Mục lục
Lời nói đầu
Các nhà kinh tế đã cho rằng, lạm là căn bệnh kinh niên của nền sản xuất hàng hoá, đặc biệt là nền sản xuất hàng hoá phát triển ở mức cao( nền kinh tế thị trường). Tuy nhiên khi lạm phát gia tăng, nó làm mặt bằng giá cả hàng hoá chung tăng, nó tác động đến mọi mặt của nền kinh tế- xã hội, làm sai lệch các chỉ tiêukinh tế; làm phân phối lại thu nhập; kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hoá, bất động sản, vàng bạc... gây tình trạng khan hiếm hàng hoá giả tạo; giảm sức mua
37 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1605 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Sử dụng chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dân chúng về hàng hoá tiêu dùng. Do đó đời sống của người lao động sẽ khó khăn hơn; gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng vì ngân hàng sẽ không thu hút được các nguồn tiền nhàn rỗi cho hoạt động của mình.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác hại mà lạm phát gây ra cho nền kinh tế, trong chừng mực nào đó, với một tỷ lệ lạm phát vừa phải, lạm phát lại là yếu tố để kích thích kinh tế tăng trưởng. Khi đó lạm phát trở thành công cụ điều tiết. Các nhà kinh tế còn gọi đó là liều thuốc bổ cho nền kinh tế. Tình hình lạm phát ở Mỹ và cộng hoà liên bang Đức những năm 1960 là một ví dụ điển hình. Do vậy, cần phải chấp nhận sự tồn tại của lạm phát trong nền kinh tế để có những quyết sách kiềm chế chứ không phải triệt tiêu nó. Vấn đề quan trọng là cần phải kiểm soát được lạm phát, ổn định tiền tệ, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, đảm bảo đời sống co người lao động...
Trong đề tài "Sử dụng chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát" em xin trình bày ba phần chính.
Phần I:
Lạm phát và vai trò của CSTT trong việc kiểm soát lạm phát
Phần II:
Thực trạng của việc sử dụng CSTT trong việc kiểm soát lạm phát những năm qua.
Phần III:
Giải pháp
Lạm phát ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống kinh tế xã hội, cho nên ảnh hưởng đến mỗi cá nhân trong xã hội. Mặt khác việc nghiên cứu đề tài "Sử dụng CSTT trong việc kiểm soát lạm phát" giúp cho bản thân em nắm vững những kiến thức cơ bản của ngành TC-NH, nhằm phục vụ tốt cho việc học tập. Do đó đề tài "Sử dụng CSTT trong việc kiểm soát lạm phát" có ý nghĩa thiết thực đối với bản thân.Bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót, mong cô giáo hướng dẫn và chỉ bảo thêm. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn cô Cao Thị ý Nhi đã giúp em hoàn thành đề tài.
Phần I
I/ Lạm phát và vai trò của CSTT trong việc kiểm soát lạm phát.
1. Những quan điểm khác nhau về lạm phát
Quá trình hình thành các khái niệm và nhận thức bản chất kinh tế của lạm phát cũng là quá trình phát triển của tư duy đi từ đơn giản đến phức tạp, đi từ hiện tượng bề ngoài đến bản chất bên trong, đến các thuộc tính của lạm phát, là quá tình sàng lọc những hiểu biết sai và đúng, lẫn lộn giữa hiện tượng và bản chất, giữa nguyên nhân và kết quả để phản ánh đúng đắn bản chất của tính quy luật của lạm phát.
Theo trường phái lạm phát "lưu thông tiền tệ" (đại diện là Miltơn Priedman) họ cho rằng lạm phát tiền tệ là đưa nhiều tiền thừa (bất kể là kim loại hay tiền giấy) và lưu thông làm cho giá cả hàng hoá tăng lên. Chúng ta đều biết rằng không phải bất cứ số lượng tiền nào tăng lên trong lưu thông với nhịp điệu nhanh hơn sản xuất cũng đều là lạm phát, nếu như nhà nước không giảm bớt nội dung vàng hoặc giá trị tượng trưng trong đồng tiền để bù đắp cho bội chi ngân sách. K.Mazx đã chỉ ra rằng ý nghĩ về lạm phát của học thuyết này là quá đơn giản. Những người theo học thuyết này đã dùng logic hình thức để kết hợp một cách máy móc hiện tượng tăng số lượng tiền với hiện tượng tăng giá để rút ra bản chất kinh tế của lạm phát.
Trường phái lạm phát "cần dư thừa tổng quát" (hay “cầu kéo") mà đại diện là J.Keynes cho rằng. Lạm phát là "cầu dư thừa tổng quát cho phát hành tiền ra quá mức sản xuất trong thời kỳ toàn dụng dẫn đến mức giá chung tăng. Chúng ta nhận thức được rằng nói lạm phát là "cầu dư thừa tổng quát" là không chính xác, vì trong giai đoạn khủng hoảng ở thời kỳ CNTB phát triển mặc dù có khủng hoảng sản xuất thừa mà không có lạm phát. Còn ở Việt Nam trong năm 1991 có tình trạng cung lớn hơn cầu mà vẫn có lạm phát giá cả và lạm phát tiền tệ. Tuy Keynes đã tiến sâu hơn trường phái lạm phát lưu thông tiền tệ là không lấy hiện tượng bề ngoài, không coi điều kiện của lạm phát là nguyên nhân của lạm phát nhưng lại mắc sai lầm về mặt logíc là đem kết quả của lạm phát quy vào bản chất của lạm phát. Khái niệm của Keynes vẫn chưa nên được đúng bản chất kinh tế - xã hội của lạm phát.
Trường phái lạm phát giá cả họ cho rằng lạm phát là sự tăng giá. Thực chất lạm phát chỉ là một trong nhiều nguyên nhân của tăng giá. Có những thời kỳ giá mà không có lạm phát như: thời kỳ "cách mạng giá cả" ở thế kỷ XVI ở châu Âu, thời kỳ hưng thịnh của một chu kỳ sản xuất, những năm mất mùa... tăng giá chỉ là hệ quả là một tín hiệu dễ thấy của lạm phát nhưng có lúc tăng giá lại trở thành nguyên nhân của lạm phát. Lạm phát xảy ra là do tăng nhiều cái chứ không phải chỉ đơn thuần do tăng giá. Vì vậy quan điểm của trường phái này đã lẫn lộn giữa hiện tượng và bản chất, làm cho người ta dễ ngộ nhận giữa tăng giá và lạm phát.
K.Marx đã cho rằng "lạm phát là sự tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa làm cho giá cả (mức giá) tăng vọt và việc phân phối lại sản phẩm xã hội giữa các giai cấp trong dân cư có lợi cho giai cấp tư sản. ở đây Marx đã đứng trên góc độ giai cấp để nhìn nhận lạm phát, dẫn tới người ta có thể hiểu lạm phát là do nhà nước do giai cấp tư bản, để bóc lột một lần nữa giai cấp vô sản. Quan điểm này có thể xếp vào quan điểm lạm phát "lưu thông tiền tệ" song định nghĩa này hoàn hảo hơn vì nó đề cấp tới bản chất kinh tế - xã hội của lạm phát. Tuy nhiên nó có nhược điểm là cho rằng lạm phát chỉ là phạm trù kinh tế của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và chưa nêu được ảnh hưởng của lạm phát trên phạm vi quốc tế.
Trên đây là các quan điểm của các trường phái kinh tế học chính. Nói chung các quan điểm đều chưa hoàn chỉnh, nhưng đã nêu được một số mặt của hai thuộc tính cơ bản của lạm phát. Bàn lạm phát là vấn đề rộng và để định nghĩa được nó đòi hỏi phải có sự đầu tư sâu và kỹ càng. Chính vì thế bản thân cũng chỉ mạnh dạn nêu ra các quan điểm và suy nghĩ của mình về lạm phát một cách đơn giản chứ không đầy đủ bốn yếu tố chủ yếu "bản chất, nguyên nhân các hậu quả KTXH và hình thức biểu hiện".
Chúng ta có thể dễ chấp nhận quan điểm của trường phái giá cả, (ở nước ta và nhiều nước quan niệm này tương đối phổ biến). Sở dĩ như vậy là vì thế kỷ XX là thế kỷ lạm phát, lạm phát hầu như diễn ra ở tuyệt đại bộ phận các nước mà sự tăng giá lại là tín hiệu nhạy bén, dễ thấy của lạm phát.
Như vậy chúng ta sẽ hiểu đơn giản là "lạm phát là sự tăng giá kéo dài, là sự thừa các đồng tiền trong lưu thông, là việc nhà nước phát hành thêm tiền nhằm bù đắp bội chi ngân sách". Hay lạm phát là chính sách đặc biệt nhanh chóng và tối đa nhất trong các hình thức phân phối lại giá trị vật chất xã hội mà giai cấp cầm quyền sử dụng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Nhưng nói chung lạm phát là một hiện tượng của các nền kinh tế thị trường. Định nghĩa lạm phát còn rất nhiều vấn đề để chúng ta có thể nghiên cứu một cách sâu sắc. Nhưng khi xảy ra lạm phát (vừa phải, phi mã, hay siêu lạm phát) thì tác động của nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống kinh tế xã hội.
2. Tác động của lạm phát.
2.1 Lạm phát và lãi suất.
Để duy trì và ổn định sự hoạt động của mình, hệ thống ngân hàng phải luôn luôn cố gắng duy trì tính hiệu quả của cả tài sản nợ và tài sản có của mình, tức là luôn luôn phải giữ cho lãi suất thực ổn định. Ta biết rằng, lãi suất thực= lãi suất danh nghĩa- tỷ lệ lạm phát. Do đó, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, nếu muốn cho lãi suất thực ổn định, lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát. Việc tăng lãi suất danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái kinh tế hay thất nghiệp gia tăng.
2.2 Lạm phát và thu nhập thực tế.
Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của những tài sản không có lãi mà còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi, tức là làm giảm thu nhập từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. Điều đó xảy ra là do chính sách thuế của nhà nước được tính trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa. Khi lạm phát tăng cao, những người đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát tăng cao, điều đó làm cho số tiền thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp tăng cao. Kết quả cuối cùng là thu nhập ròng( thu nhập sau thuế), thực( sau khi đã loại trừ tác động của lạm phát) mà người cho vay nhận được bị giảm đi.
Suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng, đời sống của người lao động trở nên khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng đối chính phủ và những hậu quả về chính trị, xã hội có thể xảy ra.
2.3 Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng.
Trong quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, khi lạm phát tăng cao,người cho vay sẽ là ngưòi chịu thiệt và người đi vay sẽ là người được lợi. Điều này đã tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay. Hơn thế nữa, nó còn thúc đẩy những người kinh doanh tăng cường thu hút tiền vay để đầu cơ kiếm lợi. Do vậy càng tăng thêm nhu cầu tiền vay trong nền kinh tế, đẩy lãi suất lên cao.
Lạm phát tăng cao còn khiến những người thừa tiền và giàu có, dùng tiền của mình vơ vét và thu gom hàng hoá, tài sản, nạn đầu cơ xuất hiện, tình trạng này cạng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung- cầu hàng hoá trên thị trường, giá cả hàng hoá cũng lên cơn sốt cao hơn. Cuối cùng, những người dân nghèo vốn đã nghèo càng trở lên khốn khó hơn. Họ thậm chí không mua nổi những hàng hoá tiêu dùng thiết yếu, trong khi đó, những kẻ đầu cơ đã vơ vét sạch hàng hoá và trở nên càng giàu có hơn. Tình trạng lạm phát như vậy sẽ có thể xảy ra những rối loạn trong nền kinh tế và tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập, về mức sống giữa người giàu và người nghèo.
2.4 Lạm phát và nợ quốc gia.
Lạm phát cao làm cho chính phủ được lợi do thuế thu nhập đánh vào người dân, nhưng những khoản nợ nước ngoài sẽ trở trầm trọng hơn. Chính phủ được lợi trong nước nhưng sẽ bị thiệt với nợ nước ngoài. Lý do là vì : lạm phát đã làm tỷ giá tăng cao và đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với đồng tiền nước ngoài tính trên các khoản nợ.
3. Khái niệm và đặc trưng của chính sách tiền tệ
3.1 Khái niệm
Chính sách tiền tệ, là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế của nhà nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn nhất định.
Chính sách tiền tệ theo nghĩa rộng là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế nhằm phân bổ một cách hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên nhằm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, cân đối kinh tế, trên cơ sở đó ổn định đồng tiền quốc gia.
Chính sách tiền tệ theo nghĩa hẹp là chính sách đảm bảo sao cho khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong một năm tương ứng với tăng trưởng kinh tế và chỉ số lạm phát nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Chính sách tiền tệ quốc gia là tổng thể các biện pháp của nhà nước pháp quyền nhằm cung ứng đầy đủ các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế phát triển, trên cơ sở đó ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.
Chinh sách tiền tệ của NHTW là tổng thể tất cả các biện pháp, công cụ mà NHTW sử dụng nhằm điều tiết khối lượng tiền tệ, tín dụng, ổn định tiền tệ, góp phần đạt được các mục tiêu của các chính sách kinh tế.
Dù quan niệm chính sách tiền tệ theo nghĩa nào, chính sách tiền tệ đều nhằm mục tiêu ổn định giá trị tiền tệ, góp phần thực hiện các mục tiêu của các chính sách kinh tế; chính sách tiền tệ là bộ phận tổng thể các chính sách kinh tế của nhà nước để thực hiện vai trò quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế.
Chính vì vậy chính sách tiến tệ tác động nhạy bén tới lạm phát và đây là giải pháp khá hữu hiệu trong việc kiểm soát lạm phát.
3.2 Đặc trưng của chính sách tiền tệ.
a. Chính sách tiền tệ là một bộ phận hữu cơ cấu thành chính sách tài chính quốc gia.
Trong tổng thể các chính sách kinh tế- tài chính của một quốc gia, mỗi chính sách đều có một vị trí và vai trò riêng. Trong đó, chính sách tiền tệ luôn được coi là có vị trí trung tâm, gắn kết các chính sách lại với nhau.
Người ta cho rằng, mức độ tiền tệ hoá cao hay thấp của một nền kinh tế phản ánh trình độ phát triển kinh tế của nước ấy. Do đó, tiền tệ đã thâm nhập và trở thành một yếu tố hết sức quan trọng trong mọi nền kinh tế. Chính vì vậy, chính sách tiền tệ phải là một bộ phận trung tâm của các chính kinh tế- tài chính quốc gia. Luật NHNN Việt Nam khẳng định chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách kinh tế- tài chính của nhà nước. Với chính sách tài chính quốc gia, bên cạnh chính sách tiền tệ, còn có các chính sách khác như chính sách ngân sách, chính sách tài chính doanh nghiệp, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách thu nhập…
b. Chính sách tiền tệ là công cụ thuộc tầm vĩ mô.
Để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã được hoạch định, chính phủ cần phải sử dụng một hệ thống các công cụ. Nếu xét riêng về chính sách kinh tế, có 4 chính sách thông dụng được sử dụng: Chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách thu nhập.
Chính sách tiền tệ được sử dụng để làm thay đổi lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, từ đó tác động đến lãi suất, ảnh hưởng đến đầu tư, ảnh hưởng đến sản xuất và lưu thông hàng hoá và do vậy chính sách tiền tệ là một chính sách thuộc tầm vĩ mô.
c. NHTW là người đê ra và vận hành chính sách tiền tệ.
Do chính sách tiền tệ luôn hướng vào việc thay đổi lượng tiền cung ứng nên chủ thể nào thực hiện chức năng phát hành tiền và điều hoà lưu thông tiền tệ thì chính thể đó phải trực tiếp vạch ra và thực thi chính sách tiền tệ. Chủ thể đó không ai khác ngoài NHTW. Đối với Việt Nam mặc dù thẩm quyền quyết định chính sách tiền tệ là quốc hội, nhưng NHNN có trách nhiệm xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để trình chính phủ xem xét, trình quốc hội và là cơ quan trực tiếp tổ chức thực hiện dự án chính sách tiền tệ sau khi đã được phê duyệt.
d. Mục tiêu tổng quát của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền và góp phần thực hiện một số mục tiêu kinh tế vĩ mô khác.
Bất kỳ một nền kinh tế nào, vai trò của ổn định tiền tệ và nâng cao sức mua đông tiền trong nước cũng luôn được coi là mục tiêu có tính chất dài hạn. Trên cơ sở thực thi chính sách tiền tệ, nhằm tác động đến lượng tiền cung ứng để từ đó tác động đến hàng loạt các yếu tố khác trong nền kinh tế như lãi suất, lạm phát, đầu tư, việc làm… ổn định giá trị đồng tiền là mục tiêu trọng tâm của chính sách tiền tệ. Có ổn định được tiền tệ thì mới khuyến khích tiết kiệm, có tiết kiệm mới có đầu tư, và có đầu tư mới có tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp…
4. Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ là bộ phận quan trọng, cấu thành chính vĩ mô của nhà nước. Do vậy, việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ phải phục vụ đắc lực cho quá trình phát triển nền kinh tế quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Về thực chất, chính sách tiền tệ hướng vào điều chỉnh mối quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ; giữa tiền và hàng trên 4 lĩnh vực quan trọng:
4.1 Kiểm soát cung ứng tiền tệ và điều hoà lưu thông tiền tệ.
Việc vạch và thực thi chính sách tiền tệ phải khống chế sao cho” khối lượng tiền tệ cung ứng trong một thời kỳ nhất định phải cân đối với mức tăng sản phẩm quốc dân danh nghĩa và vong quay tiền tệ trong thời kỳ đó. Nừu diễn đạt theo công thức của Karl Mark thì khối lượng tiền tệ thực tế trong lưu thông( KTT) phải luôn phù hợp với khối lượng tiền cần thiết(KCT) cho lưu thông thì tiền tệ mới ổn định.
Theo K.Mark, KCT=H/V. Tuy nhiên, khối lượng tiền tệ tăng hay giảm đi chỉ là chỉ tiêu định lượng. Điều quan trọng là NHTW phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, của giá cả và tỷ giá hối đoái, khuynh hướng chi tiêu của dân chúng, về mức độ hoạt động thanh toán không bằng tiền mặt trong nền kinh tế… Từ đó điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho khối lượng tiền tệ tăng hay giảm mà không làm tăng giá cả hoặc làm thiếu phương tiện thanh toán cho nền kinh tế.
4.2 Kiểm soát hoạt động tín dụng.
Khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cung ứng cho nền kinh tế chủ yếu từ 3 nguồn sau:
Vốn tự có của ngân hàng
Vốn huy động từ các nguồn nhàn rỗi trong nền kinh tế
Vay tái cấp vốn tại NHTW
Khi ngân hàng cấp phát tín dụng sẽ diễn ra quá trình tạo tiền gửi và phát sinh bội số tín dụng. Để điều tiết tín dụng và khối lượng tiền tệ, NHTW sẽ sử dụng một số công cụ như lãi suất, tỷ lệ dự trữ tối thiểu bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở…
Từ khối lượng tiền tệ có thể cung ứng thêm cho nền kinh tế, NHTW sẽ giành chủ yếu cho hoạt động tín dụng ngắn hạn phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế, có tính đến tỷ lệ lạm phát. Hoạt động tín dụng này chỉ xuất hiện khi nền kinh tế thực sự có nhu cầu. Khi các NHTM thiếu phương tiện thanh toán thì họ mới đến NHTW xin tái cấp vốn. NHTW luôn đóng vai trò là chủ nợ và là người cho vay cuối cùng đối với hệ thống NHTM, nhằm kiểm soát chất lượng tín dụng và số lượng tín dụng, kiểm soát các nguồn tiền gửi của các NHTM và các tổ chức tín dụng.
4.3 Kiểm soát ngoại hối.
Ngoại hối là danh từ nói chung cho các phương tiện được dùng để thanh toán quốc tế, như vậy ngoại hối bao gồm: ngoại tệ, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ và các công cụ tiền tệ khác.
Để ổn định giá trị đối ngoại của đồng bản tệ, NHTW thực hiện các giao dịch về tài chính- tiền tệ và sử dụng một số các chính sách để tác động tới khối lượng tiền tệ trên các phương diện sau:
Xây dựng và quản lý dự trữ ngoại hối của đất nước nhằm bảo đảm khả năng thanh toán quốc tế, bảo toàn dự trữ ngoại hối nhà nước.
Lập và theo dõi diễn biến cán cân thanh toán quốc tế.
Thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức và điều tiết thị trườngngoại tệ liên ngân hàng và tham gia vào thị trường ngoại hối quốc tế.
ổn định tỷ giá hối đoái để kìm giữ lạm phát, ổn định tỷ giá trong nước.
Quan hệ với các NHTW khác, với các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế… nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ có điều kiện ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài và thu hút kiều hối.
Tổ chức quản lý nợ nước ngoài.
4.4 Chính sách đối với ngân sách nhà nước.
Để có thể đạt được tác dụng như mong muốn, chính sách tiền tệ cần phải xử lý mối tương quan của nó với chính sách tài khoá, trước hết là chính sách thu và chi của ngân sách. Cách xử sự của chính sách tiền tệ với ngân sách tuỳ thuộc vào tình trạng cán cân ngân sách có cân bằng hay không, ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực và mức độ như thế nào vào lưu thông tiền tệ.
a. Trường hợp ngân sách thăng bằng.
Khi chính phủ thu ngân sách nghĩa là đã lấy ra khỏi lưu thông một số lượng tiền tệ và song song với việc đó là chính phủ chi số tiền đó vào guồng máy kinh tế. Khối lượng tiền tệ sẽ không thay đổi vì nó được tăng giảm một lưọng như nhau. Tuy nhiên, nó có thể làm thay đổi kết cấu giữa tiêu dùng và tiết kiệm. Trong khi chính phủ dúng số tiền thu được để cấp phát cho những người có thu nhập thấp thì số tiêu thụ chung lại tăng lên, số đầu tư giảm dẫn đến giá cả tăng lên. Nếu chính phủ dùng số chi ngân sách để đầu tư thì đầu tư nhà nước tăng lên, đầu tư tư nhân giảm đi nhưng tổng đầu tư chung không thay đổi vì vậy vần lưu ý 2 trường hợp sau:
Chính sách tiền tệ chống suy thoái: ngân sách thăng bằng, có thể dịch chuyển thu nhập tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách làm tăng mức tiêu thụ .
Chính sách tiền tệ chống lạm phát: ngân sách thăng bằng, vẫn có thể tác dụng ngược với chính sách tiền tệ, làm tăng vật giá.
Cho nên, ngay trong trường hợp ngân sách thăng bằng, cơ cấu thu chi ngân sách không cùng chiều vẫn có khả năng gây mất cân đối cục bộ trong quan hệ tiền- hàng.
b. Trường hợp ngân sách thiếu hụt.
Trong trưòng hợp này, chính phủ phải đi vay để bù đắp cho sự thiếu hụt ngân sách. Tác động của nó đối với nền kinh tế như thế nào sẽ tuỳ thuộc vào chính phủ vay ở đâu. Có bốn nguồn mà chính phủ có thể vay để bù đắp thiếu hụt ngân sách, đó là:
Vay dân cư
Vay hệ thống tín dụng và tài chính trong nước
Vay NHTW
Vay nước ngoài
Trường hợp vay NHTW thì sẽ được phát hành thêm, làm tăng khối lượng tiền trong nền kinh tế; khi chính phủ vay nước ngoài, thường là bằng vàng hay ngoại tệ thì phải ký quĩ số vay được tại NHTW để rút tiền mặt ra chi tiêu, làm khối lượng tiền tệ trong lưu thông tăng lên. Như vậy, cả hai trường hợp đều làm tăng khối lượng tiền tệ, gây áp lực lạm phát tiềm tàng.
Trường hợp vay của dân cư và vay thị trường tài chính trong nước chỉ tác động nhẹ đến việc tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông nên hầu như không gây áp lực lạm phát tiềm tàng.
Do vậy, cách tốt nhất là phải thực hiện một ngân sách nhà nước thăng bằng. Không nên bội chi để bù đắp chi phí hành chính mà tối thiểu ngân sách phải phấn đấu thu để trang trải các nhu cầu chi tiêu thường xuyên. Chi cho đầu tư, nếu thiếu thì phải được tài trợ bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ để vay nhân dân, các ngân hàng thương mại trên thị trường tiền tệ và trên thị trường vốn.
c. Trường hợp thặng dư ngân sách.
Đây là trường hợp rất quí tác động có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và cầu tiền tệ, tuy nhiên trường hợp này hiếm khi xảy ra.
5. Các công cụ của chính sách tiền tệ được sử dụng trong việc kiểm soát lạm phát.
Để thấy rõ tác động của chính sách tiền tệ tới tỷ lệ lạm phát ta sẽ đi tìm hiểu từng công cụ một của chính sách tiền tệ.
5.1. Dự trũ bắt buộc.
5.1.1 Khái niệm.
Trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các ngân hàng thương mại có khả năng biến những khoản tiền gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới cho cả hệ thống, khả năng sinh ra bội số tín dụng, tức là khả năng tạo tiền. Để khống chế khả năng này, ngân hàng trung ương buộc các ngân hàng thương mại phải trích một phần tiền huy động được theo một tỷ lệ quy định gửi vào ngân hàng trung ương không được hưởng lãi. Do đó cơ chế hoạt động của công cụ dự trữ bắt buộc nhằm khống chế khả năng tạo tiền, hạn chế mức tăng bội số tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phưong tiện thanh toán cần khống chế (bị "vô hiệu hoá" về mặt thanh toán) trên tổng số tiền gửi nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán và khả năng tín dụng của các ngân hàng thương mại.
5.1.2 Cơ chế tác động.
Khi lạm phát cao, ngân hàng trung ương nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng cho vay và khả năng thanh toán của các ngân hàng bị thu hẹp (do số nhân tiền tệ giảm), khối lượng tín dụng trong nền kinh tế giảm (cung tiền giảm) dẫn tới lãi suất tăng, đầu tư giảm do đó tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Ngược lại nếu ngân hàng trung ương hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là tăng khả năng tạo tiền, thì cung về tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng tăng lên, khối lượng tín dụng và khối lượng thanh toán có xu hướng tăng, đồng thời tăng xu hướng mở rộng khối lượng tiền. Lý luận tương tự như trên thì việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới tăng giá (tỷ lệ lạm phát tăng).
Như vậy công cụ DTBB mang tính hành chính áp đặt trực tiếp , đầy quyền lực và cực kỳ quan trọng để cắt cơn sốt lạm phát, khôi phục hoạt động kinh tế trong trường hợp nền kinh tế phát triển chưa ổn định và khi các công cụ thị trường mở tái chiết khấu chưa đủ mạnh để có thể đảm trách điều hoà mức cung tiền tệ cho nền kinh tế. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc quá nhạy cảm, vì chỉ thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng tiền tăng lên rất lớn khó kiểm soát. Mặt khác một điều bất lợi nữa là khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung ứng tiền tệ như việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc không ngừng cũng gây nên tình trạng không ổn định cho các ngân hàng.
Chính vì vậy sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung tiền tệ qua đó kiểm soát lạm phát ít đưọc sử dụng trên thế giới (đặc biệt là những nước phát triển , có nền kinh tế ổn định)
5.2. Tái cấp vốn.
5.2.1 Khái niệm.
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các ngân hàng thương mại. Khi cấp một khoản tín dụng cho ngân hàng thương mại, một mặt, NHTW đã tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các ngân hàng thương mại tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực thanh toán cho họ.
Tuỳ từng quốc gia mà công cụ này được áp dụng dưới các hình thức khác nhau. Đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, tái cấp vốn được thực dưới hình thức tái chiết khấu. Vì vậy đối với các quốc này, công cụ này được gọi là tái chiết khấu. Tại nhiều quốc gia khác( trong đó có Việt Nam), hoạt động tái cấp vốn của NHTW đối với NHTM được thực hiện dưới không chỉ được thực hiện dưới hình thức tái chiết khấu mà còn dưới nhiều hình thức khác nữa, thí dụ:
Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Cho vay dưới hình thức cầm cố, thế chấp các chứng từ có giá ngắn hạn.
Cho vay trong thanh toán bù trừ.
Cho vay theo hình thức chỉ định.
Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng.
5.2.2 Cơ chế tác động.
Tái cấp vốn là phương thức để ngân hàng trung ương đưa tiền vào lưu thông, thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng. Thông qua việc tái cấp vốn, ngân hàng trung ương đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện việc tạo tiền, đồng thời khai thông thanh toán. Tái cấp vốn là đầu mối tăng tiền trung ương, tăng khối lượng tiền tệ vào lưu thông. Do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình điều khiển khối lượng tiền và điều hành chính sách tiền tệ. Tuỳ theo tình hình từng giai đoạn, tuỳ thuộc yêu cầu của việc thực hiện chính sách tiền tệ trong giai đoạn ấy, cần thực hiện chính sách "nới lỏng" hay "thắt chặt" tín dụng mà ngân hàng trung ương quy định lãi suất thấp hay cao. Lãi suất tái cấp vốn đặt ra từng thời kỳ phải có tác dụng hướng dẫn, chỉ đạo lãi suất tín dụng trong nền kinh tế của giai đoạn đó.
Khi ngân hàng trung ương nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng thương mại cũng phải nâng lãi suất tín dụng của mình lên để không bị lỗ vốn. Do lãi suất tín dụng tăng lên, giảm "cầu" về tín dụng và kéo theo giảm cầu về tiền tệ (nhu cầu về giữ tiền của nhân dân giảm đi). Do đó đầu tư giảm đi dẫn tới tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Trường hợp ngược lại tức là ngân hàng trung ương kích thích tăng cung cầu tiền tệ và làm cho giá tăng (tỷ lệ lạm phát tăng). ở các nước công cụ nghiệp vụ trực tiếp để thực hiện tái chiết khấu là thương phiếu, hoặc các loại tín phiếu là những công cụ rất thông dụng trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn nhưng ở nước ta chưa có công cụ truyền thống để thực hiện việc chiết khấu và tái chiết khấu. Mặt khác công cụ tái chiết khấu vừa có khả năng giải quyết khả năng thanh toán vừa có khả năng mở rộng khối lượng tín dụng cho nền kinh tế. Cho nên có thể ví công cụ tái chiết khấu là cáí bơm hai chiều vừa hút vừa đẩy. Khi bơm đảy ra là cung thêm tiền cho nền kinh tế, khi có hiện tượng thiểu phát. Và bơm hút vào thu hồi lượng tiền khi nền kinh tế có hiện tượng lạm phát.
Tuy nhiên khi NHTW ấn định lãi suất chiết khấu tại một mức nào đó sẽ xảy ra những biến động lớn trong khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết khấu vì khi đó lãi suất cho vay thay đổi. Những biến động này dẫn đến những thay đổi ngoài ý định trong khối lượng cho vay chiết khấu và do đó thay đổi trong cung ứng tiền tệ làm cho việc kiểm soát cung ứng tiền tệ vất vả hơn. Đây chính là hạn chế của công cụ tái chiết khấu trong việc kiểm soát lạm phát.
5.3. Hoạt động thị trường mở.
5.3.1 Khái niệm.
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHTW mua và bán các giấy tờ có giá chủ yếu là ngắn hạn( Tín phiếu kho bạc, Tín phiếu NHTW, Chứng chỉ tiền gửi...) trên thị trường tiền tệ, điều hoà cung- cầu giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng thương mại dẫn đến tăng hay giảm khối lượng tiền tệ, cụ thể :
Bằng cách bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, NHTW có thể thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để giảm lạm phát.
Ngược lại, khi NHTW mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng khối lượng tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại.
5.3.2 Cơ chế tác động.
a. Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng.
Nếu như công cụ lãi suất tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW, tức là NHTW phải chờ NHTM đang cần vốn đưa thương phiếu, kỳ phiếu... đến để xin "tái cấp vốn" thì nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ động của ngân hàng trung ương để điều khiển khối lượng tiền, qua đó đã kiểm soát được lạm phát.
Qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTW chủ động phát hành tiền trung ương vào lưu thông hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông bằng cách mua bán các loại trái phiếu ngân hàng quốc gia nhằm tác động trước hết đến khối lượng tiền dự trữ trong quỹ dự trữ của các NHTM và các tổ chức tài chính, hạn chế tiềm năng tín dụng và thanh toán của các ngân hàng này, qua đó điều khiển khối lượng tiền trong thị trường tiền tệ chúng ta. Khi nghiên cứu phần trước đã biết rằng khối lượng tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ lạm phát , việc thay đổi cung tiền tệ sẽ làm thay đổi tỷ lệ lạm phát.
Trong nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng trung ương điều khiển cả khối lượng tiền tệ và lãi suất tín dụng thông qua "giá cả" mua và bán trái phiếu. Tất cả những cuộc can thiệp vào khối lượng tiền bằng công cụ thị trường mở đều được tiến hành dường như là lặng lẽ và vô hình, "không can thiệp thô bạo", điều khiển mạnh mà không chứa đựng "một chút mệnh lệnh". Một mặt nghiệp vụ thị trường mở có thể dễ dàng đảo ngược lại. Khi có một sai lầm trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trường mở, như khi thấy cung tiền tệ tăng hoặc giảm quá nhanh ngân hàng thương mại có thể lập tức đảo ngược lại bằng cách bán trái phiếu hoặc mua trái phiếu và ngược lại.
Đây là công cụ cực kỳ quan trọng của nhiều NHTW, và được coi là vũ khí sắc bén nhất đem lại sự ổn định kinh tế nói chung, ổn định lạm phát nói riêng.
b. Tác động qua lãi suất.
Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường mở của NHTW có ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất thị trường thông qua hai con đường:
Thứ nhất, khi dự trữ của các ngân hàng bị ảnh hưởng nó có tác động đến cung cầu vốn của NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu tiền NHTW sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động Arbitrage và dài hạn trên thị trường tài chính. Tổng cầu của nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định một mức lãi suất thị trường xác định.
Thứ hai, việc mua bán chứng khoán sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu về loại chứng khoán đó trên thị trường mở và do đó ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0743.doc