Sử dụng mô hình kinh tế lượng trong phân tích sự biến động và dự báo lợi suất của một số cổ phiếu trên Thị trường Chứng khoán Việt Nam

MỞ ĐẦU Sau chiến thắng mùa xuân 30-4-1975 giải phóng hoàn toàn Miền Nam, nước nhà thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta bắt tay vào công cuộc xây dựng lại đất nước. Sau hơn 10 năm phấn đấu, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, nhưng nhìn chung nước ta vẫn nằm trong tình trạng của một nước nông nghiệp lạc hậu kinh tế kém phát triển, đời sống nhân dân còn khó khăn.Trước thực trạng đó, tại Đại hội Đảng lần VI năm 1986, nhiều chính sách, biện pháp đã được thông qua nhằm đổi

doc47 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1549 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Sử dụng mô hình kinh tế lượng trong phân tích sự biến động và dự báo lợi suất của một số cổ phiếu trên Thị trường Chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mới toàn diện nền kinh tế đưa nước ta thoát khỏi tình trạng chậm phát triển. Nội dung chính là xoá bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, thiết lập nền kinh tế hàng hoá theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường đã chia thành hai khu vực: khu vực có vốn tìm nơi đầu tư và khu vực cần vốn để đầu tư vào sản xuất và kinh doanh. Trong điều kiện đó đòi hỏi sự ra đời thị trường tài chính. Hạt nhân trung tâm của thị trường tài chính biểu tượng của nền kinh tế hiện đại là thị trường chứng. khoán - Đó là nơi diễn ra các quá trình: Phát hành, mua bán các loại tài sản tài chính. Thị trường chứng khoán là một hoạt động kinh tế xã hội chứa đựng nhiều rủi ro nhưng cũng hứa hẹn những khoản lời hấp dẫn. Ở nước ta thị trường chứng khoán ra đời năm 2000. Do còn mới mẻ nên nhiều nhà đầu tư chưa đánh giá được sự biến động lợi suất của các tài sản tài chính trên thị trường vì chưa lượng hóa được rủi ro chính vì vậy mà họ còn dè dặt, lo ngại khi tham gia vào thị trường chứng khoán. Để có thể hòa nhập vào thị trường tài chính khu vực và quốc tế, thị trường chứng khoán Việt Nam cần đạt được những yêu cầu nhất định về cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, trong đó việc đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên viên giỏi là hết sức cần thiết, đặc biệt là đội ngũ phân tích để tư vấn cho các nhà đầu tư . Là sinh viên năm cuối khóa đào tạo chính quy chuyên ngành toán kinh tế, em đã được trang bị những kiến thức cơ bản về kinh tế lượng, phân tích định giá tài sản tài chính... Tôi chọn chuyên đề tốt nghiệp: Sử dụng mô hình kinh tế lượng trong phân tích sự biến động và dự báo lợi suất của một số cổ phiếu trên thị trường Chứng khoán Việt Nam. Phần 1: Quá trình nghiên cứu lựa chọn đề tài Phần 2: Cơ sở lý thuyết phân tích sự biến động và dự báo lợi suất cổ phiếu Phần 3: Phân tích sự biến động và đự báo lợi suất của một số cổ phiếu Trong khuôn khổ một bài chuyên đề thực tập, mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do khả năng còn nhiều hạn chế và đây là lần đầu tiên em được tiếp xúc với những vấn đề mang tính chất thực tiễn, nên bài viết không thể tránh khỏi một số thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ các thầy giáo, cô giáo để chuyên đề hoàn chỉnh hơn và có ý nghĩa với thực tiễn hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam. Tôi xin chân thành cám ơn thầy giáo Th.s. BÙI DƯƠNG HẢI, và các anh chị trong phòng kinh doanh chứng khoán đã hướng dẫn tận tình giúp tôi hoàn thành chuyên đề này. CHƯƠNG 1 QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN ĐỀ TÀI I/ ĐẶT VẤN ĐỀ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. LĨNH VỰC CÔNG TY QUAN TÂM ĐẦU TƯ Công ty chứng khoán thuộc tổng công ty tài chính tàu thủy việt nam VINASHIN hoạt động đầu tư, kinh doanh chủ yếu vào các danh mục đầu tư tài chính mà đặc biệt hoạt động chính về mặt kinh doanh chứng khoán. Hoạt động tư vấn trong lĩnh vưc kinh doanh chứng khoán của công ty được đặt lên hàng đầu, muc tiêu công ty đề ra trong nhiều năm qua mang lại nhiều kết quả do đầu tư vào những cổ phiếu mang lại lợi suất cao trong 6 năm “2001-2006”: HAP - ( Công ty cổ phần giấy Hải Phòng ); LAF - ( Công ty chế biến hàng xuất khẩu Long An ); REE - ( Công tycổ phần cơ điện lạnh ); SAM - ( Công ty cổ phần cáp và vật liệu viễn thông )…Từ đó tôi lựa chọn 4 loại cổ phiếu trên làm số liệu để phân tích trong chuyên đề thực tập. 2. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Cơ sở bước đầu của thị trường chứng khoán Việt Nam Nhìn lại chặng đường phát triển 20 năm qua có thể thấy những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng về phát triển kinh tế đã và đang đơm hoa kết trái. Mục tiêu đặt ra đến năm 2020 là Việt Nam sẽ thoát khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong hoàn cảnh ấy, sự ra đời thị trường chứng khoán Việt Nam ngày 28/07/2000 như là sự đòi hỏi tất yếu, trở thành “điểm hẹn” của những nguồn vốn nhàn rỗi, để rồi phân phối chúng một cách hiệu quả. Mới bước sang tuổi thứ 8, nhưng thị trường chứng khoán non trẻ đã bước đầu góp phần hình thành một mô hình thị trường vốn, tạo lập và vận hành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Hoạt động của thị trường chứng khoán là hoạt động nhạy cảm, nhiều yếu tố tích cực, song cũng chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Chính vì vậy ta phải đi vào phân tích biến động giá cổ phiếu và biến động của thị trường chứng khoán Việt Nam. Với những lý do trên, cùng với sự gợi ý của giáo viên hướng dẫn, tôi đã đi sâu nghiên cứu và lựa chọn đề tài “Sử dụng mô hình kinh tế lượng trong phân tích sự biến động và dự báo lợi suất của một số cổ phiếu trên thị trường chứng khoán việt nam ” để viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp nhằm mục đích góp phần tạo nên những căn cứ khoa học và thực tiễn để làm cơ sở cho việc phân tích, tính toán và đưa ra lựa chọn đầu tư cho các loại cổ phiếu tốt trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn Dựa trên cơ sở những luận điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử với những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước. Bài viết sử dụng phương châm lý luận gắn liền với thực tiễn, kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu, các bài viết có liên quan. Kết hợp với phần mềm xử lý số liệu là EVIEWS để tiến hành tổng hợp phân tích, so sánh và mô hình hóa. Trên cơ sở gắn với thực tiễn để rút ra những bài học kinh nghiệm, những kết luận chính xác, dần đưa vào việc phân tích cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong quá trình tham khảo tài liệu tôi đã thừa kế được phương pháp nghiên cứu phân tích của Cheng. F.Lee và W. P. Loypd. Hai tác giả đã ước lượng mô hình cho ngành công nghiệp dầu mỏ với cổ phiếu của 7 công ty : Imperial oil, Sun oil, Standard of ohio, Union oil, Phillips petroleum, Shell oil, Standard of indiana. Chính vì vậy tôi đã áp dụng vào chuyên đề tốt nghiệp dựa trên cơ sở của hai tác giả. CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT PHÂN TÍCH SỰ BIẾN ĐỘNG VÀ DỰ BÁO LỢI SUẤT CỔ PHIẾU I/ TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1. Khái niệm về thị trường chứng khoán Thị trường Chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán Chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được Chứng khoán lần đầu từ những người phát hành và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các Chứng khoán đó được phát hành ở thị trường sơ cấp. Xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. Nhu cầu về vốn để tiến hành đầu tư và các nguồn tiết kiệm có thể phát sinh từ các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Trong đó, thường xảy ra tình huống: những người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi lại không có cơ hội đầu tư hoặc không biết đầu tư vào đâu. Từ đó hình thành nên một cơ chế chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư. Cơ chế đó được thực hiện và điều chỉnh trong khuôn khổ một thị trường đó là thị trường tài chính. Trên thị trường tài chính, những người thiếu vốn huy động vốn bằng cách phát hành ra các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu.... Những người có vốn dư thừa, thay vì trực tiếp đầu tư vào máy móc thiết bị, nhà xưởng để sản xuất hàng hóa hay cung cấp dịch vụ, sẽ đầu tư (mua) các công cụ tài chính được phát hành bởi những người cần huy động vốn. Vậy, thị trường tài chính là nơi diễn ra sự chuyển vốn từ những người dư thừa vốn tới những người thiếu vốn. Thị trường tài chính cũng có thể được định nghĩa là nơi phát hành, mua bán, trao đổi và chuyển nhượng các công cụ tài chính theo các quy tắc, luật lệ đã được ấn định. Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của thị trường tài chính là tất yếu khách quan. Hoạt động trên thị trường tài chính có những tác động, hiệu ứng trực tiếp tới hiệu quả đầu tư của các cá nhân của các doanh nghiệp và hành vi của người tiêu dùng, và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế. Là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán (TTCK) được hiểu một cách chung nhất, là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán - các hàng hoá và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia. Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những quy tắc ấn định trước. Hiện nay tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng khoán, tuy nhiên quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của TTCK hiện nay, đó là: “Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán”. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp (Primary Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại Sở giao dịch (Stock Exchange) hay thị trường chứng khoán phi tập trung (Over - The Counter Market), ở thị trường giao ngay (Spot Market) hay thị trường có kỳ hạn (Future Market). Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy, thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hoá thông thường khác vì hàng hoá của thị trường chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy, có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, phù hợp với các điều kiện kinh tế - chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình TTCK trên thế giới, Việt Nam đã quyết định thành lập thị trường chứng khoán với những đặc thù riêng biệt. Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK) tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000, và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000 (tên viết tắt của TTGDCK TpHCM là HoSTC). Năm năm sau đó, thị trường giao dịch Bảng II – Sàn giao dịch chứng khoán (SGDCK) Hà Nội (HaSTC) ra đời, đánh dấu bước ngoặt cho sự phát triển vượt bậc của thị trường chứng khoán Việt Nam. Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đang trong giai đoạn đầu phát triển, quy mô và chất lượng vẫn còn nhiều hạn chế và cũng do các đặc thù riêng nên sự can thiệp của Chính Phủ vào thị trường còn lớn. Quy mô thị trường nhỏ thể hiện ở số lượng hàng hóa niêm yết còn ít, cụ thể, tính đến đầu tháng 4 năm 2008 mới có 36 cổ phiếu niêm yết trên HoSTC và 10 cổ phiếu niêm yết trên HaSTC. Giao dịch khớp lệnh là khớp lệnh định kỳ, 2 phiên/ngày, 5 ngày/tuần (từ thứ 2 - thứ 6) trên sàn giao dịch TpHCM và 3 ngày/tuần (thứ 2,4,6) trên HaSTC. Sự biến động của cổ phiếu chịu sự quản lý của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (biên độ dao động giá chứng khoán là 5% ở HoSTC; 10% ở HaSTC). 2. Lịch sử hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) là mục tiêu đã được Đảng và Chính phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu thập kỷ 90 (thế kỷ 20) nhằm xác lập một kênh huy động vốn mới cho đầu tư phát triển. Việc nghiên cứu, xây dựng đề án thành lập TTCK đã được nhiều cơ quan Nhà nước, các Viện nghiên cứu phối hợp đề xuất với Chính phủ. Một trong những bước đi đầu tiên có ý nghĩa khởi đầu cho việc xây dựng TTCK ở Việt Nam là việc thành lập Ban Nghiên cứu xây dựng và phát triển thị trường vốn thuộc Ngân hàng Nhà nước (Quyết định số 207/QĐ-TCCB ngày 6/11/1993 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước) với nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng đề án và chuẩn bị các điều kiện để thành lập TTCK theo bước đi thích hợp. Theo sự uỷ quyền của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức nghiên cứu về các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của TTCK, đề xuất với Chính phủ về mô hình TTCK Việt Nam, đào tạo kiến thức cơ bản về chứng khoán và TTCK cho một bộ phận nhân lực quản lý và vận hành thị trường trong tương lai; nghiên cứu, khảo sát thực tế một số TTCK trong khu vực và trên thế giới… Tuy nhiên, với tư cách là một tổ chức thuộc NHNN nên phạm vi nghiên cứu, xây dựng đề án và mô hình TTCK khó phát triển trong khi TTCK là một lĩnh vực cần có sự phối hợp, liên kết của nhiều ngành, nhiều tổ chức. Vì vậy, tháng 9/1994, Chính phủ quyết định thành lập Ban soạn thảo Pháp lệnh về chứng khoán và TTCK do một đồng chí Thứ trưởng Bộ Tài chính làm Trưởng Ban, với các thành viên là Phó Thống đốc NHNN, Thứ trưởng Bộ Tư pháp. Trên cơ sở Đề án của Ban soạn thảo kết hợp với đề án của NHNN và ý kiến của các Bộ, ngành liên quan ngày 29/6/1995, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 361/QĐ-TTg thành lập Ban Chuẩn bị tổ chức TTCK giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng TTCK ở Việt Nam. Trong khoảng 5 năm từ năm 1995 đến năm 2000, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban chứng khoán Nhà nước đã ban hành các nghị định, quyết định liên quan đến việc tổ chức và hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên ở nước ta. Ngày 11/7/1998, Chính phủ ban hành nghị định số 48/1998/NĐ-CP quy định việc phát hành chứng khoán ra công chúng, giao dịch chứng khoán và các dịch vụ liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán trên nước ta. Thủ tướng chính phủ ra quyết định số 127/1998/ QĐ - TTg về việc thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán, 2 trung tâm giao dịch chứng khoán dự kiến thành lập là Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên vào thời điểm này quyết định của Thủ tướng chính phủ mới chỉ là trên giấy tờ vì lúc đó chưa hội có đủ những điều cần thiết để có thể thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán. Ngày 1/8/1998, Chủ tịch Ủy ban chứng khoán ra quyết định số 128/1998/QĐ-UBCK ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán khẳng định Trung tâm giao dịch chứng khoán là đơn vị sự nghiệp có thu, trực thuộc Ủy ban chứng khoán Nhà nước, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng; kinh phí hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán do ngân sách Nhà nước cấp. Ngày 13/10/1998, UBCKNN ra thông tư số 01/1998/TT-UBCK hướng dẫn Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 về việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng. Đến ngày 28/7/2000 Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã đi vào hoạt động, đánh dấu sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế nước ta. 3. Chức năng của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán có những chức năng sau - Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội. - Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. - Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao. - Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. - Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. 4. Nguyên tắc hoạt động của thị trường Chứng khoán 4.1. Nguyên tắc cạnh tranh Theo nguyên tắc này giá cả trên thị trường chứng khoán phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bản chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm một lợi nhuận cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá. 4.2. Nguyên tắc công bằng Nguyên tắc này nhằm đảm bảo lợi ích cho tất cả những người tham gia thị trường. Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những quy định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm những quy định đó. 4.3. Nguyên tắc công khai Chứng khoán là các hàng hoá trừu tượng, người đầu tư không thể kiểm tra trực tiếp được các thông tin có liên quan. Vì vậy thị trường chứng khoán phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các bên phát hành chứng khoán có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực và kịp thời những thông tin có liên quan tới tổ chức phát hành, tới đợt phát hành. Công bố thông tin được tiến hành khi phát hành lần đầu cũng như theo các chế độ thường xuyên và đột xuất, thông qua các thông tin có liên quan. Vì vậy thị trường chứng khoán phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các bên phát hành chứng khoán có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực và kịp thời những thông tin có liên quan tới tổ chức phát hành, tới đợt phát hành. Công bố thông tin được tiến hành khi phát hành lần đầu cũng như theo các chế độ thường xuyên và đột xuất, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan khác. Nguyên tắc này nhằm bảo vệ người đầu tư, song đồng thời nó cũng hàm nghĩa rằng một khi đã được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác thì người đầu tư phải chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình. 4.4. Nguyên tắc trung gian Trên thị trường chứng khoán, các giao dịch được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường chứng khoán sơ cấp các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, các nhà môi giới mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng. 4.5. Nguyên tắc tập trung Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC, có sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước. 5. Các thành phần tham gia thị trường Chứng khoán 5.1. Nhà phát hành Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành là người tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán, Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của thị trường chứng khoán. - Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương. - Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty. - Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như trái phiếu, cổ phiếu… 5.2. Nhà đầu tư Nhà đầu tư là người thực sự mua và bán chứng khoán - Các nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua, bán trên thị trường chứng khoán với mục đích kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận luôn gắn với rủi ro, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn và ngược lại. - Các nhà đầu tư có tổ chức thường xuyên mua và bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này thường có các bộ phận gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. 5.3. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán - Công ty chứng khoán là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, môi giới, quản lý quỹ đầu tư, tư vấn chứng khoán. - Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn tự có để tăng và đa dạng hoá lợi nhuận thông qua đầu tư vào các chứng khoán. 5.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán - Cơ quan quản lý Nhà nước. - Sở giao dịch chứng khoán. - Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. 6. Hàng hóa tham gia thị trường Chứng khoán Các loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán cũng rất đa dạng: cổ phiếu, trái phiếu (trái phiếu công ty và trái phiếu Chính Phủ), các loại chứng khoán phái sinh. 6.1. Cổ phiếu Cổ phiếu là giấy chứng nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với thu nhập ròng và tài sản của công ty cổ phần. Cổ phiếu có thể được chia làm hai loại: Cổ phiếu thông thường (cổ phiếu phổ thông): là loại cổ phiếu có thu nhập không cố định, cổ tức biến động tuỳ theo sự biến động lợi nhuận của công ty. Tuy nhiên, thị giá cổ phiếu lại rất nhạy cảm trên thị trường, không chỉ phụ thuộc vào lợi nhuận công ty mà còn rất nhiều nhân tố khác như: môi trường kinh tế, thay đổi lãi suất, hay nói cách khác tuân theo quy luật cung cầu. Cụ thể hơn nữa, thị giá cổ phiếu thông thường phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế nói chung và biến động theo chiều ngược lại với biến động lãi suất trái phiếu chính phủ, các công cụ vay nợ dài hạn lãi suất cố định và lãi suất huy động tiền gửi của ngân hàng. Cổ phiếu ưu đãi: là loại cổ phiếu có quyền nhận được thu nhập cố định theo một tỷ lệ lãi suất nhất định, không phụ thuộc vào lợi nhuận của công ty. Tuy nhiên, thị giá của cổ phiếu này phụ thuộc vào sự thay đổi lãi suất trái phiếu kho bạc và tình hình tài chính của công ty. Như vậy, việc đầu tư vào cổ phiếu không chỉ đơn giản là nhận được cổ tức, mà quan trọng hơn chính là chênh lệch giá cổ phiếu trên thị trường (lãi vốn). Khi cổ phiếu của công ty được nhiều người mua, chứng tỏ thị trường tin tưởng vào hiện tại và khả năng phát triển của công ty trong tương lai và ngược lại. 6.2. Trái phiếu Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoản thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn. - Trái phiếu công ty là loại trái khoán dài hạn, do các công ty phát hành với lãi suất khá cao, giúp công ty huy động khối lượng vốn lớn trong một thời gian ngắn. Ngoài ra, trái phiếu công ty còn có khả năng chuyển đổi và một số loại có thể chuyển thành cổ phiếu. Do vậy, trái phiếu công ty là một công cụ được lưu hành rộng rãi trên thị trường vốn. - Trái phiếu Chính phủ là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ. - Trái phiếu công trình là những trái phiếu do Chính phủ trung ương hoặc chính quyền địa phương phát hành để huy động vốn cho những mục đích cụ thể, thường là để xây dựng những công trình cơ sở hạ tầng hay công trình phúc lợi công cộng. 6.3. Chứng khoán có thể chuyển đổi Chứng khoán có thể chuyển đổi là loại chứng khoán cho phép người nắm giữ, tùy theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có thể đổi chứng khoán lấy một chứng khoán khác. Thông thường cổ phiếu ưu đãi được chuyển đổi thành cổ phiếu thường và trái phiếu cũng được chuyển đổi thành cổ phiếu thường. 6.4. Các công cụ phái sinh (derivatives) Các công cụ phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu…, nhằm nhiều mục tiêu khác nhau, như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. - Quyền lựa chọn - Quyền mua trước - Chứng quyền - Hợp đồng kỳ hạn - Hợp đồng tương lai II. MỘT SỐ MÔ HÌNH PHÂN TÍCH BIẾN ĐỘNG VÀ DỰ BÁO LỢI SUẤT 1. Sự cần thiết của phương pháp mô hình trong phân tích biến động lợi suất và dự báo lợi suất của một số cổ phiếu . Nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán mục đích chính là để sinh lời vốn của mình bỏ ra đầu tư. Nếu lợi suất của chứng khoán càng cao thì khả năng sinh lời càng lớn và ngược lại. Bởi vậy nếu chúng ta phân tích đúng sự biến động của lợi suất và dự báo đúng lợi suất của chứng khoán trong tương lai thì chúng ta sẽ có thể đầu tư hợp lý để đạt được lợi nhuận cao nhất. Chính vì vậy tôi sử dụng chuỗi thời gian trong mô hình kinh tế lượng để phân tích các loại cổ phiếu nhằm dự báo cho nhà đầu tư biết nên đầu tư vào loại cổ phiếu nào tốt nhất trong tương lai. 2. Phân tích chuỗi thời gian 2.1. Khái niệm chuỗi thời gian Phân tích chuỗi thời gian sẽ nghiên cứu hành vi, khuôn mẫu trong quá khứ của một biến số và sử dụng những thông tin này để dự đoán những thay đổi trong tương lai. Phân tích chuỗi thời gian là phương pháp ngoại suy phức tạp. Chuỗi thời gian là một biến số được quan sát theo một trình tự thời gian nào đó. Yt là giá trị quan sát của chuỗi ở thời kỳ (hoặc thời điểm) t. Để nghiên cứu quy luật thay đổi của Yt chúng ta cần mô hình hoá chuỗi này. 2.2. Chuỗi thời gian dừng và không dừng Chuỗi Yt là chuỗi dừng nếu E(Yt) = m với "t Var(Yt) = s2 với với "t Cov(Yt ,Yt-1) = g với "t Trong đó E(Yt), Var(Yt) là kỳ vọng và phương sai của Yt. Chuỗi Yt không dừng nếu nó vi phạm bất kỳ điều kiện nào nói ở trên. 2.3. Nhược điểm của chuỗi thời gian không dừng Một trong số các giả thiết của mô hình hồi quy cổ điển là các biến độc lập là phi ngẫu nhiên, chúng có giá trị xác định. Nếu như chúng ta ước lượng một mô hình với chuỗi thời gian không dừng thì giả thiết của OLS (Ordinary least square ) bị vi phạm. Nếu như mô hình có ít nhất một biến độc lập không dừng, biến này thể hiện một xu thế tăng (giảm) và nếu có biến phụ thuộc cũng có xu thế như vậy, thì ước lượng mô hình sẽ thu được hệ số có ỹ nghĩa thống kê cao và R2 cao dẫn đến hồi quy giả mạo. Mô hình hồi quy cổ điển Các giả thiết thiết cơ bản của mô hình hồi quy cổ điển Trong phân tích hồi quy mục đích của chúng ta là ước lượng, dự báo về tổng thể, tức là ước lượng E(Y|Xi) hay trong mô hình hồi quy tuyến tính đơn là ước lượng E(Y|Xi) =1 + 2Xi . 1 và 2 tìm được bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất là các ước lượng điểm của 1 và 2. Chúng ta không biết được chất lượng của các ước lượng này như thế nào. Chất lượng của các ước lượng phụ thuộc vào: - Dạng hàm của mô hình được lựa chọn. -Phụ thuộc vào các Xi và Ui. -Phụ thuộc vào kích thước mẫu. Ở đây chúng ta sẽ nói về các giả thiết đối với X và U. Với các giả thiết này thì các ước lượng tìm được bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất là các ước lượng tuyến tính, không chệch có phương sai nho nhất. Giả thiết 1: Biến ( các biến ) giải thích là phi ngẫu nhiên, tức là các giá trị của chúng là các số đã được xác định. Giả thiết này không có gì mới, vì phân tích hồi quy được đề cập là phân tích hồi quy có điều kiện, phụ thuộc vào các giá trị X đã cho. Giả thiêt 2: Kỳ vọng của yếu tố ngẫu nhiên U bằng không, tức là: E(Ui) = E(U| Xi) = 0 i Giả thiết này có nghĩa là các yếu tố không có trong mô hình, U đại diện cho chúng, không ảnh hưởng hệ thống đến giá trị trung bình của Y. Giả thiết 3: phương sai bằng nhau ( phương sai thuần nhất ) của các Ui Var (U| Xi ) = Var (U| Xj) = 2 ij Giả thiết 3 có nghĩa là phân bố có điều kiện của Y với giá trị đã cho của X có phương sai bằng nhau, các giá trị cá biệt của Y xoay quanh giá trị trung bình với phương sai như nhau. Giả thiết 4: Không có sự tương quan giữa các Ui Cov(Ui , Uj) = 0 ij Giả thiết 5: U và X không tương quan với nhau Cov(U , X) = 0 2.4. Kiểm định tính dừng chuỗi thời gian 2.4.1. Kiểm định tính dừng dựa trên lược đồ tương quan Theo định nghĩa tính dừng thì Yt dừng nếu: E(Yt) = μ với "t Var(Yt) = σ2 với "t Cov(Yt,Yt-1) = γ với "t Để kiểm định tính dừng này, một trong các kiểm định là kiểm định dựa trên hàm tự tương quan rk Box - Pierce đã đưa ra kiểm định về sự bằng không đồng thời của các hệ số tương quan: Giả thiết Ho: r1 = r2 = rm = 0 H1 : Giả thiết Ho được kiểm định bằng thống kê: Trong đó n là kích thước mẫu, m là độ dài của trễ. Q có phân bố xấp xỉ Ho bị bác bỏ nếu Q nhận được từ mẫu lớn hơn 2.4.2. Kiểm định nghiệm đơn vị Xét mô hình: Yt = r Yt-1 + ut Trong đó ut nhiễu trắng tức là ut là yếu tố ngẫu nhiên có trung bình bằng không, phương sai không đổi và hiệp phương sai bằng không. Nếu r = 1 thì Yt là một bước ngẫu nhiên và Yt là một chuỗi không dừng. Do đó để kiểm định tính dừng của Yt ta kiểm định giả thiết: Ho: r = 1 (Chuỗi không dừng) H1: r ≠ 1 (Chuỗi dừng) D Yt = Yt - Yt-1 = (r - 1)Yt-1 + ut D Yt = dYt-1 + ut Bây giờ kiểm định giả thiết: Ho: d = 0 Nếu Ho được chấp nhận thì DYt = Yt - Yt-1 = ut, chuỗi DYt là chuỗi dừng. Dickey - Fuller ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5944.doc