Sự hình thành và phát triền nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay

Lời mở đầu Thế giới đang trải qua những năm đầu của thế kỷ 21 với nhiều thuận lợi, triển vọng phát triển về mọi. Nhưng bên cạnh đó còn rất nhiều thách thức, khó khăn, sự suy thoái của nền kinh tế, chiến tranh giữa các khu vực còn kéo dài, tình hình mất ổn định về chính trị trên thế giới cùng với nhiều cuộc khủng bố đẫm máu thường xuyên diễn ra đã tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế thế giới làm cho mức độ tăng trưởng kinh tế có phần suy giảm. Chính điều này đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế Vi

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Sự hình thành và phát triền nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt Nam Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và nhà nước ta cùng với những chủ trương, chính sách theo đường lối của chủ nghĩa xã hội đúng đắn đã phần nào làm giảm mức độ ảnh hưởng về sự suy giảm của nền kinh tế thế giới. Kể từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6 (tháng 12\1986) của Đảng cộng sản Việt nam một đường lối chính sách mới đã bắt đầu được hình thành: “Đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.Với những bước đầu nó đã mang lại nhiều thành công trong công cuộc khôi phục xây dựng nền kinh tế đưa đát nước ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu kém phát triển. Song cũng chính từ những thành tựu to lớn của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mang lại đã tạo ra sự nghi ngờ trong đường lối nhận thức của một số người, bởi họ cho rằng nền kinh tế thị trường là nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản chứ không phải là nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội do đó không được phát triền nền kinh tế theo hướng đó. Sự mơ hồ trong nhận thức về đường lối của Đảng và nhà nước làm cho nhiều người đã đặt ra câu hỏi: “phải chăng nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa?” Trước những vấn đề nhận thức đầy bức xúc đó việc nghiên cứu: “Sự hình thành và phát triền nền kinh tế thị trương định hướng xã hội chủ nghĩa” là mang tính cấp thiết vì thời đại ngày nay là thời đại của phát triển kinh tế thị trường. Đồng thời sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm về con đường đúng đắn mà Đảng và nhà nước ta đã chọn. Do thời gian, kiến thức còn nhiều hạn chế nên em không thể không có thiếu sót, chính vì vậy em kính mong được sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của thầy giáo. Em xin chân thành cảm ơn! Nội dung Phần 1 : Những Vấn đề lý luận chung về nền kinh tế thị trường. Phần 2: Sự hình thành và phát triền nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phần 1: Những vấn đề lý luận chung về nền kinh tế thị trường I. Quá trình hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt nam Trong những năm gần đây quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta đã và đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, việc chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoặch hoá tập trung chuyển sang mô hình kinh tế cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước được coi là một quá trình chuyển đổi to lớn trong nền kinh tế nước ta. Bộ mặt đất nước đã có những thay đổi, vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Quá trình chuyển đổi này đã được các nhà kinh tế học nói riêng và các nhà khoa học nói chung quan tâm, trước tiên là việc nghiên cứu về mặt lý luận của quá trình chuyển đổi đồng thời qua quá trình thực tế để rút ra những bài học về quá trình chuyển đổi. 1. Quá trình tổ chức phân công, phân công lại lao động. Trong bất kỳ một nền kinh tế nào cũng cho thấy rằng vai trò quan trọng của lao động. Khi nền công nghiệp thế giới chưa phát triển thì lao động thủ công của con người là chủ yếu, cho đến tận khi khoa học công nghệ phát triển, lao động thủ công dần mới được chuyển đổi dần. Mỗi nước đều có những thế mạnh khác nhau đòi hỏi phải phát huy hết những thế mạnh đó thì mới làm cho nền kinh tế có nhiều chuyển đổi tốt. Xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu nhưng có thế mạnh về nguồn lực lao động trẻ, có chí tuệ, học hỏi nhanh chính vì vậy ngay từ những năm đầu của quá trình chuyển đổi nền kinh tế Đảng và nhà nước ta đã chú trong đến nguồn lao động. Quá trình tổ chức phân công lao động diễn ra mạnh mẽ, trong nền kinh tế kế hoặch hoá tập trung nước ta chủ yếu lao động làm trong ngành nông nghiệp, nhưng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa số lượng lao động làm trong ngành nông nghiệp đã giảm xuống, số lượng lao động trong ngành công nghiệp, thủ công nghiệp , dịch vụ tăng lên nhanh chóng. Không chỉ vậy ngay trong cơ cấu vùng đã có nhiều thay đổi và đã hình thành nhiều khu công nghiệp, khu đô thị mới, nhiều thị xã thị trấn được xây dựng. Bộ mặt nông thôn đã có nhiều thay đổi, các khu vực miền núi trung du bắt đầu được chú ý đầu tư về kết cấu hạ tầng, giao thông, giáo dục, y tế nhờ đó mà từng bước đã có sự thay đổi. Hệ thống cơ sở vật chất ngày càng hoàn thiện vì vậy đã tạo ra sự hợp lý hoá về lao động giữa các khu vực. Chất lượng lao động ngày càng được nâng cao do hệ thống đào tạo của nhà nước ngày càng được đầu tư nhiều do đó việc bố chí tổ chức lao động ngày càng dễ dàng hơn. Việc tác động trực tiếp của nhà nước vào quá trình bố chí phân công lại lao động đã tạo ra những bước phát triển mạnh mẽ, tạo đà cho việc chuyển dịch nền kinh tế theo hướng tiến bộ. Sự phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ đã làm thay đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu giá trị GDP và cơ cấu lao động 2. Quá trình đa dạng hoá hình thức sở hữu. Theo quan điểm của Mác: “sở hữu được biểu trong những hình thái của QHSX”do vậy thực tiễn đã cho thấy một nền kinh tế có nhiều thành phần đương nhiên phải có nhiều hình thức sở hữu chứ không đơn thuần như hình thức sở hữu trước đây là chỉ có 2 hình thức sở hữu cơ bản. Trong thời kỳ nền kinh tế còn mang tính tự cung tự cấp thì trong xã hội tồn tại hai hình thức sở hữu tập thể và sở hữu nhà nước, do đó nền kinh tế bị ràng buộc làm cho nền thống kinh tế chậm phát triển. Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, quyết định mọi vấn đề vì nhà nước sở hữu về lực lượng sản xuất, nền kinh tế trong giai đoạn này không phát huy được hết sức người cũng như chí tuệ của người lao động. Với sự phát triển của xã hội đòi hỏi phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ và thay bằng quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn, phù hợp hơn. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước đã tiến hành việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu gồm nhiều thành phần kinh tế khác : Thành phần kinh tế nhà nước. Thành phần kinh tế tư nhân. Thành phần kinh tế tập thể. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Mỗi thành phần kinh tế tương ứng với một hình thức sở hữu khác nhau,vai trò và địa vị của từng thành phần trong nền kinh tế có nhiều khác nhau.Trong các thành phần kinh tế trên thì thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò quan trọng nhất. Việc đa dạng hoá các thành phần kinh tế tức đa dạng hoá các hình thức sở hữu nhưng không chấp nhận chế độ người bóc lột người mặc dù các đơn vị kinh tế có quyền quyết định trong việc sử dụng lao động. 3. Quá trình tiến hành cuộc cách mạng KHCN làm xuất hiện thị trường mới. Cuộc cách mạng công nghiệp Anh thành công đánh dấu một bước nhảy vọt trong việc nâng cao năng suất lao động khi áp dụng công nghệ vào trong sản xuất. Cuộc cách mạng KHCN diễn ra mạnh mẽ đầu thế kỷ thứ 20, nhiều công nghệ mới được ra đời đã đánh dấu bước nhảy vọt trong việc phát minh sáng chế những công cụ dụng cụ mới Đặc biệt khi công nghệ máy tính điện tử xuất hiện vào thế kỷ 21 đã được coi thực sự là một bước ngoặt quan trọng của lịch sử thế giới làm cho năng suất lao động đã tăng lên gấp bội. Công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ chô phép con người sẽ đi vào một thế giới với mạng Internet xẫ nhập vào trong từng gia đình. Việc chế tạo ra người máy thông minh có trí tuệ nhân tạo đã thay thế cho lao động của nhiều người trong những công việc khó khăn gây ảnh hưởng đến tính mạng và sức khoẻ. Công nghệ tự động hoá trở thành lĩnh vực công nghệ cơ bản giúp cho sự tăng trưởng có tính đột phá. Trước tình hình đó đối với đất nước ta viêc nghiên cứu và ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại tạo ra những sản phẩm có giá trị cao trong nền kinh tế, làm giảm bớt giai đoạn tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đát nước. 4. Sự phát triển trao đổi phân công tầm quốc tế. Trong quá trình phát triển nền kinh tế bất kỳ một nước nào cũng đòi hỏi phải có những chính sách thích hợp trong công tác đối ngoại, với mục đích thu hút vốn đầu tư, công nghệ từ bên ngoài. Những nước (NIC) như Đài Loan, Hồng Kông , Triều Tiên, Singapore đã biết khai thác lợi thế của từng nước cũng như biết khai thác một cách hợp lý nguồn đầu tư từ bên ngoài do chính sách mở cửa quan hệ hợp tác. Trung quốc sau nhiều năm “đóng cửa” năm 1979 đã mở cửa với thế giới bên ngoài và thực hiện chương trình “bốn hiện đại hoá”. Với tiềm lực to lớn của mình , hiện nay Trung Quốc được coi là một trong những nước có nền kinh tế đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Việt nam sau nhiều năm tiến hành phát triển kinh tế mang tính tự cung tự cấp không tiến hành hoạt động ngoại giao với các nước bên ngoài, từ đó đã tạo ra sự trì trệ trong nền kinh tế, mức độ tăng trưởng hàng năm thấp đời sống nhân dân hết sức gặp nhiều khó khăn. Nhưng tại đại hội VI Đảng và nhà nước ta đã chủ trương thực hiện chính sách mở cửa, xoá bỏ tình trạng ngăn sông, cấm chợ, chia cắt thị trường theo danh giới hành chính, một số chính sách hợp tác nước ngoài dần dần đã được thông thoáng, nền kinh tế bắt đầu có sự chuyển đổi. Chúng ta, tính cho đến thời điểm hiện nay đã có quan hệ với rất nhiều nước trên thế giới, nó đã mở ra cánh cửa cho chúng ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mức độ kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng. Quan hệ hợp tác phối hợp đào tạo lao động kỹ thuật cao tại những nước có nền kinh tế phát triển ngày càng được mở rộng, đồng thời trong quan hệ tuyển dụng lao động được mở rộng đã thu hút được nhiều lao động nhàn rỗi trong nước đi xuất khẩu lao động làm tăng thêm GDP cho đất nước. II. Các bước phát triển kinh tế thị trường. Nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hoá giản đơn. Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Cùng với sự phát triển đó tương ứng với một quan hệ sản xuất có một chế độ xã hội . lịch sử xã hội loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội chuyển từ cộng sản nguyên thuỷ chuyển sang chiếm nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Kinh tế thế giới phát triển chậm chạp với nền kinh tế chỉ huy kéo dài (nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. ở đó sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? đều theo kế hoặch và được phát ra từ một trung tâm và mang tính chất pháp lệnh). Có thể nói nền kinh tế chỉ huy là nền kinh tế mang tính tự túc tự cấp phát triển ở trình độ cao, quy mô lớn diễn ra trong thời kỳ hiện đại. Nền kinh tế hoạt động thiếu sinh khí, kém chủ động, các nghiệp bị mai một do thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu tự chủ hoàn toàn ỉ lại cấp trên Nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, xã hội rối ren, giá cả hàng hoá tăng, tiền tệ mất giá do siêu lạm phát đã làm cho đới sống nhân dân đã khổ ngày càng khổ hơn. Hàng hoá khan hiếm vấn đề đòi hỏi phải có sự thay đổi, sự điều chỉnh trong đường lối kinh tế . Nền kinh tế hàng hoá giản đơn sang nền kinh thị trường tự do. Phân công lao động xã hội ngày cang sâu sắc, việc chuyên môn hoá trong sản xuất đi đội với hợp tác trao đổi lao động cho nhau. Quá trình xã hội hoá sản xuất diễn ra. Năng suất lao động ngày càng tăng cao, sự trao đổi buôn bán hàng hoá giữa các cá thể sản xuất kinh doanh được hình thành , việc trao đổi buôn bán diễn ra một cách tự do hơn khi chính phủ chưa tham gia vào thị trường. Hoạt động trong nền kinh tế do các tác nhân trong nền kinh tế chi phối, mọi hoạt động trao đổi mua bán giưa người mua và người bán diễn ra hoàn toàn tự do. Tiếp theo bước phát triển đó hàng hoá ngày cang được sản xuất ra nhiều, hàng hoá ngày càng được bán ở quy mô rộng hơn quan hệ trao đổi buôn bán diễn ra hết sức phức tạp, bắt đầu xuất hiện hãng độc quyền đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước tạo ra sự hành lang pháp lý cho mọi hoạt động kinh doanh của các hộ độc quyền, việc xuất hiện tiền làm cho quan hệ buôn bán diễn ra ngày càng trở nên dễ dàng hơn. Nhưng việc độc quyền trong bán hàng hoá ngày cang diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi nhà nước cần can thiệp để hạn chế tránh tình trạng độc quyền. Nhu cần tiêu dùng ngày càng cao đòi hỏi có nhiều thành phần kinh tế để đáp ứng các loại hàng hoá khác nhau những vẫn phải đảm bảo vấn đề về giá cả đối với người mua. Chuyển từ kinh tế thị trường tự do sang kinh tê hỗn hợp. Đa dạng hoá các thành phần kinh tế đã tạo cho những người sản xuất tích cực trong việc tìm kiếm tạo ra nhiều sản phẩm mới chất lượng cao, hình thức mẫu mã, chủng loại đa dạng phong phú đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Giao lưu buôn bán hàng hoá ngày càng thuận lợi hơn trước nó không chỉ dừng lại trong một nước mà đã lan rộng ra nhiều nước khác trên thế giới, quan hệ buôn bán ngáy càng thông thoáng hơn. Thị trường ngày càng được mở rộng theo xu hướng hội nhập hoá toàn cầu hoá đòi hỏi cần có sự can thiệp của nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường không bị tổn thất Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thế kỷ 21 đã thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành nghề khác nhau vơi chất lượng ngày càng cao. Quan hệ buôn bán, vận chuyển, lưu thông hàng hoá ngày càng dễ dàng hơn tạo thành thị trường tự do kinh doanh. III. Các nhân tố của cơ chế thị trường. Nói đến cơ chế thị trường tức là tổng hợp các nhân tố các quan hệ cơ bản vận động theo quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh vì lợi nhuận. Bất kỳ một nền kinh tế nào dù là ắ, Âu, Phi, Mĩ hay sơ khai như nền kinh tế thị trường ở nước ta đều thấy những nhân tố cơ bản như: Hàng hoa, tiền tệ, lượng mua, lượng bán, quy luật cung cầu, quy luật giá trị… 1. Hàng hoá. Nó bao gồm toàn bộ những hàng hoá, dịch vụ được đem ra trao đổi hay mua bán ngoài thị trường nhằm thoả mãn nhu cầu của con người trong nền kinh tế thị trường có nhiều loại hàng hoá nhưng có thể chia thành hai loại hàng hoá cơ bản: hàng hoá dựa vào quá trình sản xuất và hàng hoá dựa vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra. Những hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như ăn uống, mặc, ở, phương tiện đi lại, các dịch vụ sách báo, phương tiện truyền thông, phương tiện thông tin đại chúng được chia thành nhu cầu tiêu dùng vật chất và nhu cầu tiêu dùng tinh thần. Theo xu hướng phát triển thì nhu cầu hàng hoá tiêu dùng ngày càng ra tăng nhanh chóng. Như vậy trao đổi buôn bán hàng hoá đã hình thành lên thị trường, quy mô của thị trường của thị trường ngày càng phát triển rộng lớn, và hết sức nhanh chóng do việc đa dạng hoá các loại hàng hoá theo thị trường và quá trình phân công lao động ngày càng diễn ra sâu sắc hơn làm cho quá trình sản xuất diễn ra ngày càng nhanh hơn. 2. Tiền tệ. Tiền tệ được coi là một hàng hoá đặc biệt, nó được tách ra làm vật ngang giá chung phục vụ cho quá trình sản xuất và tái sản xuất cũng như quá trình trao đổi lưu thông hàng hoá. Nó biểu hiện quan hệ giữa người với người trong mọi quá trình sản xuất và lưu thông. Tiền tệ ra đời làm cho quá trình vân động thông suốt từ tay người sản xuất đến tay người tiêu dùng được diễn ra nhanh hơn, nó đảm bảo quá trình tái sản xúât diễn ra liên tục không ngừng tạo nên quan hệ hàng tiền trong kinh tế thị trường. Vì vậy AdamSmith gọi tiền là “bánh xe vĩ đại của lưu thông.” 3. Giá cả thị trường. Lưu thông hàng hoá gắn liền với lưu thông tiền tệ. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá ,do vậy giá cả không chững chỉ đóng vai trò đảm bảo cho việc lưu thông hàng hoá mà còn điều tiết sản xuất và tiêu dùng theo hướng có lợi cho người lao động. Thông qua giá cả mà nhà sản xuất kinh doanh có những thông tin khác nhau về hàng hoá của đối thủ cạnh tranh cũng như những thông tin từ người tiêu dùng để có những chính sách mang tính chất chiến lược sao cho phu hợp nhu cầu của thị trường. đồng thời nó góp phần phân bổ nguồn lực một cách hợp lý sao cho đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung tác dụng của quy luật giá trị bị xem nhẹ đã tạo ra sự bất hợp lý trong giá cả làm cho giá cả mất vai trò vị trí là đòn bẩy cùa nền kinh tế đối với sự phát triến sản xuất và phát huy tính tích cực của người sản xuất. Lợi nhuận. Trong quá trình sản xuất kinh doanh tất cả các hãng kinh doanh đều đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Lợi nhuận là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất bỏ ra, nghĩa là phần dôi ra của tổng số lừợng chứa đựng trong hàng hoá so với số lượng lao động được trả công chứa đựng trong hàng hoá. Nó kích thích các chủ thể sản xuất - kinh doanh hàng hoá cạnh tranh, ra sức đổi mới kỹ thuật và công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng tiết kiệm lao dộng để sản xuất nhiều hàng hoá chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá thành hạ, có lợi cho họ và ngừời tiêu dùng. Tuy nhiên quá trình theo đuổi lợi nhuận mù quáng cũng có thể làm cho kinh doanh phát triển không lành mạnh, gây nên sự mất cân đối nhiều mặt trong nền kinh tế. Những hiện tượng như đầu cơ buôn lậu chốn thuế, sản xuất và lưu thông hàng giả, hàng cấm, thất nghiệp vi phạm đạo đức, lối sống,phá hoại tài nguyên thiên nhiên, làm ô nhiễm môi trường… là những biểu hiện phổ biến, mà người ta thường gọi là những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Hộ kinh doanh và hộ tiêu dùng. Tiền và hàng hoá là hai khách thể của thị trường còn hãng kinh doanh và hộ tiêu dùng là nhân tố chu yếu của thị trường. Hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng và yếu tố sản xuất được mua bán trên hai thị trường khác nhau gọi tắt là hàng hoá thị trường tiêu dùng và thị trường yếu tố, mỗi hàng hoá được sản xuất trong những điều kiện khác nhau với trình độ khác nhau nên có giá trị cá biệt khác nhau. Song, trên thị trường mỗi loại hàng hóa đều phải bán theo một giá thống nhất. Hộ kinh doanh là người sản xuất cung ứng hàng hoá cho ngừời tiêu dùng vì vậy trên thị trường họ là người bán hay là sức cung. Song để có nguồn lực để sản xuất hãng kinh doanh đói hỏi phải mua chúng trên thị trường yếu tố vì vậy thị trường này là sức cầu. Ngược lại hộ tiêu dùng là người đi mua hàng hoá tiêu dùng trên thị trường được gọi là sức cầu. Để có tiền mua hàng hoá họ phải bán yếu tố trên thị trường hình thành nên quan hệ cung cầu trên thị trường. Với vai trò khác nhau như vậy các chủ thể tham gia, các thị trường vốn tách biệt với nhau được lối liền với nhau thành vòng tròn vận động thông suốt. 6. Quy luật cung - cầu Kinh tế thị trường hoạt động dưới sự chi phối của các quy luật khách quan mà trước tiên phải kể đến quy luật cung - cầu. Cung cầu là sự khái quát hoá hai lực lượng cơ bản của thị trường đó là thị trường người mua và thị trường người bán, người sản xuất và người tiêu dùng của hai khâu trông quá trình tái sản xuất và tiêu dùng. Trên thị trường khi một hàng hoá nào đó được người tiêu dùng mua sẽ xuất hiện nhiều người bán cung ứng sản phẩm hàng hóa đó trên thị trường, khi giá hàng hoá thấp thôi thúc người tiêu dùng mua sắm hàng hoá đó như vậy cầu vể hàng hoá đó tăng và ngược lại khi giá hàng hóa cao người tiêu dùng ít tiêu dùng hàng hoá đó nhưng những nhà cung ứng hàng hoá đó ngày càng nhiều đòi hỏi phải có sự giảm giá cho đến khi nào tìm thấy được sự thoả thuận giữa người mua và người bán khi đó hàng hoá đó sẽ được bán. Như vậy sự vận động lên xuống của giá tuân theo quy luật cung cầu, quy luật này chi phối mọi hoạt động mua bán trao đổi trên thị trường hay nó chi phối toàn bộ hoạt động của các thành viên tham gia thị trường. IV. Những đặc điểm cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. 1. Nền kinh tế thị trường phải được xây dựng trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đa dạng hoá các hình thức kinh tế. Cơ sở tồn tại cuả kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường là sự tồn tại của các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và phân công lao động xã hội vì vậy vấn đề phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đầu tiên phải quan tâm đến vấn đề đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đa dạng hoá các hình thức kinh tế. Hiện nay có thể nói ở nước ta có 3 chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất : Sở hữu quốc gia, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Mỗi thành phần kinh tế lại có một hình thức sở hữu khác nhau. Sở hữu quốc gia bao gồm: tài nguyên, khoáng sản… là tài sản do nhà nước quản lý; hệ thống bảo hiểm, ngân sách quốc gia,dự trữ quốc phòng… Sở hữu tập thể bao gồm: các hình thức liên doanh giữa sở hữu nhà nước và tư bản nước ngoài, giữa tư bản nước ngoài và tư bản trong nước, giưa các công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn… Sở hữu tư nhân bao gồm: Sở hữu tư bản trong nước, sở hữu giữa tư bản 100% vốn nước ngoài và hình thức sở hữu tư nhân sản xuất nhỏ. Việc đa dạng hoá các thành phần kinh tế tận dụng triệt để các yếu tố đầu vào của mọi nguồn lực. Tương ứng với mỗi hình thức sở hữu là một thành phần kinh tế do đo ở nước ta hiện nay đang tồn tại một số thành phần kinh tế như sau: Các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, công ty cổ phần, công ty hợp doanh, công ty trách nhiện hữu hạn, hợp tác xã, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Thực tiễn phát triển nước ta nhiều năm qua cũng đã chứng minh tầm quan trọng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thể hiện là loại hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao có khả năng sinh lời cho nền kinh tế. Cùng với sự phát triển của các doanh nghiệp nhà nước chúng ta cần phải chú trọng hơn nữa mọi nguồn lực phát triển các thành phần kinh tế khác. 2. Kinh tế thị trường ở Việt Nam phải được xây dựng trên nguyên tắc tự do kinh tế hay tự do cạnh tranh,có cơ sở kỹ thuật ngày càng hiện đại dưới sự quản lý của nhà nước. Trong môi trường tự do cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tăng cường sản xuất cải tiến, tổ chức quản lý kinh tế để hiệu quả kinh tế là lớn nhất từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triểnvì vậy phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam cần tôn trọng nguyên tắc này. Nội dung của nó thông qua tự do kinh doanh, tự do đầu tư sản xuất tự do hình thành giá cả theo quy luật cung cầu trên thị trường, tự do cạnh tranh theo pháp luật của nhà nước. Như vậy tự do kinh tế không phải là tự do vô nguyên tắc vô điều kiện mà là tự do tuân theo quy định của nhà nước tuân theo những quy định thể chế của pháp luật Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi phải có sự đồng bộ thị trường bao gồm cả thị trường yếu tố sản xuất và thị trường người tiêu dùng thị trường thành thị và thị trường nông thôn thị trường miền núi và thị trường nông thôn…và cả thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Muốn vậy phải phát triển sản xuất , thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tuân theo quy luật cung cầu của thị trường. 3. Sự quản lý của nhà nước phải tuân theo những nguyên của thị trường. Nhà nước cần xác định đúng vai trò, chức năng của mình trong nền kinh tế, đồng thời phải kiến tạo và đảm bảo môi trường kinh doanh an toàn, bình đằng và thuận lợi để thúc đẩy phát triển kinh tế. Khác với kinh tế kế hoặch hoá tập trung, kinh tế thị trường dựa trên hai nền tảng là cạnh tranh và quyền tự do quyết định các chủ thể tham gia vào thị trường. Nhưng cạnh tranh lại có xu hướng tạo ra độc quyền, do vậy cần phải có sự tác động của nhà nước để đảm bảo mục tiêu công bằng cho xã hội, hay còn gọi là sự tác động của “Bàn tay vô hình” của cơ chế thị trường. Do vậy để nền kinh tế thị trường phát triển được đòi hỏi nhà nước cần thực hiện chính sách cạnh tranh tích cực: Nhà nước không chỉ đóng vai trò là nhà cung cấp hàng hoá dịch vụ mà quan trọng hơn là nhà nước giữ vai trò quản lý và điều hành toàn bộ nền kinh , phải tạo cho mọi thành phần kinh tế phát triển, mọi loại hình kinh tế đều có điều kiện phát huy hết sức mạnh của chính mình tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường không phải là sự duy ý chí của mình mà là phải tuân theo quy luật thị trường. Những quyết định của nhà nước phải tuân theo , phù hợp với những điều kiện của thị trường. Điều này đòi hỏi nhà nước phải đóng vai trò mở đường, dẫn dắt những doanh nghiệp thông qua sản xuất những mặt hàng mũi nhọn làm tăng sực cạnh tranh cho nền kinh tế; sản xuất và cung ứng hàng hóa công cộng cho toàn bộ xã hội. 4. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đảm bảo cho mọi loại hình doanh nghiệp, mọi tổ chức dân cư, mỗi gia đình, mỗi người dân được bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội. Mục tiêu phát triễn sản xuất là từng bước nâng cao đời sống nhân dân, trước hết là nhân dân lao động bởi: “ Mức sống với sản xuất như là nước với thuyền. Nước cao thì thuyền mới lên cao” , nhà nước cần nghiên cứu, thực hiện chính sach sao mọi tổ chức, hộ gia đình người dân đều được hưởng lợi ích từ sự phát triển của sản xuất. Như vậy tăng trưởng kinh tế phải đi đôi vời tiến bộ xã hội, khuyến khích làm giàu một cách hợp pháp, nâng cao đời sống của nhân dân miền đồng bằng và vùng núi trung du, giữa lao động chân tay và lao động chí óc, giữa thành thị và nông thôn. Đây được coi là công việc then chốt của đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phần II. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. I. Sự cần thiết phải chuyển đổi từ nền kinh tế cơ chế cũ sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Cơ chế cũ và những hạn chế. Sau năm 1954 cơ chế quản lý kinh tế theo mô hình Liên Xô và Trung Quốc đã du nhập vào miền Bắc nước ta và sau đó lan rộng ra toàn quốc. Nó tồn tại và kéo dài cho đến tận những thập kỷ 80 của thế kỷ 21, đó là nền kinh tế kế hoặch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Trong nền kinh tế cũ chỉ tồn tại duy nhất hai thành phần kinh tế: Kinh tế khu vực quốc doanh và kinh tế khu vực hợp tác xã, do đó việc cung ứng sản xuất của các đơn vị được chỉ huy theo một hệ thống chặt chẽ, các đơn vị gần như không có quyên độc lập, tự định sẵn sự phát triển của mình. Vì vậy đã không tạo ra sự cạnh tranh giữa các khu vực sản xuất ngự trị cơ chế quản lý cũ, chi phí ngày càng cao lợi nhuận làm ra ngày càng lớn nhưng việc phân chia lại không đều do đó làm cho các doanh nghiệp có sức ỳ trong việc sản xuất, họ không quan tâm đến hiệu quả kinh tế và quy mô của nền kinh tế như thế nào nữa. Bởi nhà nước phải chịu những khoản thua lỗ mà các doanh nghiệp đã làm tổn thất và vấn đề hết sức bức xúc đặt ra trong nền kinh tế đó là các giám đốc của các đơn vị không quan tâm đến hiệu quả, quy mô năng suất làm cho nền kinh tế hoàn toàn không có cạnh tranh. Cơ chế chỉ huy sản xuất theo kế hoặch đã không thực sự khuyến khích người lao động hăng say với công việc họ đang làm, không tạo ra sự sáng tạo trong sản xuất kinh doanh. Việc phân phối theo chế độ bình quân đã tạo ra sức ì đối với người lao động, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất chậm tiến. Một hệ thống kinh tế theo sự quản lý kế hoặch tưởng chừng như hết sức chặt chẽ nhưng thực ra lại hết sức lỏng lẻo bơi cơ chế mệnh lệnh hành chính thuần tuý mà không đưa vào chính mệnh lệnh của tự thân nó, sự thiếu kế hoăch được tập trung ở chỗ các kế hoặnh của nền kinh tế thường xuyên thay đổi làm cho nền kinh tế xoăy chuyển không kịp thời. Chế độ chính trị hết sức hà khắc, tệ nạn quan liêu tham nhũng ngày càng diễn ra mạnh mẽ trong xã hội, những người nông dân ngày càng cơ cực, xã hội hết sức rối ren, tình hình kinh tế bị kiệt quê. Song chính từ đó đòi hỏi phải có một sự thay đổi trong cơ chế quản lý kinh tế sao cho phù hợp hơn để có thể phát huy hết nguồn lực sẵn có. Một mầm mống của tư tưởng đổi mới kinh tế cũng đã được hình thành trong giai đoạn này. Một số nhà kinh tế đã đề cập vấn đề “cải cách quản lý kinh tế” hay cải cách kinh tế theo định hướng thị trường. Trong chế độ cũ việc áp dụng một cách máy móc cơ chế quản lý kinh tế của Trung Quốc và Liên Xô mà không căn cứ vào tình hình kinh tế thực tại của đất nước đã làm cho nền kinh tế của nước ta ngày càng xấu đi bởi: trình độ nhận thức còn hạn chế. 2. Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Sau sự trì trệ đình đốn của nền kinh tế đến tận đầu những năm 1980 nền kinh tế vẫn bộc lộ những yếu kém mặcdù một số chỉ tiều vẫn đạt được ở mức ổn định: trong thời kì 1976-1985 mức tăng trưởng bình quân tổng sản phẩm xã hội đạt 4,5%, thu nhập quốc dân đạt 3,8%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp đạt 4,2%, công nghiệp đạt 7,4%, tổng kim ngạch xuất khẩu 14%, tổng kim ngạch đạt 3,5%, thu nhập quốc dân sử dụng 2,3%. Từ cuối năm 1980-1985 tình hình kinh tế càng ngày càng xấu đi đòi hỏi đường lối lãnh đạo của Đảng và nhà nước phải có những thay đổi. Bước đầu đã có những áp lực muốn xé rào vì cơ chế tập trung quan liêu bao cấp tạo ra sự tù túng cho lực lượng sản xuất. Quan hệ kinh tế thị trường bắt đầu có những cựa quậy trước hết là trong ngành nông nghiệp, công nghiệp quốc doanh và thương nghiệp, một số các tổ chức kinh tế tư nhân đã được hình thành cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nó đã buộc các tổ chức này tìm mọi cách móc lối với cơ sở sản xuất hoặc tổ chức thương nghiệp để mua hàng hoá và ăn chia phần chệnh lệch giá. Do tình hình như vậy áp lực cải cách kinh tế ngày càng mạnh mẽ. Tháng 12/1986 đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam được coi là một đại hội đánh dấu bước ngoặt to lớn của Việt Nam về mọi mặt đặc biệt về vấn đề kinh tế . Tại đại hội đã nghiêm khắc đánh giá và nhận định về đường lối kinh tế trong những giai đoạn trước đó, việc đấu tranh tư tưởng giữa các cán bộ kinh tế hết sức gay gắt về vấn đề đổi mới. Và lần đầu tiên một văn kiện ở tầm đại hội đã cho rằng “trong lĩnh vực tư tưởng đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và sự yếu về vận dụng các quy luật kinh tế trong thời kỳ quá độ”, đại hội đã khẳng định sự phát triển của kinh tế tư nhân, chính thức chủ trương xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nhấn mạnh quan hệ hàng tiền, bải bỏ các biện pháp cấm đoán chia cắt thị trường theo danh giới hành chính. Đại hội VI đã khẳng định nền kinh tế Việt Nam còn đang trong thời kỳ qúa độ lâu dài lên chủ nghĩa xã hội, vì nó có đặc trưng của nền kinh tế nhiều thành phần bao gồm các thành phần: thành phần khu vực kinh tế quốc doanh, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế hộ gia đình, và các thành phần kinh tế phi quốc doanh. II. Quá trình hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.Giai đoạn trước 1986. Nền kinh tế hiện vật mới đầu được coi là lý tưởng tốc độ phát triển tương đối ổn định được thể hiện thông qua một số chỉ tiêu kinh tế : Chỉ tiêu kinh tế 1976-1980 1981-1985 1986-1989 Tổng sản phẩm xã hội 1,4 7,3 4,6 Thu nhập quốc dân O,4 6,4 3,5 Giá trị sản lượng công nghiệp 0,6 9,5 5,9 Giá trị sản lượng nôn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34606.doc
Tài liệu liên quan