I - Phần mở bài:
Tất cả các quốc gia trên thế giới đều đang vận động phát triển không ngừng trong tiến trình diễn ra của dòng thời gian và lịch sử. Nhìn lại những gì mà nền kinh tế thế giới đã, đang đạt được chúng ta không thể phủ nhận rằng trong khi hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa như nước ta đang gặp khó khăn, phát triển chậm chạp thì các nước tư bản chủ nghĩa lại đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển đất nước với tốc độ phát triển chóng mặt ở tất cả các lĩnh vực mà xuất phát đi
35 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1961 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Sử dụng quy luật giá trị thặng dư trong quản lý doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ểm là từ sự phát triển của nền kinh tế: kĩ thuật và công nghệ bỏ xa chúng ta hàng chục năm, năng suất lao động cao, phân công lao động và chuyên môn hoá rõ rệt, lực lượng sản xuất đã đạt được trình độ xã hội hoá cao... C. Marx đã nghiên cứu và tìm ra nguyên nhân của sự phát triển: Đâu là quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản , cái gì là bí mật và thực chất của sản xuất hàng hoá tư bản, điều gì là động lực cho kinh tế tư bản chủ nghĩa ? _ Đó chính là quy luật giá trị thặng dư và sự vận dụng quy luật giá trị thặng dư trong phát triển hàng hoá tư bản chủ nghĩa.
Việc nghiên cứu quy luật giá trị thặng dư_ quy luật trung tâm của xã hội tư bản có ý nghĩa lí luận và thực tiễn cao. Thứ nhất nó sẽ cung cấp cho ta nhận thức, nâng cao lí luận và hiểu biết về học thuyết kinh tế nổi tiếng này. Bên cạnh đó, điều này là cần thiết vì hiện nay nước ta đang quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, phải xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, tiên tiến của nền đại công nghiệp trong điều kiện nền tảng kinh tế của nước ta còn rất thấp kém. Chúng ta đang thực hiện cơ chế thị trường, mở cửa nền kinh tế, xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế mới đồng thời với hàng loạt những sự thay đổi về chế độ sở hữu, các thành phần kinh tế, chế độ phân phối... Điều này cho phép quy luật giá trị thặng dư hoạt động và phát huy những đặc điểm của nó cả ưu điểm và những khuyết tật. Tìm hiểu sâu sắc đề tài sẽ giúp ta tìm ra biện pháp sử dụng hợp lý quy luật giá trị thặng dư làm đòn bẩy kích thích nền kinh tế mà không chệch hướng chính trị.
II - Phần nội dung:
Lý luận về quy luật giá trị thặng dư:
1. Khái quát chung:
Trước tiên ta nghiên cứu về quy luật nổi tiếng: Quy luật giá trị thặng dư. V. I Lênin đã đánh giá rất cao quy luật này. Ông coi quy luật giá trị thặng dư là hòn đá tảng trong toàn bộ học thuyết kinh tế của Marx và học thuyết kinh tế của Marx lại là nội dung căn bản của chủ nghĩa Marx. Vì vậy, nó chứng tỏ quy luật giá trị thặng dư có một vai trò to lớn trong lý luận của chủ nghĩa Marx. Chủ nghĩa tư bản đã vận dụng quy luật giá trị thặng dư trong nền sản xuất hàng hoá tư bản bởi tác dụng của quy luật này. Việc tạo ra giá trị thặng dư chính là động lực kích thích kĩ thuật tiến bộ, phân công lao động xã hội sâu sắc, lực lượng sản xuất phát triển không ngừng, khối lượng của cải vật chất tạo ra rất lớn, năng suất lao động nâng cao, nền kinh tế phát triển hiện đại. Các nước tư bản sở dĩ có bước tiến xa vượt bậc như vậy là do họ đã vận dụng triệt để quy luật giá trị thặng dư. Việc tìm hiểu bí mật và thực chất của nền sản xuất hàng hoá tư bản: quy luật giá trị thặng dư là cần thiết và quan trọng.
2. Mặt chất của giá trị thặng dư:
Giá trị thặng dư được tìm hiểu đầy đủ thông qua cả mặt chất và mặt lượng. Nghiên cứu quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư sẽ cho thấy bản chất của nó.
2.1. Điều kiện ra đời của giá trị thặng dư:
(a).Công thức chung của Tư bản:
Trong sản xuất hàng hoá, nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất là tiền vì mọi quan hệ mua bán trao đổi giao dịch đều được thực hiện thông qua đồng tiền. Tất cả các tư bản đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền mặt nhất định. Điều này dễ dẫn đến sự lầm tưởng mọi đồng tiền bỏ ra đều là tư bản. Bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động của người khác. Với tư cách là tiền thông thường, nó được dùng làm vật ngang giá chung, làm môi giới trong mua và bán hàng hoá. Tiền đơn giản chỉ là phương tiện của lưu thông hàng hoá giản đơn. Nhưng với tư cách là tư bản, nó được thể hiện rõ trong công thức của lưu thông hàng hoá tư bản chủ nghĩa.Thực vậy, hãy xem xét kĩ và so sánh hai công thức lưu thông đó.
Trao đổi lưu thông hàng hoá tư bản có công thức khác với công thức lưu thông hàng hoá giản đơn. Nếu công thức lưu thông hàng hoá giản đơn là H-T-H thì công thức của tư bản là T-H-T'. Ta không thể phủ nhận hai công thức trên có nhiều điểm giống nhau vì chúng đều là những công thức lưu thông hàng hoá. Cả hai công thức đều có các giai đoạn mua và bán hàng, tức là dùng tiền để mua hàng hoá và đem hàng hoá đi bán để thu tiền. Các giai đoạn đó bao gồm đủ cả người mua và người bán trên thị trường thì mới đảm bảo quá trình trao đổi mua bán được diễn ra. Quan hệ trong lưu thông là quan hệ tiền với hàng. Nhưng hai công thức trên khác nhau ở nhiều điểm căn bản như sau:
Công thức lưu thông hàng hoá giản đơn H-T-H có trình tự bán và mua như sau: trước tiên người có hàng đem hàng của mình bán trên thị trường để thu tiền về. Nhưng đối với anh ta tiền không phải là mục đích của lưu thông. Anh ta lại dùng tiền bán được này để mua hàng hoá khác. Quá trình lưu thông lần đầu kết thúc ở đây. Một ví dụ đơn giản là người nông dân bán một tạ gạo, số tiền anh ta thu được nhờ bán gạo được anh ta sử dụng để mua một cái áo_ Điều đó có nghĩa là mục đích bán gạo của anh ta là để mua áo. Điểm xuất phát và kết thúc là hàng hóa, tiền chỉ đóng vai trò là môi giới trung gian. Công thức này cho thấy mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng. Vì vậy công thức là có giới hạn, nó kết thúc khi người mua tìm được giá trị sử dụng.
Còn công thức lưu thông hàng hoá của tư bản có trình tự ngược lại, mới đầu là mua và kết thúc ở hành vi bán, thu tiền về. ở đây bắt đầu từ người có tiền, thay vì giữ tiền trong túi anh ta ném nó vào lưu thông, dùng nó mua một số lượng hàng hoá nhất định. Anh ta không hề có ý định sử dụng gì số hàng hoá đó cả mà ngay sau đó anh ta bán tất cả chúng đi để lại thu tiền về. Hàng hoá đóng vai trò trung gian, môi giới. ở đây tiền là điểm xuất phát cũng là điểm kết thúc của công thức. Nhưng tiền thu về lúc sau khác số tiền bỏ ra ban đầu. Thực vậy, nếu như anh ta chỉ thu về được số tiền đúng bằng cái khoản mà anh ta bỏ ra thì anh ta dại gì mà bỏ tiền trong túi mình ra để phải chịu những rủi ro trong lưu thông. Cả hai cách anh ta đều chỉ thu được như nhau mà thôi, và tiền trong túi an toàn hơn nhiều. Như vậy là khi ném tiền vào lưu thông anh ta phải thu được một cái gì đó rất có ý nghĩa làm cho anh ta bất chấp tất cả những rủi ro có thể gặp phải trong lưu thông. Vì mục đích lưu thông hàng hóa của tư bản là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy, T' = T + t (t: giá trị mới dôi ra hay giá trị thặng dư). Công thức này không có giới hạn, nhà tư bản luôn mong muốn không ngừng gia tăng số tiền của họ. ở đây, tiền là tư bản. Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư.
Rõ ràng ta thấy giá trị thặng dư được tạo ra. Nhưng nó được tạo ra từ đâu? Trả lời câu hỏi này dẫn ta tới mâu thuẫn sau:
(b).Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản:
Hãy thử đặt câu hỏi lưu thông có tạo ra giá trị và làm tăng giá trị hay không? Nếu trong lưu thông, ta trao đổi ngang giá thì giá trị riêng của từng người và tổng giá trị của xã hội không đổi, do đó không có động lực thúc đẩy lưu thông hàng hoá. Ngược lại nếu trao đổi không ngang giá, mua rẻ, bán đắt. Ta biết rằng mỗi người đều có hai vai trò người mua và người bán. Giả sử người đó bán đắt hơn so với giá trị đã mua thì số tiền anh ta có được từ bán đắt cũng chính là số tiền anh ta mất đi khi mua đắt. Nếu anh ta mua được hàng hoá với giá rẻ hơn giá trị của nó thì số tiền anh ta có nhờ mua rẻ cũng chính là số tiền anh ta mất do phải bán rẻ.Thực chất trong xã hội tổng giá trị không thay đổi, chỉ có sự phân phối lại giá trị giữa các cá nhân trong xã hội mà thôi, hơn nữa, giai cấp tư sản không thể làm giàu trên lưng của giai cấp mình, không thể làm tổn hại và diệt vong chính bản thân giai cấp của mình. Như vậy cả trao đổi ngang giá hay không ngang giá đều không tạo ra giá trị thặng dư hay lưu thông không tạo ra giá trị thặng dư . Nhưng ta không thể nói lưu thông không hề có tác dụng gì trong việc tạo ra giá trị thặng dư . Vì nếu không có lưu thông thì tiền của nằm trong két, hàng nằm trong kho và không thể có giá trị thặng dư. Vậy mâu thuẫn của công thức chung của tư bản là giá trị thặng dư vừa được tạo ra trong lưu thông vừa không được tạo ra trong lưu thông.
Nghiên cứu sâu hơn và chuyển sang lĩnh vực sản xuất, Marx đã kết hợp cả quá trình sản xuất và lưu thông để tìm xem giá trị thặng dư được sản xuất từ đâu? Và ông đã tìm ra chìa khoá lí giải nguồn gốc của giá trị thặng dư .
(c).Giải quyết mâu thuẫn:
Phát sinh ra giá trị thặng dư hay là sự tăng giá trị của số tiền cần chuyển hoá thành tư bản không thể xảy ra từ bản thân số tiền ấy, chỉ có thể từ hàng hoá được mua vào_một loại hàng hoá đặc biệt. Đó là hàng hoá sức lao động mà nhà tư bản đã phát hiện trong lưu thông và tiêu dùng nó trong sản xuất. Sức lao động chính là toàn bộ năng lực của con người bao gồm cả thể lực và trí lực tồn tại trong con người và được người đó sử dụng vào công việc sản xuất hàng hoá. Trong quá trình phát triển của lịch sử, sức lao động chỉ thành hàng hoá khi có 2 điều kiện sau: Đó là người lao động được tự do về thân thể tức là chế độ chiếm hữu nô lệ phải bị thủ tiêu.
Nhưng họ lại không có tư liệu sản xuất để tiến hành sản xuất hàng hoá. Vì vậy, họ không còn cách nào khác để sinh sống ngoài việc bán sức lao động. Do đó sức lao động trở thành hàng hoá. Chìa khoá chính là ở chỗ hàng hoá sức lao động là một loại hàng hoá đặc biệt, thể hiện ở hai thuộc tính của nó là giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động là trong quá trình để sản xuất ra một hàng hoá, sức lao động được tiêu dùng và tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, tạo ra GTTD_Đây là đặc điểm cơ bản nhất, điểm chốt giải quyết mâu thuẫn. Bên cạnh đó hàng hoá sức lao động còn có giá trị, giá trị của nó được quy định bởi thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Thời gian này được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cho người công nhân và gia đình của anh ta. Như vậy giá trị sức lao động bằng giá trị tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho người công nhân và gia đình anh ta. Nó bao gồm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Nhà tư bản khi đã mua được hàng hoá sức lao động trong lưu thông rồi sẽ sử dụng nó như thế nào trong sản xuất để tạo ra giá trị thặng dư?
2.2. Thực chất của sản xuất giá trị thặng dư:
(a).Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất của hai quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và giá trị thặng dư:
Nghiên cứu quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Marx đã phát hiện ra sự thống nhất của hai quá trình: Sản xuất ra giá trị sử dụng và sản xuất ra giá trị thặng dư. Xét sự thống nhất của hai quá trình là lao động và tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là quá trình sản xuất hàng hoá. Còn nếu xét sự thống nhất của quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Điều này được minh chứng qua quá trình sản xuất sau:
Trong tay nhà tư bản, sức lao động được sử dụng triệt để nhằm phát huy hết khả năng của nó, tạo ra sản phẩm thặng dư cho nhà tư bản càng nhiều càng tốt. Khi mua hàng hoá sức lao động nhà tư bản đã tính toán đến sự khác nhau giữa giá trị sức lao động mà họ phải trả khi mua và giá trị thực tế mà sức lao động đó có thể tạo ra cho họ(giá trị này luôn lớn hơn giá trị mà nhà tư bản đã trả). Nguyên nhân là nhà tư bản đã trả tiền mua sức lao động trong một ngày làm việc và việc họ sử dụng sức lao động đó như thế nào phụ thuộc vào họ. Trong tay nhà tư bản sức lao động giống như những tư liệu sản xuất khác và được nhà tư bản sử dụng sao cho có hiệu quả nhất. Ta hãy xét một ví dụ cụ thể: Giả sử một nhà máy sản xuất giấy. Để sản xuất 1kg giấy cần 2kg gỗ nguyên liệu có giá 1.700đ. Trong một ngày nhà máy sản xuất được 5kg giấy tức là cần 10kg gỗ nguyên liệu, hao mòn máy là 3.000đ, giá trị mỗi công nhân tạo ra trong một giờ lao động là 500đ, tiền thuê lao động một ngày(16 giờ) là 4.000đ.Ta có số liệu sau:
Các khoản chi phí sản xuất của nhà máylà:
- Tiền mua gỗ: (=10*1.700) 17.000đ
- Hao mòn máy: 3.000đ
- Tiền mua sức lao động trong 1 ngày: 4.000đ
_________
Vậy tổng chi phí sản xuất là: 24.000đ
Khi tính toán giá trị của sản phẩm mới do các bộ phận đầu vào tạo ra, nhà tư bản tính như sau:
Giá trị của 10kg gỗ được chuyển vào 5kg giấy: 17.000đ
Giá trị của máy móc chuyển vào 5kg giấy: 3.000đ
Giá trị sức lao động của công nhân tạo ra trong 16 giờ: 8.000đ
Theo tính toán trên thì tổng giá trị của 5kg giấy thành phẩm là 28.000đ. Như vậy với tổng chi phí mà nhà tư bản đã bỏ ra là 24.000đ họ thu về sản phẩm mới là 5kg giấy có giá trị 28.000đ, lớn hơn giá trị ứng trước là 4.000đ. Phần giá trị này là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động mà người công nhân tạo ra trong quá trình lao động của mình bằng lao động trừu tượng. Đây chính là giá trị thặng dư mà Tư Bản thu được qua quá trình sản xuất. Tiền biến thành tư bản .
Mâu thuẫn của công thức chung tư bản được giải quyết. Chỉ trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một hàng hoá đặc biệt là hàng hoá sức lao động. Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng hoá đó trong sản xuất (ngoài lưu thông) để sản xuất ra giá trị thặng dư cho họ. Ta có thể hiểu bản chất của giá trị thặng dư: Là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
(b). Thực chất của quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư:
Nghiên cứu quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư ở trên ta thấy sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình tạo ra giá trị được kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động của người công nhân do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng vật ngang giá mới.
Điều này là do ngày lao động của người công nhân được chia thành hai phần. Phần lao động mà người công nhân tạo ra với một lượng giá trị bằng giá trị sức lao động của mình được gọi là thời gian lao động cần thiết. Trong ví dụ trên thời gian lao động cần thiết của người công nhân là 8 giờ. Tuy nhiên trong thực tế người công nhân phải lao động nhiều hơn số thời gian trên, tức là vượt quá thời gian lao động cần thiết. Phần thời gian còn lại của ngày lao động sau khi đã trừ đi thời gian lao động cần thiết được gọi là thời gian lao động thặng dư. Chính thời gian lao động thặng dư của người công nhân đã tạo ra giá trị thặng dư _ cái mà mục đích sản xuất của nhà tư bản hướng vào, là giá trị mà nhà tư bản muốn chiếm không của người công nhân. Hiện tượng này xảy ra là do nhà tư bản có trong tay lượng tư bản nhất định, do đó họ sở hữu tư liệu sản xuất và như C.Marx nói: họ chi phối được một số lượng lao động không công nhất định của người khác. Sau khi đã mua hàng hoá sức lao động họ sử dụng nó như các tư liệu sản xuất khác, tức là sao cho có lợi nhất cho họ, tạo ra nhiều giá trị thặng dư nhất. ở ví dụ trên 8 giờ lao động còn lại trong ngày chính là thời gian lao động thặng dư và đã tạo ra giá trị thặng dư là 4.000đ. Giá trị của sản phẩm sản xuất ra có hai phần: Phần giá trị cũ do lao động cụ thể của người công nhân tạo ra và phần giá trị mới (gồm giá trị sức lao động và giá trị thặng dư) do lao động trừu tượng của người công nhân tạo ra.
Như vậy không thể tách biệt nghiên cứu quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Chúng thống nhất trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì vậy nên nhiều khi nội dung đích thực của quá trình sản xuất giá trị thặng dư bị lu mờ.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư thông qua việc sử dụng tư bản của nhà tư bản. Trong sản xuất nhà tư bản phải ứng trước ra một số tư bản nhất định để mua tư liệu sản xuất và sức lao động. Quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm mới thì mỗi nhân tố của đầu vào có một phương thức chu chuyển giá trị của nó vào sản phẩm mới là khác nhau, trong quá trình chu chuyển đó có thể giá trị của nó không tăng lên, có thể giá trị của nó tăng lê .Tuỳ thuộc vào tính chất chu chuyển giá trị của loại tư bản bỏ ra ban đầu mà C.Marx chia tư bản ra làm hai bộ phận là tư bản bất biến và tư bản khả biến. Các khái niệm được hiểu như sau:
Tư bản bất biến (kí hiệu là C) là bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm , tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất.
Bộ phận tư bản này được dùng mua tư liệu sản xuất là nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu... Trong quá trình sản xuất, các công trình xây dựng nhà xưởng, thiết bị máy móc đó được sử dụng trong nhiều chu kì, nhiều năm nên giá trị của nó chuyển dần từng phần vào sản phẩm mới. Tuỳ theo mức độ và tính chất hao mòn mà quá trình trên diễn ra lâu hay nhanh chóng. Còn tư liệu sản xuất là nguyên nhiên vật liệu thì giá trị của chúng được chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm mới trong một chu kì sản xuất. Dù chuyển một lần hay dần dần vào sản phẩm thì các bộ phận trên có đặc điểm chung là giá trị không mất đi, không lớn lên mà được bảo tồn, chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm mới. Vì vậy nó được C.Marx gọi là bộ phận tư bản bất biến.
Còn bộ phận tư bản khả biến (kí hiệu là V) là bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra nhưng thông qua lao động trừu tượng của người công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi về lượng. Người công nhân trong quá trình lao động sản xuất cho nhà tư bản xét về mặt lao động trừu tượng đã tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động của bản thân mình. Vì vậy bộ phận tư bản mà nhà tư bản ứng ra để mua hàng hoá sức lao động là tư bản khả biến.
Sự phân chia tư bản bất biến và tư bản khả biến một cách rõ ràng đã cho thấy vai trò của từng loại: Tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu để sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình đó vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên. Tư bản khả biến (chuyển hoá thành sức lao động làm thuê) chính là nguồn gốc duy nhất tạo ra giá trị thặng dư. Như vậy giá trị hàng hoá được biểu hiện một cách đầy đủ như sau:
H = C + V + m
Từ phân tích ta rút ra định nghĩa về tư bản: Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê. Nó là quan hệ xã hội - quan hệ bóc lột giữa nhà tư bản và người công nhân. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư cho thấy nguồn gốc, bản chất của nó và cho thấy bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
2.3. Kết luận:
Như vậy, mặt chất của giá trị thặng dư chính là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Giá trị thặng dư là kết quả của quá trình sử dụng lao động làm thuê của người công nhân vượt quá thời gian lao động cần thiết, trong thời gian lao động thặng dư để làm tăng thêm giá trị .Đó là kết quả của quá trình kết hợp chặt chẽ, hợp lý hai yếu tố tư bản: tư bản bất biến C và tư bản khả biến V.
3. Mặt lượng của giá trị thặng dư:
Nếu như mặt chất của giá trị thặng dư phản ánh bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản thì mặt lượng của giá trị thặng dư sẽ phản ánh mức độ của sự bóc lột ấy. Mặt lượng được biểu hiện thông qua hai phạm trù là tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư.
3.1. Tỷ suất giá trị thặng dư:
Tỉ suất giá trị thặng dư là tỉ số tính theo % giữa giá trị thặng dư m và tư bản khả biến v cần để sản xuất ra giá trị thặng dư đó, tức là tỉ số theo đó tư bản khả biến tăng thêm giá trị. C.Marx ký hiệu tỷ xuất giá trị thặng dư là m', công thức tính:
m'=(m/v) *100%
Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân: Trình độ cao hay thấp (hay giá trị thặng dư nhà tư bản chiếm được từ lao động của công nhân nhiều hay ít) được biểu hiện qua tỷ lệ % của m'. Nó chỉ rõ trong tổng thể giá trị mới do sức lao động tạo ra công nhân được hưởng bao nhiêu và nhà tư bản chiếm bao nhiêu. Tỷ suất giá trị thặng dư cũng chỉ rõ trong một ngày lao động phần thời gian lao động thặng dư t' mà công nhân làm cho nhà Tư Bản bằng bao nhiêu phần trăm so với phần thời gian lao động tất yếu t mà họ làm cho mình. Vì vậy tỉ suất giá trị thặng dư còn được tính bằng công thức:
m'=(t/t')*100%
Dưới góc độ kinh tế m' nói lên hiệu quả sử dụng lao động sống. Nếu m'=100% nghĩa là nhà tư bản bỏ ra v đồng để trả lương cho công nhân thì thu được giá trị thặng dư m=v (đồng). Xu hướng phát triển là nhà tư bản không ngừng gia tăng m' hay nâng cao trình độ bóc lột. Một ví dụ về tỉ suất giá trị thặng dư bình quân trong các ngành công nghiệp Mĩ tăng lên như sau:
Năm Tỷ suất giá trị thặng dư trung bình
1955 129%
1960 306,3%
1963 351%
1970 400%
1980 465%
những năm 80 500%
Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản. Tuy nhiên nó không biểu hiện lượng tuyệt đối của sự bóc lột ấy mà chúng ta phải nghiên cứu một khái niệm thứ hai đó là khối lượng giá trị thặng dư.
3.2. Khối lượng giá trị thặng dư:
Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến V đã được sử dụng, ký hiệu là M. Công thức tính:
M=m'*V
Khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô của sự bóc lột. Nó cho thấy số lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được trong một thời gian sản xuất nhất định. Trong công thức tính khối lượng giá trị thặng dư thì m/v phản ánh quy mô bóc lột theo chiều sâu, v là lượng xác định vì tiền công của công nhân là không đổi tính trong khoảng thời gian ngắn và các điều kiện nhất định. Còn V là tổng tư bản khả biến, đại biểu cho tổng số công nhân được sử dụng. Nó phản ánh quy mô bóc lột theo chiều rộng.
Khối lượng giá trị thặng dư phụ thuộc vào tỉ suất giá trị thặng dư m' và tổng tư bản khả biến V hay khối lượng giá trị thặng dư phụ thuộc vào thời gian và cường độ lao động của mỗi công nhân, phụ thuộc vào số lượng công nhân mà nhà tư bản đã sử dụng. Cùng với sự phát triển củachủ nghĩa tư bản, khối lượng giá trị thặng dư không ngừng được gia tăng. Vì mục đích của các nhà tư bản là lợi nhuận, sản xuất ra càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt nên toàn bộ hoạt động của họ đều hướng tới việc tăng cường tạo ra giá trị thặng dư. Các phương pháp được sử dụng là sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối, tương đối và siêu ngạch.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp trong đó giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách kéo dài ngày lao động và điều kiện thời gian lao động cần thiết không thay đổi. Phương pháp này được áp dụng trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, khi kĩ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp.
Ví dụ ngày lao động là 10h, 5h là thời gian lao động cần thiết, 5h là thời gian lao động thặng dư. Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là m'=(5/5)* 100 = 100%. Nhưng giả định ngày lao động kéo dài thêm 2h trong điều kiện thời gian lao động cần thiết không đổi. Như vậy thời gian lao động thặng dư là 7h. Tỷ suất giá trị thặng dư là m'=(7/5)*100 = 240%. Như vậy tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên, giá trị thặng dư cũng tăng lên hay trình độ bóc lột công nhân cũng tăng lên.
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày công lao động. Nhưng điều này lại bị hạn chế bởi thể chất và tinh thần của người lao động. Trước đây ngày lao động của công nhân kéo dài 16h, do công cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân toàn thế giới ngày nay các nước tư bản chủ nghĩa chế độ ngày làm 8h đã được thực hiện. Tăng cường độ lao động cũng là một cách tăng giá trị thặng dư giống như kéo dài thời gian lao động trong ngày và được áp dụng thay thế.
Phương pháp thứ hai là sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Giá trị thặng dư tương đối được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư. Xuất phát từ việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động, vấp phải sự phản kháng ngày càng mạnh của giai cấp công nhân cộng thêm sự phát triển sản xuất bằng cơ khí, kĩ thuật tăng cao làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng.Nhà tư bản dựa vào tăng năng suất lao động để tăng lượng giá trị thặng dư, nâng cao trình độ bóc lột.
Ví dụ ngày lao động 8h được chia làm hai phần: 4h lao động cần thiết và 4h lao động thặng dư. Khi đó tỷ suất giá trị thặng dư là m'=(4/4)*100=100%. Giả thiết công nhân chỉ cần lao động 3h để tạo ra giá trị bằng giá trị sức lao động của mình. Như vậy ngày lao động được chia thành 3 giờ lao động cần thiết và 5 giờ lao động thặng dư.Tỷ suất giá trị thặng dư là m'=(5/3)*100=166%.Ví dụ trên cho thấy tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng lên tức là lượng giá trị thặng dư tăng lên. Để giảm thời gian lao động cần thiết phải giảm giá trị sức lao động bằng cách giảm giá tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt _ tức là phải tăng năng suất lao động xã hội. Phương pháp này được áp dụng khi trình độ kĩ thuật của chủ nghĩa tư bản đã tương đối phát triển.
Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và năng suất lao động dưới chủ nghĩa tư bản trải qua ba giai đoạn: hiệp tác giản đơn, công trường thủ công và đại cơ khí. Nhà tư bản đã sử dụng cả hai phương pháp trên để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Phương pháp thứ ba được sử dụng là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch. Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư phụ thêm xuất hiện khi giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội .
Nguyên nhân là do có sự cạnh tranh giũa các nhà tư bản buộc họ phải cố gắng tăng năng suất lao động cá biệt trong xí nghiệp của mình để giảm giá trị cá biệt của hàng hoá ở xí nghiệp của họ so với giá trị xã hội của hàng hoá. Và nhà tư bản chiếm phần chênh lệch giữa giá trị xã hội và giá trị cá biệt chừng nào mà năng suất lao động xã hội còn chưa tăng lên để số chênh lệch đó không còn nữa.
Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều có cơ sở chung là dựa trên tăng năng suất lao động. Nhưng giá trị thặng dư tương đối dựa trên tăng năng suất lao động xã hội, toàn bộ giai cấp tư sản đều thu được. Nó biểu hiện sự tiến bộ kĩ thuật của chủ nghĩa tư bản được áp dụng rộng rãi. Quan hệ kinh tế chủ yếu là quan hệ giữa nhà tư bản và người công nhân làm thuê. Còn giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên tăng năng suất lao động cá biệt, chỉ có ở một hay một số nhà tư bản mà thôi chứ không phải là toàn bộ giai cấp tư sản. Sở dĩ chỉ có một số nhà tư bản có giá trị thặng dư siêu ngạch là nhờ vào ưu thế kĩ thuật của riêng nhà tư bản đó. Nó là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối và được thay bằng giá trị thặng dư tương đối khi trình độ kĩ thuật mới từ trường hợp áp dụng cá biệt trở thành được áp dụng phổ biến. Nó biểu hiện không chỉ quan hệ giữa nhà tư bản với giai cấp công nhân mà còn có cả quan hệ giữa các nhà tư bản với nhau.
Tuy nhiên giá trị thặng dư siêu ngạch là mục đích trực tiếp của cạnh tranh mà mỗi nhà tư bản cố gắng đạt tới trong cuộc cạnh tranh với các nhà tư bản khác. Nó là động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kĩ thuật, hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao động để tăng năng suất lao động, giảm giá trị hàng hoá.
Càng ngày trình độ bóc lột của nhà tư bản càng được nâng cao. Họ sử dụng sao cho có hiệu quả nhất tất cả các nhân tố của quá trình sản xuất mà trước hết là sức lao động để làm tăng giá trị thặng dư, thu được nhiều lợi nhuận. C.Marx đã chỉ rõ mức lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận cao chính là mục đích trực tiếp, là động lực của nền sản xuất hàng hoá tư bản(mà ngày nay lợi nhuận còn là động lực trong kinh tế thị trường). C.Marx đã trích câu nói của Đun-nhin: lợi nhuận thích đáng thì nhà tư bản trở nên can đảm. Tỷ suất lợi nhuận nếu đạt 10% thì các nhà tư bản đã hăng máu lên; 20% thì nhà tư bản có thể dùng tư bản ở khắp nơi; 50% thì nhà tư bản sẽ táo bạo không biết sợ là gì; 100% thì họ có thể trà đạp lên luật lệ của loài người và 300% thì dù có bị treo cổ cũng không sợ.
3.4. Kết luận mặt lượng của giá trị thặng dư:
Như vậy mặt lượng của giá trị thặng dư bao gồm tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị đã cho thấy các nhân tố tác động tới giá trị thặng dư và biện pháp mà nhà tư bản sử dụng để tăng lượng giá trị thặng dư.
4. Kết luận chung về giá trị thặng dư:
Việc nghiên cứu đầy đủ mặt chất, mặt lượng của giá trị thặng dư đã chỉ rõ quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản vì nó phản ánh bản chất bóc lột của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nó giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống các quy luật kinh tế hoạt động trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tất cả các quy luật khác như quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh... đều xoay quanh quy luật trung tâm là quy luật giá trị thặng dư. Nó là cơ sở tồn tại, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Nội dung của quy luật là sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho tư bản. Vì mục đích trực tiếp của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là sản xuất giá trị sử dụng mà là giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. C.Marx đã nói :'' Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm giàu, là nhân giá trị lên, làm tăng giá trị, do đó bảo tồn giá trị trước kia và tạo ra giá trị thăng dư. Như vậy sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản bằng tăng số lượng lao động làm thuê và tăng mức bóc lột họ là nội dung của quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quy luật giá trị thặng dư quyết định tới mọi mặt của xã hội tư bản: sự phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thay thế nó bằng xã hội khác cao hơn là quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nguyên do là ảnh hưởng hai mặt của quy luật giá trị thặng dư như sau:
Tác dụng tích cực của quy luật giá trị thặng dư là thúc đẩy kĩ thuật và phân công lao động xã hội phát triển. Các nhà tư bản luôn luôn tìm cách cải tiến kĩ thuật, ứng dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật hiện đại nhất làm cho lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa phát triển với tốc độ nhanh chóng. Cùng với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, máy móc hiện đại, công nghệ tiến bộ được sử dụng rộng rãi nên khối lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu do tăng năng suất lao động. Việc tăng năng suất lao động có đặc điểm là chi phí lao động sống trong một đơn vị sản phẩm giảm vì bị máy móc hiện đại thay thế; đồng thời cũng làm giảm một cách tuyệt đối chi phí lao động quá khứ trong một đơn vị sản phẩm. Nó cũng gây ra sự biến đổi lớn trong cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển: do cơ sở công nghệ mới, sản xuất phát triển theo chiều sâu, lao động phức tạp tăng ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0045.doc