Lời mở đầu
Mỗi một con người Việt Nam đều có một lòng tự hào về dân tộc rất mạnh mẽ. Điều đó được xuất phát từ tinh thần đoàn kết dân tộc, yêu nước, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ Tổ Quốc. Từ thời các vua Hùng dựng nước cho tới nay, đất nước Việt Nam đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước. Từ cuộc chiến chống quân Nguyên Mông tới cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Ngày nay, kết quả của sự hi sinh ấy là một đất nước hoà bình và phát triển. Tuy nhiên, chúng
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1659 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường ở VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ta đã chịu một cái giá không phải là nhỏ: ngoài những thiệt hại không thể tính được về người, chúng ta còn phải gánh chịu sự tổn thất to lớn về kinh tế. Đó là: về nông nghiệp 1/7 ruộng đất bị bỏ hoang, 1/3 ruộng đất không có nước tưới để cày cấy, về công nghiệp sản lượng năm 1954 so với năm 1939 từ 10% xuống 1,5%...Trong thời gian sau chiến tranh, chúng ta xây dựng một nền kinh té tập trung theo kiểu mẫu Liên Xô và đã thu được một số thành công khắc phục được những khó khăn trước mắt. Những tưởng đó là con đường đúng đăn, phù hợp với nước ta nhưng một lần nữa nền kinh tế lại rơi vào khủng hoảng. Năm 1986 là một mốc quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Tại cuộc họp lần thứ VI của Đảng, quốc hội quyết định chuyển hướng nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vậy tại sao chúng ta phải chuyển đổi nền kinh tế? Tại sao lại phải chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa? Nền kinh tế này như thế nào? Từ khi chuyển đổi nền kinh tế chúng ta đã thu được những thành tựu gì? Trong tương lai chúng ta sẽ phải giải quyết những vấn đề nào? Trong khuôn khổ của đề án này tôi xin cố gắng làm rõ những vấn đề trên và cùng xác định những công việc mà tuổi trẻ cần làm để đưa đất nước phát triển sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới.
I.Những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường
1. Nền kinh tế thị trường là gì?
- Nền kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế mà trong đó hầu hết các quan hệ kinh tế được thực hiện dưới hình thái hàng hoá và dịch vụ, với nhiều thành phần tham gia, vận động theo cơ chế thị trường.
- Như vậy, nền kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế mà các thành phần của thị trường có mối quan hệ thông qua hàng hoá, dịch vụ và thông qua các hoạt động trao đổi. Tất cả các quan hệ đó được điều tiết bằng một cơ chế tự điều tiết của thị trường do sự tác động của các quy luật vốn có của nó. Nói một cách cụ thể hơn về cơ chế tự điều tiết của thị trường đó là một hệ thống hữu cơ của sự thích ưngs với nhau, tự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố giá cả, cung-cầu, cạnh tranh...trực tiếp phát huy trên thị trường để điều tiết.
Thực khó có thể đánh giá đầy đủ những ưu điểm & khuyết tật của cơ chế thị trường. Tuy nhiên, cơ chế thị trường có những ưu điểm nổi bật sau:
- Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế & tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động được các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội.
-Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng & cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho cá nhân & cho sản xuất.
- Cơ chế thị trường mềm dẻo & có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi.
Chính vì vậy, cơ chế thị trường giải quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Song cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo. Nó còn có cả những những khuyết tật, đặc biệt về mặt xã hội. Có thể chỉ ra một số khuyết tật dưới đây của cơ chế thị trường:
- Hiệu lực của cơ chế thị trường phụ thuộc vào mức độ hoàn hảo của cạnh tranh. Một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn tới phân bố & sử dụng có hiệu quả nhất đầu vào & đầu ra của sản xuất. Cạnh tranh không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường càng giảm.
-Trong cơ chế thị trường, mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa. Vì vậy, họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu.
- Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo, tác động xấu đến đạo đức & tình người.
- Một nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ.
2. Tính quy luật của sự hình thành nền kinh tế thị trường:
- Phát triển là một sự thay đổi về chất, như vậy trước đó chúng ta phải có sự tích luỹ về lượng. Hay nói cách khác, chúng ta phải hội đủ các điều kiện thì mới có sự thay đổi đó được. Như vậy, muốn hình thành nền kinh tế thị trường , chúng ta cũng phải hội đủ các quy luật hình thành của nó. Đó là:
+ Sự phân công lao động xã hội: trước đây trong nền kinh tế tự cung tự cấp, mỗi một thành viên của nền kinh tế đều tự sản xuất ra các mặt hàng theo nhu cầu và khả năng của mình. Tức là, một người nông dân muốn có gạo ăn, áo mặc...thì anh ta phải tự sản xuất ra các thứ đó, không ai cung cấp cho anh ta. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, các thành viên của nền kinh tế quan hệ với nhau thông qua hàng hoá. Tức là sản phẩm của người này cần thiết cho người kia và có thể trao đổi được. Như vậy tức là phải có người sản xuất sản phẩm này và có người sản xuất dản phẩm kia. Đó chính là sự phân công lao động xã hội. Nếu nền kinh tế không có sự phân công lao động rõ ràng thì sẽ không có hàng hoá và không hình thành nền kinh tế thị trường.
+ Quy luật hình thành thứ hai của nền kinh tế thị trường là sự tồn tại độc lập và không phụ thuộc vào nhau giữa những doanh nghiệp , những người sản xuất hàng hoá. Có nghĩa là trong nền linh tế thị trưòng, việc sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai là việc riêng của mỗi người, mỗi doanh nghiệp. Họ là những người sản xuất độc lập. Những doanh nghiệp sản xuất hàng hoá có thể là thuộc quyền sở hữu tư nhân, hay thuộc quyền sở hữu tập thể hoặc thuộc quyền sở hữu của nhà nước... nhưng chúng vẫn là những doanh nghiệp sản xuất hàng hoá độc lập. Đối với xã hội thì lao động của mỗi doanh nghiệp (dù là thuộc hình thức sở hữu nào) vẫn là lao động tư nhân, và chỉ khi nào bán được hàng hoá thì lao động tư nhân đó mới được xã hội thừa nhận và trở thành một bộ phận thực sự của lao động xã hội. Với phân công lao động xã hội, lao động sản xuất hàng hoá mang tính chất lao động xã hội, một bộ phận của toàn bộ lao động xẫ hội. Sự phân công lao động xã hội tạo nên sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất, họ làm việc với nhau thông qua trao đổi hàng hóa. Còn với tư cách là doanh nghiệp thì lao động sản xuất hàng hoá của họ lại mạng tính chất tư nhân. Sự mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội được giải quyết khi sản phẩm được trao đổi dưới hình thức hàng hoá. Kinh tế hàng hoá tồn tại trong nhiều chế độ xã hội khác nhau, dựa trên nhiều hình thức sở hữu khác nhau, chứ không chỉ dựa trên chê độ sở hữu tư nhân, miễn là những người, doanh nghiệp sản xuất hàng hoá là độc lập và không phụ thuộc vào nhau.
+ Thứ ba đó là sự tồn tại của quan hệ hàng hoá tiền tệ. Nếu như chúng ta có được hai điều trên nhưng quan hệ tiền tệ không được thừa nhận thì sẽ không xuất hiện nền kinh tế thị trường. Ta có thể thấy rõ trong nền kinh tế hàng hoá tập trung ở nước ta, chúng ta có được sự phân công lao động xã hội, chúng ta có sự tồn tại độc lập của các nhà sản xuất hàng hoá, nhưng lúc này quan hệ hàng hoá tiền tệ không được chấp nhận. Sản phẩm lúc này được đem ra phân phối, kết quả là không xuất hiện thị trường. Một nền kinh tế thị trường mà không xuất hiện thị trường thì sẽ như thế nào?
3. Các nhân tố của thị trường:
a) Hàng hoá:
- Hàng hoá là sản phẩm của lao động, nó có thể thoả mãn một nhu cầu nhất định nào đó của con người, đồng thời nó được sản xuất ra nhắm đem bán (hay trao đổ trên thị trường). Hàng hoá là một phạm trù lịch sử, sản phẩm của lao động trở thành hàng hoá khi nó trở thành đối tượng mua-bán trên thị trường.
- Trong xã hội hiện đại, hàng hoá có thể là vật thể (hữu hình), hay là phi vật thể( hay hàng hoá dịch vụ). Đối với bất kỳ một hàng hoá nào, chúng đều có hại thuộc tính sau:
+ Giá trị sử dụng:
- Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm( tính hữu ích) coá thể thoả mãn nhu cầu nhất định nào đó của con người. Mỗi hàng hoá đều có một hay một số công dụng nhất định để thoả mãn nhu cầu của con người. Giá trị sủ dụng được phát hiện dần dần nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và lực lượng sản xuất. VD: Than đá, lúc đầu loài người chỉ biết với công dụng làm chất đốt, nhưng sau này nó được dùng vào ngành công nghiệp hoá chất...Xã hội ngày càng tiến bộ, khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng phong phú, đa dạng chất lượng cao.
- Giá trị sử dụng của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của vật quy định và là nội dung vật chất của của cải. Do đó, giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn.
- Giá trị sử dụng là thuộc tính của hàng hoá, nhưng nó khong phải là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuât, mà là cho người khác, tức là cho xã hội. Trong nền sản xuất hàng hoá, giá trị sủ dụng đồng thời là vật mang giá trị trao đổi.
+ Giá trị:
- Giá trị trước hết biểu hiện ra bên ngoài là quan hệ tỷ lệ về số lượng giữa các giá trị sủ dụng khác nhau hay còn gọi là giá trị trao đổi. VD: 1 m vải=5kg thóc. Sở dĩ, vải và thóc là hai hàng hoá khác nhau, mà vẫn có thể trao đổi cho nhau là vì giữa chúng có một cơ sở chung. Đó là hao phí lao động xã hội để tạo ra 2 sản phẩm đó.
- Vậy hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá kết tinh trong hàng hoá là cơ sở để trao đổi hàng hoá, tạo ra giá trị của hàng hoá. Hao phí lao động xã hội để tạo ra sản phẩm được lượng hoá bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Tức là, thời gian cần thiết để sản xuất một hàng hoá trong điều kiện sản xuất bình thường, trình độ kỹ thuật bình thường.
- Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị: giá trị là cơ sở, nội dung của giá trị trao đổi. Giá trị là phạm trù lịch sử, là phạm trù riêng có của sản xuất hàng hoá.
+ Mối quan hệ giữa hại thuộc tính:
- Giá trị và giá trị sử dụng là 2 thuộc tính cùng tồn tại và thống nhất với nhảutong cùng một hàng hoá. Người sản xuất làm ra để bán, mục đích của họ là giá trị. Nhưng cái mà họ có là giá trị sử dụng, họ chú ý tới giá trị sủ dụng cũng là vì mục đích là giá trị mà thôi. Người mua, họ quan tâm tới giá trị sử dụng, nhưng nếu muốn có giá trị sử dụng đó, họ phải trả giá trị cho người sản xuất. Tức là họ phải thực hiện giá trị thị trường thì mới chi phối giá trị sử dụng.
b) Tiền tệ:
- Tiền tệ về bản chất là một hàng hoá được tách ra làm vật ngang gía chung cho các hàng hoá khác. Tiền tệ thể hiện lao động xã hội và biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. Cho tới ngày nay vàng vẫn được coi là hàng hoá ngang giá chung, nhưng nó ít được lưu thông mà được thay bằng các loại tiền giấy, kim loại khác rẻ hơn đại diện cho những lượng vàng nhất định.
- Vậy tại sao lại xuất hiện tiền tệ? Chúng ta nhìn lại thời kỳ mà nền kinh tế ở giai đoạn tự cung tự cấp. Đây là một thời kỳ nền kinh tế cực kỳ kém phát triển, các nhu cầu của con người luôn không được đáp ứng đầy đủ do sự hạn chế về năng lực sản xuất của con người. Người nông dân muốn có vải may quần áo nhưng lại không có khả năng sản xuất vải, nhưng lại thừa gạo. Trong khi đó người có vải lại thiếu gạo và thừa vải. Và họ trao đổi cho nhau. Dần dần, các mặt hàng trao đổi trở nên phong phú hơn, nhưng cũng xuất hiện khó khăn. Những khó khăn đó là: người nông dân muốn đổi gạo lấy vải nhưng người có vải lại không muốn có gạo. Từ đó họ hình thành nên một vật ngang giá chung. Tức là, trong một phạm vi nhất định, một vật được mọi người công nhận và có thể dùng để trao đổi mọi thứ hàng hoá. Tuy nhiên, khi kinh tế phát triển thì sự hạn hẹp về phạm vi địa lý của vật ngang giá chung bắt đầu gây khó khăn và tiền tệ ra đời. Nhìn vào lịch sử phát triển của tiền tệ, ta thấy sự ra đời của nó là tất yếu khách quan để đáp ứng được sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Với nhiều đặc tính phù hợp được cả thế giới công nhận, vàng là kim loại được lựa chọn.
- Từ khi xuất hiện, tiền tệ đã góp phần rất lớn vào sự phát triển cả kinh tế, nó thể hiện thông qua 5 chức năng của tiền tệ:
+ Tiền tệ là thước đo giá trị: ngày nay muốn tiêu dùng bất cứ hàng hoá nào chỉ cần chúng ta có tiền đều có thể mua được dễ dàng. Đây chính là chức năng cơ bản của tiền. Như vậy tiền cũng phải có giá trị của nó. Giá trị của tiền là do lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất vàng quyết định. Trên thị trường, giá trị của hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả. Giá cả lên xuống xung quanh giá trị và do quan hệ cung cầu chi phối và tiêu chuẩn giá cả không phụ thuộc vào giá trị của vàng.
+ Chức năng là phương tiện lưu thông
- Trong chức năng này thì tiền làm môi giới trong quá trình lưu thông hàng hoá. Chức năng này giúp tách rời hành vi mua và bán. Tức là người ta có thể mua ở một nơi vào một thời điểm nào đó và bán ở một nơi khác vào một thời điểm khác. Để thực hiện chức năng này phải có tiền thực tế. Trong thời kỳ đầu người ta dùng nén vàng bạc, nhưng dần dần được thay thế bằng tiền đúc rồi đến tiền giấy. Trong quá trình lưu thông tiền đúc, giấy bị hao mòn nhưng giá trị mà nó đại diện là không thay đổi. Trước đây, lợi dụng tính đại diện của tiền đúc và giấy, nhà nước không ngưng sản xuất nhiều tiền loại này làm giảm giá trị đồng tiền, gây ra khủng hoảng kinh tế. Vì vậy, ngày nay, nhà nước luôn kiểm soát giá trị của tiền để bình ổn nền kinh tế.
+ Chức năng là phương tiện cất trữ:
- Tiền là vật ngang giá chung, nó có thể dùng để trao đổi mọi thứ. Vì vậy có thể nói rằng tiền là đại biểu cho của cải xã hội, nên nó có thể được cất trữ. Tuy nhiên không phải là tiền nào cũng có thể cất trữ mà chỉ có tiền đầy đủ giá trị như vàng mới thực hiện được chức năng này. Nếu hàng hoá nhiều thì tiền đã cất trữ sẽ được tung ra thị trường, nếu hàng hoá khan hiếm thì tiền lại được cất trữ.
+ Chức năng là phương tiện thanh toán:
- Với chức năng thanh toán tiền dùng để trả lương, nộp thuế, mua bán hàng hoá. Do để thuận lợi trong kinh doanh, việc mua và bán được tách rời và chức năng thanh toán của tiền ở đây càng thể hiện rõ tầm quan trọng. Từ chức năng thanh toán của tiền và nhu cầu thanh toán làm xuất hiện một loại tiền mới là tín dụng dưới các hinh thức như giấy bạc ngân hàng, séc, trái phiếu...
+ Chức năng tiền tệ thế giới:
- Do được toàn bộ thế giới công nhận về giá trị của tiền, nên thế giới trở thành một thị trường chung. Những nước khác nhau có thể mua bán những sản phẩm mà đất nước mình cần. Trong chức năng này vàng là phuơng tiện thanh toán quốc tế.
Các chức năng của tiền tệ liên quan mật thiết với nhau. Sự phát triển của các chức năng này phản ánh sự phát triển của sản xuất hàng hoá và những mâu thuẫn của nó.
c) Giá cả:
- Giá cả thị trường là sự biểu hiện bằng triền của giá trị thị trường và giá cả sản xuất. Giá cả thị trường được hình thành thông qua sự cạnh tranh giữa các nhà kinh doanh, sản xuất trong cùng một nghành, cùng một loại hàng hoá, nhằm giành được điều kiện sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi nhất để thu được lợi nhuận tối đa. Song trên thị trường, mỗi loại hàng hoá đều phải bán theo một giá thống nhất. Bởi vì, giá cả thị trường dựa trên cơ sở giá trị thị trường của hàng hoá. Giá trị thị trường của hàng hoá là giá trị trung bình của những hàng hoá được sản xuất ra trong một khu vực nào đó hay là giá trị cá biệt của những hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện trung bình của khu vực đó và chiếm một khối lượng lớn trong tổng số sản phẩm của khu vực này. Nghĩa là, nếu đại bộ phận lượng hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện xã hội trung bình, còn một bộ phận nhỏ được sản xuất trong điều kiện kém và một lượng nhỏ khác trong điều kiện tốt, thì giá trị thị trường của hàng hoá do giá trị của lượng hàng hoá ở khu vực điều kiện trung bình quyết định. Hay nều đại bộ phận hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện kém (hoặc điều kiện tốt) thì giá trị thị trường của hàng hóa lại do hàng hoá ở khu vực điều kiện kém (hoặc điều kiện tốt) quyết định.
- Dù là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, nhưng không có nghĩa là hai đại lượng đó phải bằng nhau. Giá cả thị trường của hàng hoá luôn xoay quanh giá trị thị trường của nó. Bởi vì giá cả thị trường còn phụ thuộc vào quan hệ cung-cầu của hàng hoá trên thị trường:
Cung là số lượng hàng hoá mà người cung sẵn sàngvà có khả năng đưa ra thị trường ở mỗi một mức giá khác nhau, tại mỗi một thời gian khác nhau. Cung được quyết định bởi khối lượng sản phẩm xã hội đã và sẽ sản xuất ra, tỷ suất hàng hoá và khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu.
Cầu là khối lượng hàng hoá mà người tiêu dùng sẵn sàng và có khả năng mua trên thị trường ở mỗi mức giá khác nhau, trong mỗi một thời gian khác nhau.
Khi số lượng cung của một hàng hoá phù hợp với nhu cầu xã hội thì tổng số giá trị thực của hàng hoá bằng tổng số giá trị thị trường của nó. Còn nếu số lượng hàng hoá cung mà lớn hơn nhu cầu của xã hội thì tổng số giá trị thực của hàng hoá lớn hơn tổng giá trị thị trường của nó. Ngược lại khi mà số lượng cung nhỏ hơn cầu thì tổng số giá trị thực của hàng hoá sẽ nhỏ hơn tổng giá trị thị trường
d) Lợi nhuận:
Giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, được so sánh với toàn bộ tư bản ứng trước mang hònh thái chuyển hoá là lợi nhuận. Vậy lợi nhuận có nguồn gốc từ giá trị thặng dư. Vậy giá trị thặng dư từ đâu sinh ra?
- Lợi nhuận là giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức chuyển hoá là lợi nhuận.
- Lợi nhuận được đo bằng (g1) sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa nên sau khi bán hàng hoá tư bản không bù đắp được số tư bản ứng trước mà còn thu được lợi nhuận.
- Lợi nhuận là mục tiêu quan trọng để phấn đấu của mỗi doanh nghiệp, là động lực để các nhà sản xuất nâng cao năng suất lao động, đổi mới khoa học công nghệ, thúc đẩy nền sản xuất phát triển.
4. Các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường
a) Quy luật giá trị:
Quy luật giá trị là một quy luật kinh tế rất quan trọng của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Quy luật giá trị quy định mặt chất và sự vận động về mặt lương của giá trị hàng hoá. Theo quy luật này, sản xuất và trao đỏi phải dựa trên cơ sở lượng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động xã họi cần thiết. Nghĩa là: đối với sản xuất, nó yêu cầu hao phí lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hoa phải phù hợp với hao phi lao động xã hội cần thiết, tức là phải phù hợp với mức hao phi mà xã hội có thể chấp nhận được. Còn trong trao đổi hàng hoá, nó yêu cầu là trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá.
Quy luật giá rị biểu hiện sự vân động của nó thông qua sự biến đổi của giá cả hàng hoá. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá cả phụ thuộc vào giá tri, vì giá trị là cơ sở của giá cả. Nhưng do tác động của quan hệ cung-cầu, tình trạng độc quyền, và một số tác động khác, giá cả thị trường có thể tách rời giá trị, lên xuống xoay quanh giá trị. Nhưng cuối cùng, tổng giá cả phù với tổng giá trị của chúng.
Quy luật giá trị có những tác dụng sau:
+ Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá: Người sản xuất hàng hoá sản xuât cái gì, như thế nào, cho ai, là do họ quyết định. Mục đích duy nhất của họ là thu được nhiều lãi nhất. Dựa vào sự biến động của giá cả thị trường, người sản xuất biết được mặt hàng nào đang bán chạy và mặt hàng nào đang thừa. Người sản xuất sẽ mở rộng sản xuất những mặt hàng đang thiếu, bán chạy, giá cao và thu hẹp lại những mặt hàng nào ế thừa, giá thấp. Một số người sẽ chuyển sang sản xuất những mặt hàng đang thiếu vầ giá cao, bỏ những mặt hàng mang lại lợi nhuận thấp. Kêt quả là các yếu tố sản xuất như sức lao động, tư liệu sản xuất, tiền vốn chuyển dịch từ ngành này sang ngành khác. Đây chính là sự điều tiết sản xuất của quy luật giá trị. Trong lưu thông hàng hoá, quy luật giá trị cũng tham gia vào quá trình vận động của hàng hóa từ nơi giá thấp đến nơi giá cao. Từ đó phân phối các nguồn hàng hoá một cách hợp lý hơn giữa các vùng, giữa cung và cầu đối với các loại hàng hoá trên thị trường.
+ Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.: Vì hàng hoá bán theo giá trị xã hội do hao phí lao động xã hội các thiết quyết định, nên ngưòi sản xuất có ít hao phí lao động cá biệt hơn lao động xã hội cần thiết thì sẽ thu được nhiều lợi hơn. Chính vì vậy muốn thu nhiều lợi hơn, chiến thắng và đứng vững trong thị trường cạnh tranh, mỗi nhà sản xuất đều phải không ngừng tìm cách rút xuống đến mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt. Muốn vậy, họ phải không ngừng tim cách cải tiến lực lượng sản xuất.
+ Phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo, và làm nảy sinh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: trong cuộc chạy đua theo lợi nhuận, những nhà sản xuất nào làm tốt sẽ thu được nhiều lợi nhuận trở nên giàu có. Ngược lại, những nhà sản xuất khác làm kém hơn sẽ phải chịu sự thua lỗ và trở thành nghèo hơn. Từ đây, phát sinh ra quan hệ sản xuất TBCN, những ngưòi giàu trở thành ông chủ, những người nghèo trở thành những người làm thuê. Đây là quan hệ tư sản và vô sản, quan hệ giữa chủ và tớ, quan hệ đối kháng về lợi ích kinh tế.
b) Quy luật cung cầu:
+ Quy luật này thể hiên mối quan hệ khách quan giữa cung cầu trên thị trường. Cung và cầu là sự khái quát hai lực lượng cơ bản của thị trường là: người mua và người bán. Vậy cung và cầu là gì?
- Cung là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp tung ra thị trường với giá cả nhất định,trong một thời kỳ nhất định. Cung chịu ảnh hưởng của hai nhân tố là giá cả và thu nhập. Với giá cả, cung chịu ảnh hưởng: khi các yếu tố sản xuất đã được tận dụng thì giá cả không ảnh hưởng tới cung là mấy. Nhưng trong trường hợp chưa tận dụng hết thì tăng giá có thể dẫn tới tăng cung.Với thu nhập, ảnh hưởng tới trường vốn hay đoản vốn của doanh nghiệp, điều này chi phôi cách ứng xủa của doanh nghiệp khi tung hàng ra tiêu thụ.
- Cầu là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà ngưòi tiêu dùng, muốn mua trong một thời kỳ với mỗi một mức giá nhất định. Cầu phụ thuộc vào các nhân tố: nhu cầu mua sắm của xã hội, khả năng mua săm của dân cư(khả năng này lại phụ thuộc vào thu nhập của mỗi ngưòi và giá cả hàng hoá).
+ Cân bằng cung cầu trên thị trường: cung và cầu luôn tác động qua lại lẫn nhau. Cung xác định cầu và ngược lại cầu cũng xác định cung. Mối liên hệ mạt thiết này tạo ra quy luật cung cầu. Trên thị trường, người mua muốn giá của hàng hoá là thấp , trong khi đó người bán lại muốn giá cả cao. Tới một lúc nào đó thì giá giữa họ là bằng nhau, đó là giá cả thị trường hay giá cả trung bình. Giá cả thực tế trên thị trương xoay quanh điểm cân bằng này, tuỳ thuộc vào tương quan giữa cung và cầu. ậ điểm cân bằng này, lượng hàng hoá mà người bán sẵn sàng bán bằng với lượng hàng hoá ma người mua sẵn sàng mua.Quy luật cung cầu biểu hiện thông qua sự thay đổi của giá cả. Với số lượng cung cố định, cầu tăng sẽ làm tăng giá, nếu với một sức cầu cố định thì cung tăng sẽ làm giảm giá.
c) Quy luật cạnh tranh:
Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tẩnh về kinh tế giữa những người sản xuất với nhau, giữa những người sản xuất với người tiêu dùng, nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm để thu được nhiều lợi nhuận nhật cho mình.
Nội dung cạnh tranh bao gồm việc canh tranh chiếm lĩnh những nguồn nguyê liệu, gianh giật những nguồn lực sản xuất; cạnh tranh về khao học công nghệ. Cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường, giành giật nơi đầu tư, các hợp đồng, các đơn đặt hàng. Cạnh tranh có thể bằng giá cẩ, bằng chất lượng, các dịch vụ kèm theo, phương thức thanh toán....Cạnh tranh có nhiều loại: cạnh tranh giữa nhưng người mua, giữa những người sản xuất, cạnh tranh trong nội bộ ngành, và cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh có vai trò tích cực trong nền sản xuất hàng hoá. Nó buộc người sản xuất hàng hoá phải không ngừng cải tiến kỹ thuật sản xuất, lực lượng lao động, nâng cao năng suất, tiết kiệm nhiên liệu....Hơn nữa,để bán được nhiều hàng hoá hơn thì nhà sản xuất phải không ngừng nghiên cứu thị truờng, thị hiếu, sở thích của người tiêu dùng, từ đó kích thích sự đa dạng của mẫu mã sản phẩm Như vậy có thể nói, quy luật cạnh tranh có tác dụng đào thải những cái cũ, lạc hậu, không phù hợp, binh ftuyển những cái mới, tiến bộ thuc đẩu sản xuất hàng hó phát triển.
Tuy nhiên cùng với những tác dụng của nó, cạnh tranh cò gây ra những hậu quả: đầu cơ, lừa đảo, ô nhiễm môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên ...
d) Quy luật lưu thông tiền tệ:
Khi tiền tệ xuất hiện, sự troa đỏi hàng hoá trực tiếp chuyển sang trao đổi một cách gián tiếp- trao đổi hàng hoá lấy tiền tệ làm môi giới. Sự vận động của tiên tệ lấy sự trao đổi hang hoá làm tiền đề gọi là lưu thông tiền tệ. Sự vân động của hàng hoá và tiền tệ là sự thông nhất giữa lưu thông tiền tệ và lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên số tiền đưa vào lưu thông không phải là vô tận.
Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông ở mỗi thời kỳ cần có một số lượng tiền nhất định. Số lượng tiền này được xác định bằng quy luật lưu thông tiền tệ. Quy luật này được xác định như sau:
Số lượng tiền cần thiết trong lưu thông
=
Tổng số giá cả hàng hoá
-
Tổng số giá cả hàng hoá bán chịu
+
Tổng số giá cả hàng hoá khấu trừ cho nhau
+
Tổng số giá cả hàng hoá bán chịu đến kỳ thanh toán
Số lần luân chuyển trung bình của tiền tệ
Quy luật lưu thông tiền tệ nói trên là qui luật tiền vàng.
II. Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
1.Tính tất yếu khách quan chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa:
1.1. Sự tồn tại của sản xuất hàng hoá ở nước ta:
Trước đây, khi còn quan niệm không đúng: đối lập chủ nghĩa xã hội với sản xuất hàng hoá, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (vì cho rằng kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường gắn với chủ nghĩa tư bản), thì nhiều người nhận thức, và hiểu rằng dưới chủ nghĩa xã hội không còn sản xuất hàng hoá, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, mà nếu có tồn tại thì chỉ là một nền kinh tế hàng hoá đặc biệt (chỉ có tư liệu tiêu dùng là hàng hoá, còn tư liệu sản xuất, sức lao động, vốn … không phải là hàng hóa). Nhưng sự tồn tại của nền sản xuất hàng hoá ở nước ta là không thể phủ nhận.
Về điều kiện thứ nhất của sản xuất hàng hoá, đó là phân công lao động xã hội; chẳng những không mất đi, mà trái lại còn phát triển cả về bề rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.
Về điều kiện thứ hai, trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Hơn nữa, nếu cho rằng, sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì sẽ không giải thích được sự tồn tại của sản xuất, lưu thông hàng hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì nền sản xuất dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Vậy thì muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải xoá bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, có nghĩa là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong chủ nghĩa xã hội không còn điều kiện thứ hai của sản xuất hàng hoá. Như vậy thì mâu thuẫn với thực tế khách quan: trong chủ nghĩa xã hội sẽ vẫn còn kinh tế hàng hoá, ngay cả khi nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Còn trong chủ nghĩa xã hội thì kinh tế hàng hoá lại có thể tồn tại cả trong điều kiện hoàn toàn không có chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.Khi nghiên cứu nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa, Lênin viết: “Về mặt lý luận, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể hoàn toàn đi đôi với việc không có chế độ tư hữu về ruộng đất, với việc quốc hữu hoá ruộng đất…”.
Hiện nay, tuy thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật - công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ hàng hoá - tiền tệ là chủ yếu, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây là theo nguyên tắc ngang giá.
Như vậy, chúng ta không thể dùng ý chí chủ quan của mình để xoá bỏ sự hiện hữu của kinh tế hàng hoá, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là một tồn tại tất yếu, khách quan ở nước ta.
1.2. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có tác dụng to lớn đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng, nâng cao đời sống nhân dân và xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH:
Nền kinh tế nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một điểm xuất phát rất thấp. Đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, cơ sở vật chất kỹ thuật bị tàn phá nặng nề, dự trữ quốc gia gần như không có. Hơn nữa, nền kinh tế nước ta còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc, lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất tàn dư còn nặng nề, trong khi quan hệ sản xuất mới chưa thực sự hình thành và hoàn thiện. Do vậy, khi chúng ta theo đuổi một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bằng mệnh lệnh hành chính, quan liêu từ trung ương và cơ cấu hướng nội là chủ yếu, đã kìm hãm sự phát triển của đất nước, khiến cho nền kinh tế đã có lúc lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng.
Ngọn gió “đổi mới” với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá ở nước ta đã tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí đến mức tối thiểu nhờ đó có thể cạnh tranh về giá cả, đứng vững trong cạnh tranh. Nhờ vậy mà khoa học kỹ thuật phát triển, năng suất lao động xã hội tăng lên, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh. Kinh tế hàng hóa cũng thúc đẩy phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Nó sẽ phát huy được tiềm năng, lợi th._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22950.doc