LỜI MỞ ĐẦU
T
ừ khi công cuộc đổi mới đất nước được khởi xướng, Đảng và Nhà nước đã thực hiện đường lối đổi mới kinh tế đúng hướng, hợp với quy luật phát triển của xã hội nên đạt được những thành tựu kinh tế xã hội đáng mừng. Góp phần đạt được những thành tựu đó có nhiều yếu tố, trong đó có vai trò quan trọng của việc thực hiện tốt chiến lược tài chính - tiền tệ quốc gia mà trọng tâm là sử dụng công cụ ngân sách Nhà nước ( NSNN ) để điểu tiết nền kinh tế. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ các vai trò
41 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1561 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Sử dụng ngân sách nhà nước thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều tiết nền kinh tế vĩ mô ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, chức năng vốn có của NSNN là điều hết sức quan trọng bởi điều đó quyết định chất lượng, hiệu quả của các quyết định xây dựng và sử dụng công cụ NSNN trong kinh tế thị trường, tránh được các quyết định chủ quan duy ý chí, cội nguồn của các sai lầm không đáng có.
Trong kinh tế thị trường, NSNN thể hiện 3 vai trò chủ yếu: (1) Bảo đảm nguồn tài chính thực hiện chức năng Nhà nước công quyền, duy trì sự tồn tai của thể chế chính trị. (2) Là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều chỉnh kinh tế vĩ mô của Nhà nước. (3) Bù đắp những khuyết tật của thị trường, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Việc sử dụng NSNN thúc đẩy tăng trưởng và điều tiết nền kinh tế vĩ mô đã và đang trở nên thực sự cần thiết đối với mỗi quốc gia trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Vậy, Vì sao NSNN lại quan trọng và cần thiết như vậy? Tác động của NSNN có ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia? Việc sử dụng NSNN thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dựa trên cơ sở khoa học nào? Thực tiễn sử dụng NSNN ở Việt nam ra sao?
Xuất phát từ tính tất yếu và tầm quan trọng của việc sử dụng NSNN trong kinh tế thị trường, tôi quyết định chọn Đề tài: “Sử dụng ngân sách Nhà nước thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều tiết nền kinh tế vĩ mô ở Việt nam” cho bài Đề án Môn học Lý Thuyết Tài Chính Tiền Tệ của mình, nhằm phân tích và tìm hiểu những tác động của NSNN đến quá trình phát triển kinh tế.
PHẦN THỨ NHẤT
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA NSNN.
1.1. Khái niệm và đặc điểm chung của ngân sách Nhà nước.
Thuật ngữ “ngân sách Nhà nước” đã có từ lâu (từ khi xuất hiện phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa) và ngày nay được dùng phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội. Song cho đến nay chưa có một quan niệm thống nhất về khái niệm ngân sách Nhà nước.
Đại từ điển kinh tế thị trường (Trung Quốc) định nghĩa “Ngân sách Nhà nước là kế hoạch thu chi tài chính hàng năm của Nhà nước được xét duyệt theo trình tự pháp định”.
Theo từ điển thuật ngữ tài chính tín dụng (1996) của Viện nghiên cứu Tài chính (Việt nam): “Ngân sách được hiểu là dự toán và thực hiện mọi khoản thu nhập và chi tiêu của bất kỳ một cơ quan, xí nghiệp, tổ chức, gia đình hoặc cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm)”.
Luật NSNN năm 1996, sửa đổi bổ sung năm 1998 xác định “NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Tuy nhiên có thể khái quát đặc điểm chung của NSNN như sau:
- Các hoạt động thu, chi của NSNN luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế, chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định. Đằng sau những hoạt động thu, chi tài chính đó chứa đựng nội dung kinh tế, xã hội nhất định, chứa đựng những quan hệ kinh tế, lợi ích nhất định. Trong các quan hệ lợi ích đó, lợi ích quốc gia, lợi ích tổng thể bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và chi phối các mặt lợi ích khác trong thu, chi NSNN.
- Nét đặc trưng riêng biệt của NSNN với tư cách một quỹ tiền tệ của Nhà nước là Ngân sách được chia thành nhiều quỹ có tác dụng riêng và chỉ sau đó NSNN mới được chi dùng cho những mục đích nhất định đã định trước.
- Trong nền kinh tế thị trường, thu NSNN mang tính chất phân phối lại là chủ yếu, với hình thức thu phổ biến là thuế; chi NSNN chủ yếu nhằm đáp ứng cho việc thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội của Nhà nước.
- Các khoản chi của NSNN thường tập trung vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo các vấn đề xã hội nhằm tạo môi trường và hành lang thuận lợi cho hoạt động kinh tế.
- Ngoài ra, trong nền kinh tế thị trường hiện tượng chu kỳ kinh doanh xảy ra như một tất yếu. Bội chi NSNN không chỉ là do sự thay đổi chính sách mà còn do các bước thăng trầm của tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Đó cũng là nết nổi bật của NSNN trong nền kinh tế thị trường.
1.2. Vai trò NSNN trong nền kinh tế thị trường.
1.2.1. Kinh tế thị trường và vai trò của Nhà nước.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá - tiền tệ phát triển ở giai đoạn cao. Sản xuất, trao đổi hàng hoá trên thị trường chịu sự tác động chủ yếu của quy luật giá trị, quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật lưu thông tiền tệ. Tác động của các quy luật đó đã đưa đến những ưu thế và khuyết tật của kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước can thiệp vào quá trình kinh tế là một đòi hỏi khách quan nhằm khắc phục những khuyết tật vốn có của nền kinh tế thị trường, đưa nền kinh tế tăng trưởng, tạo đầy đủ công ăn việc làm, ổn định giá cả, hạn chế lạm phát. Khác với sự can thiệp của Nhà nước trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sự can thiệp của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là sự can thiệp gián tiếp thông qua các công cụ chủ yếu như: Pháp luật, kế hoạch, tổ chức, tài chính, tiền tệ... Trong các công cụ đó, ngân sách Nhà nước được coi là công cụ quan trọng nhất của Nhà nước.
Vai trò của ngân sách Nhà nước.
Vai trò của NSNN được xác lập trên cơ sở chức năng và nhiệm vụ cụ thể của nó trong từng giai đoạn.
Với chức năng phân phối, NSNN có vai trò huy động nguồn tài chính để bảo đảm nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và thực hiện cân đối thu - chi tài chính của Nhà nước. Đó là vai trò truyền thông của NSNN trong mọi mô hình kinh tế. Nó gắn với các chi phí của Nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình.
Xuất phát từ điều kiện cụ thể hiện nay thì NSNN còn là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, xã hội của Nhà nước. Vai trò này xuất phát từ yêu cầu khắc phục những khuyết tật vốn có của nền kinh tế thị trường. Vai trò công cụ điều chỉnh kinh tế, xã hội của NSNN thể hiện cụ thể trên các lĩnh vực sau đây:
- Về mặt kinh tế.
Để khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường, Nhà nước thực hiện việc định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. NSNN bảo đảm cung cấp kinh phí để Nhà nước đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt, trên cơ sở đó, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp. Ngoài ra bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, NSNN củng cố vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.
- Về mặt xã hội.
Thông qua hoạt động thu chi, NSNN thực hiện tái phân phối thu nhập, đảm bảo sự công bằng xã hội. Nhà nước thông qua hoạt động thu NSNN dưới hình thức kết hợp thuế gián thu và thuế trực thu để điều tiết chính đáng của người lao động, hạn chế những thu nhập bất chính.
Nhà nước thông qua hoạt động chi dưới hình thức trợ cấp giá để thực hiện các chính sách dân số, chính sách việc làm, chính sách thu nhập, chính sách bảo trợ xã hội...
- Về mặt thị trường.
Nhà nước thông qua các khoản thu chi NSNN để góp phần bình ổn giá cả, thị trường, chống lạm phát. Trong điều kiện kinh tế thị trường, sự biến động giá cả có nguyên nhân từ sự mất cân đối cung cầu. Bằng công cụ thuế và chính sách chi tiêu của ngân sách, Nhà nước có thể tác động vào khía cạnh cung hoặc cầu để bình ổn giá cả. Đặc biệt sự hình thành quỹ dự phòng trong NSNN để đối phó với sự biến động của thị trường đóng vai trò cực kỳ quan trọng để bình ổn giá cả. Sự thành công của Nhà nước trong điều chỉnh giá cả thị trường là thông qua việc hình thành và nghệ thuật sử dụng các quỹ dự trữ Nhà nước. Các quỹ dự trữ này được hình thành chủ yếu từ kinh phí NSNN.
Hoạt động thu chi của NSNN có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề lạm phát. Lạm phát là một căn bệnh nguy hiểm đối với nền kinh tế, lạm phát xảy ra khi mức giá cả chung tăng lên liên tục trong một khoảngthời gian nhất định. Để giảm lạm phát tất yếu phải dùng các biện pháp để hạ thấp giá. Sự tăng giá cả đó có nguyên nhân cung cầu mất cân đối, cung nhỏ hơn cầu. Bằng biện pháp thu chi của NSNN có thể nâng đỡ cung, giảm bớt cầu bằng cách tăng thuế tiêu dùng, giảm thuế đối với đầu tư phát triển, đồng thời thắt chặt các khoản chi tiêu của NSNN.
Tóm lại, NSNN trong kinh tế thị trường thể hiện 3 vai trò chủ đạo:
Thứ nhất, Ngân sách tiêu dùng: công cụ bảo đảm thực hiện chức năng công quyền và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, Ngân sách phát triển: công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều khiển kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Thứ ba, Ngân sách Nhà nước: công cụ bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
1.3. Chức năng của NSNN trong kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, NSNN có 2 chức năng cơ bản, đó là chức năng phân phối và chức năng giám đốc.
Chức năng phân phối.
Đối tượng phân phối của NSNN là các nguồn lực tài chính, thu nhập mới sáng tạo ra có liên quan đến Nhà nước, phần do Nhà nước làm chủ sở hữu, gắn liền với khả năng thu, chi, vay mượn của Chính phủ; gắn liền với việc hình thành, sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước (quỹ NSNN, quỹ dự trữ tài chính...) và có quan hệ chặt chẽ với các chủ thể khác của nền kinh tế (doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân, các đoàn thể, tổ chức phi kinh tế...) trong quá trình thực hiện chức năng phân phối.
Phạm vi phân phối NSNN được giới hạn ở các nghiệp vụ có liên quan tới quyền chủ sở hữu và quyền lực chính trị của Nhà nước. Nhà nước thực hiện chức năng phân phối nguồn tài lực khi cung cấp, tài trợ vốn cho các doanh nghiệp (thường là các doanh nghiệp mà Nhà nước là chủ sở hữu toàn bộ hay bộ phận); hoặc chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn tập trung từ NSNN. Chức năng phân phối thu nhập của NSNN được thực hiện khi phát sinh các nghiệp vụ thu và chi NSNN. Phân phối NSNN có mặt trong các khâu phân phối lần đầu (Nhà nước tham gia vào quá trình phân chia kết quả sản xuất, kinh doanh với tư cách chủ sở hữu vốn và tài sản trong các doanh nghiệp có vốn của Nhà nước...) và phân phối lại kết quả sản xuất, kinh doanh (thông qua thuế và chi tiêu công cộng).
Đặc điểm cơ bản của phân phối NSNN là: (1) Phân phối dưới hình thức giá trị, chủ yếu sử dụng tiền tệ làm đơn vị tính, làm phương tiện phân phối; (2) Tham gia không đầy đủ vào quá trình phân phối các yếu tố đầu vào (chủ yếu là Nhà nước đầu tư trực tiếp, cấp vốn kinh doanh, trợ cấp đối với nền kinh tế); (3) Thực hiện phân phối kết quả của quá trình sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ (chủ yếu thông qua thuế, phí, lệ phí, thu nhập quyền sở hữu cũng như các khoản chi từ NSNN cho cộng đồng); và do vậy, (4) Quá trình phân phối NSNN tác động đến cả bên cung và bên cầu của nền kinh tế gắn liền với sự hình thành và sử dụng quỹ ngân sách của Nhà nước; (5) Nhà nước luôn là chủ thể trong các quan hệ phân phối có liên quan đến NSNN, Nhà nước sử dụng tối đa quyền lực chính trị (Nhà nước pháp quyền) và quyền chủ sở hữu của Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng phân phối NSNN; (6) Về cơ bản, quá trình phân phối lại của NSNN mang đặc tính không hoàn trả, không phát sinh nghiệp vụ vay trả nợ, không hình thành trái chủ.
Những đặc điểm này cho phép phân biệt phân phối NSNN theo cơ chế cạnh tranh thị trường với phân phối theo mệnh lệnh của cơ chế kế hoạch hoá; tạo cơ sở cho những quyết sách đúng đắn, can thiệp đúng cách vào sự tiến triển kinh tế - xã hội; có những biện pháp thích hợp để huy động tối đa các nguồn lực theo các cơ chế thích hợp cho phát triển kinh tế, có thể là cơ chế thị trường, có thể là cơ chế điều tiết của Nhà nước, có thể là cả hai, tuỳ từng trường hợp; Và quan trọng hơn, mỗi khi hoạch định chính sách thu, chi NSNN cần thiết phải tính đến các tác động của thu chi ngân sách tới cung, cầu của nền kinh tế nhằm phát huy hiệu quả cao nhất của mỗi đồng tiền thu vào và chi ra từ NSNN.
Chức năng giám đốc.
Giám đốc ở đây được hiểu là giám sát, đôn đốc, kiểm tra bằng đồng tiền, tiến hành một cách thường xuyên, liên tục cùng với quá trình vận động của các đối tượng phân phối NSNN. Chức năng giám đốc của NSNN gắn liền với chức năng phân phối NSNN, thông qua phân phối mà thực hiện giám sát, kiểm tra; nhờ có kiểm tra, giám sát mà quá trình phân phối NSNN được thực hiện đúng pháp luật, có hiệu quả.
Công cụ giám đốc NSNN là các nghiệp vụ thống kê, nghiệp vụ kế toán, kiểm toán, nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra tài chính, ngân sách và các phương tiện thông tin đại chúng.
Giám đốc NSNN thực hiện ở cả tầm vĩ mô và vi mô, cả trực tiếp và gián tiếp. Giám đốc NSNN cung cấp thông tin về các cân đối thu, chi NSNN, về thực tế thu, chi và tồn quỹ NSNN tại các thời điểm cần thiết, về thực trạng gánh nặng nợ Nhà nước và khả năng thanh toán của Chính phủ. Thông qua chức năng giám đốc của NSNN, Nhà nước kiểm soát tình hình tài chính vĩ mô. Những chỉ tiêu của giám đốc NSNN là những chỉ tiêu cơ bản, chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống các chỉ tiêu giám sát tài chính của mỗi quốc gia. Giám đốc NSNN còn xem xét mức độ kết quả thực hiện chế độ, hạn mức chi NSNN tại cơ sở, xem xét việc chấp hành luật pháp tài chính tại các doanh nghiệp Nhà nước và các đơn vị sử dụng NSNN.
Giám đốc của NSNN bao gồm giám đốc tuân thủ và giám đốc hiệu quả. Giám đốc tuân thủ là giám đốc quá trình hình thành và sử dụng quỹ NSNN, xem xét trong quá trình đó công việc thu, chi, tài trợ, cấp vốn... có tuân thủ đúng chế độ, đúng dự toán được phê chuẩn, có nằm trong khuôn khổ pháp luật cho phép hay không. Giám đốc hiệu quả là thông qua phân phối thu, chi NSNN (kể cả chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển) mà xem xét việc phân phối và sử dụng NSNN có mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội không? Có lãng phí không?...
Nếu thực hiện tốt chức năng giám đốc, một mặt Nhà nước sẽ được cung cấp những hình ảnh đúng đắn, trung thực, sống động về thực trạng, về quá trình diễn biến, về xu hướng vận động của NSNN . Mặt khác, trên cơ sở kết quả giám đốc, Nhà nước tiếp tục vững bước hoặc có những điều chỉnh cần thiết trong điều hành NSNN, tiến tới các mục tiêu chiến lược đã xác định một cách có hiệu quả.
2. THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.
2.1. Khái niệm và nội dung kinh tế của thu NSNN.
Thu NSNN thực chất là sự phân chia nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội dựa trên quyền lực của Nhà nước nhằm giải quyết hài hoà các mặt lợi ích kinh tế. Đối tượng phân chia là nguồn tài chính quốc gia. Nguồn tài chính quốc gia là kết quả do lao động sản xuất trong nước tạo ra thể hiện dưới hình thức tiền tệ.
Việc phân loại các khoản thu NSNN có ý nghĩa thiết thực trong việc phân tích, đánh giá và quản lý các nguồn thu của NSNN. Dựa vào nội dung kinh tế và tính chất có thể chia khoản thu NSNN thành hai nhóm:
- Nhóm thu thường xuyên có tính chất bắt buộc bao gồm thuế và lệ phí.
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc được thể chế bằng luật do các cá nhân và thể nhân đóng góp cho Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường thuế được coi là công cụ quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thuế không những là nguồn thu quan trọng chủ yếu của NSNN mà còn có ảnh hưởng to lớn đến công cuộc phát triển kinh tế.
+ Thuế góp phần thúc đẩy sự tích luỹ tư bản ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế.
+ Thuế là công cụ phân phối lại lợi tức làm gia tăng tiết kiệm trong khu vực tư nhân và đảm bảo sự công bằng trong xã hội.
+ Thuế là một trong những biện pháp chế ngự lạm phát.
Dựa vào tính chất chuyển giao của thuế người ta phân thuế ra hai loại: thuế trực thu đánh trực tiếp vào người nộp thuế tức là người có thu nhập chịu thuế, như doanh nghiệp, cá nhân có thu nhập cao; thuế gián thu là loại thuế đánh vào người tiêu dùng thông qua giá cả hàng hoá và dịch vụ.
Khác với thuế lệ phí là một khoản tiền mà dân chúng phải trả cho Nhà nước khi họ hưởng thụ những dịch vụ do Nhà nước cung cấp, lệ phí cũng là một khoản thu mang tính chất bắt buộc nhưng mang tính chất đối giá. So với thuế, tính pháp lý của lệ phí thấp hơn.
- Nhóm thu không thường xuyên bao gồm:
+ Lợi tức cổ phần của Nhà nước tại các công ty cổ phần.
+ Tiền cho thuê hoặc bán tài sản thuộc sở hữu Nhà nước.
+ Thu hợp tác lao động với nước ngoài.
+ Thu khác (nhận viện trợ ...).
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN.
- Thu nhập GDP bình quân đầu người.
- Khả năng xuất khẩu dầu mỏ và khoáng sản.
- Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế.
- Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước.
- Tổ chức bộ máy thu nộp NSNN.
CHI NGÂN SÁCH VÀ VẤN ĐỀ BỘI CHI NSNN.
Khái niệm, đặc điểm và nội dung của chi NSNN.
Chi NSNN là quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN theo những nguyên tắc nhất định nhằm thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - chính trị - xã hội của Nhà nước trong từng giai đoạn.
Mỗi một chế độ xã hội, mỗi một giai đoạn lịch sử, chi NSNN có những nội dung cơ cấu khác nhau, song chúng có những đặc điểm chung. Có thể khái quát những đặc điểm chung đó trên những khía cạnh chủ yếu sau đây:
- Chi NSNN gắn chặt với bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà Nhà nước đảm đương trước mỗi quốc gia.
- Cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước (Quốc Hội) là chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu, nội dung, mức độ các khoản chi của NSNN.
- Hiệu quả của các khoản chi NSNN được xem xét trên tầm vĩ mô, tức là dựa vào việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội mà các khoản chi ngân sách đảm nhiệm.
- Các khoản chi của NSNN mang tính chất không hoàn trả trực tiếp, thể hiện ở chỗ không phải mọi khoản thu với mức độ và số lượng của những địa chỉ cụ thể đều được hoàn lại dưới các khoản chi của NSNN.
- Các khoản chi của NSNN gắn chặt với sự vận động của các phạm trù giá trị khác thuộc lĩnh vực tiền tệ như tiền lương, giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái ...
Để đánh giá tính tích cực, tiến bộ của NSNN của một nước người ta thường xem xét đến cơ cấu nội dung thu chi của nó. Nội dung, cơ cấu chi NSNN đối với mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử chịu sự chi phối của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội.
- Chế độ xã hội là nhân tố cơ bản ảnh hưởng quyết định đến nội dung cơ cấu chi NSNN. Chế độ xã hội quyết định đến bản chất và nhiệm vụ kinh tế - xã hội của Nhà nước. Nhà nước là chủ thể của chi NSNN vì lẽ thế đương nhiên nội dung cơ cấu chi NSNN chịu sự ràng buộc của chế độ xã hội.
- Nhân tố thứ hai ảnh hưởng đến nội dung cơ cấu chi NSNN là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất vừa tạo khả năng và điều kiện cho việc hình thành nội dung cơ cấu chi một cách hợp lý, vừa đặt ra yêu cầu thay đổi nội dung cơ cấu chi trong từng thời kỳ nhất định.
- Nhân tố thứ ba là khả năng tích luỹ của nền kinh tế. Khả năng tích luỹ càng lớn thì khả năng chi đầu tư phát triển kinh tế càng lớn và do vậy gánh nặng chi đầu tư phát triển lên NSNN sẽ được giảm nhẹ.
- Nhân tố thứ tư ảnh hưởng đến nội dung cơ cấu chi NSNN là mô hình tổ chức bộ máy của Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, xã hội mà Nhà nước đảm nhận trong từng giai đoạn lịch sử.
Ngoài những nhân tố trên, có thể nói nội dung cơ cấu chi NSNN của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn nhất định chịu ảnh hưởng rất nhiều từ các nhân tố như : biến động kinh tế, chính trị, xã hội và giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái v.v...
Nhằm phân tích, đánh giá quản lý và định hướng các khoản chi, người ta tiến hành phân loại chi NSNN theo những tiêu thức khác nhau.
Căn cứ vào mục đích kinh tế - xã hội của các khoản chi có thể phân chia các khoản chi thành hai loại:
- Chi cho đầu tư phát triển sản xuất.
- Chi cho tiêu dùng.
Chi đầu tư phát triển sản xuất là những khoản chi nhằm tạo ra cơ sở vật chất và làm tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Các khoản chi này có tác dụng góp phần làm cho nền kinh tế tăng trưởng.
Chi tiêu dùng là các khoản chi không tạo ra sản phẩm vật chất để tiêu dùng trong tương lai mà nó dùng cho tiêu dùng hiện tại đối với từng cá thể, từng bộ phận.
Căn cứ vào lĩnh vực chi, có thể chia các khoản chi theo các loại:
- Chi cho y tế;
- Chi cho giáo dục;
- Chi cho phúc lợi;
- Chi quản lý Nhà nước;
- Chi đầu tư kinh tế.
Căn cứ theo yếu tố có thể phân loại các khoản chi thành:
- Chi thường xuyên;
- Chi đầu tư;
- Chi trả khác (chi trả nợ gốc, cho vay ...).
Cách phân loại này là theo thông ước quốc tế. Các khoản chi thường xuyên là khoản chi cho tiêu dùng hiện tại gồm tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng của các tổ chức sự nghiệp. Các khoản chi này ở mỗi nước có thể bao gồm: chi lương và tiền công; chi mua sắm hàng hoá và dịch vụ; chi chuyển giao thường xuyên.
Các khoản chi đầu tư là các khoản chi cho tiêu dùng trong tương lai. Các khoản chi này có tác dụng làm tăng cơ sở vật chất của quốc gia và góp phần làm tăng trưởng kinh tế. Thông thường các khoản chi này bao gồm: chi trả tiền thuê bất động sản, tài sản tài chính; đầu tư cơ bản; chuyển giao vốn đầu tư...
Căn cứ theo chức năng của Nhà nước thì các khoản chi của NSNN có thể phân chia thành hai loại:
- Chi nghiệp vụ;
- Chi phát triển.
Các khoản chi nghiệp vụ thường bao gồm các khoản chi lương, tiền công; trả nợ; hỗ trợ và chuyển giao; hưu trí và thâm niên; cung cấp và dịch vụ; trợ cấp và trợ giá; chi khác.
Các khoản chi phát triển bao gồm chi dịch vụ kinh tế; chi an ninh, quốc phòng; chi các dịch vụ xã hội; chi quản lý hành chính.
3.2. Sử dụng NSNN thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Cơ sở khoa học và điều kiện áp dụng.
3.2.1. Ngân sách phát triển: công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Trái với quan niệm “ngân sách tiêu dùng” hoặc “ngân sách cai trị” có quy mô vừa phải, đủ đảm bảo chi thường xuyên, chi quốc phòng , an ninh là quan điểm ủng hộ Nhà nước sử dụng ngân sách can thiệp vào kinh tế. Nhà nước cần phải tác động vào quá trình phát triển kinh tế, dù đó là kinh tế kế hoạch hóa tập trung hay kinh tế thị trường. Với ý nghĩa đó, tiềm lực tài chính của Nhà nước phải đủ mạnh bảo đảm triển khai các biện pháp can thiệp kinh tế. Quy mô thu, chi NSNN phải đủ lớn đảm bảo cho Nhà nước chủ động thực hiện các chính sách tài khóa nới lỏng (hoặc thắt chặt), thực hiện kích cầu đầu tư, tiêu dùng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong điều hành chính sách tài khoá, Nhà nước có thể quyết định tăng ( hoặc giảm thuế), tăng (hoặc giảm) quy mô thu NSNN, tăng (hoặc giảm) quy mô chi NSNN nhằm tác động vào nền kinh tế. Nhà nước cũng có thể quyết định ban hành thêm, hoặc cắt bỏ, hoặc tăng, giảm mức thu của một hoặc nhiều sắc thuế làm thay đổi kết cấu nguồn thu NSNN từ thuế. Đồng thời, Nhà nước cũng hoàn toàn có thể quyết định thay đổi cơ cấu chi NSNN, tăng mức và tỷ trọng chi của từng khoản mục chi trong tổng chi NSNN xác định. Cuối cùng, Nhà nước còn có thể áp dụng chính sách tài khoá lới lỏng, có bội chi và kéo theo đó là bù đắp bội chi, hoặc chính sách ngân sách cân bằng, không có bội chi (hoặc ngược lại)... Tất cả điều đó thể hiện vị trí quan trọng của NSNN với tư cách một công cụ tài chính vĩ mô sắc bén và hữu hiệu nhất để Nhà nước can thiệp , điều chỉnh nền kinh tế. Dù muốn hay không mỗi khoản chi ngân sách đều có tác động đến tổng cầu của nền kinh tế, và do vậy NSNN không trung tính trước các hoạt động kinh tế. Chính vì thế Nhà nước cần nắm chắc cơ chế tác động của chi ngân sách đối với kinh tế thông qua nhận thức đầy đủ và làm chủ cơ chế tác động của hiệu ứng kích thích kinh tế, phát huy vai trò thúc đẩy kinh tế của NSNN.
3.2.2. Tính không trung tính của chi NSNN.
Tính không trung tính của NSNN trước các hoạt động kinh tế đã được Haavelmo, nhà kinh tế học Phần Lan, giải thưởng Nobel kinh tế năm 1989, khái quát thành định lý sau này mang tên ông - định lý Haavelmo: “NSNN không trung tính kinh tế , thậm chí ngay cả khi tổng chi NSNN được bù đắp hoàn toàn bằng tổng thu từ thuế trong nội bộ nền kinh tế thì tổng chi NSNN vẫn có tác dụng kích thích hoạt động kinh tế”.
Xuất phát từ phương trình cân đối kinh tế vĩ mô :
Y = [ C0+ c(Y - T + F) ] + I +G + (X - M). (1)
Trong điều kiện kinh tế thị trường mở, tổng thu nhập quốc nội cân bằng vơi tổng tiêu dùng và đầu tư ( I ) thực của khu vực tư nhân (ngoài phạm vi Nhà nước) cộng với tổng chi tiêu của Chính phủ (G) và tổng cầu đối ngoại thuần (X - M).
Trong đó, tiêu dùng thực của khu vực tư nhân bao gồm: tiêu dùng bất biến C0 và tiêu dùng khả biến c(Y - T + F) phụ thuộc vào hệ số tiêu dùng cận biên (c), mức thu nhập mới tăng (Y), thuế thu nhập phải nộp (T) và mức trợ cấp chuyển giao (F); Chi tiêu của Chính phủ (G) bao gồm chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trợ cấp, chuyển giao từ NSNN (không xét đến chi trả nợ và dự trữ).
Ta xác định được hiệu ứng kích thích kinh tế của tăng chi NSNN (êY = k.êG) và hiệu ứng ngược chiều của tăng thuế (êY = k.(-c).êT). Trên cơ sở đó, hiệu ứng kích thích kinh tế tổng hợp được xác định theo công thức:
1
1 - c
êY = k.êG + k.(-c).êT .
Trong đó, k là hệ số kích thích kinh tế được xác định bởi k = .
Riêng nhập khẩu là yếu tố làm giảm hiệu ứng kích thích kinh tế mà không làm thay đổi cách thức lập luận. Do vậy, để đơn giản hoá, nhập khẩu được giả định là không có, hoặc cán cân thương mại quốc tế cân bằng. Nếu Chính phủ chỉ tăng thuế mà không sử dụng các biện pháp tạo nguồn bù đắp khác, nghĩa là tổng chi NSNN tăng thêm được bù đắp hoàn toàn bởi tăng thuế (êG = êT), ta có:
êY = k.êG - k .c.êT .
1 - c
1 - c
thay k vào ta được:
êY = êG
Trong trường hợp này, hiệu ứng kích thích kinh tế tổng hợp từ tăng chi NSNN bằng 1, mỗi một khoản chi NSNN tăng thêm sẽ làm GDP tăng trưởng một khoản vừa đúng bằng giá trị khoản chi NSNN được giải ngân. Việc tăng thuế sẽ làm giảm nhưng không loại trừ hoàn toàn hiệu ứng kích thích kinh tế của biện pháp mở rộng chi tiêu. Thuế càng tăng thì hiệu ứng kích thích kinh tế của tăng chi NSNN càng giảm. Khi thuế tăng đến mức đủ bù đắp toàn bộ phần tăng thêm của chi NSNN thì hiệu ứng kích thích kinh tế giảm xuống bằng 1. Lúc đó, 100 tỷ tăng chi NSNN sẽ chỉ làm tăng 100 tỷ tăng trưởng GDP là tối đa. Rõ ràng, ngay trong trường hợp xấu nhất, Nhà nước tăng thuế để bù đắp tăng chi thì NSNN vẫn có tác động kích thích tăng trưởng và không trung tính trước hoạt động kinh tế.
Vai trò kích thích kinh tế của chi NSNN phát sinh theo cơ chế nào ?
Như trên đã phân tích, mỗi một khoản chi NSNN đều gây ra một hiệu ứng kích thích nhất định đối với nền kinh tế. Hiệu ứng kích thích kinh tế của NSNN bao gồm hiệu ứng kích thích kinh tế của chi ngân sách và hiệu ứng kích thích kinh tế của thuế. Để tìm hiểu các hiệu ứng này, ta cũng xuất phát từ phương trình cân đối kinh tế vĩ mô:
Y = [ C0+ c(Y - T + F) ] + I +G + (X - M). (1)
Phương trình (1) tương đương với:
Y = Co + cY - cT + cF + I + G +X - mY. (2)
Trong đó, m là hệ số nhập khẩu cận biên (m cho biết có bao nhiêu % thu nhập mới tăng được sử dụng để nhập khẩu).
Phương trình (2) cho thấy: tăng trưởng GDP tỷ lệ nghịch với thuế và nhập khẩu. Điều này đã được thực tế kiểm chứng.
Từ phương trình (2) suy ra:
1
1 - c + m
Y = (Co
- cT + cF + I + G + X ) (3)
1
(1 - c + m)
Gọi k = là hệ số kích thích kinh tế. Ta thấy hệ số kích
thích kinh tế (k) tỷ lệ thuận với hệ số tiêu dùng cận biên (c) và tỷ lệ nghịch với hệ số nhập khẩu cận biên (m).
Từ phương trình (3) ta có thể xác định được hiệu ứng kích thích của chi NSNN, gồm chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên và chi trợ cấp chuyển giao:
Quyết định tăng chi đầu tư từ NSNN sẽ trực tiếp làm tăng thu nhập cho các tác nhân kinh tế có liên quan đến quá trình triển khai dự án với tổng mức tương đương giá trị đầu tư được thực hiện. Một bộ phận thu nhập mới tăng này sẽ được dành cho tiết kiệm, phần còn lại được sử dụng cho tiêu dùng do đó sẽ làm tăng thu nhập của người bán. Đến lượt mình người bán hàng lại sử dụng một phần thu nhập mới tăng của mình cho mua sắm hàng hoá và dịch vụ... Chu trình kích thích kinh tế đã được khởi động và cứ thế phát huy tác dụng. Kết quả là tổng hiệu ứng kích thích kinh tế của việc tăng chi đầu tư từ NSNN lớn hơn rất nhiều so với hiệu quả tăng GDP ngay ở vòng đầu tiên.
Quyết định chi mua sắm hàng hoá dịch vụ của chính phủ (tăng chi thường xuyên) sẽ làm tăng thu nhập của người bán hàng, mà một phần thu nhập mới tăng đó sẽ được tiếp tục sử dụng cho tiêu dùng và tiếp tục làm tăng thu nhập bán hàng ở các khâu tiếp theo ... Chu trình kích thích kinh tế đã được khởi động và cứ thế phát huy tác dụng, mang lại tổng hiệu ứng kích thích kinh tế lớn hơn nhiều so vơi hiệu quả tác động ngay ở vòng đầu tiên.
Quyết định tăng lương , tăng mức trợ cấp chuyển giao từ NSNN của Chính phủ (tăng chi thường xuyên và trợ cấp) sẽ trực tiếp làm tăng thu nhập thực tế của người hưởng lương và trợ cấp từ NSNN. Các đối tượng này sẽ sử dụng thu nhập mới tăng thêm đó cho tiết kiệm và tiêu dùng, và phần sử dụng cho tiêu dùng sẽ làm tăng thu nhập của người bán hàng. Đến lượt họ , người bán hang cũng sẽ sử dụng một phần thu nhập mới tăng để tiêu dùng... Vòng quay của chu trình kích thích kinh tế cũng đã được khởi động và cứ thế phát huy tác dụng.
Đương nhiên, trong các trường hợp trên qua mỗi vòng, lượng thu nhập mới tăng bị rò rỉ một phần do tiết kiệm, một phần tiếp tục tham gia vào vòng quay của chu trình, tạo nên hiệu ứng kích cầu. Cuối cùng, hiệu ứng kích thích kinh tế tổng hợp lớn hơn rất nhiều so với hiệu quả trực tiếp ngay ở vòng thứ nhất. Tổng hợp cả 3 khoản tăng chi NSNN (chi đầu tư phương trình, chi thường xuyên, chi trợ cấp chuyển giao) sẽ xác định được tổng hiệu ứng kích thích kinh tế từ tăng chi NSNN nói chung, ta có thể tham khảo bảng tính minh hoạ dưới đây. Với mục đích đơn giản hoá tính toán và lập luận, bảng tính chỉ nghiên cứu hiệu ứng kích thích kinh tế do tăng chi NSNN nói chung mà không đề cập chi tiết các hiệu ứng bộ phận của từng khoản cấu thành tăng chi NSNN bởi bản chất tác động của chúng là như nhau (S là tiết kiệm, Y là thu nhập, C là tiêu dùng, ê chỉ mức tăng thêm).
Tổng hợp hiệu ứng kích thích kinh tế của tăng chi NSNN.
Trường hợp không có nhập khẩu
Trường hợp có nhập khẩu
êY(0) êS êC êY(1)
êY(0) êS êC mY êY(1)
Vòng 1
Vòng 2
Vòng 3
Vòng 4
...
100 20 80 80
80 16 64 64
64 13 51 51
51 10 41 41
... ... ... ...
100 20 80 20 60
60 12 48 12 36
36 7,2 28,8 7,2 21,6
21,6 4,3 17,3 4,3 13
... ... ... ... ...
Tổng cộng
500
250
Trong trường hợp nhập khẩu bằng 0, với khoản chi khởi động 100 tỷ, khuynh hướng tiêu dùng 0,8; khuynh hướng tiết kiệm 0,2; hệ số kích thích kinh tế của chi NSNN ( k = 1 / (1 - 0,8 + 0) ) bằng 5, ta thấy tổng hiệu ứng kích thích tăng trưởng kinh tế của khoản tăng chi NSNN ban đầu đã lên tới 500 tỷ.
Cũng trong điều kiện đó như._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35247.doc