Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam

Lời Mở ĐầU Thực tiễn hơn 10 năm đổi mới kinh tế, chúng ta đã khẳng định những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế xã hội. Tốc độ tăng trưởng đạt khá cao, Việt Nam đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và đang bước vào thời kỳ mới như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: thời kỳ tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa

doc46 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1400 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xã hội. Để thực hiện được mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hôi chúng ta phải giải quyết một loạt vấn đề rất quan trọng, trong đó có vấn đề lựa chọn mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế xã hội đúng đắn; xác định hướng dịch chuyển cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ, xây dựng và thực hiện đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Từ khi Đảng ta công bố chủ trương xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa như nước và lửa không thể dung nạp với nhau được, do vậy chủ trương xây dựng kinh tế thị trường là từ bỏ lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Cơ sở lý luận cho loại ý kiến này là ở chỗ họ cho rằng Marx và Engels ngày xưa dự đoán sẽ không có thị trường và tiền tệ trong CNXH. Có loại ý kiến khác cho rằng chỉ cần nói xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh là đủ, không cần phải nói "theo định hướng XHCN" vì "dòng sông sẽ tự nó chảy ra biển không việc gì phải uốn nắn" vì làm như thế là trái quy luật. Lại có loại ý kiến khác cho rằng sự lựa chọn kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta chỉ mang tính tất yếu chính trị chứ chưa mang tính tất yếu kinh tế và không thể định hướng được cái chưa có. Nhìn chung dù cho các loại quan điểm trên có đúng hay không thì chúng cũng biểu hiện sự sùng bái tự phát và đánh mất lý tưởng với tư cách là một chủ thuyết phát triển của một dân tộc. Phía ý kiến còn lại thì tán đồng chủ trương và đã luận giải góp phần làm sáng tỏ dần luận điểm mới mẻ này. Tình hình đưa đến một yêu cầu bức thiết phải tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện luận điểm này trên nhiều giác độ khác nhau. Nói rõ lên các vấn đề : đi theo kinh tế thị trường có phải là từ bỏ lý tưởng XHCN không? Thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Nó có đặc trưng gì và nó khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ở chỗ nào? Để có được định hướng XHCN cần có những điều kiện gì? Tôi có tham vọng là giải quyết được tất cả những gì có liên quan đến nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam nhưng do thời gian và kiến thức giới hạn, trong đề án này tôi chỉ xin được giới thiệu tổng quát và đi sâu vào một số phần về "quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay".Tôi cũng xin chân thành cám ơn thầy giáo - TS Tô Đức Hạnh đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề án này. Nội dung Những vấn đề lý luận chung về nền kinh tế thị trường Các điều kiện để hình thành nền kinh tế thị trường Ngày nay, không một ai phủ nhận vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường trong quá trình phát triển kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất xã hội... Nhưng về điều kiện ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường thì không phải mọi người đã nhận thức và hiểu như nhau. Trước đây, khi còn quan điểm không đúng: đối lập chủ nghĩa xã hội với kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (vì cho rằng kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường gắn với chủ nghĩa tư bản), thì nhiều người nhận thức, và hiểu rằng dưới chủ nghĩa xã hội không còn kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, mà nếu còn tồn tại thì chỉ là một kiểu kinh tế hàng hoá đặc biệt (chỉ có tư liệu tiêu dùng là hàng hoá, còn tư liệu sản xuất, sức lao động, vốn... không phải là hàng hoá). Với cách hiểu như vậy, nên khi trình bày về điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất, lưu thông hàng hoá, nhiều sách giáo khoa kinh tế chính trị viết rằng: sản xuất hàng hoá ra đời khi có hai điều kiện là phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Về điều kiện thứ nhất, phân công lao động xã hội thì đến nay vẫn không có gì phải bàn thêm, phân công lao động xã hội là cơ sở của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Lênin cho rằng: " hễ ở đâu và khi nào có phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy, có " thị trường" ". Về điều kiện thứ hai, cần có sự bàn luận để nhận thức và hiểu cho đúng. Nếu cho rằng, điều kiện thứ hai cho sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì sẽ không giải thích được sự tồn tại sản xuất, lưu thông hàng hoá trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong chủ nghĩa xã hội, mà còn dẫn đến phủ định kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội. Bởi vì nền sản xuất dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Vậy thì muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, có nghĩa là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong chủ nghĩa xã hội không còn điều kiện thứ hai của sản xuất hàng hoá. Do đó chủ nghĩa xã hội tất yếu cũng không còn kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Như vậy thì mâu thuẫn với thực tế khách quan: trong chủ nghĩa xã hội vẫn sẽ còn kinh tế hàng hoá ngay cả khi nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Còn trong chủ nghĩa xã hội thì kinh tế hàng hoá lại có thể tồn tại cả trong điều kiện hoàn toàn không có chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Khi nghiên cứu nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa, Lênin đã viết: " Về mặt lý luận, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể hoàn toàn đi đôi với việc không có chế độ tư hữu về ruộng đất, với việc quốc hữu hoá ruộng đất..." Vậy thì điều kiện thứ hai cho sự nảy sinh và tồn tại của sản xuất, lưu thông hàng hoá là gì? Lênin cho rằng, sản xuất hàng hoá chính là tổ chức của nền kinh tế xã hội, trong đó sản phẩm đều do những người sản xuất cá thể, riêng lẻ sản xuất ra, mỗi người chuyên làm ra một thứ sản phẩm nhất định, nên muốn thoả mãn nhu cầu của xã hội thì phải có mua bán sản phẩm, vì vậy sản phẩm trở thành hàng hoá trên thị trường. Khẳng định phân công lao động là điều kiện ra đời và tồn tại của nền sản xuất hàng hoá, mới chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ. Marx đồng thời chỉ ra điều kiện đủ để sản xuất hàng hoá ra đời, tồn tại là " những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau" của những người sản xuất hàng hoá. Marx viết: "Trong công xã ấn Độ thời cổ, lao động đã có sự phân công xã hội, nhưng các sản phẩm lao động không trở thành hàng hoá. Hay là chúng ta hãy lấy một ví dụ gần gũi hơn : trong mỗi công xưởng, lao động được phân công một cách có hệ thống, nhưng sự phân công này được thực hiện không phải bằng cách các công nhân trao đổi những sản phẩm của cá nhân họ với nhau. Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hoá. Như vậy sự tồn tại của sản xuất hàng hoá cần có : phân công lao động xã hội và "những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau" của những người sản xuất hàng hoá. Mà muốn có "những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau" thì những người, những doanh nghiệp sản xuất hàng hoá phải độc lập và không phụ thuộc vào nhau. Trong nền kinh tế hàng hoá , tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá phản ánh chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai là việc riêng của mỗi người, mỗi doanh nghiệp. Họ là những người sản xuất độc lập. Những doanh nghiệp sản xuất hàng hoá có thể thuộc quyền sở hữu tư nhân, hay thuộc quyền sở hữu tập thể hoặc thuộc quyền sở hữu của nhà nước..., nhưng chúng vẫn là những doanh nghiệp sản xuất hàng hoá độc lập, sản phẩm của chúng vẫn là hàng hoá. Đối với toàn xã hội thì lao động của mỗi doanh nghiệp (dù là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu nào) vẫn là lao động tư nhân, và chỉ khi nào bán được hàng hoá thì lao động tư nhân đó mới được xã hội thừa nhận, mới trở thành bộ phận thực sự của lao động xã hội. Lao động tư nhân và lao động xã hội là hai mặt mâu thuẫn của một thể thống nhất là lao động sản xuất hàng hoá. Với phân công lao động xã hội, lao động sản xuất hàng hoá mang tính chất là lao động xã hội, là một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội. Sự phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người, những doanh nghiệp sản xuất hàng hoá độc lập, họ làm việc cho nhau thông qua trao đổi hàng hoá. Còn với tư cách là doanh nghiệp sản xuất hàng hoá độc lập, lao động sản xuất hàng hóa của họ lại mang tính chất lao động tư nhân (cá biệt, độc lập, không phụ thuộc vào nhau). Mâu thuẫn này được giải quyết khi sản phẩm được trao đổi dưới hình thức hàng hoá. Kinh tế hàng hoá tồn tại trong nhiều chế độ xã hội khác nhau, dựa trên nhiều chế độ sở hữu khác nhau, chứ không chỉ dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, miễn là những người, những doanh nghiệp sản xuất hàng hoá độc lập và không phụ thuộc vào nhau. Chế độ sở hữu tư nhân chỉ là một trong nhiều nhân tố làm cho những người, những doanh nghiệp sản xuất hàng hoá độc lập và không phụ thuộc vào nhau, vì vậy mà thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, chứ không phải là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất, lưu thông hàng hoá. Như vậy có thể khẳng định rằng : điều kiện thứ hai của sự ra đời và tồn tại kinh tế hàng hóa là sự độc lập và không phụ thuộc vào nhau giữa những người, những doanh nghiệp sản xuất hàng hoá. Cùng với quá trình phân công lao động xã hội và đa dạng hóa các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất thì sự bùng nổ của các cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật cũng là một nhân tố góp phần dẫn đến sự ra đời và phát triển của nền kinh tế thị trường. Khoa học - kĩ thuật phát triển làm cho năng suất lao động tăng lên và vì thế cũng dẫn đến quá trình chuyên môn hoá sản xuất sâu rộng hơn, phân chia thị trường thành các thị trường chuyên biệt : thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ, thị trường các yếu tố sản xuất. Đặc biệt là thị trường các yếu tố sản xuất bao gồm thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường kĩ thuật - công nghệ. Có thị trường này mới có các yếu tố để sản xuất ra hàng hoá, mới có hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ, hay mới có thị trường đầu ra. Số lượng và tính chất, tính đa dạng của thị trường đầu ra do thị trường đầu vào quy định.Quá trình phát triển của phân công lao động và trao đổi trên phạm vi quốc tế cũng góp phần vào quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường, dẫn đến quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế. Các giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường Về phương diện kinh tế có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống kinh tế - xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là : thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung - tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá, mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường. Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế -xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tặng phẩm của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Nó được bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoàn khép kín giữa con người và tự nhiên. Kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con người và tự nhiên, mà tiêu biểu là giữa lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với xã hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp , tự cung- tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến , tuy không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên, hiện vật, sinh tồn, tự cung- tự cấp gắn liền với kém phát triển và lạc hậu. Kinh tế hàng hoá, bắt đầu bằng kinh tế hàng hoá giản đơn, ra đời khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung- tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Trong lịch sử phát triển của mình, vị thế của kinh tế hàng hoá cũng dần được đổi thay : từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh tế -xã hội không phổ biến, không hợp thời trong xã hội chiếm hữu nô lệ của những người thợ thủ công và nông dân tự do, đến chỗ được thừa nhận trong xã hội phong kiến, và đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế hàng hoá giản đơn không những được thừa nhận mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn, đó là kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, cũng đã trải qua ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất, giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường (còn gọi là giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai hay dã man). Giai đoạn thứ hai, giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do. Đặc trưng quan trọng của giai đoạn này là sự phát triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do, nhà nước không tham gia vào hoạt động kinh tế. Giai đoạn thứ ba, giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại . Đặc trưng của giai đoạn này là nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng các hình thức sở hữu nhà nước, các chương trình khuyến khích đầu tư và tiêu dùng, cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính, tín dụng, tiền tệ ... để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Sự phối hợp giữa chính phủ và thị trường trong một nền kinh tế hỗn hợp nhằm đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của những nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh. Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá (sản xuất hàng hoá nhỏ) tự phát sẽ “ hằng ngày hằng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản” (nói theo cách nói của V.I. Lênin) và sự phát triển của kinh tế thị trường trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng tuyệt nhiên, kinh tế thị trường không phải là một chế độ kinh tế- xã hội. Kinh tế thị trường là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế. Các quy luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, quy định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào (bao nhiêu?), và sản xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường theo quy luật giá trị đòi hỏi các chủ thể sản xuất- kinh doanh không ngừng đổi mới, ứng dụng tiến bộ khoa học- kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, mở rộng quy mô sản xuất- kinh doanh. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội, phát triển khoa học- công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất- kinh doanh. Sự phát triển của kinh tế thị trường gắn liền với quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại, của khoa học- kỹ thuật, của lực lượng sản xuất. Nhiều học giả đã khái quát rằng: Giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn gắn liền với nền văn minh nông nghiệp và kỹ thuật thủ công; giai đoạn kinh tế thị trường tự do gắn liền với nền văn minh công nghiệp và kỹ thuật cơ khí; giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại gắn liền với nền văn minh trí tuệ và kỹ thuật vi điện tử- tin học... Cơ chế thị trường Kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là một cơ chế mà trong đó tổng thể các nhân tố, các quan hệ có bản vận động dưới sự chi phối của quy luật thị trường, trong môi trường cạnh tranh vì mục tiêu lợi nhuận. Cơ chế thị trường là cơ chế nảy sinh một cách tất yếu từ sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, qua thị trường để tự điều chỉnh các cân đối của nền kinh tế theo yêu cầu của các quy luật khách quan (giá trị, cung-cầu, cạnh tranh, lưu thông tiền tệ...) Cơ chế thị trường là guồng máy vận hành của nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường; là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng các nguồn lực (vốn, tài nguyên, công nghệ, tư liệu sản xuất, sức lao động). Căn cứ vào thị trường, các doanh nghiệp sẽ quyết định : sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Cơ chế thị trường đòi hỏi phát triển sản xuất hàng hoá; mở rộng thị trường về mọi phương diện; tự do sản xuất, kinh doanh; tự do thương mại; đa dạng hóa hình thức sở hữu, hình thức phân phối. Trong đó nó có các đặc trưng: đặc trưng cơ bản nhất là cơ chế hình thành giá cả một cách tự do, người bán và người mua thông qua thị trường để xác định giá cả; đặc trưng cơ bản thứ hai là lựa chọn tối ưu hoá các hoạt động kinh tế để đạt được lợi nhuận tối đa. Cơ chế thị trường chịu sự tác động rất mạnh của các quy luật kinh tế hàng hoá. Hiện nay còn tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về cơ chế thị trường. Chẳng hạn, theo Paul A. Samuelson, “ cơ chế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà doanh nghiệp tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế”. Cơ chế thị trường không phải là một sự hỗn độn, mà là một trật tự kinh tế, là bộ máy tinh vi phối hợp một cách không có ý thức hoạt động của người tiêu dùng với các nhà sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trường. Không ai tạo ra nó, nó tự phát sinh ra và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá. Lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nền kinh tế hàng hoá. Nó quyết định thưởng hay phạt các hoạt động sản xuất- kinh doanh. Lợi nhuận hướng những người sản xuất vào lĩnh vực mà người tiêu dùng có nhu cầu, cũng như buộc phải sử dụng công nghệ có hiệu quả nhất. Thực tế khó có thể đánh giá đầy đủ những ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường. Tuy nhiên có thể nêu lên những ưu điểm của cơ chế thị trường như sau: Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động được các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế. Cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, nhờ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất về hàng ngàn, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau. Những nhiệm vụ này nếu Nhà nước làm sẽ phải thực hiện một khối lượng công việc khổng lồ, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong việc ra các quyết định.Cơ chế thị trường mềm dẻo hơn Nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội. Nhờ vậy cơ chế thị trường giải quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Cần sản xuất loại hàng hoá gì với khối lượng bao nhiêu do người tiêu dùng quyết định khi họ quyết định mua hàng hoá này mà không mua hàng hoá khác. Lợi nhuận lôi cuốn các doanh nghiệp vào sản xuất mặt hàng có lợi nhuận cao. Do đó mà đáp ứng được nhu cầu xã hội. Sản xuất bằng phương pháp nào, bằng công nghệ gì được quyết định bởi cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá. Cách duy nhất để các doanh nghiệp có thể cạnh tranh được về giá cả và đạt được lợi nhuận tối đa cho mình là giảm chi phí đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng kỹ thuật công nghệ vào sản xuất. Hệ thống giá cả là tín hiệu cho một phương pháp công nghệ thích hợp. Sản xuất hàng hoá cho ai hay là sản phẩm sản xuất ra được phân phối như thế nào, một phần được quyết định bởi quan hệ cung- cầu trên thị trường các nhân tố sản xuất (đất đai, lao động, vốn). Thu nhập của các tầng lớp dân cư phụ thuộc vào số lượng và giá cả các nhân tố sản xuất. Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội chứng minh rằng cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả kinh tế cao. Song cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo, mà nó vốn có những khuyết tật dưới đây của cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo. Một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn tới sự phân bố và sử dụng hiệu quả nhất đầu vào của sản xuất và đầu ra, tức là nền kinh tế đứng trên đường giới hạn khả năng sản xuất.Như vậy, hiệu lực của cơ chế thị trường phụ thuộc vào mức độ không hoàn hảo của cạnh tranh, cạnh tranh càng không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường càng giảm. Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu, do đó hiệu quả kinh tế-xã hội không được bảo đảm. Có những mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường có hoạt động tốt cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo, tác động xấu đến đạo đức, tình người. Một nhà nghiên cứu phương Tây nhận xét về xã hội của các nước phát triển cao như sau: “ Trong các nền văn minh được coi là phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hoá, trí não, đạo đức và tình người”. Một nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ. Người ta nhận thấy rằng, một nền kinh tế hiện đại đứng trước một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong thời gian dài lại có được lạm phát thất nghiệp thấp và công ăn việc làm đầy đủ. Do đó, ngày nay trong thực tế không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của Nhà nước, khi đó nền kinh tế, như người ta gọi là nền kinh tế hỗn hợp. Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Như đã nói ở trên, cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế thị hàng hoá một cách có hiệu quả, tuy nhiên cơ chế thị trường có một loạt những khuyết tật. Vì vậy, ở tất cả các nước mà nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết đều có sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế nhằm sửa chữa “ những thất bại của thị trường”, tuy nhiên, với mức độ khác nhau nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, hiệu quả và đạt được sự công bằng xã hội. Vì vậy, chúng ta không chỉ cần biết cơ chế thị trường hoạt động như thế nào, mà còn cần biết Nhà nước tác động đến hoạt động của nền kinh tế như thế nào? Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường rất quan trọng. Vai trò đó được thực hiện qua các chức năng kinh tế của nó. Có thể nêu lên các chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường như dưới đây : Một là, đảm bảo sự ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Về nhiều mặt, chức năng này vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Nhà nước tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra những điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và sự hoạt động của thị trường, đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật pháp mà Nhà nước thiết lập có tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế của con người và cả bản thân Chính phủ cũng phải tuân theo. Hai là, điều tiết kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi bị chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế, đều phải trải qua các chu kỳ kinh doanh, tức là các dao động lên xuống của GNP hoặc GDP, kèm theo là các dao động lên xuống về mức độ thất nghiệp và lạm phát. Nhà nước cần cố gắng làm dịu những dao động lên xuống của các chu kỳ kinh doanh thông qua chương trình hoá kinh tế, chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Chẳng hạn, chính phủ có thể giảm thuế trong cơn suy thoái với hy vọng tăng chi tiêu của dân chúng, nhờ đó sẽ nâng cao GDP. Ngân hàng Trung ương áp dụng các biện pháp “ thắt chặt tiền tệ” nhằm giảm lạm phát. Như vậy, thông qua chính sách tài chính và chính sách tiền tệ Nhà nước cố gắng ổn định kinh tế, duy trì nền kinh tế càng sát càng tốt đối với tình trạng đầy đủ việc làm và lạm phát thấp.Hiển nhiên là Nhà nước không thể kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo, nếu không thì chúng ta không phải chứng kiến những suy thoái và lạm phát trầm trọng. Ba là, đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thị trường là những tác động, mà các nhà kinh tế gọi là tác động bên ngoài. Các doanh nghiệp vì lợi ích tối đa của mình có thể lạm dụng tài nguyên xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu. Sự can thiệp của Chính phủ nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài để nâng cao hiệu quả. Một nguyên nhân khác dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thị trường là sự xuất hiện của độc quyền. Các tổ chức độc quyền có thể không tăng thậm chí giảm số lượng hàng hoá mà chỉ tăng giá để tăng lợi nhuận. Một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt hiệu quả cao, nhưng cạnh tranh làm hạn chế khả năng đạt lợi nhuận độc quyền nên các doanh nghiệp thường cố gắng giảm bớt cạnh tranh. Vì vậy, Nhà nước có một nhiệm vụ rất cơ bản bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thị trường. Bốn là, đồng thời để đảm bảo tính hiệu quả thì Nhà nước phải sản xuất ra hàng hoá công cộng, đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. Sự hoạt động của cơ chế thị trường có thể làm cho nền kinh tế đạt hiệu quả cao. Nhưng cơ chế thị trường hoạt động phi nhân tính, nó không tính đến các khía cạnh nhân đạo và xã hội, không mang lại những kết quả mà xã hội cố gắng vươn tới. Việc phân phối và sử dụng tối ưu các nguồn lực không tự động mang lại một sự phân phối thu nhập tối ưu. Sự can thiệp của Nhà nước nhằm phân phối thu nhập công bằng, bảo vệ các thành viên của xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất. Điều đó được thực hiện thông qua chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Sự cần thiết khách quan phải chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Trước hết cần nghiên cứu những đặc trưng cơ bản của cơ chế kế hoạch hoá tập trung- cơ chế quản lý kinh tế đã tồn tại ở nước ta trước thời kỳ đổi mới- và hậu quả của nó.Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp có những đặc trưng chủ yếu sau đây: Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó thể hiện ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ một trung tâm. Các cơ quan hành chính- kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình. Bỏ qua quan hệ hàng hoá- tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do hạch toán kinh tế chỉ là hình thức: bao cấp qua giá, bao cấp qua tiền lương hiện vật (chế độ tem phiếu) và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách, mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn. Từ những đặc điểm trên đã dẫn đến bộ máy quản lý rất cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan liêu, cửa quyền. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế- xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta đã được Đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được Đại hội VII của Đảng khẳng định “ Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Trước năm 1986 ở Việt Nam cũng như các nước CNXH khác đã có nhận thức không đúng về kinh tế thị trường và CNXH vì cho rằng chúng đối lập nhau không thể cùng tồn tại, cùng phát triển được. Kinh tế thị trường là sản phẩm của CNTB, vì vậy CNXH không thể xây dựng trên nền tảng của kinh tế thị trường mà phải xây dựng trên cơ sở của nền kinh tế không thị trường. Do những quan niệm trên nên trong một thời kỳ dài, kinh tế thị trường không thể tồn tại trong ý thức hệ cũng như trong thực tế ở Việt Nam.Trong thời kỳ này mọi hoạt động kinh tế không diễn ra trên thị trường, quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị xem nhẹ, các quy luật của kinh tế thị trường không được nhận thức vận dụng, các đòn bẩy kinh tế như lợi nhuận, tiền lương, giá cả, thuế... bị xem nhẹ, thay vào đó là quan hệ cấp phát hiện vật, sản xuất theo kế hoạch nhà nước; các chỉ tiêu kinh tế, các quyết định kinh tế được soạn thảo từ nhà nước, làm cho thị trường bị biến dạng đã dẫn đến làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Chính thực tiễn đó buộc Việt Nam phải có nhận thức mới về nền kinh tế XHCN. Đó là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước. Vấn đề đặt ra là vì sao thừa nhận kinh tế thị trường có thể tồn tại và phát triển trong hình thái kinh tế- xã hội xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI của ĐCSVN và các văn kiện tiếp sau của các đại hội VII, VIII cũng như các bài viết của các nhà lý luận đã xác định kinh tế thị trường và định hướng XHCN không đối lập nhau trong quá trình phát triển kinh tế theo định hướng XHCN là vì : Kinh tế thị trường là sản phẩm chung của nền kinh tế thế giới, của sự phát triển lâu dài của nền kinh tế thế giới, phản ánh các nấc thang tiến hoá trong giai đoạn cụ thể của nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế thế giới bắt đầu từ nền kinh tế tự nhiên, sống nhờ vào sản phẩm mà thiên nhiên ban phát, vai trò của con người đối với nền kinh tế còn hết sức nhỏ bé, con người sống lệ thuộc thiên nhiên. Song thông qua lao động con người đã sáng tạo ra các công cụ lao độ._.ng và các hình thức lao động làm cho của cải sản xuất ra ngày càng nhiều không chỉ cung cấp cho người sản xuất mà còn dư thừa cung ứng cho xã hội, quan hệ hàng- tiền tất yếu xuất hiện, cùng với sự xuất hiện của một loạt các thị trường, sản sinh ra nền sản xuất hàng hoá mà đỉnh cao là của nó là nền kinh tế thị trường,nếu nền kinh tế thị trường đó đi với chế độ tư nhân tư bản chủ nghĩa thì hình thành nền kinh tế thị trường TBCN, nếu đi với nền kinh tế ấy là chế độ công hữu, cũng với vai trò quản lý của nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS thì nền kinh tế thị trường đó theo hướng XHCN. Như vậy, kinh tế thị trường, nảy sinh tất yếu khách quan của quá trình vận động của nền kinh tế thế giới, nó sẽ biến đổi trong quá trình đó, nó không phải là sản phẩm của một phương thức sản xuất mà sẽ tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất. Luận điểm đó cho thấy, chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam định xây dựng hoàn toàn có thể dung hợp với kinh tế hàng hoá mà đỉnh cao là kinh tế thị trường, có như vậy mới có điều kiện chuẩn bị các tiền đề kinh tế, xã hội cho sự vận động ở trình độ cao hơn. Những ý tưởng đối lập với luận điểm này sẽ là lực cản cho quá trình phát triển kinh tế Việt Nam hiện tại và tương lai. Sự vận động của nền kinh tế thế giới từ trước đến nay cho thấy, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, đã chi phối sự vận động đó, con người chỉ nhận thức chính xác mức độ tác động của quy luật qua các thời kỳ và khéo léo vận dụng chúng cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội cụ thể nhằm kích thích nền kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững. Điều này có nghĩa là kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là sản phẩm của sự tác động biện chứng giữa quy luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, vì vậy không thể phủ định nó khi mà các điều kiện đảm bảo cho nó phát triển vẫn còn tồn tại, nghĩa là kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa không đối lập nhau,mà cùng tồn tại với nhau trong thời kỳ dài của sự phát triển nền kinh tế thế giới, song tất yếu, giữa chúng sẽ có mâu thuẫn với nhau, đây chính là động lực của sự phát triển. Sự phù hợp của kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở chỗ kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường có nhiều mặt tích cực đối với sự phát triển nền kinh tế nói chung, trong đó có nền kinh tế XHCN. Còn nền kinh tế XHCN cũng có mặt tích cực đối với sự phát triển của loài người. Nền kinh tế XHCN kế thừa mặt tích cực của nền kinh tế hàng hoá để làm cho nền kinh tế phát triển nhanh hơn, như vậy chúng bổ sung cho nhau. Nền kinh tế Việt Nam hiện tại và tương lai cần có sự hỗ trợ các mặt tích cực đó của kinh tế thị trường. Theo nấc thang tiến hoá của lịch sử, phát triển các phương thức sản xuất, bước đi từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá là kết quả của sự phát triển LLSX đạt đến một trình độ nhất định, đạt đến trình độ cao của kinh tế thị trường như hiện nay là phản ánh trình độ phát triển cao của LLSX. Đến lượt nó, kinh tế thị trường phát triển cao cũng có những tác động thúc đẩy LLSX vốn đã phát triển cao lại càng cao thêm. Với những tư duy mới, chúng ta có thể khẳng định rằng : Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản. Nó không đối lập mà là sản phẩm chung của nền văn minh nhân loại. Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường là một trong những tính quy luật phổ biến của sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Do điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội khác nhau nên mỗi nước có một mô hình kinh tế thị trường riêng. Chẳng hạn, ở Cộng hoà liên bang Đức có mô hình kinh tế thị trường- xã hội; ở Trung Quốc có mô hình kinh tế thị trường mang màu sắc Trung Quốc.... Việt Nam từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX đã tiến hành công cuộc đổi mới và nền kinh tế của đất nước được xây dựng theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Sự hình thành và phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã trải qua quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tổng kết thực tiễn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đánh dấu công cuộc đổi mới nền kinh tế được khởi xướng, nhưng phải trải qua 5 năm thực hiện, đến Đại hội lần thứ VII (1991), mới đưa ra phương hướng : “ Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII bổ sung thêm cơ chế vận hành nhằm cụ thể hoá thêm một bước phương hướng nói trên là : “Xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN”. Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) lại cụ thể hoá thêm một bước nữa là : “ Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN”; ... “ phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. Trong dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội IX có viết về con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đây là thành quả tổng kết lý luận qua nhiều năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Một trong bốn nội dung về con đường này, dự thảo chỉ rõ : “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nói gọn lại là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Cơ chế của nền kinh tế ở nước ta là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Trong mô hình này nổi lên 3 khía cạnh chủ yếu : Thứ nhất: Với tư cách cái chung-KTTT- đòi hỏi trong quá trình kết hợp phải tạo lập và vận dụng đồng bộ các yếu tố: Cơ sở kinh tế mang tính đa dạng về sở hữu và thành phần kinh tế để nền kinh tế có thể “tự do hoá kinh tế” (tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ). Các phạm trù kinh tế vốn có của KTTT như hàng hoá, tiền tệ, thị trường, cạnh tranh, cung-cầu, giá trị thị trường, giá cả thị trường và lợi nhuận. Các quy luật kinh tế của KTTT (quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cạnh tranh và quy luật cung cầu) Cơ chế vận hành nền KTTT- cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Thứ hai : Với tư cách là cái đặc thù- định hướng XHCN- trong quá trình kết hợp đòi hỏi phải tuân theo các mục tiêu, nguyên tắc và nhiệm vụ kinh tế cơ bản hướng đến mục tiêu và các đặc trưng của CNXH mà nước ta cần xây dựng. Định hướng XHCN ở nước ta là một sự lựa chọn tất yếu, một khái niệm khoa học. Tuy vậy, vẫn còn có một số cách hiểu khác nhau, thậm chí không phải không có tư tưởng hoài nghi về tính hiện thực của định hướng XHCN mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn. Lý thuyết hình thái kinh tế-xã hội của K.Marx cho rằng xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là xã hội XHCN, được ra đời và phát triển trên cơ sở thay thế, kế tiếp xã hội tư bản chủ nghĩa. Nghiên cứu sự ra đời và phát triển xã hội mới phải được tiếp cận như một quá trình phủ định biện chứng- phủ nhận có kế thừa. Cũng theo lý thuyết này và có tính đến lý thuyết phát triển nền văn minh thì xã hội XHCN phải là một xã hội hàm chứa trong nó những nhân tố kinh tế, chính trị, văn hoá và gắn với mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Xã hội cộng sản chủ nghĩa theo K. Marx, lẽ ra phải xuất hiện từ “các nước tư bản văn minh” có nền kinh tế đã phát triển cao. Song, xã hội đó do những điều kiện lịch sử đặc biệt và do sự lựa chọn của Đảng và nhân dân ta, lại xuất hiện ở Việt Nam, một nước mà nền kinh tế có điểm xuất phát thấp. Mặc dù vậy, cũng không nên lấy sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô cũng như ta từ bỏ mô hình kinh tế chỉ huy tập trung quan liêu, bao cấp để chứng minh sự lựa chọn CNXH là sai lầm. Thật ra hai sự việc trên chỉ chứng tỏ sai lầm của nhận thức giản đơn, thậm chí nhận thức lệch lạc về CNXH. Cần ý thức rằng định hướng XHCN đã chọn là một tất yếu, vì sự lựa chọn phù hợp với nội dung thời đại- “Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới”. Đảng ta nhận định : “XHCN trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới XHCN” (Văn kiện Đại hội IX, tr.14). Định hướng XHCN không chỉ là một tất yếu về chính trị và nguyện vọng mong muốn của nhân dân ta, mà còn là một tất yếu kinh tế, nếu chúng ta đặt những tiền đề kinh tế cho việc xây dựng CNXH ở nước ta theo tư duy mới, mở cửa về kinh tế với tất cả các nước trên thế giới,và nếu chúng ta xem xét các tiền đề kinh tế không dừng lại ở điểm xuất phát ban đầu mà xem xét những thành tựu đã đạt được sau hơn 15 năm đổi mới nền kinh tế. Tuy vậy, cũng phải nhận thấy rằng bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đất nước ta còn đang đứng trước những cơ hội và thách thức. Trong bối cảnh đó, để đạt được đầy đủ các mục tiêu của một xã hội XHCN đích thực không đơn giản, mà nên coi các mục tiêu đó chỉ có thể được hình thành từng bước, chỉ là mục tiêu hướng tới, gắn liền với cả thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Điều đó giúp ta hiểu vì sao Đảng ta không sử dụng khái niệm KTTT xã hội chủ nghĩa mà chọn và sử dụng khái niệm KTTT định hướng XHCN . Từ mục tiêu của CNXH cần ý thức rằng xã hội XHCN đích thực mà ta hướng tới không phải đã có sẵn hình mẫu. Mô hình này còn đang trong quá trình hình thành. Vì vậy những đặc trưng của mô hình CNXH chỉ nên xác định những thuộc tính khái quát nhất và cơ bản nhất. Trên cơ sở đó, làm thử tổng kết từng bước bổ sung và hoàn thiện. Hiện tại có thể sử dụng các đặc trưng đã được Đảng ta xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước của thời kỳ quá độ lên XHCN ở nước ta, đó là “ xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội : Do nhân dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công,làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới” (Văn kiện Đại hội Đảng VII). “Định hướng XHCN”, vừa là mục tiêu và đặc trưng vừa là con đường mà xã hội dùng để đạt đến mục tiêu. Vì vậy, ngoài các mục tiêu và đặc trưng nói trên, còn phải đề cập đến các vấn đề gắn với con đường, hành lang để thực hiện mục tiêu định hướng, đó là : những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH được triển khai thông qua các mô hình tổ chức quá độ, chính sách kinh tế quá độ, các khâu, bước đi trung gian quá độ và mở cửa. Bằng cách đó, rút ngắn đáng kể thời gian thực hiện các trật tự phát triển tự nhiên theo định hướng mục tiêu CNXH đã chọn. Thứ ba : trong mối quan hệ giữa cái chung- KTTT với cái đặc thù- định hướng XHCN, không thể lấy KTTT làm chủ đạo, mà nhất thiết phải lấy định hướng XHCN làm chủ đạo. Đây là nguyên tắc cơ bản trong mối quan hệ kết hợp giữa cái chung và cái đặc thù, vì chúng ta không chủ trương xây dựng mô hình KTTT bất kỳ, trừu tượng, càng không chủ trương xây dựng mô hình KTTT tư bản chủ nghĩa, mà chủ trương xây dựng mô hình KTTT định hướng XHCN, tất yếu phải lấy định hướng XHCN làm chủ đạo. Hơn nữa, KTTT mặc dù có nhiều yếu tố tích cực, song vẫn có một số tiêu cực nhất định, muốn phát huy yếu tố tích cực, hạn chế tiêu cực không thể không định hướng XHCN trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường. Xa rời nguyên tắc này sẽ làm cho việc xây dựng KTTT dễ đi chệch định hướng XHCN. Vì vậy, lấy định hướng XHCN làm chủ đạo trở thành nguyên tắc cơ bản chi phối lương tâm, trách nhiệm đối với các cấp, các ngành và các chủ doanh nghiệp trong việc ban hành và thực hiện các chủ trương, quyết định về sản xuất, kinh doanh trong tiến trình xây dựng KTTT ở nước ta. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải là một nền kinh tế có trình độ phát triển ngày càng cao, có khả năng làm cho dân giàu nước mạnh, hay nói cách khác là nền kinh tế phồn thịnh. Quan hệ giữa con người với con người trong xã hội là bình đẳng, hay công bằng, dân chủ và xã hội ngày càng văn minh. Vì vậy, định hướng XHCN là định hướng đưa kinh tế- xã hội nước ta tiến tới phồn thịnh, bình đẳng và văn minh, và đó cũng chính là đặc trưng của nền kinh tế thị trường Việt Nam. KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế bao gồm nhiều thành phần , trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác trở thành nền tảng. Và kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế đều vận động theo định hướng chung và theo khuôn khổ pháp luật của nhà nước XHCN. Nền kinh tế thị trường phải được xây dựng trên cơ sở đa dạng hóa loại hình và hình thức sở hữu, đa dạng hoá hình thức kinh tế hay hình thức kinh doanh Hiện nay ở nước ta có 3 loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất, và trong mỗi loại hình lại có những hình thức sở hữu khác nhau. Ba loại hình sở hữu là sở hữu quốc gia; sở hữu nhóm, tập thể; và tư hữu. Loại sở hữu quốc gia có các hình thức như ngân sách, các quỹ quốc gia, kinh tế doanh nghiệp nhà nước. Loại sở hữu tập thể, nhóm có các hình thức kinh tế hợp tác xã, tư bản nhà nước và kinh tế hỗn hợp khác. Loại sở hữu tư nhân bao gồm kinh tế tư nhân sản xuất lớn và kinh tế tư nhân sản xuất nhỏ. Phạm trù kinh tế Nhà nước hiện có nhiều quan điểm khác nhau, trong đó có ý kiến coi kinh tế Nhà nước như là một thành phần kinh tế, có ý kiến thứ hai cho rằng, kinh tế Nhà nước không phải là một thành phần kinh tế mà là tài sản của một quốc gia. Nội dung kinh tế của nó gồm ngân sách nhà nước, các quỹ mà quốc gia nắm giữ, sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy, sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước chỉ là một bộ phận của kinh tế Nhà nước, của sở hữu quốc gia. Không nên đặt kinh tế nhà nước ngang với các hình thức tổ chức kinh doanh khác. Về vấn đề hình thức kinh tế hay hình thức tổ chức kinh doanh. Trong dự thảo nêu lên 6 hình thức tổ chức kinh doanh (hình thức kinh tế). Hình thức kinh tế hay hình thức kinh doanh là kiểu tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên một hình thức sở hữu nhất định. ở nước ta hiện nay có những hình thức kinh tế chủ yếu sau đây : Hình thức kinh tế Nhà nước Hình thức kinh tế tập thể hay hợp tác xã, gọi tắt là hợp tác xã. Hình thức kinh tế hỗn hợp hay tư bản nhà nước, gọi tắt là doanh nghiệp hỗn hợp, gồm cả hình thức kinh tế 100% vốn đầu tư nước ngoài. Hình thức kinh tế tư nhân sản xuất lớn, gọi tắt là tư bản tư nhân. Hình thức kinh tế tư nhân sản xuất nhỏ, gọi tắt là kinh tế cá thể. Trong kinh tế , doanh nghiệp là nơi làm giàu cho đất nước. Sứ mệnh của nó là sinh lợi cho nền kinh tế quốc dân. Một đất nước muốn phát triển thì doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả, có lãi để thực sự đóng góp cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên mỗi loại hình kinh tế đóng góp vai trò nhất định trong quá trình sinh lợi cho nền kinh tế. Hiện nay, ở nước ta còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Theo tôi cho rằng, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, bởi lẽ nó tạo ra hiệu quả kinh tế xã hội cho toàn nền kinh tế thông qua việc cung cấp hàng hoá công cộng và mở đường cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Các hình thức kinh tế khác có vai trò trực tiếp sinh lợi cho nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế định hướng XHCN, mục tiêu căn bản nhất là bình đẳng xã hội vì những đặc điểm có tính nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội là dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, hay nói gọn hơn là phồn thịnh, bình đẳng và văn minh thì nhân tố bình đẳng là cốt lõi. Vì vậy, tính chất chủ đạo của nền kinh tế này không phải là hiệu quả kinh tế đơn thuần, mà là hiệu quả kinh tế- xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước cũng là một đơn vị sản xuất hàng hoá, song cái chính yếu nhất là nó phải là người cung cấp những hàng hoá công cộng cho nền kinh tế, mở đường, dẫn dắt, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển, nó trở thành công cụ để Nhà nước có thể khắc phục được những khuyết tật của thị trường, có như vậy mới thể hiện tính chất chủ đạo là hiệu quả kinh tế- xã hội. KTTT định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường và dựa trên những nguyên tắc và bản chất của CNXH. Do đó, KTTT định hướng XHCN có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là, nhóm các nhân tố của KTTT và nhóm các nhân tố của xã hội đang định hướng XHCN. Trong đó, nhóm các nhân tố của KTTT đóng vai trò như một động lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, nhóm các nhân tố XHCN đóng vai trò hướng dẫn, chế định sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã được xác định. Xem như vậy thì có thể quan niệm rằng KTTT định hướng XHCN là một cơ thể sống giữa “ chủ thể”- KTTT, và sắc thái đặc thù của chủ thể đó- định hướng XHCN. KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế "mở ". Độ "mở” của nền kinh tế tuỳ thuộc vào : Bối cảnh quốc tế, khu vực và năng lực nội sinh của nền kinh tế trong quá trình vươn ra tiếp cận với nền kinh tế thế giới. Năng lực tổ chức quản lý điều hành của nhà nước XHCN và khả năng “ nội sinh hoá” có hiệu quả các yếu tố “ngoại sinh” (vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, tri thức kinh doanh...) du nhập vào nước ta. Như vậy sự hiện diện của nhà nước XHCN trong KTTT định hướng XHCN vừa với tư cách là “ bộ phận cấu thành trọng yếu” (kinh tế nhà nước), vừa với tư cách là chủ thể tổ chức, xây dựng quan hệ quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường. Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cơ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển hướng tới đích XHCN của nền kinh tế theo phương châm : nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp. Trong điều hành quản lý vĩ mô nền kinh tế, nhà nước cần hạn chế tối đa những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường được diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật chính trị, cung - cầu, cạnh tranh; đảm bảo nguyên tắc vận hành của nền kinh tế thị trường " tự điều chỉnh" . Mặt khác, do thị trường trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là thị trường tự điều tiết hoàn toàn, mà còn phải phục vụ sát mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, do đó nó lại vừa chịu sự điều chỉnh, quản lý của nhà nước XHCN. Do vậy, không thể xem xét các quan hệ thị trường hoạt động theo quy luật kinh tế khách quan một cách độc lập hoàn toàn với kế hoạch hoá định hướng và các chính sách kinh tế của nhà nước. Cơ chế vận hành nền KTTT định hướng XHCN nêu ở trên thể hiện rõ các mặt cơ bản : Một là, nhà nước XHCN - nhà nước của dân, do dân và vì dân, là nhân tố đóng vai trò "nhân vật trung tâm" và điều tiết nền kinh tế vĩ mô nhằm: Tạo dựng và đảm bảo môi trường pháp lý, kinh tế... thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo công bằng xã hội. Can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra. Hai là, cơ chế thị trường là "nhân tố trung tâm" của nền kinh tế, đóng vai trò "trung gian" giữa nhà nước và doanh nghiệp. Một vấn đề quan trọng nữa là Nhà nước ta quản lý nền kinh tế và xã hội theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động và của toàn thể nhân dân. Có một số người cho rằng, khi chuyển sang KTTT thì Nhà nước đừng có can thiệp vào kinh tế và kế hoạch hoá vĩ mô của Nhà nước cũng không cần thiết nữa. Quan niệm đó là giản đơn, hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ lý luận, thực tiễn. Mọi người đều biết rằng, trong tất cả các mô hình kinh tế được đúc kết đến nay trên thế giới đều có hai dạng điều tiết kinh tế: thứ nhất, điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hoá và các biện pháp hành chính; thứ hai, điều tiết gián tiếp thông qua thị trường, vận dụng cơ chế thị trường để tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp, dùng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc gây áp lực buộc các doanh nghiệp phát triển trong khuôn khổ và theo hướng kế hoạch do nhà nước đề ra. Hai dạng điều tiết kinh tế này chỉ khác nhau ở mức độ, liều lượng và hình thức của mỗi dạng trong cơ chế chung. Sở dĩ như vậy là vì, với tư cách là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, là biện pháp, thủ đoạn kinh tế, cả kế hoạch hoá và thị trường đều có ưu thế và khuyết tật của nó. Thực chất của vấn đề kế hoạch hóa thị trường, xét từ góc độ nhà nước, có thể được coi là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng, sẽ hợp lý và hiệu quả hơn nếu thông qua công cụ kế hoạch hoá mà nhà nước điều tiết thị trường để thị trường điều tiết sản xuất và điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp. Trong nền KTTT định hướng XHCN, quản lý kinh tế theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường sẽ càng có thêm điều kiện giải phóng lực lượng sản xuất, đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội. Nguyên tắc về phân phối thu nhập Sự thành công của nền KTTT định hướng XHCN, không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưởng kinh tế, mà còn phải không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội. Thể hiện đặc trưng xã hội trong nền KTTT định hướng XHCN là: Xác định các chỉ tiêu hiệu quả cần đạt được của nền KTTT, như : tốc độ tăng trưởng GDP; các chỉ tiêu về phát triển giáo dục, y tế, việc làm, về xoá đói giảm nghèo, về văn hoá xã hội, đảm bảo môi trường, môi sinh... Nâng cao chức năng xã hội của nhà nước XHCN trong chế độ bảo hiểm xã hội, trong chính sách phân phối thu nhập, đồng thời có chính sách đảm bảo xã hội đối với những đối tượng đặc biệt ( gia đình có công với cách mạng, thương binh, người tàn tật...) Tình hình đó đặt ra cho nền KTTT định hướng XHCN phải thực hiện hài hoà ba vấn đề sau đây : Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự kết hợp này là vừa đảm bảo cho các chủ thể của KTTT có được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị - xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. Vì vậy, trong nền KTTT định hướng XHCN, mục tiêu hoạt động của KTTT rộng hơn, tức là ngoài mục tiêu lợi nhuận, các chủ thể tham gia KTTT đều phải tính đến các vấn đề xã hội, nếu không, chính lợi nhuận cũng sẽ bị triệt tiêu. Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của CNXH và nguyên tắc của KTTT, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội... Trong đó, nguyên tắc phân phối theo lao động là chính. Sự kết hợp đó tạo ra sự cùng tồn tại nhiều hình thức, nhiều cơ chế phân phối và phân phối lại thu nhập. Điều tiết phân phối thu nhập, một mặt, đòi hỏi nhà nước phải có chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa người giàu và người nghèo...., mặt khác, phải có chính sách, biện pháp nâng cao thu nhập chính đáng của người giàu, người nghèo và của toàn xã hội. Việc điều tiết phân phối thu nhập được thực hiện theo hai kênh: Thứ nhất, nhà nước XHCN là chủ thể duy nhất tiến hành tổ chức điều tiết phân phối lại trên phạm vi toàn xã hội đảm bảo công bằng xã hội và bình đẳng phúc lợi cho toàn xã hội. Thứ hai, điều tiết phân phối thu nhập theo những nguyên tắc của thị trường, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Thực trạng và các mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Nền kinh tế thị trường ở nước ta mới ở giai đoạn sơ khai, sự vận động của nền KTTT còn mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn, cơ chế vận hành nền KTTT còn thô sơ...nghĩa là chưa đạt đến trình độ KTTT hiện đại, thể hiện ở những đặc điểm sau đây: Thứ nhất, trình độ phát triển của sản xuất hàng hoá thấp do phân công lao động xã hội kém phát triển. 80% dân cư sống ở nông thôn, 71% lực lượng lao động làm trong nông nghiệp và do đó, cơ cấu kinh tế lạc hậu và dịch chuyển chậm, nhất là cơ cấu kinh tế nông nghiệp : sản xuất lương thực vẫn là ngành chính chiếm đại bộ phận đất canh tác, tỷ suất hàng hoá lương thực thấp, chăn nuôi chưa trở thành ngành chính... Thứ hai, tự do kinh doanh và cạnh tranh theo pháp luật- hai thế mạnh của cơ chế thị trường, chưa được quán triệt đầy đủ và thực thi hữu hiệu trên thị trường. Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành và chưa đồng bộ, thể chế thị trường chưa tạo môi trường ổn định và an toàn cho sản xuất-kinh doanh, đặc biệt là thể chế tài chính, tiền tệ, tín dụng. Thứ ba, có nhiều chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia vào thị trường. Nhiều kiểu sản xuất hàng hoá cùng tồn tại đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ còn phổ biến. Thứ tư, quá trình chuyển nền kinh tế tự cung, tự cấp lên kinh tế hàng hoá diễn ra đồng thời với quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang KTTT có sự quản lý của nhà nước. Hai quá trình đó có nội dung, yêu cầu khác nhau. Thứ năm, sự hình thành thị trường trong nước gắn với việc mở rộng thị trường ngoài nước, với việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, với việc mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế- xã hội của ta thấp hơn nhiều so với nước kinh tế phát triển. Vì thế, đây là thời cơ, đồng thời cũng là thách thức lớn đối với các nhà sản xuất hàng hoá. Thứ sáu, quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu kém. “ Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn nhiều yếu kém, thủ tục hành chính... đổi mới còn chậm. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây tác động xấu đối với sản xuất. Chế độ phân phối thu nhập còn nhiều bất hợp lý. Bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn hơn. Lạm phát tuy được kìm chế nhưng chưa vững chắc” (Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII). Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một nền kinh tế quá độ, nên nó không tránh khỏi những mâu thuẫn quá độ của nó. Sau đây là một số mẫu thuẫn và phương hướng giải quyết. Một là, nền KTTT trong điều kiện sản xuất nhỏ là phổ biến như ở nước ta thì tất nhiên chưa thể thoát khỏi tính tự phát TBCN. Việc định hướng nền kinh tế nước ta đi lên CNXH không phải là sự nhận thức và vận dụng một cách tự giác xu hướng và quy luật khách quan của sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay. Như vậy, phát triển nền KTTT định hướng XHCN đã bao hàm sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập : tính tự phát và tính tự giác trong sự phát triển kinh tế- xã hội. Trong thời gian hiện nay, tính tự phát vẫn còn là cái cần thiết và không tránh khỏi trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, trong việc giải quyết những khó khăn về việc làm, trong lưu thông hàng hoá, v.v... Tuy vậy, nếu để nền kinh tế phát triển chủ yếu là tự phát thì không thể thực hiện được những mục tiêu của CNXH. Còn hoạt động tự giác là hoạt động dựa trên sự nhận thức đúng đắn xu thế tất yếu và quy luật khách quan của đời sống xã hội, nhưng nếu có sai lầm trong nhận thức, nhất là sai lầm trên bình diện quốc gia thì hậu quả của nó thật khôn lường.Giải quyết mâu thuẫn giữa tính tự giác và tính tự phát trong phát triển kinh tế - xã hội là hết sức khó khăn phức tạp; không phải là trong một lúc có thể xoá bỏ hoàn toàn tính tự phát, biến mọi hoạt động của con người thành hoạt động tự giác, mà là phát huy ngày càng cao tính tự giác trên cơ sở nâng cao năng lực tổ chức, quản lý, phối hợp hoạt động trên bình diện xã hội, hạn chế dần lĩnh vực tự phát của hoạt động của con người trong xã hội. Hai là, phát triển KTTT trong thời kỳ quá độ tức là chấp nhận sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó có thành phần kinh tế TBCN, chấp nhận các hình thức sở hữu kinh doanh có thuê mướn lao động và có bóc lột sức lao động; trong khi đó , mục tiêu lâu dài của cách mạng XHCN là xoá bỏ bóc lột. ở đây, một số mối quan hệ có mâu thuẫn cần được nghiên cứu và giải quyết thoả đáng, đó là mối quan hệ giữa các lợi ích : ích lợi của người lao động và lợi ích của người thuê mướn lao động, mối quan hệ giữa sự phát triển của kinh tế tư nhân với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Không có cơ sở để khẳng định rằng, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, hình thức kinh doanh có thuê mướn lao động sẽ ngày càng giảm đi. Cũng là sai lầm nếu cho rằng, chỉ có thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế hợp tác xã là phát triển theo định hướng XHCN và sẽ thay thế dần các thành phần kinh tế còn lại. Theo tôi, tất cả các thành phần kinh tế đều phát triển theo một định hướng duy nhất : định hướng XHCN. Cùng với sự trưởng thành của CNXH, các thành phần kinh tế có thuê mướn lao động sẽ giảm dần mức độ bóc lột của nó. Tất nhiên, điều này chỉ có thể và hoàn toàn có thể thực hiện được trong điều kiện có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý của Nhà nước XHCN, sự chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, sự lớn mạnh của thành phần kinh tế hợp tác. Trong việc giải quyết mối quan hệ có mâu thuẫn giữa lợi ích người thuê mướn lao động và người lao động làm thuê, đó là sự kết hợp hài hoà các lợi ích : lợi ích của người lao động làm thuê , lợi ích của người thuê mướn lao động và lợi ích của nhà nước. Sự bất công trong mối quan hệ giữa các lợi ích đều có tác dụng kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế. Nhà nước - bằng hệ thống luật pháp và chính sách kinh tế, xã hội của mình- vừa khuyến khích lợi ích chính đáng và tính tích cực, sáng tạo của những nhà kinh doanh, vừa hạn chế sự bóc lột và những hiện tượng tiêu cực trong hoạt động kinh doanh của họ. Nhà nước thông qua nguồn thuế thu được và các khoản đóng góp khác từ các cơ sở kinh doanh mà mở rộng, phát triển các chương trình kinh xã hội. Tuy nhiên, sự điều tiết thu nhập thông qua các chính sách thuế, nếu không được thực hiện một cách hợp lý sẽ có tác động tiêu cực đến việc khuyến khích đầu tư. Kinh nghiệm của một số nước Bắc Âu trong những năm 80 cho thấy điều đó. Ngoài ra, nhà nước cần khuyến khích ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29591.doc
Tài liệu liên quan