua radio cũng nhờ đó mà đến gần hơn với công chúng. Đây cũng là lý do tại sao chủ trương phát triển truyền hình tiếng dân tộc lại luôn được khuyến khích. Kênh thông tin bằng hình ảnh, sự tác động nhanh của thị giác kéo theo hiệu quả truyền thông. Trong khi đó, báo in rất khó tiếp cận với những đối tượng công chúng này. Với vốn chữ nghĩa tiếng Việt ít ỏi, việc đọc báo in dường như là đánh đố với những công chúng lớn tuổi không biết tiếng Kinh. Việc ra báo in bằng tiếng dân tộc lại là một thách thức lớn nữa, vì các nhà báo không phải ai cũng có khả năng về chữ viết dân tộc, và ngay với đồng bào dân tộc, việc giữ được vốn chữ đó cũng là một thách thức lớn, hoàn toàn chưa thể phổ cập. 1.2.5. Tác động của tập trung hoá báo chí và sự lũng đoạn của các tập đoàn truyền thông tới phân phối tin tức toàn cầu. Tập trung hóa báo chí là một xu hướng đã được hình thành và phát triển rất mạnh mẽ trong giai đoạn hiện nay. Tác động của quá trình tập trung hóa báo chí tại các quốc gia trên thế giới và sự ra đời của các tập đoàn truyền thông lớn, xuyên quốc gia đã có những tác động rất lớn tới việc phân phối thông tin trên thị trường thế giới. Xu hướng tập trung hóa báo chí diễn ra từ các nước TBCN và lan rộng ra toàn thế giới. Xu hướng này gắn với quá trình thôn tính, sát nhập giữa các công ty nhỏ để hình thành lên những tập đoàn truyền thông lớn có đủ sức vươn cánh tay khổng lồ chi phối thị trường thông tin trên toàn thế giới. Theo thống kê, trên thế giới có khoảnng 70 hãng thông tấn lớn và các hãng thông tấn này chi phối hơn 80% tin tức toàn thế giới. Trong thế giới thông tin ngày nay, các tập đoàn tư bản truyền thông lớn chính là những người thống trị và lũng đoạn thị trường này. Lấy nước Mỹ làm ví dụ ta có thể nhận thấy Mỹ là một quốc gia đứng đầu thế giới về số lượng các tập đoàn truyền thông lớn, 6/10 hãng thông tấn lớn nhất thế giới là của Mỹ, các hãng thông tấn Mỹ không chỉ chi phối thông tin trên thị trường nước Mỹ, các nước trong châu Mỹ mà còn chi phối thị trường thông tin trên toàn cầu. Một nghiên cứu cho thấy mỗi ngày hãng AP phát sang châu Á 19.000 từ và chỉ nhận lại từ châu Á 9.000 từ (nội dung chủ yếu là về các thảm họa, xung đột…tin tức mang tính chất bad news), hãng AP có ảnh hưởng tới 1/3 dân số thế giới, hàng năm người dân châu Âu dành 5 tỷ giờ để xem các chương trình phim của Mỹ nhưng người Mỹ chỉ dành một khoảng thời gian là 180 triệu giờ để xem các chương trình phim của châu Âu. Hay tờ báo Wall Street Juornal của Mỹ có lượng phát hành 1.6 triệu bản trên toàn thế giới. Các tập đoàn truyền thông lớn trên thế giới hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực: báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng, xuất bản sách… mỗi tập đoàn truyền thông lại có một loại hình là thế mạnh riêng cho mình. Trong thế giới thông tin đang ngày càng nhỏ bé và trật hẹp này, các tập đoàn truyền thông lớn đang cạnh tranh, giành giật nhau thị trường thông tin. Trên thị trường Mỹ và châu Mỹ thì các tập đoàn truyền thông của Mỹ đã thống trị hoàn toàn và không có cơ hội cho các tập đoàn phương Tây lấn sân. Nhưng tại thị trường châu Âu thì các tập đoàn của Mỹ vẫn có những ảnh hưởng nhất định mặc dù thị trường châu Âu bị chi phối bởi các hãng Reuter, BBC, AFP…tại thị trường châu Á, Châu Phi và châu Đại Dương đang có sự cạnh tranh khốc liệt giữa các tập đoàn lớn. Các tập đoàn truyền thông lớn của Mỹ hay châu Âu đang tìm cách mở các công ty con của mình để chi phối thị trường thông tin tại các khu vực còn lại. Với kênh truyền hình SKY TV, News Corp đang từng bước chi phối thị trường thông tin châu Á. Châu Phi là miếng bánh được chia đôi cho Reuter và AFP những phần lớn hơn được chia cho AFP. Các tập đoàn truyền thông có tiềm lực mạnh cả về năng lực, và nguồn tài chính vì vậy mà họ có những lợi thế hơn hẳn trong cuộc cạnh tranh với các hãng nội địa. Hãng Reuter có 2400 biên tập viên, phóng viên, nhiếp ảnh và quay phim trong 196 lĩnh vực, phục vụ khoảng 131 quốc gia. Tại các quốc gia có nhiều hãng thông tấn lớn như Mỹ, Anh, Pháp, Đức công chúng tại các nước này hàng ngày nhận được một lượng tin tức rất lớn, đa dạng từ các tập đoàn truyền thông dưới nhiều hình thức, sự thừa thãi này có thể dẫn tới sự bão hòa thông tin trong công chúng. Trong khi đó tại những quốc gia mà hệ thống truyền thông chưa phát triển thì các hãng thông tấn của các nước này khai thác rất nhiều những thông tin từ các hãng lớn của nước ngoài. Tin tức chỉ do một hãng thông tấn duy nhất đưa tin vì vậy công chúng tại các nước nhỏ này hàng ngày sẽ nhận được một lượng thông tin ít hơn so với công chúng tại các nước lớn. Đó chính là sự mất cân đối và bất bình đẳng trong việc chi phối thị trường thông tin trên toàn cầu và tại mỗi quốc gia. Ngay tại Mỹ thì sự mất cân đối trong việc chi phối thông tin cũng xảy ra: Các hãng truyền thông lớn cung cấp tới 80% thông tin cho toàn nước Mỹ. Quá trình tiến công vào các phương tiện thông tin đại chúng đã dẫn đến sự tập trung tất cả các mạng lưới báo chí vào tay một số ít nhân vật. Theo tính toán của các chuyên gia Mỹ thì có 50 tập đoàn lớn đang kiểm soát hầu hết các phương tiện thông tin đại chúng ở Mỹ: 20 tập đoàn trong số đó nắm một nửa tổng số các tờ báo trên cả nước, 4 tập đoàn kiểm soát ngành truyền hình, 10 tập đoàn kiểm soát ngành phát thanh, 12 tập đoàn thống trị ngành xuất bản sách, 4 tập đoàn ngự trị trong ngành điện ảnh. Đầu những năm 1980 nếu như tất cả các thành phố Mỹ đều có những tờ báo ngày thì 98% trong số đó đặt dưới quyền kiểm soát của một trung tâm. Trong tổng số 1700 tờ báo hằng ngày ở Mỹ có hơn 1000 báo thuộc sở hữu của các tập đoàn báo chí. Bàn tay của các tập đoàn báo chí đã thống trị gần như chi phối toàn bộ thông tin trong một nước và toàn cầu. Xu hướng tập trung hóa báo chí và sự hình thành các tập đoàn truyền thông lớn chính là nguyên nhân dẫn tới sự chi phối, lũng đoạn thị trường thông tin toàn cầu. 1.2.6. Tác động của quá trình toàn cầu hoá tới việc hưởng thụ thông tin của công chúng. Một trong những nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề hưởng thụ thông tin của công chúng là xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới Xét về mặt thuật ngữ: wikipedia đưa ra một định nghĩa chung nhất cho thuật ngữ này: Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá, kinh tế, v.v. trên quy mô toàn cầu. Người ta nhận định xu hướng toàn cầu hóa có lịch sử từ khoảng thế kỷ thứ 15, sau khi có những cuộc thám hiểm hàng hải quy mô lớn: cuộc thám hiểm lớn lần đầu tiên vòng quanh thế giới do Ferdinand Magellan thực hiện vào năm 1522, và tiếp sau đó là một loạt các phát kiến địa lý của các nhà thám hiểm, các nhà khoa học. Để rồi những kết quả đó là mở đầu cho những kỷ nguyên giao lưu trao đổi hàng hóa, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, công nghệ trên phạm vi toàn cầu của loài người. Sự xuất hiện của xu thế toàn cầu hóa đã đưa đến những hệ quả: - Dưới tác động của những tiến bộ trong lĩnh vực tin học và viễn thông, quan hệ giữa các khu vực trên thế giới ngày càng gần gũi hơn, cộng với sự gia tăng không ngừng về các trao đổi ở mức độ cá nhân và sự hiểu biết lẫn nhau cũng như tình hữu nghị giữa các "công dân thế giới", dẫn tới một nền văn minh toàn cầu. Đây được nhận định là ảnh hưởng tích cực nhất của xu hướng toàn cầu hóa. - Toàn cầu hoá kinh tế — "thương mại tự do" và sự gia tăng về quan hệ giữa các thành viên của một ngành công nghiệp ở các khu vực khác nhau trên thế giới (toàn cầu hoá một nền kinh tế) ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia trong phạm vi kinh tế - Tác động tiêu cực của các tập toàn đa quốc gia tìm kiếm lợi nhuận — việc sử dụng các phương tiện luật lệ và tài chính mạnh mẽ và tinh vi để vượt qua giới hạn của các tiêu chuẩn và luật pháp địa phương hòng lợi dụng nhân công và dịch vụ của các vùng phát triển chưa đồng đều lẫn nhau. - Sự lan rộng của chủ nghĩa tư bản từ các quốc gia phát triển sang các quốc gia đang phát triển. Nhìn vào những hệ quả của xu hướng toàn cầu hóa, ta thấy truyền thông không thể nằm ngoài sự phong tỏa ảnh hưởng của nó. Toàn cầu hóa trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã đưa thế giới đến với một kỷ nguyên của các phương tiện truyền thông dân chủ, trong đó con người được tiếp cận với tin tức và thông tin mà không bị giới hạn bởi những rào cản truyền thống là thời gian và khoảng cách địa lý. Sự đổi mới này đã làm xuất hiện các loại phương tiện truyền thông mới, với những hình thức phân phối, mua bán và sử dụng thông tin mới. Những phương tiện truyền thông đã được thiết lập – báo chí và phát thanh, truyền hình… - cố gắng để thích ứng với một môi trường mới, ngay khi những người sử dụng các phương tiện truyền thông nắm giữ lãnh địa riêng của mình trong lĩnh vực thông tin để tạo ra một hình thức báo chí có sự tham gia của nhiều người. Lấy một ví dụ về sự ra đời của chiếc radio vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã mở đầu cho sự ra đời của một loại hình mang tên truyền thông radio - là bước tiến lớn của các nhà khoa học, bắt đầu cho sự bùng nổ về kỹ thuật truyền thông. Hay sự xuất hiện của ngành truyền hình tại Đức: Buổi phát hình dành cho loại máy thu hình với 30 dòng đã được ngành bưu điện đế chế Đức thực hiện vào năm 1928. Còn chương trình truyền hình thử nghiệm được thực hiện bắt đầu vào năm 1935. Sau đó, truyền hình đã nhanh chóng lan rộng sang các quốc gia khác, đầu tiên là ở một loạt những quốc gia phát triển. Năm 1936 tại nước Anh đài truyền hình BBC đã phát đều đặn các chương trình truyền hình, kéo dài đến năm 1939 (khi mà màn hình của các máy thu hình đã không còn dịp được sáng vì chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra). Đối với nước Mỹ năm 1939 là năm đánh dấu mốc ra đời lịch sử truyền hình, khi trong cuộc triển lãm toàn thế giới ở NewYork chủ tịch tập đoàn phát thanh của MỸ (RCA) đã phát biểu: giờ đây chúng tôi đã bổ sung hình ảnh vào âm thanh. Ở góc độ ngôn ngữ, chúng ta thấy khuynh hướng rõ ràng hướng tới đồng nhất hoá việc dùng "tiếng Anh toàn cầu" ("globish", viết tắt của global English). Sự phổ cập của tiếng Anh toàn cầu gắn với việc phần lớn các nước đều chọn dạy tiếng Anh cho giới trẻ dựa trên lựa chọn của các nước khác. Đây cũng là một thuận lợi cho vấn đề truyền thông trên thế giới. Công chúng thay vì chỉ được tiếp nhận những thông tin bằng ngôn ngữ của quốc gia mình đã có thể tiếp nhận được thông tin toàn cầu bằng một thứ ngôn ngữ toàn cầu. Toàn cầu hoá sẽ tạo ra một sự đa dạng cho các cá nhân do họ được tiếp xúc với các nền văn hoá và văn minh khác nhau. Toàn cầu hoá giúp con người hiểu hơn về thế giới và những thách thức ở quy mô toàn cầu qua sự bùng nổ các nguồn thông tin, việc phổ thông hoá hoạt động du lịch, việc tiếp cận dễ dàng hơn với giáo dục và văn hoá. Một khung văn hóa rộng hơn sẽ khiến cho lăng kính tiếp nhận thông tin của công chúng được khách quan, đa chiều hơn. Những khoảng cách truyền thống giữa khán giả và các cơ quan truyền thông đã bị vượt qua khi người dân tiếp cận những diễn đàn mà từ đó họ có thể bày tỏ những ý tưởng và quan điểm của mình, không cần phải qua các tập đoàn truyền thông và chính phủ - là những cơ quan gác cổng về thông tin từ xa xưa. Xu hướng toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ nhất trên lĩnh vực kinh tế. Từ đây, sự phân chia giàu nghèo trên thế giới cũng diễn ra khá gay gắt, khoảng cách giữa quốc gia phát triển với quốc gia kém phát triển ngày càng xa, người giàu người nghèo phân hóa rõ ràng hơn. Hệ quả về mặt kinh tế này rõ ràng đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc hưởng thụ thông tin của công chúng. Thế giới sẽ bị phân chia thành các vùng với mức độ hưởng thụ thông tin khác nhau của công chúng. Xét chung lại, ta có thể khẳng định: Xu hướng toàn cầu hóa trên thế giới trong tất cả các lĩnh vực là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến vấn đề hưởng thụ thông tin của công chúng thế giới. Để có thể đưa giải pháp cho vấn đề tìm lại sự cân đối và bình đẳng cho công chúng về vấn đề này, cần phải đặt truyền thông dưới sự quy chiếu của xu hướng toàn cầu hóa này, để các biện pháp đề xuất có thể khả thi và hiệu quả 1.3. Phân chia các khu vực hưởng thụ thông tin trên thế giới theo hệ tiêu chí. Hiện nay, mức độ tiêu thụ các sản phẩm truyền thông ở các nước phát triển cao gấp hàng trăm lần so với các nước đang phát triển. Thực tế này xuất phát từ những nguyên nhân chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật... đặc trưng của từng nền báo chí, của từng khu vực báo chí trên thế giới. Thực trạng bất bình đẳng và mất cân đối trong hưởng thụ thông tin của công chúng báo chí trên thế giới được thể hiện trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Nhưng có thể thu gọn trong những sự đối lập sau: - Sự mất cân đối trên phạm vi toàn cầu. Ở đây nhấn mạnh tới việc phân phối tin tức, và tiếp nhận thông tin không đồng đều, trong thái cực chênh lệch gần như tuyệt đối giữa các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển, đang chìm ngập trong sự nghèo đói. - Sự mất cân đối trong chính mỗi khu vực báo chí, mà ở đây xem xét theo phạm vi châu lục. Trong chính nội bộ các châu lục, việc hưởng thụ thông tin của công chúng cũng không đồng đều, cũng bị “ứng xử” một cách mất cân đối và bất bình đẳng. Châu Âu, châu lục của nền kinh tế phát triển, tưởng như tràn ngập thông tin, nhưng vẫn có những mảng tối của nó. - Sự mất cân đối ở chính mỗi quốc gia. Như đã trình bày, kinh tế là yếu tố chi phối mọi hoạt động thông tin. Do đó, ở những khu vực nông thôn, miền núi, kinh tế kém phát triển, cộng với trình độ dân trí thấp... công chúng tiếp cận một cách khó khăn với thông tin, với các loại hình truyền thông. Sự khác biệt và chênh lệch giữa khu vực thành thị và nông thôn, trong nhiều trường hợp gần như tuyệt đối. Từ việc xem xét các nhân tố, và đưa ra hệ tiêu chí đánh giá mức độ hưởng thụ thông tin của công chúng, chúng tôi đưa ra phạm vi nghiên cứu của đề tài này: - Nghiên cứu mức độ tiếp nhận, hưởng thụ thông tin của công chúng trên phạm vi toàn cầu. Trỏ ra những cực thông tin đối lập, giữa những quốc gia giàu có, phát triển và các quốc gia chậm phát triển. - Nghiên cứu sự mất cân đối và bất bình đẳng trong hưởng thụ thông tin ở mỗi châu lục. - Nghiên cứu sự mất cân đối trong hưởng thụ thông tin trong phạm vi một quốc gia. Trong đề tài này, chúng tôi đi sâu nghiên cứu trường hợp Việt Nam như một minh chứng cụ thể, điển hình, và gần gũi nhất. Chương 2 SỰ MẤT CÂN ĐỐI VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG TRONG VIỆC HƯỞNG THỤ THÔNG TIN GIỮA CÁC KHU VỰC TRÊN THẾ GIỚI. 2.1. Tổng quan chung về thực trạng mất cân đối và bất bình đẳng trong việc hưởng thụ thông tin giữa các khu vực trên thế giới. Trong môi trường truyền thông toàn cầu, tầm nhìn, phạm vi tiếp nhận thông tin của công chúng được mở rộng, khả năng hiểu biết và dung lượng tri thức tiếp nhận cũng nhiều lên. Nhìn vào diện mạo truyền thông mà đoán định, tạc dựng được bức tranh hiện thực đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Truyền thông cũng là kênh nối kết con người với con người, kết nối quốc gia, kết nối toàn cầu. Nó cho phép trao đổi, luân chuyển các giá trị văn hoá, tạo điều kiện cho các quốc gia hội nhập và phát triển cùng dòng chảy văn minh chung. Mặt khác, cũng là phương tiện tạo thành môi trường để nhanh chóng quốc tế hoá các thành tựu tiến bộ trong khoa học kỹ thuật và công nghệ. Truyền thông cũng là phương tiện giải quyết các dịch vụ phong phú, phục vụ cho nhu cầu của con người. Những vai trò to lớn đó cho thấy rằng, sẽ là hữu ích biết bao khi công chúng được thoả mãn với các giá trị của truyền thông, và ngược lại, sự thiếu thốn thông tin như vật cản trên con đường hội nhập vào các giá trị của nền văn minh nhân loại. Truyền thông, thông tin là một trong những nhân tố nối kết con người với con người. Trên thế giới hiện nay, đã, đang và sẽ còn tồn tại một mảng màu tối, đó là mức độ chênh lệch, sự mất cân đối và bất bình đẳng trong hưởng thụ thông tin của công chúng ở các khu vực khác nhau trên phạm vi toàn thế giới. Nghĩa là có khu vực, công chúng được thụ hưởng phong phú, đa dạng các giá trị thông tin. Song cũng tại các khu vực khác, trong cùng một thời đại, công chúng lại hoàn toàn “mù” về truyền thông. 2.1.1. Hai cực thông tin phản chiếu bức tranh hiện thực của sự phát triển kinh tế - xã hội toàn cầu. Cực thứ nhất: Những cường quốc thông tin phát triển. Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu là 3 trung tâm kinh tế lớn nhất và cũng được đánh giá là những trung tâm truyền thông – thông tin phát triển nhất thế giới. Không kể số lượng hùng hậu về báo, tạp chí, điện ảnh, quảng cáo, internet, các phương tiện nghe nhìn khác thì chỉ riêng vị trí đầu bảng thế giới của những tập đoàn truyền thông khổng lồ với tầm hạn quy mô phạm vi hoạt động không giới hạn cũng đủ thấy vị trí quan trọng của truyền thông Mỹ. Tập đoàn AOL - Time Warner là một ví dụ với hơn 26 triệu người thuê bao Internet, nắm trong tay số lượng lớn nhất các đài truyền hình cáp ở Mỹ từ HBO đến CNN, kể cả Cartoon Network, là chủ nhân của 36 tạp chí lớn và hãng phim nổi tiếng ở Holywood là Warner Bros và đứng hàng đầu hệ thống truyền cáp của Mỹ đứng sau ATT. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhờ có hạ tầng cơ sở thông tin quốc gia phát triển, tiềm lực kinh tế mạnh, việc số hóa sâu rộng, Mỹ đã thực hiện chính sách mở rộng, chiếm lĩnh thị trường rất quyết liệt. Bám sát thị trường và người tiêu dùng, văn hóa đại chúng Mỹ đang lan rộng khiến cho nhiều nước phải e ngại. Sự bành trướng của văn hóa Mỹ, mô hình lối sống Mỹ sẽ thâm nhập cùng với sự phát triển của xã hội tiêu dùng. Báo chí, quảng cáo, phim ảnh, âm nhạc, lối sống, phương thức kinh doanh, tất cả đều chịu ảnh hưởng ít nhiều của văn hóa Mỹ. Cơ quan theo dõi nghe nhìn châu Âu đã ước tính: thâm hụt mậu dịch của châu Âu so với Mỹ trong lĩnh vực nghe nhìn lên tới 6 tỷ USD vào năm 1997, tức là gấp đôi so với năm 1990. Trong 7 năm đó, số lượng phim Mỹ chiếu ở các rạp châu Âu tăng vọt từ 56% lên 76%. Các tạp chí, với hơn 11.000 loại, cũng phát hành với số lượng nhiều hơn cả số người Mỹ đọc chúng. Mỗi hộ gia đình có ít nhất là ba chiếc đài thu thanh và hơn 95% số hộ có tivi.  Một số nghiên cứu gần đây cho rằng, 65% người Mỹ phụ thuộc vào truyền hình để thoả mãn nhu cầu tin tức hàng ngày của họ. Tuy vậy, số liệu này có thể gây hiểu lầm bởi vì như thế có nghĩa là truyền hình hoàn toàn làm thoả mãn nhu cầu tin tức của công chúng. Trong 65% số người đó, có nhiều người đọc báo và tạp chí, nghe đài, nhận được rất nhiều thư từ và sách quảng cáo (phần lớn trong số đó là những quảng cáo không theo yêu cầu được gửi vào hộp thư của họ). Hầu như tất cả các thị trấn của nước Mỹ với mọi quy mô dân số (10.000 người hay nhiều hơn) đều có tờ báo riêng của mình, cũng như được tiếp cận với một tờ nhật báo lớn.  Do đặc thù của báo chí Mỹ là ngành kinh doanh nhiều hơn tin tức, nên các ông chủ luôn đổi mới để bắt nhịp với nhu cầu công chúng và tăng doanh thu. Giống như cách trình bày của tờ USA Today thuộc sở hữu của Gannette khởi xướng, báo chí sử dụng nhiều màu sắc hơn, nhiều hình hoạ hấp dẫn hơn, những câu chuyện ngắn hơn và nhiều tin tức giải trí hơn nhằm thu hút thế hệ xem truyền hình.  Đặc trưng của báo chí Mỹ là không bị quản lý. Một ấn bản nghiêm túc như tờ New York Times hay một tờ báo lá cải được bày bán ở siêu thị đều tự coi là những tờ báo. Không có đạo luật hay cơ quan chính phủ hoặc cá nhân nào phản đối chuyện đó, bởi vì không có yêu cầu nào về xin phép hoạt động đối với các tờ báo và cũng không có một định nghĩa hay quy định nào về một ấn bản cung cấp tin tức chính thống. Báo chí không đòi hỏi một chuẩn mực tối thiểu nào về tư cách thành viên, không cấp hay huỷ bỏ giấy phép hoạt động và cũng không quy định các tiêu chuẩn nghề nghiệp. Mỗi hãng tin hay hiệp hội nhà báo tự đề ra cho mình bộ quy tắc ứng xử và chuẩn mực riêng. Việc này khiến cho thông tin tự do, nhưng song hành với nó, việc quản lý tin tức là vấn đề thực sự khó khăn. Công chúng phải tạo cho mình một bộ lọc thông tin giữa vô vàn những luồng thông tin hàng ngày đến với họ. Mặc dù công nghệ mới đã mở rộng giới hạn này một cách đáng kể, song các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ vẫn tập trung với một mức độ lớn vào nhu cầu và sự quan tâm của người xem, người nghe và người đọc ở ngay tại địa phương mình. Có những lý do kinh tế quan trọng giải thích điều này song nó cũng phản ánh chủ nghĩa địa phương ở Hoa Kỳ.  Chẳng hạn như tại Chicago, nơi có đông người Mỹ gốc Ba Lan thì báo chí ở đó dành ưu tiên cho việc đưa tin về Đông Âu. Hay ở New York nơi có đông người Do Thái nên tin tức ở đây chủ yếu là về Trung Đông. Tương tự như vậy, các tin tức quốc tế đến Mỹ bằng những cách khác nhau được đưa vào các ấn phẩm chuyên môn với số lượng phát hành hạn chế.  Các tờ nhật báo, trong khi cố gắng bắt kịp các phương tiện điện tử và các phương tiện mới khác, có vẻ như phải chịu đựng nhiều nhất do sự biến đổi gần đây. Song chừng nào mà báo chí Hoa Kỳ về cơ bản vẫn không chịu sự can thiệp của chính phủ thì vẫn luôn luôn có những cơ hội mới cho các hãng này cũng như những lựa chọn mới cho công chúng.  Cho dù có điều gì xảy ra thì người quyết định tương lai của ngành công nghiệp tin tức Hoa Kỳ vẫn sẽ là công chúng. Điều đó, theo những người chủ trương báo chí tự do, là vẻ đẹp của hệ thống này.  Là một cường quốc về thông tin đại chúng, Nhật đã đầu tư nhiều lĩnh vực cho Multi Media, thành lập các đài truyền hình cáp (CATV), phát triển truyền hình vệ tinh bằng tín hiệu số, phổ cập internet, mở rộng các dịch vụ thông tin. Về báo chí, số lượng in bằng tiếng Anh còn ít nên ảnh hưởng đối với nước ngoài chưa nhiều, nhưng truyền hình đã có nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng các chương trình ca nhạc độc đáo giới thiệu các ca sỹ trẻ của châu Á, tạo được một số chương trình khá hấp dẫn, phục vụ cho cả công chúng Nhật và nước ngoài. Nhật là quốc gia dẫn đầu thế giới về lượng nhật báo có số phát hành lớn nhất. Thể chế nhất thể hóa châu Âu đã tạo điều kiện cho nền kinh tế chung của châu lục đạt bước phát triển cao, biến EU thành một trong 3 trung tâm kinh tế hàng đầu của thế giới (gồm Mỹ - EU - Nhật Bản). Xét trên nhiều tiêu chí, công chúng châu Âu được tiếp cận với một nền báo chí phát triển vào bậc nhất thế giới, với nguồn thông tin đa dạng, phong phú, với đội ngũ người làm báo chuyên nghiệp. Công chúng được thụ hưởng những giá trị phong phú của thông tin do báo giới đem lại. Trong thống kê về độc giả quốc tế năm 1998, 4 nước dẫn đầu thì có 3 nước châu Âu, ngoại trừ Nhật Bản của Châu Á. 4 nước đó lần lượt từ vị trí cao nhất tới vị trí thứ 4 là Phần Lan, Nauy, Nhật Bản, Thuỵ Điển với khoảng gần 500 nhật báo trên 1000 dân (theo Hans – Ingvar Johnsson). Nếu xét về chỉ số phát triển phát triển báo chí, Châu Âu cũng là châu lục của những tên tuổi nổi bật. 93% dân số Thuỵ Điển từ 15 tuổi trở lên đọc báo (đứng thứ nhất). Nauy dẫn đầu thế giới về chỉ số báo trên 1000 dân với 619 tờ báo, tạp chí; nước đứng thứ 2 là Thuỵ Điển với 522 tờ báo, tạp chí. Về chỉ số báo hàng ngày, Đức dẫn đầu thế giới với 411 tờ, Tây Ban Nha đứng thứ 2 với 125 tờ, thứ 3 là Thụy Điển với 102 tờ, Anh 101 tờ, Pháp 88 tờ... Số lượng nhật báo của Đức nhiều nhất ở châu Âu với hơn 410 tờ, mỗi ngày phát hành khoảng 25,5 triệu bản, trung bình khoảng 331 bản/ 1000 dân. Nổi tiếng nhất là tờ báo ảnh BILD phát hành hơn 4 triệu bản một ngày. Presse, Sachsische zaitung, Rheinische Pót, Volksszeitung, các tạp chí Der Spiegel, Stein, Neue Revue, Neue Post, geo, Kapital… Hệ thống phát thanh truyền hình với 3 kênh truyền hình thuê bao chia thành 12 khu vực phát sóng. Có 24 hãng thông tấn hoạt động trên nước Đức và hơn 100 chương trình phát thanh, 25 chương trình truyền hình bằng tiếng Đức và bằng 25 ngôn ngữ khác nhau trên khắp đất nước Đức. Đáng chú ý là hãng thông tấn DDP và DPA Truyền hình vẫn tiếp tục là phương tiện truyền thông được ưa chuộng nhất ở “cựu lục địa”, bởi người dân châu Âu dành tới 12 tiếng mỗi tuần để xem TV. Người dân châu Âu đang chứng kiến sức công phá mạnh mẽ của nhật báo miễn phí, kèm theo quảng cáo, thông báo... Thậm chí nhiều báo còn lôi kéo độc giả vào cuộc cạnh tranh bằng nhiều hình thức hấp dẫn, chẳng hạn như ở Italia, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, mỗi ngày chỉ cần trả thêm một chút là độc giả có thể nhận thêm đĩa CD, DVD, băng hoạt hình, sách, bản đồ, từ điển bách khoa, thậm chí cả bộ sưu tập tem hay tiền cổ, hoặc các bộ cốc chén, bộ cờ... Xu hướng báo miễn phí ngày càng phát triển ở Châu Âu. Báo được phát không trên các chuyến tàu điện ngầm. Và công chúng có đủ thời gian để đọc hết tờ báo ấy cùng với thời gian đi trên chuyến tàu điện ngầm tới nơi làm việc. Công chúng không phải trả tiền trực tiếp cho việc mua báo, nhưng thông tin họ nhận đượ._.thông mới nhất. Điều này phản ánh khả năng kinh tế, cũng như trình độ nhận thức của họ về sự cần thiết của truyền thông, của thông tin trong xã hội hiện đại. Theo thống kê về số hộ sử dụng TV màu thì nhóm 5 chiếm tỷ lệ 91,72% trong khi đó nhóm 2 là 57,08% và nhóm 1 là 34,22%. Số hộ sử dụng radio trong nhóm 5 là 23,80% so với nhóm 1 là 14,32%. Biểu đồ: Tỷ lệ hộ dân thuộc các nhóm thu nhập có TV màu và Radio/cassette 2004 (%) Mức độ chênh lệch này thực sự lớn với thực tế sử dụng máy tính và internet hiện nay. Số hộ ở nhóm 5 có máy tính chiếm 19,57%, tỷ lệ này ưu thế tuyệt đối so với nhóm 1, nhóm nghèo nhất là 0,20%, thậm chí nhóm 2 cũng chỉ là 0,59%. Đây là mức chênh lệch thực sự khủng khiếp. Biểu đồ: Tỷ lệ hộ dân thuộc các nhóm thu nhập có máy tính và tỷ lệ hộ có máy tính nối mạng internet so với số hộ có máy tính 2004 (%) Những con số này tiếp tục được minh chứng trong bảng số liệu về tình hình sử dụng internet. Nhóm 5 là 27,23%, trong khi đó nhóm ít nhất là nhóm 3 chỉ có 4,53%. Tất cả những số liệu trên minh chứng cho thực tế kinh tế quyết định rất lớn tới việc hưởng thụ thông tin của công chúng báo chí. 3.1.2.4. Sự mất cân đối về hưởng thụ thông tin giữa các thành phần kinh tế. Xem xét các thành phần kinh tế sau: Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thuỷ sản, Công nghiệp, Xây dựng, Thương nghiệp, Dịch vụ, Khác. Theo đó, các hộ gia đình làm dịch vụ sử dụng TV dẫn đầu với 86,41% so với nhóm thấp nhất là 50,16%. Các hộ làm dịch vụ cũng dẫn đầu trong việc sử dụng radio với 20,50%, gấp đôi nhóm các hộ làm lâm nghiệp là 11,50%. Biểu đồ: Tỷ lệ hộ dân thuộc các thành phần kinh tế có TV màu và Radio/cassette 2004 (%) Các hộ làm dịch vụ và thương nghiệp cũng chiếm ưu thế tuyệt đối trong việc sử dụng máy tính và internet. 14,27% số hộ làm dịch vụ có máy tính, trong khi đó các hộ làm nông nghịêp, con số đó là 0,73%. Nhóm các hộ làm thuỷ sản cũng sử dụng máy tính không nhiều, chỉ có 1,83%. Việc sử dụng internet của nhóm Khác dẫn đầu là 40,14% trong khi đó ở các hộ nông nghiệp con số đó chỉ là 4,45%. Biểu đồ: Tỷ lệ hộ dân thuộc các thành phần kinh tế có máy vi tính và tỷ lệ hộ có máy tính nối mạng internet so với số hộ có máy tính 2004 (%) 3.1.3. Hậu quả của việc mất cân đối trong hưởng thụ thông tin của công chúng Việt Nam. Như đã biết, truyền thông đại chúng mang trong mình những chức năng xã hội quan trọng: chức năng tư tưởng, chức năng giám sát và quản lý xã hội, chức năng văn hoá... “Có thể nói truyền thông đại chúng như là một môi trường sư phạm, người thầy, vừa có khả năng trở thành người bạn hay một môi trường văn hoá đối với mỗi người dân. Nó mang đến cho con người những tri thức sâu sắc, vốn hiểu biết phong phú, cơ hội nghỉ ngơi, thư giãn hay trở thành cầu nối các mối quan hệ giữa con người với nhau” (Tạ Ngọc Tấn). Vai trò to lớn như vậy, cho nên sự mất cân đối trong việc hưởng thụ thông tin cũng sẽ kéo theo những hậu quả không nên có. Ở Việt Nam có sự chênh lệch thông tin rõ ràng nhất là ở hai khu vực nông thôn và thành thị. Việc thành thị chiếm 25% dân số nhưng có khả năng nắm giữ 75% thông tin, còn nông thôn thì ngược lại, nên hầu hết các hậu quả trong việc phát triển thông tin không đều đều rơi vào hai khu vực này. Về chính trị Việc hưởng thụ thông tin không đồng đều dẫn đến những nhận thức về chính trị không đúng đắn. Điều này gây ra hậu quả khó lường, nhất là nhân dân ở những vùng sâu, vùng xa. Minh chứng cho điều này là các vụ bạo động, nổi loạn ở Tây Nguyên… Cũng từ việc nhận thức không đồng đều sẽ hình thành các nhóm tư tưởng chính trị khác nhau. Trong khi nhà nước lo tạo dựng nền chính trị ổn định để phát triển đất nước thì có rất nhiều kẻ phản động ra sức vu khống, xuyên tạc, cản trở và phá hoại con đường chính trị tốt đẹp. Một yếu tố nữa là khi nhân dân không nhận thức đồng đều về thông tin chính trị, thì quyền tự do, dân chủ trong tay họ cũng không được phát huy. Về đời sống Những nơi nào đang đà phát triển thông tin sẽ càng có điều kiện phát triển mạnh hơn, những nơi nào kém phát triển càng vì sự chênh lệch mà rơi vào tụt hậu. Ở Việt Nam không thiếu những khu vực lạc hậu thông tin như thế. Việc phân phối thông tin không đều không chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ đến chính trị, ảnh hưởng và kìm hãm phát triển kinh tế mà còn tăng khoảng cách những đối cực trong xã hội : giàu – nghèo, nông thôn – thành thị, tây – ta, hiện đại – lạc hậu… Mặt khác, khi có quá nhiều nguồn thông tin thì lại gây nhiễu, công chúng không phân biệt được đâu là thông tin chính thống và đâu là tin đồn. Những hậu quả tất yếu về chênh lệch thông tin sẽ xảy ra theo chuỗi, từ lĩnh vực này kéo theo lĩnh vực kia : chính trị, văn hóa, giáo dục…. Về kinh tế Việc phân phối lượng thông tin không đều ở các khu vực, gây ra sự mất cân đối trong dân trí là một trong những nguyên nhân lớn cản trở sự phát triển của kinh tế. Hậu quả là kinh tế mỗi vùng phát triển khác nhau, không đồng đều. Điều này không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Tỉ lệ hưởng thụ thông tin giữa vùng thành thị và vùng nông thôn chênh nhau khá lớn, thông tin được chia sẻ không đồng đều. Có những nơi tiếp cận nhiều thông tin, thông tin nhanh nhạy, cập nhật như ở thành phố, và có những nơi thông tin đến chậm, thậm chí không được tiếp cận với thông tin như ở các vúng núi cao, vùng sâu, vùng xa. Những nơi tiếp nhận thông tin nhanh, sẽ xử lí công việc nhanh, phát triển về mọi mặt đời sống, đặc biệt là kinh tế, ngược lại những nơi thiếu, “mù” thông tin sẽ kém phát triển. Sự mất cân đối về phát triển kinh tế sẽ gây ra sự phân hóa giàu nghèo. Một số liệu thống kê cũ cho biết, Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá thực tế phân theo thành thị, nông thôn năm 2004 lần lược như sau: Cả nước” 484,4 nghìn VN đồng, Thành thị là 815,4 nghìn VN đồng, còn nông thôn : 378, 1 nghìn VN đồng. Theo một thống kê xã hội khác thì mức chênh lệch giữa thu nhập bình quân của nhóm thu nhập cao nhất và thấp nhất ngày càng tăng: năm 2002 là 6 lần, 2006 đã là 6,5 lần. Tỷ lệ hộ nghèo của cả nước ngày càng giảm, nhưng ở một số tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc ít người, số hộ nghèo còn cao: Lai Châu hơn 55%, Điện Biên trên 40%... Ước tính năm 2006 số hộ dưới mức nghèo khổ là: 18,7% Ở nhiều khu vực thiếu thông tin, kiến thức về kinh tế sẽ ít có cơ hội phát triển hơn các nơi khác. Các dự án, chính sách ưu đãi khuyến khích phát triển kinh tế không đến được với người dân, mà thậm chí, người dân còn bị lợi dụng. Chênh lệch về thông tin khiến các thành phần kinh tế không có sự liên kết để tạo sức mạnh phát triển. Về văn hóa Khu vực này không có sự am hiểu về văn hóa của khu vực kia gây cản trở trong bối cảnh hòa nhập. Hơn nữa, sự chông chênh về thông tin văn hóa là điểm yếu để các luồng thông tin xấu, không lành mạnh len lỏi vào tư tưởng công chúng. Các hủ tục truyền thống lạc hậu sẽ không bị xóa bỏ, ngược lại bó hẹp sự phát triển của người dân ở những khu vực vùng sâu, vùng xa. Không chỉ văn hóa trong nước, mà việc thừa – thiếu thông tin làm cho sự du nhập, tiếp thu văn hóa nước ngoài cũng bị hạn chế. Ngược lại, sự tiếp thu tích cực quá của một vài bộ phận lại là nguy cơ biến đổi văn hóa, minh chứng là sự du nhập thái quá của các luồng văn hóa trong giới trẻ như : văn hóa hàn quốc, sống thử…. Thiếu thông tin nhiều khi là nguyên nhân chính khiến công chúng không nhận thức sâu sắc hết các giá trị văn hóa nước mình, không biết cách bảo tồn và phát huy, mà vô tình làm mất đi bản sắc vốn có. 3.2. Các giải pháp giải quyết thực trạng mất cân đối về hưởng thụ thông tin của công chúng Việt Nam. 3.2.1. Một số giải pháp trong “Chiến lược phát triển thông tin quốc gia đến năm 2010”. Chiến lược phát triển thông tin quốc gia tới năm 2010 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 09/09/2005 là Chiến lược phát triển thông tin quốc gia đang có hiệu lực. Chiến lược này phân tích thực tế thông tin truyền thông của Việt Nam giai đoạn hiện nay, đề ra các giải pháp nhằm phát triển truyền thông trong giai đoạn tới. 3.2.1.1 Mục tiêu Mục tiêu chung a) Phát triển thông tin theo cơ cấu, quy mô hợp lý, đáp ứng quyền được thông tin của nhân dân, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời theo kịp khả năng và trình độ phát triển thông tin của các nước trong khu vực và quốc tế. Đổi mới và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng về thông tin; sắp xếp, củng cố hệ thống thông tin phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm trật tự, hiệu quả, từng bước xây dựng hệ thống thông tin nước ta hiện đại, có chất lượng chính trị, chất lượng văn hoá, chất lượng khoa học, chất lượng nghiệp vụ cao. Cần tổ chức để nhân dân tham gia diễn đàn thông tin, đóng góp ý kiến xây dựng đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. b) Phát triển đồng bộ và hiện đại các phương tiện thông tin đại chúng để phục vụ tích cực, có hiệu quả hơn nữa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm cho toàn bộ dân cư, đặc biệt là dân cư ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi, biên giới, hải đảo được tiếp nhận đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và tình hình mọi mặt trong nước và quốc tế qua các phương tiện, loại hình thông tin phù hợp, với chất lượng tốt, hấp dẫn, kịp thời. c) Thông tin phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân; trang bị cho cán bộ và nhân dân bản lĩnh chính trị, trình độ hiểu biết, phẩm chất đạo đức để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đẩy mạnh thông tin đối ngoại và thông tin cho các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa; thông tin trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, khoa học - công nghệ, an ninh, quốc phòng; biểu dương người tốt, việc tốt và chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tệ nạn xã hội; đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, xuyên tạc, thù địch. d) Có biện pháp cụ thể để khắc phục tình trạng thông tin thiếu cân đối, đảm bảo sự đồng đều về phân bố, thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ thông tin của nhân dân giữa các vùng, miền. Quan tâm hơn nữa đến nhu cầu thông tin của nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo; đảm bảo tốt hơn nữa quyền và nhu cầu được thông tin của người dân. đ) Từng bước thực hiện xã hội hoá một số khâu và công đoạn thuộc các lĩnh vực và hình thức thông tin, trước mắt là các khâu chế bản, in ấn, phát hành của báo in, quảng cáo thương mại của phát thanh, truyền hình, báo in, điện ảnh, Internet và sản xuất các chương trình nghe - nhìn thời sự của truyền hình; nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách để cơ quan thông tin có điều kiện tự chủ về tài chính. e) Nghiên cứu để sớm có các chính sách cụ thể về hợp tác, liên doanh, liên kết với nước ngoài trên lĩnh vực thông tin nhằm thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, kỹ năng, kỹ xảo và công nghệ hiện đại của nước ngoài, nhất là trong các khâu quảng bá, phát hành ra nước ngoài và thông tin đối ngoại. Mục tiêu cụ thể về phát triển các lĩnh vực thông tin - Báo in: Đến năm 2010: phấn đấu tăng sản lượng báo xuất bản hàng năm lên 900 triệu bản báo/năm; mức hưởng thụ bình quân lên 10 bản/người/năm; giảm tỷ lệ mất cân đối trong phát hành báo chí giữa khu vực thành phố, thị xã và vùng nông thôn, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa xuống mức 60%/40%. - Sách: Nâng cao chất lượng nội dung, hình thức sách phục vụ thiếu nhi; chú trọng việc xuất bản các loại sách phổ biến kiến thức phổ thông cho các tầng lớp nhân dân, quan tâm đối tượng vùng nông thôn, miền núi, dân tộc thiểu số; đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường sách thế giới và nhu cầu của người Việt Nam ở nước ngoài. - Phát thanh: + Hoàn thiện và phát triển các hệ chương trình phát thanh với kỹ thuật hiện đại, có biện pháp xoá các “vùng lõm” về sóng phát thanh, quy hoạch sóng tần số để thuận lợi cho công tác quản lý và phục vụ tốt nhu cầu của người nghe. + Xây dựng các trạm truyền thanh cơ sở để bảo đảm các xã, phường trong cả nước đều có trạm truyền thanh để tiếp âm đài quốc gia, đài tỉnh, huyện, đồng thời là công cụ điều hành, chỉ đạo của chính quyền cơ sở. - Tuyên truyền miệng: Củng cố và kiện toàn đội ngũ làm công tác thông tin tuyên truyền miệng từ Trung ương đến cơ sở; duy trì chế độ cung cấp thông tin định kỳ, tổ chức sinh hoạt báo cáo viên đều đặn, tăng cường mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tuyên truyền miệng để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của công tác này. Đa dạng hoá nội dung thông tin tuyên truyền miệng; phát huy thế mạnh của tuyên truyền miệng để cung cấp các nội dung thông tin mà các phương tiện thông tin khác không thể thực hiện được. Củng cố và phát triển hệ thống các đội thông tin lưu động, bảo đảm mỗi huyện thị có ít nhất một đội thông tin lưu động; các xã, phường, làng, bản cần phát huy tính chủ động trong việc xây dựng các tổ, nhóm làm công tác thông tin. Bảo đảm các điều kiện cần thiết để các đội thông tin lưu động phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ, thực hiện có hiệu quả việc đưa thông tin về cơ sở, đến các làng, bản xa xôi hẻo lánh. Thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ, cung cấp tài liệu thông tin, hướng dẫn việc kết hợp các phương thức thông tin tuyên truyền miệng, cổ động trực quan, văn nghệ cổ động trong hoạt động của các đội thông tin lưu động. - Truyền hình: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống phủ sóng truyền hình trên cả nước, hết năm 2005 trên 90% các hộ gia đình xem được các kênh truyền hình của Đài Truyền hình Việt Nam; đến năm 2010, hoàn thành cơ bản việc phổ cập truyền hình đến mỗi hộ gia đình. + Đến năm 2010 phát triển dịch vụ truyền hình trả tiền (CATV và DTH) đến hầu hết các thành phố, thị xã và các khu dân cư tập trung. Nội dung chương trình truyền hình trả tiền tập trung vào những nội dung khoa học, giáo dục, dạy ngoại ngữ, thể thao, ca nhạc, giải trí, điện ảnh. Bảo đảm khâu biên tập, biên dịch, lồng tiếng Việt Nam để phục vụ đông đảo người xem. + Mô hình đài truyền hình tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ yếu phát chương trình thời sự địa phương, tiếp sóng đài trung ương và sản xuất chương trình cho đài quốc gia. Xác định cụ thể nội dung phát sóng, công suất, tần số, bảo đảm không trùng chéo về nội dung, không gây can nhiễu về sóng, bảo đảm đáp ứng yêu cầu chỉ đạo và thông tin của địa phương. Không phát triển thêm các đài truyền hình tỉnh, thành phố. - Phim truyện và điện ảnh: Nâng cao số lượng và chất lượng phim Việt Nam trên tất cả các loại hình: phim truyện nhựa, phim tài liệu, phim khoa học, phim hoạt hình, phim truyền hình, phim video gia đình; chú trọng việc sản xuất các phim tài liệu - khoa học nhằm cung cấp kiến thức, thông tin cho các tầng lớp nhân dân, giới thiệu các hình ảnh về công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam ra thế giới. Củng cố và tăng cường các đội chiếu bóng lưu động vừa làm nhiệm vụ đưa các tác phẩm điện ảnh đồng thời đưa các thông tin thời sự đến với nhân dân. Bảo đảm việc đưa các phim tài liệu - khoa học vào các chương trình chiếu phim ở các rạp, các buổi chiếu bóng lưu động. Nâng tỷ lệ phim Việt Nam được chiếu trong các rạp, các sân bãi và trên hệ thống các đài truyền hình Trung ương và địa phương. - Xuất bản: Mở rộng việc xuất bản và phát hành các bản tin ảnh ở những địa bàn, vùng có đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống và khu vực miền núi. Chú trọng xây dựng các trạm thông tin, các bảng tin ảnh ở tất cả các điểm dân cư. - Internet: Đến năm 2010, dịch vụ Internet được cung cấp rộng rãi tới tất cả các trường đại học, cao đẳng và phổ thông trung học trong cả nước. 100% học sinh phổ thông trung học trở lên sử dụng máy tính thành thạo. Mật độ bình quân thuê bao Internet là 8,4 thuê bao/100 dân (trong đó khoảng 30% là thuê bao băng rộng). Tỷ lệ số dân sử dụng Internet là 30 - 40 %; tỷ lệ số người có máy tính cá nhân khoảng 10 - 15 máy/100 dân. Về hạ tầng thông tin, cơ bản hoàn thành xa lộ thông tin quốc gia, toàn bộ các huyện và nhiều tuyến xã được kết nối bằng cáp quang và các phương thức truyền dẫn băng rộng khác, bảo đảm cho việc cung cấp các dịch vụ băng rộng đa dịch vụ đến tất cả các huyện và nhiều xã trong cả nước. Phát triển và quản lý tốt các điểm truy nhập Internet trực tiếp trên khắp cả nước. Tại các thành phố lớn, các khu vực trọng điểm, nâng cao năng lực chuyển tải của mạng truy nhập, áp dụng các công nghệ mới, từng bước đáp ứng nhu cầu truy nhập Internet tốc độ cao, bảo đảm cho các ngành, các đơn vị có đủ dung lượng kết nối theo yêu cầu. - Hãng thông tấn: Đến năm 2010, xây dựng Thông tấn xã Việt Nam thành một hãng thông tấn quốc gia có uy tín và có sức cạnh tranh cao. Xây dựng một số phân xã khu vực hoặc phân xã điểm trong hệ thống phân xã trong nước, tiếp tục mở rộng mạng lưới phân xã ngoài nước. Đến năm 2010 đưa số phân xã ở ngoài nước từ 25 phân xã hiện nay lên 30 phân xã tại những địa bàn quan trọng. 3.2.2. Một số chỉ tiêu cơ bản đến năm 2010 - Sản lượng bản báo đến năm 2010 đạt 900 triệu bản/năm; mức hưởng thụ bình quân đầu người 10 bản báo/người/năm. Mức hưởng thụ sách bình quân đầu người: 5 bản/người/năm. - Tỷ lệ phim truyện Việt Nam chiếu trên truyền hình 60%. - Đến năm 2010 có 100% gia đình ở đồng bằng có phương tiện nghe nhìn; có 100% gia đình miền núi có phương tiện nghe hoặc nhìn. - Mật độ bình quân thuê bao Internet đạt 8,4 thuê bao/100 dân (trong đó 30% là thuê bao băng rộng). Tỷ lệ số dân sử dụng Internet từ 30-40%. Tỷ lệ số người có máy tính cá nhân khoảng 10-15 máy/100dân. 3.2.3. Các giải pháp chủ yếu Giải pháp về hoàn thiện cơ chế quản lý - Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý của các cơ quan chỉ đạo và quản lý thông tin nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này; khắc phục tình trạng chồng chéo, phân công, phân cấp không rõ ràng giữa các cơ quan quản lý, giữa Trung ương với địa phương; bảo đảm sự tập trung, hiệu quả của công tác chỉ đạo, quản lý thông tin trong phạm vi cả nước. - Rà soát, điều chỉnh quy hoạch hệ thống báo chí in; xây dựng, phát triển một số cơ quan báo chí điện tử trọng điểm trên mạng Internet; xây dựng quy hoạch hợp lý hệ thống phát thanh, truyền hình và báo điện tử. Chú trọng việc xác định quy mô, phạm vi hoạt động, công suất phát sóng của đài truyền hình cấp tỉnh; quy hoạch việc phát sóng của các đài truyền hình tỉnh, thành phố với các đài khu vực; từng bước xây dựng cơ chế thực hiện thống nhất quản lý lĩnh vực truyền dẫn và phát sóng. - Đánh giá đầy đủ các điều kiện hoạt động của hệ thống đài phát thanh cấp huyện để xem xét, cấp phép hoạt động và phân loại quản lý theo quy định của Luật Báo chí. - Kiện toàn bộ máy quản lý thông tin ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (các phòng nghiệp vụ của các Sở Văn hoá - Thông tin). Giải pháp về nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin - Kiện toàn tổ chức, bộ máy, nhân sự các cơ quan làm công tác thông tin đủ năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện tốt nhiệm vụ. - Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, tôn chỉ, mục đích và hiệu quả phục vụ công chúng để làm tiêu chí sắp xếp, quy hoạch mạng lưới thông tin, báo chí trong cả nước. Những cơ quan thông tin hoạt động không có hiệu quả, thông tin trùng lặp, không đáp ứng nhu cầu công chúng thì phải kiên quyết đình chỉ hoạt động. Giải pháp về nguồn lực tài chính và chế độ chính sách tài chính - Tiến hành phân loại các cơ quan báo chí theo tôn chỉ mục đích, đối tượng phục vụ. Các khoản tài trợ của nguồn ngân sách nhà nước tập trung đầu tư cho nhóm báo chí do yêu cầu phục vụ các nhiệm vụ chính trị mà giá bán báo thấp hơn giá thành. Nhóm báo chí chủ yếu phục vụ nhu cầu giải trí có cơ chế hoạt động, chính sách về thuế, về đầu tư phù hợp với yêu cầu phát triển. - Đầu tư ngân sách thỏa đáng để triển khai các dự án đã được Chính phủ phê duyệt về phát thanh, truyền hình, thông tấn xã, cơ sở hạ tầng Internet, các thiết bị phục vụ cho in ấn và phát hành báo chí. - Nghiên cứu, ban hành chính sách đầu tư của Nhà nước cho việc ứng dụng công nghệ tin học, giảm giá cước viễn thông phục vụ phát triển Internet, nâng cao chất lượng, giảm giá thành các dịch vụ Internet. - Tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân hỗ trợ kinh tế cho báo chí để đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, thực hiện các chương trình văn hoá, thể thao nhân đạo. - Xây dựng chính sách đặt hàng, hỗ trợ việc xuất bản và phát hành báo chí đến các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và vùng đặc biệt khó khăn, đến với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài. Giải pháp về nguồn nhân lực - Quy hoạch lại hệ thống đào tạo, bồi dưỡng về thông tin báo chí trong cả nước theo hướng hoàn chỉnh mạng lưới các cơ sở đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực về thông tin. Giải pháp về khoa học và công nghệ - Phát triển thông tin dựa trên cơ sở kết hợp giữa ứng dụng công nghệ thông tin và các phương tiện thích hợp khác. Coi trọng yêu cầu số hóa trong thông tin, bảo đảm phát triển của thông tin nước ta theo kịp sự phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới. - Đẩy nhanh việc xây dựng cơ sở hạ tầng viễn thông và Internet hiện đại, đáp ứng nhu cầu giải thông tốc độ đường truyền phục vụ Internet phát triển. Mở rộng mạng lưới truy nhập Internet trong cả nước; nghiên cứu triển khai các công nghệ mới nhằm mở rộng khả năng truy nhập mạng Internet ngoài mạng viễn thông như: truyền hình CATV, DTH, mạng điện lực... - Đầu tư xây dựng các trung tâm truyền dẫn, phát sóng, các cơ sở in ấn, chế bản... hiện đại để bảo đảm tốt các yêu cầu của các hoạt động thông tin báo chí trong những năm trước mắt và lâu dài. - Tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực thông tin báo chí tham dự các hội nghị quốc tế, học tập nghiên cứu ở các nước có trình độ tiên tiến; hình thành cơ chế tư vấn khoa học công nghệ trong nước và quốc tế và chính sách đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học về thông tin. Giải pháp về bảo đảm an ninh thông tin - Phát triển thông tin đồng thời phải có biện pháp bảo đảm an ninh thông tin trong lĩnh vực kinh tế, chính sách đối nội, đối ngoại, lĩnh vực khoa học - công nghệ, trong lĩnh vực đời sống tinh thần, trong hệ thống viễn thông - thông tin toàn quốc, trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và bảo vệ an ninh thông tin trong điều kiện có hoàn cảnh đặc biệt. - Cụ thể hóa các quy định của pháp luật trong hoạt động thông tin nhằm bảo đảm tốt vấn đề an ninh thông tin cả về nội dung và các phương tiện kỹ thuật thông tin. - Tăng cường công tác bảo vệ nội bộ ở các cơ quan thông tin. Xây dựng đội ngũ làm công tác thông tin có đủ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị để thực hiện tốt mọi yêu cầu nhiệm vụ trong các tình huống. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thông tin - Chú trọng công tác xây dựng Đảng trong các cơ quan báo chí, truyền thông, làm cho cấp uỷ, tổ chức Đảng của các cơ quan này thực sự nêu cao trách nhiệm chính trị và vai trò lãnh đạo trong tổ chức và hoạt động của cơ quan, đơn vị. - Xây dựng quy định chức năng, nhiệm vụ các tổ chức Đảng trong các cơ quan báo chí; quy chế tuyển chọn, đề bạt, sử dụng, bãi nhiệm lãnh đạo cơ quan báo chí. 3.2.2. Các giải pháp khác. * Phát triển hệ thống truyền thông đại chúng và hệ thống phát hành báo chí tại địa phương. Bên cạnh hệ thống báo chí TW, việc thiết lập hệ thống báo chí mạnh tại địa phương sẽ góp phần nâng cao sự thụ hưởng thông tin của công chúng báo chí tại những địa bàn khó khăn. * Phát triển truyền thông bằng ngôn ngữ và chữ viết của người dân tộc. + Phát triển hệ thống phát thanh tiếng dân tộc, do chỗ, ở những địa bàn khó khăn, những cư dân lớn tuổi phần lớn đều không biết chữ, phát thanh là kênh thông tin hữu ích. Hệ phát thanh tiếng dân tộc của Đài tiếng nói Việt Nam (VOV4) hiện nay có chương trình cho 9 thứ tiếng: Mông, Khmer, Êđê, Jơrai, Bana, Xơ đăng, K’Ho, Thái, Chăm. Trực tiếp sản xuất các chương trình phát thanh tiếng dân tộc là Ban phát thanh tiếng dân tộc và các cơ quan thường trú khu vực Tây Nguyên, Khu vực Tây Bắc, Khu vực ĐB sông Cửu long và cơ quan thường trú Thành phố Hồ Chí Minh. Các chương trình đều phát sóng 4 lần trong ngày, thời lượng tổng cộng 120phút/ chương trình/ ngày. Máy phát sóng bố trí theo khu vực: Phía Tây Bắc, Trung Bộ - Nam Bộ và Tây Nguyên, bao gồm máy phát sóng trung, sóng ngắn và sóng FM. Hiện tại, Đài Tiếng nói Việt Nam dành thời lương 25 giờ 30 phút mỗi ngày phục vụ đồng bào các dân tộc Việt Nam (Không kể chương trình tiếng Việt) ~ Hệ Phát thanh dân tộc là một hệ chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam có chung đối tượng phục vụ là đồng bào các dân tộc thiểu số được phát bằng các thứ tiếng dân tộc thiểu số, được tổ chức, sắp xếp, liên kết trong hệ thống, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam. ~ Hệ Phát thanh dân tộc hình thành trên cơ sở các chương trình tiếng dân tộc hiện có, tổ chức lại, định danh, thiết lập mối quan hệ trong hệ thống, đồng thời có điều chỉnh, bổ sung thời lượng và nội dung chương trình cho phù hợp. ~ Các chương trình trong hệ do nhiều đơn vị của Đài Tiếng nói Việt Nam trực tiếp sản xuất, nhưng lại tuân thủ chỉ đạo, điều hành tập trung của lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam. Các chương trình đều được tập trung về đầu mối là Hệ Phát thanh dân tộc, thực hiện tuyên truyền theo định hướng chung nhưng vẫn đảm bảo tính đặc thù của từng chương trình. ~ Hệ Phát thanh dân tộc không bố trí toàn bộ các chương trình phát thanh hiện có theo trục thời gian như các Hệ khác, mà bố trí theo nhóm tiếng tương ứng với khu vực phủ sóng, gồm nhóm phía Bắc, nhóm Trung bộ-Nam bộ và Tây Nguyên. ~ Một số điều chỉnh khi tổ chức Hệ Phát thanh Dân tộc: . Tăng thời lượng chương trình tiếng Thái: Từ 90 phút/ngày lên 120 phút/ngày, tăng thêm chương trình ca nhạc dân tộc phát vào 20 giờ hàng ngày. . Tiếp âm chương trình tiếng Mông và tiếng Thái tại khu vực Tây Nguyên: hàng ngày tiếp âm 2 lần chương trình tiếng Mông, 2 lần chương trình tiếng Thái phục vụ đồng bào Mông, Thái cư trú tại đây; bố trí chương trình tiếng Mông, tiếng Thái (tiếp âm) vào nhóm tiếng khu vực Tây Nguyên, cùng chung hệ thống máy phát sóng. . Xây dựng thêm một số chương trình tiếng dân tộc như Dao, Tày, M’Nông, Châu Ro, Raglay, Chăm... * Phát triển truyền hình tiếng dân tộc VTV5 là kênh thông tin phát bằng nhiều thứ tiếng dân tộc tuyên truyền những chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đến đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc còn gặp nhiều khó khăn của Đài truyền hình Việt Nam. Năm 2004 phát sóng 8 giờ/ngày với 7 thứ tiếng, năm 2005 phát sóng 10 giờ/ngày với 10 thứ tiếng và 13 thứ tiếng với thời lượng là 12 giờ/ngày vào năm 2006. Vấn đề đặt ra cho VTV5 cũng như những kênh sóng bằng tiếng dân tộc là làm sao để chương trình được phủ sóng tới những vùng xa xôi hẻo lánh nhất, tăng thời lượng phát sóng, tăng các thứ tiếng cộng thêm nhiều chuyên mục mới hấp dẫn thu hút khán giả là đồng bào dân tộc. Sự ra đời và phát triển của VTV5 góp phần thoả mãn nhu cầu thông tin của đồng bào dân tộc, là động thái tốt nhằm thúc đẩy sự cân bằng thông tin giữa các nhóm công chúng. + Phát triển các bản tin tiếng dân tộc. + Phát triển hệ thống truyền thông miệng qua đội ngũ tuyên truyền viên tại các địa bàn khó khăn về kinh tế. * Báo mạng giúp cân đối nhu cầu thụ hưởng thông tin "Nóng", cập nhật là hai đặc tính thuộc về thế mạnh thông tin của báo mạng mà không một loại hình báo chí nào khác có thể so sánh được. Ngay cả một tờ nhật báo, báo từng được coi là có tần suất phát hành cao nhất, cũng trở nên cũ ngay vào buổi chiều nếu nó xuất xưởng vào buổi sáng. Một quốc gia mới phát triển về CNTT của châu Á là Ấn Độ đã làm rất tốt việc đem thông tin đến tầng lớp bình dân, ít học thông qua mạng Internet. Việt Nam cũng có thể làm được điều này. Đó cũng là một cách san bằng khoảng cách quá lớn hiện nay trong "cán cân" thụ hưởng thông tin giữa thị dân và nông dân. Một "Hai Lúa" ở miệt ĐBSCL có thể "nói chuyện" với ngài Bộ trưởng Nông nghiệp về giá lúa thông qua mạng giao lưu trực tuyến. Báo mạng làm được điều kỳ diệu đó. * Trợ giúp ngân sách của nhà nước cho vấn đề truyền thông tại các địa bàn khó khăn. Hiện nay chính sách này đã được thực hiện, có những thành công bước đầu trong việc đem thông tin đến cho công chúng các vùng khó khăn. Thời gian tới, chính sách này cần được thực hiện tiếp tục nhằm gặt hái thêm những thành công lớn hơn nữa trong chiến lược phổ biến thông tin tới mọi đối tượng công chúng. * * * * Sự mất cân đối trong việc hưởng thụ thông tin của công chúng Việt Nam là một thực tế đang diễn ra. Mức độ chênh lệch này song hành cùng mức độ chênh lệch trong việc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay. Ở một khía cạnh nào đó, có thể khẳng định truyền thông phản ánh bức tranh sinh động của xã hội Việt Nam đương đại. Sự mất cân đối trong việc hưởng thụ thông tin đó của công chúng Việt Nam là một thách thức lớn. Mức độ chênh lệch giữa các khu vực kinh tế, giữa các vùng miền, giữa các nhóm thu nhập... với khoảng cách lớn đòi hỏi những bước đi chắc chắn và khoa học nhằm thiết lập một môi trường thông tin và phân phối thông tin công bằng cho công chúng báo chí. Những biện pháp của Chính phủ, của ngành truyền thông sẽ là những động lực thúc đẩy sự cân bằng trong việc hưởng thụ thông tin của công chúng, để thông tin thực sự tới được với mỗi người dân, dù họ là dân nghèo, hay dân có mức thu nhập cao, dù họ là người thành thị hay người nông thôn... Sự phát triển cân bằng và bền vững là những tiêu chí mà xã hội hiện đại cần hướng tới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Như Ý, Đại từ điển Tiếng Việt, NXBVăn hóa - Thông tin, H., 1999. Tạ Ngọc Tấn, Truyền thông đại chúng, NXB Chính trị quốc gia, H., 2004 TS Lê Thanh Bình, Báo chí truyền thông và kinh tế, NXB Thông tấn, H., 2005. Pierre Albert, Lịch sử báo chí, NXB Thế giới, H., 2003. X.A.Mikhailốp, Báo chí hiện đại nước ngoài: những quy tắc và nghịch lý, NXB Thông tấn, H., 2004. Vũ Quang Hào, Báo chí và đào tạo báo chí Thuỵ Điển, Sách không bán, H., 2004. Roumeen Islam, Quyền được nói: vai trò của truyền thông đại chúng trong phát triển kinh tế, NXB Văn hóa thông tin, H., 2006. Schudson, Michael, Sức mạnh của tin tức truyền thông, NXB Chính trị Quốc gia, H., 2003. Trình Mưu, Quan hệ quốc tế những năm đầu thế kỷ XXI : Vấn đề, sự kiện và quan điểm, NXB Lý luận chính trị, H., 2005 Dự án hỗ trợ từ điển tiếng Việt miễn phí (The free Vietnamese Dictionary project). ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc15001.doc
Tài liệu liên quan