MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Chương 1: Lý thuyết về rủi ro trong hoạt động Ngân hàng và thực trạng rủi ro tín dụng ở Việt Nam 3
1.1 Tổng quan về rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng 3
1.1.1 Khái niệm về rủi ro 3
1.1.2 Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng 4
1.1.2.1 Rủi ro tín dụng 5
1.1.2.2 Rủi ro lãi suất 5
1.1.2.3 Rủi ro tỷ giá 6
1.1.2.4 Rủi ro thanh toán 7
1.1.2.5 Rủi ro trong dịch vụ bảo quản và quản lý chứng từ có giá 9
1.1.2.6 Rủi ro khác 11
1.2 Rủi ro tín dụng t
93 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3715 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Sử dụng mô hình Logistic tính xác suất nợ khó đòi & ứng dụng trong xếp hạng tín dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong hoạt động của Ngân hàng thương mại 11
1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng 11
1.2.2 Các hình thức biểu hiện của rủi ro tín dụng 14
1.2.2.1 Nợ có vấn đề 14
1.2.2.2 Nợ quá hạn 15
1.2.2.3 Nợ khó đòi 16
1.2.2.4 Lãi treo 17
1.2.2.5 Cơ cấu dư nợ tín dụng 18
1.2.2.6 Một số dấu hiệu khác 18
1.2.3 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng 19
1.2.3.1 Những nguyên nhân bất khả kháng 19
1.2.3.2 Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay 19
1.2.3.3 Nguyên nhân thuộc về Ngân hàng 20
1.3 Thực trạng rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam 21
1.3.1 Các loại rủi ro tín dụng 21
1.3.2 Tình hình rủi ro tín dụng ở các NH thương mại Việt Nam 23
Chương 2: Lý luận về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp 25
2.1 Tổng quan về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp 25
2.1.1 Khái niệm về xếp hạng doanh nghiệp 25
2.1.2 Sự cần thiết của công tác đánh giá xếp hạng doanh nghiệp 28
2.1.3 Vai trò của xếp hạng doanh nghiệp 30
2.2 Thực trạng xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp ở Việt Nam 32
2.2.1 Kinh nghiệm của Thế giới 32
Các mô hình phát hiện 33
2.2.1.2 Mô hình thống kê 34
2.1.2 Thực trạng tại Việt Nam 40
Chương 3: Sử dụng mô hình Logistic tính xác suất nợ khó đòi và ứng dụng trong xếp hạng doanh nghiệp 51
3.1 Mô hình Logistic và ứng dụng trong xếp hạng doanh nghiệp 51
3.1.1 Mô hình Logistic 51
3.1.2 Ứng dụng mô hình Logistic vào xếp hạng doanh nghiệp 52
3.2 Phương pháp tính xác suất nợ khó đòi cho các doanh nghiệp Việt Nam 54
3.2.1 Các bước tiến hành xếp hạng tín dụng 54
3.2.1.1 Các chỉ tiêu tài chính 55
3.2.1.2 Các chỉ tiêu phi tài chính 58
3.2.2 Mô hình xác suất có nợ khó đòi 58
Mô hình xác suất có nợ khó đòi đối với các doanh nghiệp thuộc ngành Nông, lâm, ngư nghiệp 59
Mô hình xác suất xảy ra nợ khó đòi đối với các doanh nghiệp thuộc ngành Xây dựng 66
Mô hình xảy ra xác suất có nợ khó đòi đối với các doanh nghiệp thuộc ngành Công nghiệp 71
3.2.1.4 Mô hình xảy ra xác suất có nợ khó đòi đối với các doanh nghiệp thuộc ngành Thương mại, dịch vụ 75
Mô hình tự hồi quy – AR(2) 79
3.3 Ứng dụng mô hình vào một số doanh nghiệp Việt Nam 79
NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Đồ thị 1.1: Phân phối xác suất của lợi tức đầu tư 12
Đồ thị 1.2: Phân bổ xác suất rủi ro đối với một danh mục đầu tư 13
Bảng 2.1: Bảng ký hiệu xếp hạng tín nhiệm sử dụng cho nợ dài hạn 26
Bảng 2.2: Cơ cấu chấm điểm của các công ty xếp hạng tín nhiệm 38
Bảng 2.3: Phần mềm chấm điểm FICO 39
Bảng 2.4: Bảng cơ cấu điểm của toàn dân Mỹ 39
Bảng 2.5: Tỷ lệ vỡ nợ của các ngành kinh tế Đức những năm 1980 40
Bảng 2.6: Bảng xếp loại tín dụng tại CIC 47
Bảng 2.7: Kết quả xếp hạng doanh nghiệp có báo cáo tài chính năm 2004 theo ngành kinh tế 48
Bảng 2.8: Xếp hạng doanh nghiệp có báo cáo tài chính năm 2004 theo loại hình doanh nghiệp 49
Bảng 3.1: Các bước xếp hạng tín dụng 55
Bảng 3.2: Mô hình Logitstic đầy đủ biến số cho các doanh nghiệp thuộc ngành nông, lâm, ngư nghiệp 60
Bảng 3.3: Mô hình Logistic chuẩn đối với ngành nông, lâm, ngư nghiệp 62
Bảng 3.4: Kết quả tính xác suất nợ khó đòi của các doanh nghiệp thuộc ngành nông, lâm, ngư nghiệp qua các năm 65
Đồ thị 3.1: Tỷ lệ doanh nghiệp nông, lâm, ngư nghiệp có cùng xác suất nợ khó đòi 65
Bảng 3.5: Mô hình tính xác suất nợ khó đòi của các doanh nghiệp xây dựng với đầy đủ các biến số 66
Bảng 3.6: Mô hình Logistic chuẩn đối với ngành xây dựng 68
Bảng 3.7: Kết quả tính xác suất nợ khó đòi của các doanh nghiệp xây dựng 69
Đồ thị 3.2: Tỷ lệ doanh nghiệp xây dựng có cùng xác suất nợ khó đòi 70
Bảng 3.8: Mô hình tính xác suất nợ khó đòi đối với doanh nghiệp công nghiệp với đầy đủ các biến số 71
Bảng 3.9: Mô hình chuẩn tính xác suất nợ khó đòi đối với doanh nghiệp công nghiệp 73
Bảng 3.10: Kết quả tính xác suất nợ khó đòi các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp qua các năm 74
Đồ thị 3.3: Tỷ lệ doanh nghiệp có cùng xác suất nợ khó đòi của ngành công nghiệp 74
Bảng 3.11: Mô hình với đầy đủ biến số đối với Ngành Thương mại, dịch vụ 75
Bảng 3.12: Mô hình chuẩn đối với ngành Thương mại, dịch vụ 76
Bảng 3.13: Kết quả tính xác suất nợ khó đòi của các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ 77
Đồ thị 3.4: Tỷ lệ doanh nghiệp có cùng xác suất nợ khó đòi của ngành thương mại, dịch vụ 78
Đồ thị 3.5: So sánh tỷ lệ doanh nghiệp có cùng xác suất nợ khó đòi giữa các ngành kinh tế năm 2003 78
Bảng 3.14: Mô tả xếp loại dựa vào xác suất nợ khó đòi 79
Bảng 3.15: Các chỉ tiêu tài chính của các doanh nghiệp 80
Bảng 3.16: Bảng tính xác suất có nợ khó đòi 81
Bảng 3.17: Bảng thông tin phi tài chính của DN HA 82
Bảng 3.18: Bảng thông tin phi tài chính của DN MP 82
Bảng 3.19: Bảng thông tin phi tài chính của DN XNK 82
Bảng 3.20: Thông tin phi tài chính của SĐ 83
Bảng 3.21: Bảng xếp hạng một số doanh nghiệp 83
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CIC : Trung tâm Thông tin tín dụng.
NHTM : Ngân hàng thương mại.
NH : Ngân hàng.
TCTD : Tổ chức tín dụng.
TSLĐ : Tài sản lưu động.
ĐH : Đại học.
DN : Doanh nghiệp.
NKĐTC: Nợ không đủ tiêu chuẩn.
LỜI MỞ ĐẦU
T
rong điều kiện hội nhập kinh tế và Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại Thế giới (WTO), vì vậy nền kinh tế Việt Nam phải thực sự đối mặt với những thách thức hết sức to lớn. Nguyên nhân của những thách thức đó là nền kinh tế Việt Nam còn yếu kém về nhiều mặt: công nghệ còn lạc hậu, trình độ còn chưa phát triển…Đặc biệt đối với ngành Ngân hàng, xu hướng tự do hoá và toàn cầu hoá kinh tế khiến hoạt động kinh doanh của ngành Ngân hàng của Việt Nam càng trở nên phức tạp, dẫn tới nhiều rủi ro hoạt động. Vì vậy quá trình cải cách tài chính - ngân hàng là một bộ phận quan trọng, không thể tách rời trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Đối với các hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, rủi ro hầu như có mặt trong từng nghiệp vụ ngân hàng và muốn có lợi nhuận thì phải chấp nhận rủi ro. Tuy nhiên tín dụng là hoạt động chủ yếu hiện đang chiếm tỷ trọng lớn nhất: từ 60-70% trong danh mục tài sản có của Ngân hàng, đặc biệt nguồn tín dụng này đóng vai trò kênh dẫn vốn chủ đạo cho các doanh nghiệp. Thế nhưng hoạt động tín dụng lại đang gặp nhiều khó khăn và có xu hướng đóng băng. Sự đình trệ và hoạt động kém hiệu quả của hoạt động tín dụng không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng mà còn gây trở ngại không nhỏ cho sự phát triển của nền kinh tế và sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước.
Trong hoạt động tín dụng, đánh giá rủi ro tín dụng là khâu đầu tiên, là điều kiện tiên quyết trước khi cho vay. Vì vậy Ngân hàng nhà nước đã ban hành quyết định số 68/1999/QĐ – NHNN9 ngày 27/02/1999 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước thành lập Trung tâm Thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước (Credit information center – viết tắt CIC). CIC có chức năng thu thập và cung cấp, dịch vụ Thông tin tín dụng cho Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng, tổ chức và cá nhân khác nhằm góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, phục vụ công tác quản lý của Ngân hàng Nhà nước, phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng và phát triển kinh tế xã hội. Việc xếp hạng tín dụng doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, bởi vì thông qua xếp hạng doanh nghiệp các Ngân hàng có thể xác định mức lãi suất cho vay đối với từng doanh nghiệp, tạo điều kiện ổn định nền kinh tế. Vì vậy em đã chọn đề tài “Sử dụng mô hình Logistic tính xác suất nợ khó đòi và ứng dụng trong xếp hạng tín dụng ”. Đề tài của em gồm 3 phần:
Chương 1: Lý thuyết về rủi ro trong hoạt động Ngân hàng và thực trạng rủi ro tín dụng ở Việt Nam.
Chương 2: Lý luận về xếp hạng doanh nghiệp.
Chương 3: Sử dụng mô hình Logistic tính xác suất nợ khó đòi và ứng dụng trong xếp hạng doanh nghiệp.
Trong thời gian học tập ở trường kết hợp với thời gian thực tập ở Trung tâm Thông tin tín dụng – Ngân hàng nhà nước, được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô và của trung tâm nói chung, Phòng Phân tích nói riêng em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS. TS. NGUYỄN QUANG DONG – khoa Toán Kinh tế; cảm ơn cán bộ nhân viên trong CIC nói chung, cùng các anh chị phòng Phân tích đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương 1: Lý thuyết về rủi ro trong hoạt động Ngân hàng và thực trạng rủi ro tín dụng ở Việt Nam
Tổng quan về rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Khái niệm về rủi ro
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Vì vậy trong bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống đều có thể xảy ra rủi ro. Đối với cuộc sống đời thường rủi ro có thể là những điều hết sức đơn giản chẳng hạn như bị mất cắp....; đối với các Ngân hàng thương mại luôn luôn phải đối mặt với các loại rủi ro, đó có thể là rủi ro do khách hàng không trả nợ đúng hạn, cũng có thể là rủi ro do Ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu rút tiền của người gửi tiền……
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt – hàng hoá tiền tệ, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đa phần trong đó là các khoản tiền gửi phải trả khi có yêu cầu. Nguồn tiền của các ngân hàng thương mại đang có thay đổi mạnh mẽ do sự gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, giữa các ngân hàng với các tổ chức tài chính dưới ảnh hưởng của công nghệ thông tin và quá trình toàn cầu hoá. Các nguồn tiền của cá nhân và doanh nghiệp dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Điều này tạo thuận lợi cho ngân hàng trong việc tìm kiếm nguồn tiền song lại làm tăng tính kém ổn định của cả hệ thống. Mặt khác tài sản của các ngân hàng chủ yếu là các động sản tài chính (các khoản cho vay, chứng khoán) với tính rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng rất cao. Công nghệ của Ngân hàng ngày càng phát triển cho phép các Ngân hàng có thể chuyển nguồn tiền đầu tư của mình tới những vùng xa trụ sở. Điều này vừa làm giảm bớt rủi ro của Ngân hàng do đa dạng hoá khách hàng nhưng đồng thời cũng làm tăng tính rủi ro do những biến động lớn trên thị trường Thế giới, khu vực và do Ngân hàng không kiểm soát tốt được các khoản vay…Điều này không chỉ xảy ra ở thị trường Việt Nam mà còn diễn ra ở trên thị trường Thế giới. Chẳng hạn cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ tại Châu Á năm 1997 đã làm cho nhiều Ngân hàng, tổ chức tài chính của các nước trong khu vực bị phá sản. Nhiều Ngân hàng nhỏ ở Thái Lan, Nhật Bản, Indonexia, Philippin đã phải sáp nhập hoặc bị các Ngân hàng lớn mua lại, nhiều công ty tài chính, môi giới chứng khoán đã bị phá sản. Ở Việt Nam, vào những năm 1989-1990 cũng đã xảy ra tình trạng người dân đổ xô đi rút tiền gửi tại các quỹ tín dụng, gây ra sự đổ vỡ của hàng loạt quỹ tín dụng. Đây là lần đổ vỡ đầu tiên có tính dây chuyền của các TCTD Việt Nam khi chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổ vỡ đã gây tổn thất lớn cho các quỹ tín dụng và hệ thống Ngân hàng, người gửi tiền và nền kinh tế nói chung, đặc biệt đã ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin của người gửi tiền, mà phải mất một thời gian dài chúng ta mới lấy lại được. Cũng vào năm 1997, nhiều Ngân hàng thương mại Việt Nam do mở rộng cho vay tràn lan đã rơi vào tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi. Trong thời gian gần đây, không ít lần Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phải can thiệp để cứu vãn tình thế và khôi phục hoạt động cho một số Ngân hàng thương mại cổ phần, vì những lý do khác nhau, có thể lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Tóm lại tất cả các loại rủi ro của ngân hàng đều có bản chất chung đó là khả nảng xảy ra tổn thất cho ngân hàng.
1.1.2 Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng
Dựa vào những tiêu thức khác nhau thì rủi ro của Ngân hàng được chia thành những loại khác nhau. Nếu phân chia theo nguyên nhân các nhân tố tác động thì rủi ro Ngân hàng bao gồm: rủi ro do người vay không trả được nợ cho Ngân hàng, rủi ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do tỷ giá thay đổi, rủi ro do các nguyên nhân khác như mất trộm, cháy nổ, giấy tờ giả…Tuy nhiên trong phạm vi hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam có thể tổng hợp thành một số loại rủi ro cơ bản như sau:
1.1.2.1 Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng không trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn.
Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, Ngân hàng không dự kiến khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ Ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tổn thất dự kiến, Ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý.
1.1.2.2 Rủi ro lãi suất
Khi huy động vốn của doanh nghiệp hoặc dân cư, Ngân hàng sẽ phải trả lãi. Còn khi tài trợ, Ngân hàng sẽ thu lãi. Lãi suất của các khoản cho vay, tiền gửi và chứng khoán thường xuyên biến động, có thể làm gia tăng lợi nhuận cho Ngân hàng, ngược lại cũng có thể gây tổn thất cho Ngân hàng. Như vậy rủi ro lãi suất là khả năng thu nhập giảm do chênh lệch lãi suất giảm, khi lãi suất thị trường thay đổi ngoài dự kiến. Rủi ro lãi suất có thể có một số hình thức khác nhau như rủi ro xác định lại lãi suất, rủi ro đường cong lãi suất thay đổi, rủi ro tương quan lãi suất, và rủi ro quyền chọn đi kèm.
Nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất có thể gồm:
- Do sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản, và chế độ lãi suất cố định.
Do sự thay đổi của lãi suất thị trường ngoài dự kiến.
Rủi ro lãi suất là một loại rủi ro thị trường quan trọng, đặc biệt trong điều kiện lãi suất thay đổi như hiện nay. Vì vậy, việc thực hiện các biện pháp để hạn chế rủi ro lãi suất cũng là một nội dung quan trọng trong quản lý rủi ro của Ngân hàng thương mại.
Các giải pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất:
Phải duy trì cân đối các khoản vay nhạy cảm với lãi suất bên tài sản nợ và tài sản có.
Sử dụng một chính sách lãi suất linh hoạt, đặc biệt với những khoản vay lớn, thời hạn dài cần tìm kiếm nguồn vốn tương xứng, hoặc thực hiện cơ chế lãi suất thả nổi.
Sử dụng các công cụ tài chính mới để hạn chế rủi ro ngoại bảng, như sử dụng các nghiệp vụ kỳ hạn về lãi suất, nghiệp vụ kỳ hạn về tiền gửi, nghiệp vụ kỳ hạn về lãi suất tiền vay, thực hiện hợp đồng tương lai do không cân xứng tài sản nợ và tài sản có; thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền lựa chọn lãi suất.
1.1.2.3 Rủi ro tỷ giá
Rủi ro tỷ giá là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ giá thường xuyên dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của Ngân hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho Ngân hàng.
Những nhân tố tác động đến rủi ro tỷ giá:
Lãi suất.
Các chính sách của chính phủ.
Sự đầu cơ trên thị trường.
Tính nhạy cảm của thị trường.
Lạm phát.
Sự ổn định về chính trị.
Loại tiền kinh doanh: một số đồng tiền có sự biến động về tỷ giá rất lớn trong khi đó một số đồng tiền lại có sự biến động ít hơn.
Để hạn chế rủi ro tỷ giá người ta có thể có một số giải pháp sau:
Sử dụng một số công cụ - các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ để quản lí rủi ro. Việc phòng ngừa rủi ro có thể dùng các nghiệp vụ sẵn có trên thị trường. Việc phòng ngừa rủi ro của giao dịch kỳ hạn bằng một giao dịch Swap, dùng giao dịch quyền chọn để hạn chế rủi ro.
Việc nắm giữ một loại ngoại tệ nào đó quá nhiều là mạo hiểm vì khiến Ngân hàng phải gánh chịu rủi ro tỷ giá phát sinh. Vì vậy Ngân hàng nên thực hiện đa dạng hoá các loại ngoại tệ kinh doanh tránh phụ thuộc quá nhiều vào Đôla Mỹ, phân tán rủi ro, thích nghi được với những biến động bất thường về tỷ giá.
1.1.2.4 Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán là những tác động do sự biến động của Tài sản Nợ và Tài sản Có trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, làm cho Ngân hàng không có đủ tiền để thực hiện các cam kết với khách hàng hay nói cách khác Ngân hàng không có khả năng thanh toán các giao dịch của khách hàng theo các cam kết (thiếu hoặc mất khả năng thanh toán).
Rủi ro thanh khoản có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân như:
Do Ngân hàng sử dụng vốn để đầu tư, cho vay nhưng chưa thu hồi được vì chưa đến kỳ hạn khách hàng trả nợ, nhưng Ngân hàng phải thanh toán các khoản nợ đến hạn (do sự biến động của tài sản Nợ và Tài sản Có trong quá trình hoạt động).
Do có nhiều khoản vay kém chất lượng nên Ngân hàng không thu được nợ làm cho Ngân hàng không có đủ tiền để thực hiện các cam kết với khách hàng hay nói cách khác Ngân hàng không có khả năng thanh toán các giao dịch của khách hàng theo các cam kết (thiếu hoặc mất khả năng thanh toán).
Do những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở Ngân hàng ngay lập tức. Hoặc có dòng tiền lớn rút ra đột ngột do yếu tố mất ổn định vĩ mô, do thông tin bất lợi cho Ngân hàng.
Thiếu khả năng thanh toán là thiếu tiền theo dự kiến, điều này đòi hỏi Ngân hàng phải bù đắp lượng tiền thiếu với chi phí cao hơn bình thường dẫn đến làm giảm lợi nhuận. Khi lợi nhuận giảm qua số cân bằng thu chi làm cho NH bị lỗ trong kinh doanh. Nếu số lỗ này không được bù đắp và ngày càng tăng lên do việc huy động vốn đảm bảo khả năng thanh toán sẽ dẫn đến việc NH bị phá sản. Ngược lại khi Ngân hàng thừa khả năng thanh toán (tức là duy trì số tiền không sinh lời hoặc sinh lời thấp quá lớn để đảm bảo khả năng thanh toán) cũng sẽ dẫn đến thu nhập thấp, giảm khả năng sinh lời của Ngân hàng.
Trường hợp mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến việc NH bị phá sản vì mọi khách hàng là chủ nợ của NH sẽ cùng rút tiền ồ ạt (kể cả những khoản nợ chưa đến hạn) trong khi những khách nợ của NH không thanh toán vì các khoản nợ chưa đến hạn mà NH không thể huy động được tiền, kể cả với chi phí cao hơn mức bình thường.
Khi bị phá sản do mất khả năng thanh toán, hậu quả không phải chỉ xảy ra đối với chính Ngân hàng đó mà nó thường kéo theo sự rút tiền ồ ạt của khách hàng tại các Ngân hàng khác. Trường hợp xảy ra đối với NHTM cổ phần Á Châu cuối năm 2003 là một minh chứng cho việc đó. Khi khách hàng rút tiền tại NHTM cổ phần Á Châu, nhiều NH khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã phải xây dựng kế hoạch ứng phó trong trường hợp sự rút tiền ồ ạt của khách hàng lan truyền. Vì vậy các Ngân hàng phải tính toán nhu cầu khả năng thanh toán, đó là việc tính toán nhu cầu phải chi và có thể phải chi của Ngân hàng.
1.1.2.5 Rủi ro trong dịch vụ bảo quản và quản lý chứng từ có giá
Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, việc các Ngân hàng thương mại đa dạng hoá hoạt động của mình được coi là những thay đổi tất yếu. Một trong những hoạt động đó là bảo quản và quản lý chứng từ có giá, một công việc được xem là có nhiều rủi ro. Vậy rủi ro trong quản lý và bảo quản chứng từ có giá là gì? Đó là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu trong việc quản lý và kinh doanh các loại chứng từ có giá. Các loại rủi ro mà Ngân hàng phải chịu khi kinh doanh chứng khoán rất cao; những rủi ro đó bao gồm:
Rủi ro thị trường: các giấy tờ có giá do các Ngân hàng thương mại nắm giữ luôn có khả năng thay đổi giá trị do các tác động từ thị trường, hay từ chính bản thân Ngân hàng thương mại, hoặc từ Chính phủ…Vì vậy các Ngân hàng thương mại sẽ bị giảm giá trị tài sản nếu như dự đoán không đúng về tình hình thị trường, gây ra những thiệt hại nhất định đối với Ngân hàng.
Rủi ro do người phát hành giấy tờ có giá không thể thanh toán được: mọi giấy tờ có giá mà một Ngân hàng thương mại nắm giữ đều tiềm ẩn rủi ro này (ngoại trừ trái phiếu Chính phủ). Các Ngân hàng thương mại có thể chọn loại hình giấy tờ có giá để đầu tư cho phù hợp với mục đích chính của mình, nhưng luôn phải đánh giá đúng mức rủi ro của chứng khoán đó. Việc người phát hành không thể thanh toán được luôn gây ra những thiệt hại đáng kể đối với các Ngân hàng; nó gián tiếp gây ra những thiệt hại đối với toàn bộ hệ thống kinh tế quốc gia. Chính vì thế mà các quốc gia đều đặt ra những quy định chỉ cho phép Ngân hàng thương mại được phép kinh doanh số chứng khoán đã được xếp hạng ở một mức nào đó. Hiện nay ở Việt Nam các ngân hàng thương mại không được phép kinh doanh các loại hàng hoá là các chứng khoán được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Nếu kinh doanh về chứng khoán thì các ngân hàng phải xin phép thành lập các công ty chuyên kinh doanh về chứng khoán, và công ty này phải có nguồn vốn riêng (có thể là nguồn vốn ban đầu do ngân hàng cung cấp) nghĩa là trong quá trình hoạt động phải có sự rõ ràng giữa vốn của ngân hàng và của công ty nhằm tránh những rủi ro có thể xảy ra đối với các ngân hàng khi thị trường chứng khoán không ổn định từ đó có thể tạo sự ổn định cho nền kinh tế.
Rủi ro nhân sự: hoạt động kinh doanh giấy tờ có giá của Ngân hàng thương mại rất đa dạng. Nó đòi hỏi sự độc lập của các cá nhân, nhân viên Ngân hàng. Chính vì thế mà những rủi ro phát sinh bởi chính các nhân viên của Ngân hàng là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt là trong hoạt động môi giới đầu tư cho khách hàng.
Rủi ro do yêu cầu thanh khoản: các Ngân hàng luôn phải đáp ứng một nhu cầu thanh khoản nhất định và việc đầu tư vào giấy tờ có giá có thể làm giảm khả năng thanh khoản của Ngân hàng, làm tăng rủi ro do yêu cầu thanh khoản.
Rủi ro khác: các rủi ro khác mà một Ngân hàng phải đối mặt trong quản lý và kinh doanh giấy tờ có giá bao gồm những rủi ro như cháy, mất mát, cướp…Và còn nhiều rủi ro tới từ các hoạt động khác của Ngân hàng, chúng luôn có tác động qua lại lẫn nhau.
Rủi ro khác
Ngoài các rủi ro trên Ngân hàng còn phải đối mặt với nhiều loại rủi ro quan trọng khác như:
Rủi ro chính trị: xảy ra khi có những thay đổi về pháp luật, những quy định về luật pháp trong và ngoài nước có ảnh hưởng xấu tới thu nhập của Ngân hàng.
Rủi ro phạm tội: xảy ra khi những người chủ Ngân hàng, nhân viên hay các khách hàng có hành vi phạm pháp như thực hiện các hành động lừa đảo, biển thủ, trộm cắp, hay các hành động bất hợp pháp khác làm Ngân hàng thua lỗ.
Rủi ro do các tình huống bất ngờ: đó là các tình huống mang tính chất bất ngờ như động đất, núi lửa, hoả hoạn….
1.2 Rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng
Như đã trình bày ở phần trên: rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng không trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn.
Như vậy rủi ro tín dụng chịu tác động của hai yếu tố: chu kỳ kinh doanh và các sự kiện liên quan đến doanh nghiệp vay. Rủi ro tín dụng thường giảm trong thời kỳ bùng nổ kinh tế vì các khoản thu nhập cao giữ cho tỷ lệ vỡ nợ chung thấp. Rủi ro tín dụng tăng lên trong thời kỳ suy thoái kinh tế vì thu nhập của các công ty giảm sút khiến họ khó trả các khoản nợ. Nhưng rủi ro tín dụng liên quan đến một doanh nghiệp cụ thể không liên quan đến chu kỳ kinh doanh, chúng thường xuất hiện từ các sự kiện liên quan đến một doanh nghiệp hay một ngành kinh tế.
Rủi ro tín dụng là kết quả của việc Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng và Ngân hàng nhận được các giấy nhận nợ do con nợ phát hành với sự cam kết là sẽ thanh toán cả gốc và lãi đúng hạn cho Ngân hàng. Do đó tại thời điểm cấp tín dụng và chấp nhận giấy nhận nợ nghĩa là Ngân hàng đã thừa nhận khả năng thanh toán đầy đủ và đúng hạn của khách hàng mình với một xác suất cao, còn xác suất mất khả năng thanh toán của khách hàng là thấp hơn nhiều. Trái phiếu coupon có thu nhập cố định và giấy nhận nợ tín dụng đối với Ngân hàng là hai ví dụ điển hình về giấy nhận nợ do công ty phát hành. Trong cả hai trường hợp, Ngân hàng đều đầu tư vào các giấy nhận nợ nhằm nhận được trái tức từ trái phiếu và lãi suất từ khoản tín dụng nếu người vay tiền không bị phá sản. Trường hợp người vay tiền phá sản, Ngân hàng thường không thu được lợi tức cũng như lãi suất và có thể bị mất toàn bộ hoặc một phần vốn gốc là phụ thuộc vào khả năng Ngân hàng tiếp cận đối với tài sản của con nợ trong khi giải quyết phá sản hoặc giải thể.
Sau đây là phân phối xác suất lợi tức đầu tư Ngân hàng vào trái phiếu và các khoản cho vay tín dụng.
Xác suất (p)
Đồ thị 1.1: Phân phối xác suất của lợi tức đầu tư
gốc
tiền hoàn trả
gốc và lãi
0
P=1
Chúng ta thấy rằng đỉnh của đồ thị biểu diễn xác suất hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay là tương đối cao (tuy nhiên luôn nhỏ hơn 1). Đặc điểm luân chuyển vốn của các công ty có thể là nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng ở các mức độ khác nhau. Tỷ lệ không thanh toán được một phần hay toàn bộ tiền lãi là khoảng cách từ điểm “gốc” đến điểm “gốc và lãi”; và tỷ lệ không thanh toán được một phần hay toàn bộ tiền gốc là từ điểm “0” đến điểm “gốc”. Đồ thị 1.1 cũng chỉ ra rằng xác suất mà ngân hàng thu được cả gốc và lãi là cao hơn nhiều so với trường hợp không thu được cả gốc và lãi, điều này nói lên rằng bổn phận của Ngân hàng là phải đánh giá được mức độ rủi ro dự tính của các khoản đầu tư và đặt yêu cầu cho phần thu nhập phụ trội so với rủi ro tương xứng với mức độ rủi ro của các chứng khoán mà Ngân hàng nắm giữ.
Xác suất (p)
Đồ thị 1.2: Phân bổ xác suất rủi ro đối với một danh mục đầu tư
tiền hoàn trả
hoàn trả tối đa
0
P=1
Sự phân bổ lợi tức đối với rủi ro tín dụng đặt ra cho Ngân hàng là phải giám sát và thu thập được những thông tin về công ty mà Ngân hàng đã đầu tư. Nghĩa là chiến lược quản trị rủi ro tín dụng cùng với việc quản trị công ty hiệu quả có ảnh hưởng đến đường cong phân bổ xác suất trong việc thu hồi tín dụng. Ngoài ra, sự phân bổ rủi ro tín dụng trên Đồ thị 1.1 là trường hợp chỉ đầu tư vào một loại tài sản và đo mức độ rủi ro của nó. Một trong những lợi thế của Ngân hàng so với những nhà đầu tư riêng lẻ là khả năng đa dạng hoá danh mục đầu tư của Ngân hàng là rất lớn, và thông qua việc đa dạng hoá danh mục đầu tư thì rủi ro tín dụng giảm đáng kể. Trong phạm vi Đồ thị 1.1 nếu thông qua đa dạng hoá đầu tư thì rủi ro tín dụng sẽ được làm dịu đi. Trong trường hợp, một Ngân hàng thực hiện tốt việc đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình, thì hình dáng đồ thị phân bổ xác suất thu hồi gốc và lãi như được chỉ ra ở Đồ thị 1.2.
Ngân hàng thu được lượng tiền cực đại khi mà toàn bộ các khoản tín dụng và trái phiếu được đầu tư thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi. Trong thực tế, một số khoản tín dụng và trái phiếu không thể thu hồi đủ, thu đúng được một phần hay toàn bộ số lãi và gốc. Vì vậy, mức độ thu hồi trung bình của các danh mục đầu tư có thể nhỏ hơn so với trường hợp thu được đầy đủ cả gốc và lãi. Kết quả của việc đa dạng hoá đầu tư là việc hạn chế được xác suất xảy ra các hậu quả xấu trong danh mục đầu tư. Một danh mục đầu tư được đa dạng hóa đã rút ngắn được phạm vi rủi ro tín dụng. Trong thực tế, đa dạng hoá danh mục đầu tư chỉ có thể giảm được rủi ro tín dụng đặc thù riêng của các ngành kinh tế, tuy nhiên rủi ro có tính chất hệ thống, chung cho cả nền kinh tế có ảnh hưởng đến tất cả các ngành kinh tế thì không thể loại trừ được.
Các hình thức biểu hiện của rủi ro tín dụng
Nợ có vấn đề
Khi thực hiện nghiệp vụ cho vay, các Ngân hàng thương mại đều mong muốn rằng khoản cho vay đó sẽ được hoàn trả đầy đủ, đúng thời hạn như đã thoả thuận. Vì vậy, để đảm bảo an toàn cho hoạt động của mình, sau khi cấp tín dụng cho khách hàng, Ngân hàng phải thường xuyên giám sát khoản tín dụng đã cấp đó, để xem khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận không? Và mức độ hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng như thế nào?
Do đó có thể nói rằng, hoạt động giám sát có vai trò hết sức quan trọng: nó hướng vào những dấu hiệu báo trước các vấn đề kinh doanh nảy sinh, cũng như những biện pháp khắc phục, giúp Ngân hàng nhận biết và phát hiện được các khoản nợ xấu có vấn đề, để có hành động và biện pháp cần thiết, kịp thời để ngăn ngừa hoặc xử lý.
Nợ có vấn đề là những khoản vay, trong đó thoả thuận hoàn trả của khách hàng có khả năng đổ vỡ, dù hiện tại những khoản vay đó chưa đến kỳ hạn trả nợ gốc và lãi.
Muốn tránh được thiệt hại và tổn thất, thì cán bộ tín dụng cần sớm phát hiện ra những khoản nợ có vấn đề, để kịp thời ngăn ngừa hoặc xử lý. Nếu không có thể sẽ không giải quyết được vấn đề trước khi tình hình trở nên xấu hơn. Trong thực tế có nhiều dấu hiệu biểu hiện khoản vay sẽ gặp khó khăn. Một số trường hợp cho thấy khó khăn xuất hiện ngay khi bắt đầu cho vay, một số khác có thể xuất hiện chậm hơn, và một số đột ngột phát sinh mà không hề có dấu hiệu báo trước. Như vậy có nghĩa là không có một mô hình nhất định nào về các biến cố thường xuyên xảy ra để có thể kết luận rằng một khoản cho vay sẽ khó hoàn trả. Tuy nhiên, ta có thể dựa vào một số nhóm dấu hiệu để cảnh báo rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là một khoản tín dụng được cấp ra nhưng không thể thu hồi được đúng hạn, do những nguyên nhân khác nhau gây ra. Nợ quá hạn sẽ làm tăng các khoản chi phí cho việc đi đòi nợ, làm tăng chi phí cho hoạt động kinh doanh nên có ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nợ quá hạn cũng sẽ làm mất cân bằng các cân đối tài chính, ảnh hưởng xấu tới tính chủ động trong kế hoạch nguồn vốn của Ngân hàng. Quy mô nợ quá hạn càng lớn thì tính rủi ro càng cao. Tuy vậy, nó còn phụ thuộc vào cả quy mô cho vay của Ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn = (Nợ quá hạn / Tổng dư nợ) là một chỉ tiêu mà hầu hết các Ngân hàng đều sử dụng để đánh giá mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng. Nếu tỷ lệ đó cao thì có thể nói rằng hoạt động tín dụng của Ngân hàng là không hiệu quả, nguy cơ rủi ro tín dụng rất có khả năng xảy ra, Ngân hàng cần phải xem xét lại quy trình cho vay của mình nhằm làm giảm bớt nợ quá hạn. Ngược lại, nếu tỷ lệ đó thấp thì rủi ro tín dụng nếu có xảy ra cũng không ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Nợ khó đòi
Nợ khó đòi là nợ quá hạn không được thanh toán, mặc dù Ngân hàng đã gia hạn nợ. Chính vì vậy có thể nói đây là chỉ tiêu rõ ràng nhất để phản ánh mức độ tổn thất trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Hầu hết các Ngân hàng thương mại đều thực hiện lập quỹ dự phòng rủi ro bằng 100% số nợ khó đòi. Dự phòng được sử dụng trong trường hợp khách hàng bị phá sản, giải thể, chết hoặc mất tích. Dự phòng cũng được sử dụng ngay khi các khoản nợ được xếp vào nhóm 5. Việc sử dụng dự phòn._.g để xử lý rủi ro theo nguyên tắc sử dụng dự phòng cụ thể đối với từng khoản nợ trước, phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi nợ, và cuối cùng phát mại tài sản không đủ bù đắp thì mới sử dụng dự phòng chung.
Tỷ lệ nợ khó đòi = (Nợ khó đòi / Tổng dư nợ) cho biết Ngân hàng cho vay 100 đơn vị tiền tệ thì tỷ lệ tổn thất bao nhiêu đơn vị tiền tệ. Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi = (Nợ khó đòi / Tổng dư nợ) phản ánh trực tiếp chất lượng tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung. Nợ khó đòi cao làm cho Ngân hàng phải trích lập quỹ dự phòng rủi ro nhiều hơn, chi phí hoạt động kinh doanh của Ngân hàng sẽ tăng, qua đó đẩy lãi suất cho vay của Ngân hàng tăng lên, làm giảm tính cạnh tranh của Ngân hàng.
Lãi treo
Lãi treo là số tiền lãi mà khách hàng không trả được cho Ngân hàng khi đến hạn thanh toán. Đây cũng là một dấu hiệu quan trọng để nhận biết rủi ro tín dụng. Bởi vì việc thanh toán lãi thường không gắn liền với việc trả gốc, và có giá trị nhỏ hơn gốc rất nhiều, được trả vào những thời điểm nhất định, tuỳ theo sự thoả thuận của Ngân hàng và khách hàng. Khi khách hàng không thanh toán được tiền lãi của khoản vay thì có thể coi đấy là một dấu hiệu thể hiện rằng doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính.
Tỷ lệ (Lãi treo phát sinh / Tổng thu nhập) từ hoạt động tín dụng, cũng là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá mức độ rủi ro của Ngân hàng.
Tuy nhiên việc nhận biết rủi ro tín dụng nếu chỉ thông qua các khoản nợ có vấn đề, nợ quá hạn, nợ khó đòi và lãi treo thì dường như đã khá là muộn đối với các Ngân hàng. Bởi vì chỉ khi tình hình của khách hàng là khó khăn đặc biệt thì những dấu hiệu này mới bộc lộ. Đến lúc đó thì tổn thất mà Ngân hàng có thể gặp phải sẽ là rất lớn. Vậy nên, điều mà các Ngân hàng quan tâm là những dấu hiệu có thể tạo ra rủi ro tín dụng; để từ đó có thể chủ động và kịp thời đưa ra biện pháp phù hợp, nhằm hạn chế những khó khăn tổn thất cho cả Ngân hàng và khách hàng. Do đó, ngoài các dấu hiệu ở trên, các cán bộ tín dụng còn nhận biết rủi ro tín dụng thông qua một số dấu hiệu khác.
Cơ cấu dư nợ tín dụng
Giống như mọi hoạt động đầu tư khác: hoạt động tín dụng của Ngân hàng cũng phải tuân thủ nguyên tắc “không bỏ tất cả trứng vào một giỏ”. Bởi vì doanh thu của Ngân hàng chủ yếu từ lãi do hoạt động tín dụng mang lại. Nếu tỷ trọng cho vay đối với một khách hàng trong tổng dư nợ quá lớn thì khi khách hàng này gặp khó khăn trong việc trả nợ cho Ngân hàng, và sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu của Ngân hàng. Cũng như vậy, nếu Ngân hàng chỉ tập trung cho các doanh nghiệp hoạt động trong một lĩnh vực nào đó vay thì rủi ro sẽ là rất lớn nếu như ngành đó hoạt động không hiệu quả.
Một số dấu hiệu khác
Nhóm các dấu hiệu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giảm sút, thể hiện ở giá trị sản lượng và doanh thu của doanh nghiệp bị giảm.
Thu nhập không thường xuyên và ổn định: cơ cấu doanh thu thay đổi bất thường, doanh thu các hoạt động phụ chiếm tỷ trọng lớn hơn…
Hệ số quay vòng vốn lưu động thấp, có sự gia tăng bất thường về hàng tồn kho và sự gia tăng các khoản nợ thương mại, đặc biệt là các khoản nợ với thời gian dài.
Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý và tổ chức của khách hàng.
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản lý hoặc ban điều hành
- Có sự mất đoàn kết, bè cánh, tranh giành quyền lực trong nội bộ doanh nghiệp, có hiện tượng nhân tài rời bỏ doanh nghiệp.
- Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, điều hành độc đoán hoặc quá phân tán.
- Cơ cấu nhân lực của doanh nghiệp không hợp lý, bộ phận quản lý ngày càng phình to, có các hoạt động sát nhập với các doanh nghiệp yếu kém khác.
- Có những khoản chi phí bất hợp lý.
Ngoài ra còn có một số dấu hiệu khác như: nhóm các dấu hiệu thuộc về mặt pháp luật, nhóm các dấu hiệu thuộc về kỹ thuật và thương mại….
Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho Ngân hàng, có thể phân thành các loại nguyên nhân như sau:
Những nguyên nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm mất khả năng thanh toán cho Ngân hàng. Ví dụ: Thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay đổi tầm vĩ mô (thay đổi của Chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rào thuế quan…) vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người vay, với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng, hoặc khắc phục những khó khăn. Trong những trường hợp khác, người vay có thể sẽ bị tổn thất song vẫn có thể trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn, đủ gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động của những nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề thì khả năng trả nợ của họ bị suy giảm.
Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ Ngân hàng, chây ì…. là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kì vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với Ngân hàng như cung cấp thông tin sai, mua chuộc….. Nhiều người vay đã không tính toán kĩ lưỡng hoặc không có khả năng tính toán kĩ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Trong trường hợp còn lại, người vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho Ngân hàng đúng hẹn, chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
Nguyên nhân thuộc về Ngân hàng
Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai…. Là một trong những nguyên nhân của rủi ro tín dụng. Nhân viên Ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan người vay…. Như vậy họ cần phải được đào tạo và tự đào tạo kĩ lưỡng, liên tục và toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kĩ lưỡng, rủi ro tín dụng luôn rình rập họ. Sống trong môi trường “tiền bạc”, nhiều nhân viên Ngân hàng đã không tránh khỏi cám dỗ của đồng tiền. Họ tiếp tay cho khách hàng rút ruột Ngân hàng. Như vậy, chất lượng nhân viên Ngân hàng bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp không đảm bảo là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng.
Thực trạng rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
1.3.1 Các loại rủi ro tín dụng
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng.
Theo Quyết định này khái niệm nợ được định nghĩa rất rộng. Nợ không chỉ bao gồm các khoản cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, tiền trả thay cho người được bảo lãnh, mà còn bao gồm các khoản ứng trước, thấu chi và các khoản bao thanh toán (một hình thức cấp tín dụng mới được phép theo Quy chế bao thanh toán của các TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 6/9/2004 của NHNN) và các hình thức tín dụng khác.
Việc phân loại nợ cũng được xác định hết sức rõ ràng. Theo phương pháp “định lượng” Quyết định 493 đã phân loại nợ thành 5 nhóm, bao gồm:
Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán.
Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và cơ cấu lại thời hạn trả nợ.
Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn 90 ngày.
Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ từ 90 ngày đến 180 ngày.
Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
Tuy nhiên cần lưu ý là cho dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để phân loại nợ như trên, các tổ chức tín dụng (TCTD) và Ngân hàng (NH) vẫn có quyền chủ động tự quyết định phân loại nợ nào vào nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro nếu đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm.
Điều đặc biệt ở Quyết định này là lần đầu tiên phương pháp “định tính” được cho phép áp dụng đối với các TCTD đủ điều kiện. Theo phương pháp này nợ cũng được phân thành 5 nhóm nợ tương ứng như 5 nhóm nợ theo cách phân loại “định lượng”, nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chưa thanh toán nợ, mà căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro của TCTD được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. Các nhóm nợ bao gồm:
Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn.
Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn.
Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất cao.
Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Như vậy Quyết định 493 đặt ra yêu cầu quản lý nợ, kiểm soát rủi ro cao hơn đối với các TCTD và việc thi hành Quyết định 493 sẽ đánh giá đúng bản chất và chất lượng tín dụng của các TCTD. Những chuẩn mực đặt ra trong quy định này đã hướng tới sự hoà nhập với chuẩn mực thế giới tức là yêu cầu cao hơn trong việc quản lý nợ. Việc thi hành những quy định mới sẽ đòi hỏi có những thay đổi mới ở các Ngân hàng thương mại và cả Ngân hàng Nhà nước, vì những chi phí phát sinh từ những thay đổi đó sẽ chuyển sang khách hàng vay nên chi phí cho vay sẽ có thể tăng. Các NH cũng sẽ ưu tiên việc cho vay có bảo đảm để giảm gánh nặng về dự phòng rủi ro.
1.3.2 Tình hình rủi ro tín dụng ở các NH thương mại Việt Nam
Kể từ khi Quyết định 493 ra đời, giới NH cũng e ngại rằng con số biểu thị nợ xấu của họ sẽ bị đẩy lên cao hơn nhiều so với trước đây. Tuy nhiên tỷ lệ nợ xấu của các NH không đáng ngại lắm, theo phát ngôn chính thống từ Ngân hàng Nhà nước tỷ lệ nợ xấu tổng hợp toàn bộ hệ thống NH tính đến cuối năm 2005 là 4,4%. Phải chăng con số này quá đẹp, tuy nhiên Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức kiểm tra và làm việc với 5 NH thương mại quốc doanh. Theo Thống đốc Lê Đức Thuý, “kết quả kiểm tra cũng không xấu”. Bình quân tỷ lệ nợ xấu các NH tự xếp theo chuẩn mới là 6,27%, còn theo kết quả kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước là 7,7%. Với các ngân hàng quốc doanh, nợ xấu theo chuẩn mới hiện ở mức trên dưới 23 ngàn tỷ (tính đến tháng 11/2005). Với khối NH thương mại cổ phần, nợ xấu dường như không phải là vấn đề lớn khi hầu hết các NH đều có một con số khá đẹp, phần lớn đều nằm dưới mức 1%. Một số NH vừa thoát hiểm như Eximbank cũng có tỷ lệ nợ xấu khả quan dưới 4%; với VP Bank, nợ xấu chỉ ở khoảng 0,8-0,9%....
Sang năm 2006, khi kết thúc hầu hết các NH đều đứng trước những con số lợi nhuận ấn tượng. Có thể nói năm 2006 là năm thành công nhất của ngành NH Việt Nam từ trước đến nay. Nhưng có giá trị hơn, có chiều sâu hơn là những chuyển biến tích cực của việc xử lý nợ xấu. Nợ xấu của NH Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đang ở mức khoảng 2,9-3,0% tổng dư nợ, cao hơn tiêu chí phân loại cũ là 0,6%. Và nếu so với mặt bằng chung cách đây khoảng 5 năm thì đó là một tỷ lệ quá lý tưởng (so với 12-13%). Tỷ lệ nợ xấu của các NH quốc doanh còn lại có mức chênh lệch đáng kể: NH Công thương (Incombank) ở vào khoảng 6% tổng dư nợ, NH Đầu tư và phát triển (BIDV) ở khoảng 9% tổng dư nợ. Với NH thương mại cổ phần, tỷ lệ trên còn thấp hơn nhiều. Theo báo cáo của một số NH cổ phần, tỷ lệ nợ xấu chỉ xoay quanh mức 1%.
Điều đặc biệt, sau khi thống nhất với bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước đã có công văn quy định một số nhóm nợ mà NH thương mại nhà nước được bán cho Công ty mua nợ, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC). Theo công văn số 7129/NHNN-TD ngày 18/8/2006 của Ngân hàng Nhà nước, các khoản nợ xấu mà NH thương mại nhà nước được bán cho DATC gồm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn. Vì vậy sẽ giảm được rủi ro cho ngân hàng, giảm quỹ dự phòng rủi ro của ngân hàng từ đó góp phần làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
Chương 2: Lý luận về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp
2.1 Tổng quan về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp
2.1.1 Khái niệm về xếp hạng doanh nghiệp
Xếp hạng doanh nghiệp là thuật ngữ bắt nguồn từ Tiếng Anh là Credit Ratings trong đó Credit là sự tín nhiệm còn Ratings nghĩa là xếp hạng. Thuật ngữ này lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1909 trong cuốn “Cẩm nang chứng khoán đường sắt” do John Moody phát hành. Trong cuốn sách này ông đã nghiên cứu, phân tích và công bố bảng xếp hạng cho 1500 trái phiếu của 250 công ty theo hệ thống các ký hiệu dễ hiểu, đơn giản được sắp xếp theo thứ tự các chữ cái ABC. Sau khi phát hành cuốn sách, Moondy vẫn tiếp tục nghiên cứu và cho công bố bảng xếp hạng của các doanh nghiệp trong các ngành khác. Một số tiêu chuẩn và những ký hiệu mà Moody đưa ra sau này đã trở thành các chuẩn mực quốc tế.
Bohn John viết trong cuốn sách “Phân tích rủi ro trong thị trường chuyển đổi” thì hệ số tín nhiệm là sự đánh giá về khả năng một nhà phát hành có thể thanh toán đúng hạn cả gốc và lãi đối với một loại chứng khoán nợ trong suốt thời gian tồn tại của nó.
Đối với công ty chứng khoán Merrill Lynch (Mỹ), hệ số tín nhiệm là đánh giá hiện thời của công ty chứng khoán hiện thời về chất lượng tín dụng của một nhà phát hành chứng khoán nợ về một khoản nợ nhất định.
Còn theo công ty Moody, hệ số tín nhiệm thể hiện khả năng sẵn sàng thanh toán đúng hạn của một nhà phát hành cho một khoản nợ nhất định trong suốt thời gian tồn tại khoản nợ đó
Tuy nhiên trong những năm đầu, việc xếp hạng chỉ mang tính chất ngẫu hứng, lẻ tẻ; trong suốt hơn 50 năm sau khi ra đời hoạt động này cũng chỉ phổ biến ở Mỹ. Hoạt động này chỉ trở nên phổ biến ở các nước phát triển từ những năm 1960 và ngày càng trở thành một hoạt động rất quan trọng của các TCTD. Trên Thế giới hầu hết các chứng khoán nợ được xếp hạng gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ, các loại trái phiếu, kỳ phiếu Ngân hàng… Hiện nay một số nước còn xếp hạng cả cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu thường, các đối tượng vay vốn Ngân hàng. Hệ thống xếp hạng tín nhiệm tiêu biểu nhất hiện nay là hệ thống ký hiệu của hai công ty xếp hạng tín nhiệm hàng đầu Thế giới là Moody và S&P, được xây dựng trên cơ sở khung ký hiệu do John Moody tạo ra và trở thành tiêu chuẩn để xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm của hầu hết các công ty xếp hạng tín nhiệm trên Thế giới.
Bảng2.1: Bảng ký hiệu xếp hạng tín nhiệm sử dụng cho nợ dài hạn
Moody’s
S&P
Diễn giải
Aaa
AAA
Chứng khoán có chất lượng cao, rủi ro thấp, khả năng trả nợ mạnh nhất
Aa
AA
Chứng khoán có chất lượng cao, rủi ro thấp, khả năng trả nợ mạnh
A
A
Chứng khoán trên mức trung bình
Baa
BBB
Chứng khoán trung bình, mức độ an toàn và rủi ro không cao, không thấp, không có dấu hiệu nguy hiểm
Ba
BB
Chứng khoán có biểu hiện tính đầu cơ
B
B
Chứng khoán thiếu sự hấp dẫn cho nhà đầu tư
Caa
CCC
Kỹ năng trả nợ thấp, dễ vỡ nợ
Ca
CC
Mức đầu cơ cao, thường bị vỡ nợ
C
C
Mức tín nhiệm thấp nhất, vấn đề trả lãi gặp khó khăn
Dựa vào ký hiệu xếp hạng tín nhiệm trên, nếu xếp hạng tín nhiệm đạt từ mức BBB (hoặc từ Baa) trở lên AAA hoặc (Aaa) thì được gọi là xếp hạng tín nhiệm đầu tư, nếu xếp hạng tín nhiệm đạt từ mức BB (hoặc từ Ba) trở xuống được gọi là xếp hạng tín nhiệm đầu cơ.
Ở Việt Nam hoạt động xếp hạng doanh nghiệp chỉ được các TCTD áp dụng từ một vài năm gần đây, và xếp hạng tín dụng ở Việt Nam chỉ áp dụng cho các đối tượng vay vốn Ngân hàng. Còn việc xếp hạng tín nhiệm cho các chứng khoán nợ ở nước ta chưa được thực hiện vì thị trường chứng khoán ở nước ta chỉ mới ra đời trong những năm gần đây. Vì vậy chúng ta rất chú trọng tạo mọi điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển và để nhằm khuyến khích, tạo sự an toàn tới mức có thể cho các nhà đầu tư Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã đề ra điều kiện niêm yết đối với các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đó là những điều kiện về mức vốn điều lệ, tình hình hoạt động kinh doanh….., chính những điều kiện này đã chứng tỏ chỉ có những doanh nghiệp hoạt động tốt thì mới có thể niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, do đó việc xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp này hình như là chưa cần thiết trong điều kiện hiện nay
Hiện nay chưa có một khái niệm thống nhất về hoạt động này nhưng chúng ta có thể hiểu Xếp hạng doanh nghiệp là sự đánh giá hiện thời về mức độ sẵn sàng và khả năng trả nợ (gốc và lãi) đối với khoản nợ của doanh nghiệp trong suốt thời gian tồn tại khoản nợ đó.
Như vậy việc xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện trong mối tương quan giữa hiện tại và quá khứ để từ đó đưa ra những dự đoán về tương lai hay nói cách khác việc xếp hạng doanh nghiệp là kết quả của quá trình phân tích tỉ mỉ và kỹ lưỡng tình hình hoạt động của doanh nghiệp, tư cách khách hàng… tại thời điểm hiện tại và trong quá khứ từ đó dự đoán thứ hạng tín dụng của doanh nghiệp nhằm xác định khả năng thu hồi vốn (gồm cả gốc và lãi) của các TCTD và là cơ sở nền tảng cho việc ra quyết định có cấp tín dụng cho doanh nghiệp hay không và nếu cấp thì ở mức nào là hợp lý.
Sự cần thiết của công tác đánh giá xếp hạng doanh nghiệp
Ngày nay cùng với quá trình phát triển kinh tế, hệ thống các NH thương mại ngày càng mở rộng để đáp ứng các nhu cầu trong thanh toán tín dụng và các dịch vụ NH khác. Song song với quá trình đó mức độ rủi ro mà NH gặp phải ngày càng lớn do sự ảnh hưởng của biến động kinh tế Thế giới, số lượng khách hàng ngày càng tăng và khó kiểm soát thông tin về họ. Đặc biệt trong hoạt động tín dụng của NH, nó ngày càng chứa đựng nhiều rủi ro và nhiệm vụ vủa NH là hạn chế rủi ro thường gặp phải mà vẫn đảm bảo lợi nhuận cho NH. Khi đưa ra bất kỳ một quyết định cho vay nào, NH cũng phải xem xét đến tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của doanh nghiệp bởi đây sẽ là nhân tố quyết định đến rủi ro và khả năng thu hồi vốn của NH sau này. Tuy nhiên, không phải lúc nào, việc đánh giá này cũng chính xác, nhất là khi thông tin về doanh nghiệp lại bé nhỏ và không đáng tin cậy. Điều này dẫn đến tình trạng: nhiều doanh nghiệp tốt không có nguồn vốn để phát triển trong khi rất nhiều khoản tín dụng đã được cấp cho những doanh nghiệp làm ăn kém, không có khả năng trả nợ, thậm chí có nhiều trường hợp khoản vốn vay còn được sử dụng sai mục đích ban đầu dẫn đến tổn thất rất lớn cho NH.
Với tư cách một tổ chức kinh tế độc lập, trong quá trình tiến hành các hoạt động của mình, doanh nghiệp đã làm nảy sinh mối quan hệ ràng buộc với các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Một trong các mối quan hệ đó chính là mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người cho vay trong quá trình tìm kiếm nguồn tài trợ. Đây là mối quan hệ quan trọng, có tính chất quyết định tới nhiều mặt hoạt động của doanh nghiệp bởi đối với bất cứ doanh nghiệp nào, nguồn vốn huy động được sẽ là cơ sở cho các hoạt động khác được tiến hành suôn sẻ và thuận lợi. Có nhiều nguồn tài trợ khác nhau mà doanh nghiệp có thể lựa chọn, trong đó nguồn tài trợ từ các cá nhân cho vay và các TCTD là nguồn tài trợ quan trọng, dồi dào và hiệu quả nếu doanh nghiệp có được kế hoạch cụ thể nhằm khai thác một cách hợp lý. Tuy nhiên do hoạt động cấp tín dụng của các NH đối với doanh nghịêp luôn hàm chứa các rủi ro cho chính người cấp vốn, nên đôi khi việc tìm kiếm nguồn tài trợ này trở nên khó khăn và tương đối phức tạp. Đặc biệt do không có một tiêu chuẩn nào để đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp trong tương lai, việc cấp tín dụng càng khó khăn hơn trong việc xác định lãi suất cho vay. Bởi vậy trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp phải chấp nhận một mức lãi suất cao để có khoản vốn vay. Vấn đề này đã làm nảy sinh một nhu cầu khách quan đối với công tác xếp hạng doanh nghiệp, vì hạng của doanh nghiệp sẽ là cơ sở để đưa ra các quyết định cho vay cũng như thời hạn của khoản tín dụng. Công tác xếp hạng doanh nghiệp khi được thực hiên bài bản và công khai sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn vay một cách dễ dàng, góp phần giảm chi phí vốn và thúc đẩy quá trình mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Không chỉ gây khó khăn trong khả năng khai thác nguồn vốn vay của doanh nghiệp, công tác xếp hạng tín dụng doanh nghiệp nếu không được tiến hành, còn gây cả sự bất công do tiềm năng của doanh nghiệp không được đánh giá đúng. Khi không có công tác xếp hạng doanh nghiệp tức là không có thông tin công khai chính xác đánh giá năng lực của doanh nghiệp, các doanh nghiệp có hiệu quả hoạt động cao sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn và hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong khi đó, lại xuất hiện những doanh nghiệp làm ăn kém hơn song lại có thể nhận được nguồn vốn vay với lãi suất thấp hơn và dễ dàng hơn do người cho vay không có đầy đủ các thông tin xác thực về doanh nghiệp. Điều này đã tạo ra sự mất bình đẳng trong hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp, làm giảm đi khả năng cạnh tranh và hạn chế hiệu quả kinh doanh chung của cả nền kinh tế. Khi công tác xếp hạng doanh nghiệp được thực hiện, hoạt động cấp tín dụng sẽ được tiến hành dựa trên các kết quả xếp hạng có được, nguồn vốn sẽ được chuyển giao đến doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh cao nhất, những doanh nghiệp tốt sẽ nhận được nguồn vốn rẻ và dễ dàng hơn các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Như vậy sẽ khuyến khích các doanh nghiệp tiếp tục phát triển.
Như vậy hoạt động xếp hạng doanh nghiệp là một đòi hỏi cần thiết khách quan, nó không chỉ ảnh hưởng đến bản thân doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế cho vay mà còn tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Thực hiện được công tác xếp hạng doanh nghiệp một cách khoa học bài bản sẽ là cơ sở nâng cao hiệu quả hoạt động cho các doanh nghiệp, giảm thiểu rủi ro và tăng cao thu nhập cho các tổ chức cho vay.
Vai trò của xếp hạng doanh nghiệp
Xếp hạng doanh nghiệp không những chỉ là công tác rất quan trọng trong hoạt động của NH mà nó còn có vai trò quan trọng với những chủ thể khác trong nền kinh tế. Tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, xếp hạng doanh nghiệp đã được phổ biến từ giữa thế kỷ 20 vì nó có tác động tích cực đến nhiều chủ thể trong nền kinh tế như: NH, các nhà đầu tư, doanh nghiệp, bạn hàng, các nhà quản lý…..
Đối với doanh nghiệp
Dựa vào kết quả xếp hạng, doanh nghiệp tự đánh giá được một cách tổng quan tình hình kinh doanh của mình, tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu từ đó đề ra những biện pháp, phương hướng trong tương lai nhằm khắc phục những thiếu sót, phát huy những điểm mạnh để hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả hơn. Xếp hạng doanh nghiệp cũng giúp cho doanh nghiệp tiếp xúc được với các nguồn vốn vay một cách dễ dàng hơn vì doanh nghiệp nào có thứ hạng cao sẽ được các TCTD cho vay với những điều kiện ưu đãi về hạn mức tín dụng, về lãi suất cho vay….. đồng thời nâng uy tín của mình, củng cố và xây dựng thương hiệu, uy tín của doanh nghiệp. Ngược lại doanh nghiệp có thứ hạng thấp thì uy tín trên thị trường giảm và trở nên khó khăn hơn trong việc tiếp cận các nguồn vốn. Do đó xếp hạng doanh nghiệp sẽ là động lực để các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn.
Đối với nhà đầu tư
Trước khi đưa ra quyết định đầu tư vào một doanh nghiệp, nhà đầu tư phải nghiên cứu, xem xét tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ và hiện tại, dựa trên các tài liệu thu thập được để từ đó dự đoán được tình hình hoạt động của doanh nghiệp, khả năng thu hồi gốc, lãi trong thời gian tới. Đó cũng chính là công việc của công tác xếp hạng doanh nghiệp, do đó các nhà đầu tư có thể sử dụng kết quả công tác xếp hạng doanh nghiệp mà không phải tốn thời gian đi thu thập, xử lý thông tin để đánh giá doanh nghiệp, không bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Như vậy về mặt nào đó, hệ số tín nhiệm được xem là một hình thức tư vấn đầu tư chứng khoán. Song đây không phải là một lời khuyên mua hay bán bất kỳ một loại chứng khoán nào.
Đối với các tổ chức tín dụng
Do có mối quan hệ thanh toán, tín dụng đối với các doanh nghiệp các TCTD cũng hết sức quan tâm đến công tác xếp hạng doanh nghiệp bởi kết quả của quá trình này sẽ là cơ sở cho các TCTD đưa ra các quyết định liên quan đến công việc cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp. Các TCTD không thể ra quyết định cho vay khi không nắm rõ thông tin về doanh nghiệp đặc biệt là các thông tin liên quan đến khả năng trả nợ của khách hàng. Xếp hạng tín dụng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của các TCTD trong việc tránh rủi ro và tăng thu nhập của NH.
Đối với các cơ quan quản lý
Mục tiêu của các cơ quan quản lý là đảm bảo tính ổn định của thị trường. Thông qua công tác xếp hạng doanh nghiệp, các cơ quan đảm nhiệm chức năng quản lý có thể sử dụng các kết quả xếp hạng doanh nghiệp làm tiêu chuẩn để xem xét tình hình lành mạnh và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp dự báo trước xu hướng của thị trường, đồng thời thấy được những sai phạm để kịp thời điều chỉnh và có biện pháp xử lý, giảm thiểu tính bất ổn của thị trường. Điều này giúp ngăn chặn và hạn chế các hậu quả tiêu cực do các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả gây nên và các quyết định sai lầm của các chủ thể liên quan khác.
2.2 Thực trạng xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp ở Việt Nam
Phần trên đã cho chúng ta thấy tầm quan trọng của công tác xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp. Và thực tiễn ở trên Thế giới đã kiểm nghiệm điều này, xếp hạng doanh nghiệp là một hoạt động rất phổ biến ở các nước phát triển từ những năm 1960. Chỉ số xếp hạng tín dụng của một số tổ chức xếp hạng tín dụng chuyên nghiệp được công nhận rộng rãi, có ảnh hưởng rất lớn về kinh tế, chính trị như: Moody’s, Standard and poor, Experian, Equifax, Transunion…Riêng tại Việt Nam việc xếp hạng tín dụng chỉ thực sự bắt đàu từ năm 1999.
2.2.1 Kinh nghiệm của Thế giới
Các mô hình xếp hạng thường được các tổ chức xếp hạng tín dụng áp dụng bao gồm:
Các mô hình phát hiện
Các mô hình phát hiện sử dụng phương pháp chuyên gia và dựa trên những kinh nghiệm đã được đúc kết để có thể tìm ra bản chất của mối quan hệ giữa vỡ nợ và các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Trong xếp hạng tín dụng, những mô hình này sử dụng kinh nghiệm của các chuyên gia về hoạt động của công ty xin vay, khả năng sinh lời/trả nợ trong tương lai và lịch sử vay nợ của công ty đó để đưa ra đánh giá về khả năng trả nợ của các doanh nghiệp và người đi vay trong tương lai. Các tiêu chí thường được xem xét trong quá trình phân tích đó là nhóm các nguy cơ rủi ro trong kinh doanh {gồm các chỉ tiêu: chất lượng quản lý, đặc điểm ngành nghề (độ rủi ro, xu hướng biến động của thị trường), khả năng cạnh tranh/vị trí trên thị trường} và nhóm các nguy cơ rủi ro về tài chính {gồm các chỉ tiêu: chính sách tài chính, khả năng sinh lời, cấu trúc đầu tư, khả năng thanh toán}.
Trong quá trình đánh giá, các chuyên gia thường không nhất trí được về cách xem xét các chỉ tiêu định tính như chất lượng quản lý, đặc điểm ngành nghề, khả năng cạnh tranh hay chính sách tài chính. Do đó, chất lượng của những mô hình này phụ thuộc vào kinh nghiệm chủ quan của các chuyên gia và khó xác đinh thẩm tra. Ngay cả khi chỉ xét tới các chỉ số tài chính được rút ra từ các báo cáo tài chính và báo cáo kết quả kinh doanh của công ty đi vay thì việc xác đinh chính xác các chỉ tiêu tài chính cần xem xét là hết sức khó khăn. Mỗi chuyên gia lựa chọn một số chỉ tiêu khác nhau, khó có thể xác định chỉ tiêu nào có tác động nhất quán và đáng kể tới khả năng trả nợ của doanh nghiệp và các chỉ tiêu đó lại có thể có quan hệ với nhau. Các tổ chức tài chính cũng ít khi lưu đủ các kết quả phân tích để so sánh với thực tế, rút kinh nghiệm nên khả năng suy diễn của các chuyên gia khó được nâng cao.
Ngoài ra, toàn bộ quá trình đánh giá đều phụ thuộc vào tâm lý và nhiều yếu tố chủ quan khác của nhóm chuyên gia. Các công trình nghiên cứu về hành vi đã nêu lên một số hạn chế của con người trong các quá trình phân tích nói chung gồm: đánh giá quá cao trình độ của mình, quá tự tin khi thực hiện những công việc quan trọng, nhớ về các thành công nhiều hơn thất bại, định lượng kém.
Trong mô hình loại này, các nhân tố được sử dụng không được kiểm chứng thống kê và xét tính tối ưu.
Do các hạn chế nói trên nên mặc dù các chuyên gia giỏi có thể đưa ra kết luận chính xác hơn mọi mô hình nhưng một mô hình đơn giản cũng có thể làm tốt hơn, nhanh hơn và tiết kiệm hơn các chuyên gia trung bình.
2.2.1.2 Mô hình thống kê
Các mô hình thống kê kiểm tra các giả thiết bằng cách sử dụng các thủ tục thống kê trên bộ dữ liệu thực nghiệm. Đối với thủ tục đánh giá tín dụng, điều này liên quan tới việc thiết lập giả thuyết đối với các tiêu chuẩn đánh giá khả năng trả nợ tiềm năng. Những giả thuyết này xem xét những giá trị có thể là cao hơn (hoặc thấp hơn) giá trị trung bình đối với những người vay có khả năng trả nợ so với những người vay không có khả năng trả nợ. Khi khả năng trả nợ của mỗi người vay thể hiện rõ trên bộ số liệu thực nghiệm, những giả thuyết này có thể bị bác bỏ hoặc chấp nhận một cách phù hợp. Các thủ tục thống kê có thể đạt được sự lựa chọn khách quan và đặt trọng số cho những nhân tố có khả năng trả nợ từ những thông tin có sẵn về khả năng có thể trả nợ.
Các mô hình thống kê thường sử dụng: mô hình phân tích thống kê nhiều chiều; mô hình hồi quy…
Một mô hình thống kê: Mô hình điểm số Z (Z – credit scoring model)
Đây là mô hình đánh giá rủi ro tín dụng đầu tiên trên Thế giới. Mô hình điểm số “Z” do E.I.Altman xây dựng dùng để dự đoán khả năng phá sản của các công ty sản xuất của Mỹ trong vòng 2 năm. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào:
Trị số của các chỉ tiêu tài chính của người vay (Xi).
Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ
Altman đã xây dựng 3 loại z-score khác nh._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0099.doc