Sử dụng hợp đồng giao dịch sau cho kinh doanh vàng tại Ngân hàng Saocombank

MỤC LỤC Lời mở đầu Chương 1 : HỢP ĐỒNG GIAO SAU VÀ KINH DOANH VÀNG 1.1.Hợp đồng giao sau 1.1.1 Khái niệm,đặc điểm của hợp đồng giao sau 1.1.2 Đặc tính,mục đích của hợp đồng giao sau 1.1.3 Ưu điểm và nhược điểm của hợp đồng giao sau 1.1.4.Vai trò và ý nghĩa của hợp đồng giao sau 1.2. Thị trường vàng và các nhân tố ảnh hưởng ,xu hướng vận động của giá vàng 1.2.1.Thị trường vàng 1.2.2.Các nhân tố ảnh hưởng và xu hướng vận động của giá vàng A.Đối với thế giới B.Đối với

doc43 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Sử dụng hợp đồng giao dịch sau cho kinh doanh vàng tại Ngân hàng Saocombank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việt Nam 1.3.Kinh doanh vàng bằng hợp đồng giao sau 1.4.Kinh nghiệm của các nước về kinh doanh vàng bằng hợp đồng giao sau Chương 2 : KINH DOANH VÀNG TẠI SACOMBANK 2.1.Kinh doanh vàng tại thị trường nội địa của Sacombank 2.1.1.Các hoạt động giao dịch và phạm vi giao dịch vàng tại thị trường nội địa của Sacombank 2.1.2.Các loại hình giao dịch vàng 2.1.3.Đồng tiền giao dịch và tỷ giá giao dịch 2.2. Kinh doanh vàng qua tài khoản vàng ở nước ngoài của Sacombank 2.2.1.Khái niệm kinh doanh vàng qua tài khoản 2.2.2.Các hoạt động giao dịch vàng chuyển khoản trên tài khoản ở nước ngoài của Sacombank 2.2.3.Các loại hình giao dịch vàng chuyển khoản 2.2.4. Đồng tiền và tỷ giá giao dịch 2.3.Rủi ro của kinh doanh vàng qua tài khoản 2.4.Các loại hợp đồng giao sau vàng trên thế giới 2.5.Điều kiện ứng dụng hợp đồng giao sau vàng tại ngân hàng Sacombank Chương 3 : GIẢI PHÁP KINH DOANH VÀNG TẠI NGÂN HÀNG SACOMBANK 3.1.Sử dụng hợp đồng giao sau cho mục đích đầu cơ 3.2.Khả năng phòng chống rủi ro với hợp đồng giao sau 3.3.Cơ chế phòng ngừa rủi ro bằng hợp đồng giao sau 3.4.Quy chế giao dịch bằng hợp đồng giao sau 3.5. Cơ chế của giao dịch giao sau 3.5.1.Đặt lệnh 3.5.2.Thanh toán hàng ngày 3.5.3.Giao nhận và thanh toán tiền mặt Kiến nghị : Khả năng thực hiện hợp đồng giao sau ở Việt Nam Kết luận : đề tài “sử dụng hợp đồng giao sau cho kinh doanh vàng tại Ngân hàng Sacombank”. Chương 1 : HỢP ĐỒNG GIAO SAU VÀ KINH DOANH VÀNG 1.1.Hợp đồng giao sau 1.1.1.Khái niệm ,đặc điểm của Hợp đồng giao sau Khái niệm Hợp đồng giao sau là một cam kết pháp lý có tính ràng buộc ,được lập thông qua sở giao dịch ,để mua hoặc bán một lượng hàng hoá hoặc các công cụ tài chính nhất định ở một giá xác định tại một thời điểm đã được định trước trong tương lai ;hợp đồng đó có thể được thanh toán bù trừ trước ngày đáo hạn hợp đồng. Đặc điểm Hợp đồng giao sau có nhiều đặc điểm riêng biệt ,không có ở các hợp đồng khác. Dựa vào định nghĩa và thực tiễn ,hợp đồng giao sau có thể được chia thành các đặc điểm chính sau: -Các điều khoản trong hợp đồng giao sau được tiêu chuẩn hoá -Hợp đồng giao sau là một hợp đồng song vụ ,cam kết thực hiện nghĩa vụ trong tương lai -Hợp đồng giao sau được lập tại sở giao dịch qua các cơ quan trung gian -Hợp đồng giao sau phải có tiền bảo chứng và đa số hợp đồng giao sau đều được thanh lý trước thời hạn. Các điều khoản trong hợp đồng giao sau được tiêu chuẩn hoá Trong thị trường giao sau ,các hoạt động mua bán được thực hiện liên tục với trình độ chuyên môn nghiệp vụ và bảo đảm an toàn cao. Do đó. Các điều khoản trong hợp đồng được tiêu chuẩn hoá một cách tối đa ,giúp cho việc ký kết hợp đồng nhanh chóng ,đảm bảo an toàn về mặt pháp lý. Các điều khoản được tiêu chuẩn hoá trong thị trường giao sau là :tên hàng,chất lượng,độ lớn hợp đồng,thời gian giao hàng,địa điểm giao hàng. Tên hàng phải là chính hàng hoá được phép giao dịch trên sàn giao dịch đó. Hàng hoá đó có thể là một loại hàng hoá thông thường hoặc cũng có thể là các công cụ tài chính như cổ phiếu,trái phiếu, lãi suất ,chỉ số…. Người tham gia thị trường chỉ được phép giao dịch các hàng hoá cho phép trong sở giao dịch đó. Trong trường hợp người tham gia thị trường muốn bảo vệ cho hàng hoá của mình nhưng hàng hoá đó không được mua bán trên sở giao dịch thì họ có thể bán bằng một hợp đồng giao sau của loại hàng hoá tương tự. Chất lượng hàng hoá cũng được tiêu chuẩn hoá. Hàng hoá được phân thành các mức chất lượng khác nhau nhưng thông thường thì sở giao dịch chỉ cho phép giao dịch một vài mức chất lượng nhất định. Độ lớn là độ lớn giá trị tài sản được giao dịch trong một hợp đồng. Độ lớn mỗi hợp đồng giao sau về mỗi loại hàng hoá đều được thống nhất và hầu như được thống nhất trên toàn thế giới giúp cho việc mua bán giữa các thị trường giao sau trên thế giới dễ dàng hơn. Chẳng hạn như hợp đồng vàng có khối lượng là 100 ounces,hợp đồng dầu thô là 1000barrels….việc quy định độ lớn mỗi hợp đồng sao cho không quá lớn để những nhà bảo hộ nhỏ cũng có khả năng tham gia ,không quá nhỏ vì khỏan được bảo hộ hoặc đầu cơ sẽ không bù đắp được chi phí huê hồng hay các chi phí khác. Thời điểm giao hàng (thời điểm đáo hạn hợp đồng) thường được xác định là tháng giao hàng trong năm. Trong tháng gioa hàng đó,ngày giao hàng được quy định cụ thể tuỳ vào loại hàng hoá và thị trường. Ví dụ hợp đồng Bạc được đáo hạn vào tháng 3,5,7,9,12;hợp đồng tiền tệ quy định tháng đáo hạn là 3,6,9,12… Địa điểm giao hàng trong hợp đồng giao sau do sở giao dịch quy định. Việc giao hàng này xảy ra khi các bên mong muốn thi hành hợp đồng. Sự tiêu chuẩn hoá các điều khoản chủ yếu trong hợp đồng giao sau là một trong những đặc điểm để phân biệt hợp đồng giao sau với các loại hợp đồng khác. Hợp đồng giao sau là một hợp đồng song vụ,cam kết thực hiện nghĩa vụ trong tương lai. Khi lập một hợp đồng giao sau thì các bên bị ràng buộc quyền và nghĩa vụ vào trong mối liên hệ đó. Trong đó bên bán phải có nghĩa vụ giao một khối lượng hàng xác định cho bên mua và có quyền nhận tiền vào một thời điểm trong lai ở một giá thoả thuận trước. Còn bên mua phải có nghĩa vụ thanh toán tiền theo như thoả thuận trong hợp đồng và có quyền nhận hàng cũng vào một thời điểm trong tương lai. Như vậy,cả hai bên trong quan hệ hợp đồng giao sau đều bị ràng buộc bởi những quyền và nghĩa vụ nhất định. Và để đảm bảo cho các hợp đồng giao sau được thi hành nên sở giao dịch đã quy định các biện pháp bảo đảm đối với cả bên mua lẫn bên bán bằng việc ký quỹ hoặc các giấy tờ chứng minh khác. Hơp đồng giao sau được lập tại Sở giao dịch qua trung gian Cơ Quan Thanh Lý Ơ trong thị trường chứng khoán ,các loại chứng khoán có thể được mua bán trên sở giao dịch hoặc ở thị trường tự do nhưng trong thị trường giao sau thì các hợp đồng giao sau chỉ được lập trên sở giao dịch. Việc mua bán qua sở giao dịch trong thị trường giao sau làm cho các nhà đầu tư không cần quan tâm đến đối tác của mình. Chỉ cần các bên tuân thủ quy định pháp luật khi ký kết thì quyền và nghĩa vụ các bên sẽ được bảo đảm. Bởi vì ,việc giám sát đảm bảo thực hiện hợp đồng của tất cả các thành viên tham gia trong thị trường giao sau đã có cơ quan thanh lý đảm nhiệm. Trong trường hợp nhà đầu tư thực hiện giao dịch thanh toán bù trừ thì cơ quan thanh lý sẽ cân đối ,bù trừ vào tài khoản của các nhà đầu tư; còn trong trường hợp các bên muốn được thi hành hợp đồng thì cơ quan thanh lý sẽ là cầu nối ,yêu cầu bên bán và bên mua giao nhận hàng tại kho hoặc nơi do cơ quan thanh lý quy định. Ngoài cơ quan thanh lý ra thì còn có nhiều bên khác làm trung gian giúp cho việc giao kết hợp đồng giao sau. Đó là các công ty thanh lý thành viên,các công ty giao sau,các quỹ đầu tư,…làm trung gian giữa nhà đầu tư với cơ quan thanh lý. Các bên này có nhiệm vụ giúp cơ quan thanh lý xác định tư cách tham gia thị trường giao sau của các nhà đầu tư ,giúp họ giao dịch bằng cách nhận lệnh của họ và đem đấu giá trên sàn. Hợp đồng giao sau phải có tiền bảo chứng và đa số các hợp đồng giao sau đều được thanh lý trước thời hạn Tiền bảo chứng là biện pháp bảo đảm thi hành hợp đồng ,bắt buộc đối với cả bên bán và bên mua. Thay vì phải bỏ ra một khoản tiền lớn để đặt cọc hoặc một lượng tiền bằng với giá trị hàng hoá để đảm bảo cho việc mua bán thì sở giao dịch chỉ quy định một mức bảo chứng rất thấp,tuỳ vào loại hàng hoá. Chính vì tiền bảo chứng thấp nên ai cũng có thể tham gia thị trường với tư cách là nhà đầu cơ. Những nhà đầu cơ luôn kỳ vọng vào việc kiếm lời đã trở thành nhân vật chủ yếu trong thị trường giao sau ,thị trường giao sau hoạt động sôi nổi và trôi chảy là nhờ họ. Và vì thế,những người có hàng hoá cần được bảo hộ lại được lợi ,họ có thể dễ dàng lập một hợp đồng giao sau bất cứ lúc nào vì lúc nào cũng có người mua bán. Nhờ vậy mà thị trường giao sau có tính thanh khoản cao. Cuối cùng là một đặc điểm hết sức độc đáo của hợp đồng giao sau mà các dạng hợp đồng khác không có được, đó là thanh lý hợp đồng trước ngày đáo hạn. Trong các hợp đồng thông thường,khi các bên muốn thanh lý hợp đồng trước ngày giao hàng đồng nghĩa với việc thoả thuận để chấm dứt hợp đồng hoặc thoả thuận chuyển ngiã vụ của mình cho người khác, khi đó các bên sẽ thoát khỏi sự ràng buộc về nghĩa vụ với nhau.Nhưng trong hợp đồng giao sau thì các bên có thể thanh lý hợp đồng trước ngày đáo hạn một cánh dễ dàng mà không cần phải thông qua một sự thoả thuận nào bằng cách thực hiện nghiệp vụ thanh toán bù trừ là lập một hợp đồng ngược lại vì thế mà mình đã có.Cứ như thế,các bên có thể mua đi bán lại nhiều lần một loại hàng hoá vào một tháng giao hàng nhất định trong tương lai.Đến ngày giao hàng ,nếu các bên không muốn giao hàng thực sự thì cơ quan thanh lý sẽ thanh toán bù trừ các loại hợp đồng đó và nghĩa vụ giao hàng cũng như nhận hàng của họ được chuyển giao cho người khác. 1.1.2.Đặc tính,mục đích của hợp đồng giao sau Đặc tính của hợp đồng giao sau Giá thị trường hình thành công khai và minh bạch Khi các thông tin về nguồn cung cầu xuất hiện ,người mua và người bán sẽ đưa các thông tin này vào trong thị trường. Khi người mua và người bán đạt đen thoả thuận thì một giao dịch được thực hiện và giá thị trường được công bố. Giá cả được hình thành thông qua hệ thống đấu giá công khai như thế chính là một biểu hiện cụ thể của cơ chế giá được hình thành do các tác động của lực cung và cầu. Thay đổi trong giá giao sau mỗi ngày là sự đồng thuận của người mua lẫn của người bán vào ngày hôm đó. Quản lý rủi ro biến động giá Khả năng bù trừ của hợp đồng giao sau cho phép những người phòng ngừa rủi ro hoà vốn- có nghĩa là thiệt hại trên thị trường giao sau sẽ bù trừ bằng lợi nhuận trên thị trường giao ngay. Điều này đã cho phép những người tham gia vào hợp đồng giao sau quản lý được các rủi ro do các bat ổn gây ra trong giá cả. Đây là nhân tố chính của hợp đồng giao sau hấp dẫn những người phòng ngừa rủi ro. Tính thanh khoản Đây là một chìa khoá cho bất cứ thành công nào của hợp đồng giao sau. Tất cả những thành viên tham gia vào thị trường đều kỳ vọng các biến động giá cả là nhẹ nhàng hoặc có thể dự báo được. Điều này cho phép họ dễ dàng gia nhập hoặc rút ra khỏi thị trường với một số lượng lớn các giao dịch. Số lượng các giao dịch càng lớn nhưng không gây tác động đến giá thì thị trường càng được gọi là “có tính thanh khoản”. Tính hiệu quả Thị trường giao sau tạo khả năng cho tất cả những người tham gia giao dịch với khối lượng lớn với chi phí giao dịch tương đối thấp. Tính hiệu quả này thực sự hấp dẫn những người mua và người bán. Mục đích của hợp đồng giao sau Mọi người tham gia vào quan hệ hợp đồng giao sau không phải chỉ vì mục đích trao đổi hàng hoá mà vì hai mục đích sau: Sử dụng hợp đồng giao sau để chuyển rủi ro về giá và nguồn hàng mà mình đang nắm giữ hoặc sẽ nắm giữ Khi người bảo hộ là người sản xuất hay người tiêu thụ ký kết một hợp đồng giao sau tại một mức giá nhất định ,giao hàng tại một thời điểm xác định trước trong tương lai thì đồng nghĩa với việc các bên chấp nhận giới hạn mức lời cũng như mức thua lỗ của mình trong mức giá đó. Dù thị trường có thay đổi giá như thế nào thì họ cung được đảm bảo một khoản lợi nhuận dự kiến tại mức giá thoả thuận trong hợp đồng giao sau. Như vậy,họ đã chuyển rủi ro về giá cả hàng hoá trên thị trường qua cho các thành phần đầu cơ khác trên thị trường bằng hợp đồng giao sau. Thông thường thì người ta coi hợp đồng giao sau là một công cụ bảo vệ rủi ro cho họ. Do đó,khi cần bán hoặc cần mua một lượng hàng hoá thì họ thiết lập hai loại hợp đồng: (1)hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường và(2) hợp đồng giao sau để bảo vệ lợi nhuận của mình trước những tác nhân có thể làm thua lỗ từ lúc lâp hợp đồng bảo hộ cho đến ngày giao hàng như giá hàng hoá tăng ,tỷ giá hối đoái giảm… Sử dụng hợp đồng giao sau như một công cụ đầu tư tài chính để kiếm lời Bên cạnh mục đích bảo vệ thì hợp đồng giao sau có thể được dùng như một phương cách đầu cơ. Kinh tế ngày càng phát triển làm cho lượng tiền nhàn rỗi trong dân chúng ngày càng tăng lên nhanh chóng. Lượng tiền nhàn rỗi này có thể được gửi vào ngân hàng ,đem đi đầu tư hoặc tham gia vào thị trường chứng khoán. Nhưng từ khi có thị trường giao sau ,các nhà đầu tư đã lập các hợp đồng giao sau như một phương cách đòn bẫy tài chính hữu hiệu để thu được lơị nhuận cao. Những người đầu tư thay vì tham gia vào thị trường chứng khoán để mong chờ kiếm lời từ sự thay đổi giá của các loaị chứng khoán thì tham gia vào thị trường giao sau để kiếm lời từ sự thay đổi giá của các loại hàng hoá trên thị trường giao sau. 1.1.3.Ưu điểm và nhược điểm của hợp đồng giao sau a.Ưu điểm -Sẵn sàng cung cấp những hợp đồng có giá trị nhỏ -Nó cho phép các bên tham gia có thề sang nhượng lại hợp đồng ở bất kỳ thời điểm nào trước khi hợp đồng hết hạn. b.Nhược điểm -Hợp đồng giao sau chỉ cung cấp giới hạn cho một vài ngoại tệ và một vài ngày chuyển giao ngoại tệ trong năm mà thôi. -Hợp đồng giao sau là hợp đồng bắt buộc phải thực hiện khi đến hạn chứ không cho người ta quyền được chọn như trong hợp đồng quyền chọn. 1.1.4.Vai trò và ý nghĩa của hợp đồng giao sau a.Vai trò của hợp đồng giao sau Vai trò hợp đồng giao sau trong nền kinh tế -Hợp đồng giao sau đóng vai trò như một công cụ đầu tư Đây là một vai trò hết sức quan trọng của thị trường giao sau. Các nhà đầu tư sử dụng hợp đồng giao sau như một công cụ đầu cơ để kiếm lời ,nhờ đó thị trường giao sau mới hoạt động liên tục ,nhộn nhịp và hiệu quả được. Sở dĩ người đầu cơ mạo hiểm chấp nhận rủi ro để tham gia thị trường giao sau là vì công cụ đòn bẫy tài chính của thị trường giao sau. Khi người đầu cơ tham gia vào thị trường giao sau,họ không phải bỏ ra đầy đủ số tiền như mình đã ký kết trong hợp đồng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình ,thay vào đó là đóng tiền bảo chứng cho mỗi lần giao dịch. Các sở giao dịch tên thế giới đều buộc những người tham gia đóng tiền bảo chứng và quy định cụ thể mức duy trì tài khoản bảo chứng là mức tiền bảo chứng thấp nhất cho phép. Tuỳ thuộc vào loại hàng hoá mà sở giao dịch quy định mức tiền bảo chứng cụ thể cho mỗi hợp đồng ;các bên đóng đầy đủ tiền bảo chứng là có thể an tâm rằng hợp đồng giao sau mà mình ký kết sẽ được thực hiện ,trừ khi có lệnh gọi đóng thêm tiền khi tài khoản bảo chứng rớt xuống dưới mức duy trì . -Bên cạnh đó, hợp đồng giao sau còn có vai trò là một công cụ bảo hộ Nhóm người bảo hộ là tất cả những người sử dụng hợp đồng giao sau để bảo hộ cho hoạt động kinh doanh của mình bao gồm: người sản xuất,người sở hữu hàng hoá,người xuất khẩu,người nhập khẩu,các công ty,các công ty quản lý quỹ,các Ngân hàng,các công ty đa quốc gia và kể cả chính phủ. Họ bảo hộ những rủi ro sau: Đối với sự biến đổi về giá cả hàng hoá đối với các nguyên vật liệu thô (về năng lượng,kim loại,nông sản…). Người mua không muốn giá quá cao nên đã mua trước bằng hợp đồng giao sau ở một giá định trước,còn người bán thì không muốn giá cả rớt quá thấp nên đã bán trước bằng hợp đồng giao sau. Đối với sự thay đổi của tỷ giá hối đoái. Người nhập khẩu thì không muốn đồng ngoại tệ thanh toán lên giá nên đã mua trước bằng hợp đồng giao sau ,trong khi người xuất khẩu thì không mong muốn đồng ngoại tệ rớt giá bằng cách bán trước đồng ngoại tệ thanh toán bằng hợp đồng giao sau. Đối với sự thay đổi về lãi suất. Các nhà kinh tế đã chứng minh được rằng lãi suất luôn đi ngược lại với giá trái phiếu chính phủ. Lãi suất cao thì giá trái phiếu sẽ hạ.Ngược lại ,nếu lãi suất hạ thì giá trái phiếu cao. Dựa vào tính chất đó mà các công ty,các quỹ đầu tư hoặc kể cả chính phủ thi hành các chính sách tài chính của mình sao cho ít bị thiệt hại vì sự thay đổi về lãi suất. Chẳng hạn như một công ty muốn phát hành trái phiếu nhưng sợ lãi suất thị trường lên thì công ty phải tốn nhiều tiền để trả lãi ,công ty thực hiện chiến lược bảo vệ bằng cách lập hợp đồng giao sau bán trái phiếu chính phủ trong tương lai. Nếu lãi suất thị trường lên thật thì giá trái phiếu chính phủ sẽ hạ,công ty này sẽ thanh lý hợp đồng giao sau trước đó bằng cách mua lại trái phiếu ở giá thấp. Khoản chênh lệch giá lời thu được sẽ bù đắp vào chi phí trả lãi suất trái phiếu của công ty. Đối với sự thay đổi của giá cả chứng khoán thì cũng tương tự đối với trường hợp bảo vệ giá cả hàng hoá. Người dự định mua chứng khoán nhưng không muốn giá quá cao nên đã mua trước ,nếu giá chứng khoán không lên hoặc rớt thì họ sẵn sàng mất một khoản thua lỗ(trong tài khoản bảo chứng) trên thị trường giao sau còn hơn mua và nắm giữ chứng khoán thật sự. Còn người muốn bán chứng khoán thì lo ngại giá sẽ giảm,nếu giá không giảm mà ngược lại còn tăng thì người bán sẽ chấp nhận một phần thua lỗ mà không bán chứng khoán nữa. Đối với người bảo hộ thì họ có thể lựa chọn,một là thực hiện đúng như hợp đồng hoặc hai là thanh lý hợp đồng bằng thanh toán bù trừ. Thông thường, vì những lí do bị động về thời gian ,địa điểm giao hàng,người bảo hộ vẫn thích thực hiện nghiệp vụ thanh lý bù trừ như nhà đầu cơ để bảo vệ rủi ro của họ. -Ngoài ra, hợp đồng giao sau còn là công cụ điều chỉnh giá cả trên thị trường Việc các bên mua bán hàng hoá với giá cả dự kiến trong tương lai giúp cho thị trường tự điều chỉnh giá. Nếu có một tin xấu hoặc tin tốt sẽ xảy ra trong tương lai thì giá cả của mặt hàng đó sẽ tự động điều chỉnh trong một thời gian trên thị trường giao sau trước khi có sự thay đổi giá thực sự trên thị trường tự do. Nhờ biết trước được giá cả dự kiến trong tương lai nên những người cần bảo hộ có thể điều tiết sản xuất,tự động cân bằng cung cầu.Hơn thế nữa,việc niêm yết giá cả công khai trên thị trường sẽ giúp cho các nhà kinh doanh không lo việc mua bán không đúng giá, ép giá.Giá cả được niêm yết công khai không chỉ lợi cho những người giao dịch trên thị trường giao sau mà nó còn là căn cứ để các nhà kinh doanh trong nước,khu vực hoặc thế giới thực hiện việc mua bán của mình. b.Đối với vai trò quản lý nhà nước Thị trường chứng khoán là phong vũ biểu cho nền kinh tế của quốc gia nhưng thực chất nó chỉ phản ánh trong giới hạn một số ngành nghề kinh tế và nó chịu ảnh hưởng một cách gián tiếp đối với sự thay đổi của nền kinh tế thế giới.Còn thị trường giao sau là một phong vũ biểu cho nền kinh tế trong tương lai và nógần như chịu ảnh hưởng trực tiếp tại các diễn tiến giá cả hàng hoá trên thế giới trong tương lai gần.Do đó,thị trường giao sau trở thành một công cụ để nhà nước quản lý,quan sát sự biến chuyển trên thị trường giao sau nhằm đưa ra các chiến lược quan trọng để điều tiết và phát triển kinh tế. Sau đây,là một số lợi ích mà thị trường giao sau có thể mang lại đối với vai trò quản lý kinh tế của nhà nước. -Đối với các loại hàng hoá thông thường, sự xuất hiện thị trường giao sau sẽ giúp cho các thành phần tham gia thị trường cũng như Nhà nước nắm được quan hệ cung cầu và giá cả.Sự giao dịch tập trung giúp cho diễn tiến giá cả trên thị trường phản ánh được quan hệ cung cầu,đặc biệt hơn là ở chỗ là giá cả đó lại là giá cả dự kiến trong tương lai gần.Những người bảo vệ không lo bị ép giá và tự động điều tiết việc sản xuất của mình dựa trên quan hệ cung cầu trên thị trường.Còn Nhà nước thì biết được quan hệ cung cầu và giá cả để định hướng sản xuất,thực hiện việc quản lý kinh tế vĩ mô của mình. -Việc tiêu chuẩn hoá trên thị trường giao sau là một dịp thuận tiện để nhà nước tiêu chuẩn hoá và thống nhất chất lượnghàng hoá phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế,đồng thời nâng cao quy mô sản xuất để tiến tới một nền sản xuất chuyên nghiệp,có định hướng hơn,tránh xa sự sản xuất thiếu tập trung như hiện nay . -Còn trong lĩnh vực tài chính thì thông qua thị trường giao sau mà nhà nước có cơ sở thực hiện chính sánh tiền tệ của mình. Sự thay đổi tỷ giá hối đoái,lãi suất hoặc các chỉ số chứng khoán trong tương lai gần được thể hiện trong thị trường giao sau,dựa vào những chuyển biến dự kiến đó mà nhà nước kịp thời đưa ra những chính sách bảo vệ nền tài chính quốc gia . -Ngoài ra,việc ghi sổ,cập nhập các thành phần tham gia ,các lãnh vực được mua bán ,sự thay đổi giá cả,thông tin,v.v…trên thị trường giao sau có ý nghĩa rất lớn trong việc thống kê thương mại.Dựa vào số liệu thống kê đó nhà nước thực hiện việc quản lý kinh tế được hiệu quả hơn.Và cùng với nguồn dữ liệu thống kê được trong quá khứ sẽ giúp cho nhà nước có cơ sở đưa ra được những dự đoán trong tương lai,tránh rơi vào những tình huống xảy đến bất ngờ. 1.2. Thị trường vàng và các nhân tố ảnh hưởng ,xu hướng vận động của giá vàng 1.2.1.Thị trường vàng 1.2.1.1. Thị trường vàng Việt Nam Nhu cầu tiêu thụ vàng tại Vịêt Nam đang tăng nhanh. Trong 3 năm gần đây,nhập khẩu bình quân trên 70 tấn/năm;riêng năm 2006 theo Hội đồng Vàng Thế Giới-WGC ,mức tiêu thụ vàng của Việt Nam đã vọt lên 86 tấn và nhu cầu vàng của Việt Nam trong năm 2007 cũng ở mức tương tự. Đây cũng là một yếu tố tác động đến quyết định hợp tác từ phía Brink’s Việt Nam. Giá vàng trong thời gian qua nóng lên chưa từng có. Nhiều kỷ lục về giá đã được lập. Nguyên nhân của sự biến động đó phần lớn là do ảnh hưởng của thị trường chứng khoán “tụt dốc”,thị trường bất động sản “đóng băng”… các nhà đầu tư ngắn hạn cần phải thận trọng trước những biến động của thị trường. Tính đến 9 giờ sáng ngày 26/3,giá vàng loại SJC 10c mua vào 183.000đồng,bán ra với giá 184.000 đồng;loại 24k mua vào 1.780.000 đồng,bán ra 1.840.000đồng;18k mua vào 1.273.000đồng,bán ra 1.373.000đồng;loại 14k mua vào 971.000đồng bán ra 1.071.000đồng. Thị trường chứng khoán chưa lấy lại đã tiếp tục “tụt dốc”,kết thúc phiên giao dịch ngày 26/3/2008 ,chỉ số VN-Index mới nhích lên 504.67 điểm. Những tác động đó là dịp để thị trường vàng tiếp tục “lên ngôi”. 1.2.1.2. Thị trường vng tiếp tục biến động phức tạp Sau những ngày nghỉ cuối tuần, đầu tuần này giá vàng trên thị trường thế giới tiếp tục tăng trở lại. Đến cuối ngày 5-4-2006 (  tính theo giờ Việt Nam) giá vàng tại thị trường New York đạt 590,5 USD/ounce giảm so với mức đỉnh điểm đạt được trong ngày là 593,6 USD/ounce. Đây là mức giá vàng tăng cao nhất trong hơn 25 năm qua trên thị trường thế giới kể từ năm 1981 đến nay, tương đương  với 1.156.000 đồng/chỉ, nếu tính cả chi phí vận chuyển và bảo hiểm về tới Việt Nam thì lên tới xấp xỉ 1.274.000 đồng/chỉ. Giá vàng trên thị trường thế giới cuối thập kỷ 90 của thế kỷ trước trong thời gian dài ở mức rất thấp, năm 1999 xuống còn 252 USD/ounce, năm 2000 xoay quanh mức 260 USD/ounce. Nhưng từ sau khi sảy ra cuộc khủng bố ngày 11-9-2001 nhằm vào nước Mỹ đến nay, giá vàng thế giới liên tục tăng cao. Ngày 2-12-2003 lên tới  402,25 USD/ounce và hiện nay thì tăng gấp gần 1,5 lần mức giá đầu tháng12-2003. Hiện nay với chính sách tự do hoá thị trường vàng, nên giá vàng ở nước ta cũng phản ứng tức thì theo sát giá vàng thị trường thế giới. Bên cạnh đó, do Việt Nam hàng năm phải nhập khẩu 95% nhu cầu vàng tiêu thụ trong nước, nên thị trường vàng biến động cùng chiều với thị trường vàng thế giới la điều dễ hiểu.Từ cuối tháng 3-2006 đến nay, giá vàng trong nước cũng thường xuyên tăng lên.  Trong 2 ngày 29 và 30-3-2006, giá vàng SJC bán ra phổ biến ở các thành phố lớn trong nước lên tới 1.097.000 đồng – 1.100.000 đồng/chỉ, sang ngày 31-3-2006, tăng lên 1.112.000 đồng – 1.115.00 đồng/chỉ, cuối ngày tăng lên 1.118.000 đồng/chỉ; đến ngày 5-4-2006 tăng lên 1.128.000 đồng/chỉ. Tuy nhiên giá vàng trong nước vẫn thấp hơn giá vàng thị trường thế giới. Nguyên nhân là do sự phản ứng của thị trường trong nước có độ trễ, lượng vàng bán ra được nhập khẩu tư trước với mức giá thấp hơn và do sức mua của thị trường thấp. Mặc dù vậy, nhưng đây là mức giá vàng cao nhất ở nước ta từ trước đến nay, trong khi thời điểm đầu năm 2006 mới chỉ là 990.000 đồng/chỉ. Hoặc ở thời điểm ngay 7-12-2005, giá vàng giao dịch trên thị trường thế giới mới ở đỉnh cao 512,05 USD/ounce, giá vàng SJC trong nước cũng tăng lên 955.000  - 960.000 đồng/chỉ, thậm chí một số nơi bán ra lên tới 965.000 đồng/chỉ. Từ nhiều năm nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam  coi vàng không phải là mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Vàng không ảnh hưởng đến sức mua của Đồng Việt Nam và không ảnh hưởng đến mặt bằng giá chung. Song giá vàng tăng cao làm cho thị trường vàng trầm lắng, chỉ có ít giao dịch về vàng nữ trang ngày cưới là được thực hiện. Một số người mua vàng trả nợ vay ngân hàng và trả nợ vay mượn trong dân cư. Các giao dịch về nhà đất thường được tính bằng vàng và thanh toán bằng vàng, chủ yếu diễn ra tại một số tỉnh, thành phố phía Nam, thành phố Hồ Chí Minh bị ngưng trệ. Nhiều người chuyển sang tính bằng Đồng Việt Nam khi mua bán trong lĩnh vực này. Các giao dịch vay vốn bằng vàng tại các NHTM cũng bị đình hoãn, nhưng nhu cầu gửi tiết kiệm bằng vàng thì vẫn tăng khá. Hiện nay tổng số dư gửi tiết kiệm bằng vàng của người dân tại các Ngân hàng thưng mại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh lên đến trên 6.000 tỷ đồng; dư nợ cho vay bằng vàng chỉ xoay quanh con số trị giá 5.000 tỷ đồng. Cách đây trên 3 năm Tổng công ty kinh doanh vàng bạc đá quý Việt Nam trực thuộc Ngân hàng Nhà nước đã giải thể, các đơn vị kinh doanh ở nhiều tỉnh được bàn giao cho Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn Việt Nam. Hiện nay Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn Việt Nam có Công ty kinh doanh vàng bạc đá quý với mạng lưới ở hầu khắp các tỉnh thành phố. Do đó, mặc dù vàng không phải là mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, nhưng  Ngân hàng Nhà nước vẫn thường xuyên theo dõi sát diễn biến thị trường vàng trong nước, cùng với nguồn vàng dự trữ quốc gia, chủ động sẽ sẵn sàng can thiệp thông qua mạng lưới kinh doanh này. Sự can thiệp chỉ sảy ra khi giá vàng trong nước diễn biến bất thường ảnh hưởng lớn đến ổn định tiền tệ.   Dự án Kho ngoại quan vàng giữa Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn Việt Nam và Merchant Bank của Singapore được ký kết năm 2004, nhưng đến nay vẫn chưa đi vào hoạt động. Nếu dự án đó sớm hoạt động, thì chi phí nhập khẩu vàng vào Việt Nam sẽ giảm đáng kể. Hơn nữa khi thị trường trong nước có nhu cầu tăng mạnh thì sẽ được đáp ứng tức thì, thay cho phải mất tối thiểu là 36 tiếng đồng hồ kể từ khi khớp lệnh mua cho đến khi vàng được đưa về tới Việt Nam như hiện nam.    Hàng năm nhu cầu vàng tiêu thụ trong nước khoảng 60 – 62 tấn, trong số đó có 56 – 58 tấn được nhập khẩu từ thị trường Singapore và một số thị trường khác về trong nước bằng nhiều con đường khác nhau, chủ yếu bằng đường hàng không.Vàng trong nước tăng gía cao, nó dần dần mất đi chức năng làm phương tiện thanh toán mua bán nhà đất, mà người dân chuyển dần sang thanh toán và tính toán bằng đồng Việt Nam. Hơn nữa, nhu cầu đầu cơ, tích trữ cũng gỉam hẳn. Vàng giờ đây chủ yếu được sửdụnglàmđồtrang . Dự báo, trong thời gian tới giá vàng tiếp tục diễn biến phức tạp, nhưng với xu hướng nhiều khả năng tiếp tục tăng, bởi những nhân tố bất ổn ở Trung Đông và một số nơi khác trên thế giới; do nhu cầu vàng thế trên thế giới tăng cao do thị trường hàng trang sức ở một số quốc gia đông dân tại châu á; do  Ngân hàng Trung ương một số nước tăng cường mua vào để tăng dự trữ bằng vàng; do chi phí khai thác vàng tăng cao; do lãi suất USD và giá dầu thô tiếp tục tăng. Một số Ngân hàng trên thế giới dự báo giá vàng sẽ sớm đạt mức 600 USD /ounce và có khả năng tăng lên tới  660 USD/ounce. 1.2.1.3.Phát triển thị trường vàng Việt Nam trong xu thế hội nhập Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam sẽ tiếp tục kiến nghị Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành Thông tư hướng dẫn hoạt động xuất-nhập khẩu vàng theo hướng bỏ giấy phép nhập khẩu vàng và cho phép các doanh nghiệp được xuất khẩu vàng. Đó là nhận định được đưa ra tại Hội nghị thường niên lần thứ I, nhiệm kỳ II do Hiệp Hội kinh doanh vàng Việt Nam tổ chức chiều 11/4, tại thành phố Hồ Chí Minh. Sau 2 năm hoạt động, Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam đã có một vai trò nhất định trong việc giúp đỡ các hội viên như: phát hành Bản tin giao dịch vàng hàng ngày, tổ chức các hội chợ triển lãm, truyền tải kịp thời những thông tin liên quan đến pháp luật và thương mại tới các hội viên… Bên cạnh đó, Hiệp hội cũng đã kiến nghị Ngân hàng Nhà nước bỏ cơ chế cấp giấy phép nhập khẩu vàng và cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu vàng, ngăn chặn tình trạng xuất, nhập lậu vàng, tăng thu cho Ngân sách Nhà nước và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Thời gian tới, Hiệp hội sẽ tiếp tục kiến nghị Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành Thông tư hướng dẫn hoạt động xuất-nhập khẩu vàng theo hướng bỏ giấy phép nhập khẩu vàng và cho phép các doanh nghiệp được xuất khẩu vàng, đồng thời xúc tiến thành lập thành lập hai Trung tâm giao dịch vàng của Hiệp hội tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vào cuối năm 2008; phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức các buổi toạ đàm, hội thảo khoa học dành cho hội viên 1.2.1.4.Thị trường vàng thế giới Có thể nói giá vàng từ những ngày đầu năm 2008 cho đến nay lên xuống một cách thất thường. Vàng thế giới biến thiên liên tục trong những ngày qua ,cuối tháng 1/2008 đã chạm mức xấp xỉ 930USD/Ounce. 09/02/2008 giá vàng thế giới ở mức 924 USD/Ounce,tăng thêm 13USD/Ounce so với 08/02/2008. nguyên nhân là do giá dầu tăng mạnh trở lại và tình trạng thiếu hụt năng lượng làm ngành khai thác mỏ ở Nam Phi phải giảm sản lượng khai thác,các quỹ đầu tư đang tăng cường mua vào ,khiến giá vàng tăng mạnh trở lại. Sáng 12/02/2008 giá vàng 24k giao ngay trên thị trường thế giới hiện đang phổ biến ở mức 922,3USD/Ounce,tăng 2,8USD/Ounce so với phiên liền trước . Cùng thời gian ,giá vàng giao tháng 3/2008 đang phổ biến ở mức 926,5USD/Ounce,tăng 4,6USD/Ounce so với phiên liền trước. Ngày 13/02/2008 trên thị trường thế giới ,từ đêm hôm trước(12/02/2008)giá liên tục lao dốc và cho đến sáng 13/02/2008 đã gần chạm ngưỡng 900USD/Ounce. Vào 9g sáng,các hợp đồng vàng giao ngay chốt tại 904USD/Ounce ,giảm 18USD/Ounce so với một ngày trước. Nhận thấy IFM rất có khả năng tung ra một trữ lượng vàng lớn ,vàng sẽ mất giá ,cho nên giới đầu tư thế giới đã bắt đầu xả hàng để thu lời ,điều đó khiến cho giá vàng bắt đầu đi xuống . Sáng 14/02/2008,giá vàng ở Mỹ tiếp tục theo phiên đi xuống ,ở châu Á chỉ tăng nhẹ. Cho đến cuối tháng 02/2008 ,giá vàng trên thế giới tăng vọt trở lại. Chỉ trong vòng 3 tháng trở lại đây,giá vàng trên thị trường thế giới liên tục lên xuống,trong những ngày tiếp theo ai sẽ dự đoán được vàng lạ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4246.doc
Tài liệu liên quan