Lời nói đầu
Kể từ khi thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, toàn bộ hệ thống tổ chức và hoạt động của ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã được đổi mới sâu sắc và đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới với những thuận lợi và khó khăn thử thác đan xen, chính sách tiền tệ cần không ngừng được đổi mới, hoàn thiện từ công tác hoạch
42 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1542 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định đến chỉ đạo thực hiện. Đón nhận những cơ hội do hội nhập mang lại, đồng thời dự đoán nắm bắt những tác động của nó tới nền kinh tế, từ đó đưa ra các biện pháp điều chỉnh như thế nào cho thích hợp là vấn đề mang tính nhạy cảm của các nhà điều hành chính sách tiền tệ. Điều tiết lượng tiền cung ứng như thế nào để cho nền kinh tế phát triển một cách nhịp nhàng luôn là vấn đề nan giải, thiếu hay thừa tiền đều có tác động tiêu cực của nó. Để làm được điều này, Ngân hàng Trung ương phải sử dụng hàng loạt các công cụ như: lãi suất, hạn mức tín dụng, phát hành trái phiếu, dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở.
Việc hoàn thiện chính sách tiền tệ sẽ phụ thuộc nhiều vào khả năng tiếp cận và vận dụng hệ thống các công cụ thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Các mục tiêu: Tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, tạo công ăn việc làm có thực hiện được hay không là phụ thuộc vào việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ chúng ta cần phải làm gì?
Xuất phát từ lý do trên, em đã chọn đề tài: "Sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay".
Trong bài viết, em xin được trình bày ba chương:
- Chương 1: Lý luận chung về các công cụ của chính sách tiền tệ.
- Chương 2: Tình hình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
- Chương 3: Định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ.
Mặc dù có rất nhiều cố gắng, song do điều kiện thời gian trình độ kiến thức và trình độ thực tế còn hạn chế. Cho nên bài tiểu luận này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu xót. Em kính mong nhận được những đánh giá chỉ bảo góp ý của các thầy cô cũng như của các bạn để em có thể hoàn thiện thêm kiến thức của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương 1
Lý luận chung về các công cụ của chính sách tiền tệ
Nếu như người cho rằng ngân hàng trung ương (NHTW) là một trong ba phát minh lớn của nhân loại: Lửa, cái bánh xe và NHTW, thì chính sách tiền tệ (CSTT) cũng được coi là linh hồn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình hoạt động, và là lý do tồn tại của bất kỳ NHTW nước nào.
Quá trình lịch sử ra đời của NHTW ở các nước trên thế giới cho thấy ự xuất hiện của tổ chức này trong nền kinh tế thị trường hoàn toàn không phải vì mục tiêu tìm kiếm doanh nghiệp lợi cho bản thân nó hay cho Chính phủ. Sự xuất hiện của NHTW chính xuất phát từ yêu cầu của quản lý và điều tiết lưu thông tiền tệ, bảo đảm cho hệ thống ngân hàng (HTNH) hoạt động ổn định an toàn và có hiệu quả, tạo điều kiện cho sự ổn định tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để thực hiện những mục tiêu hết sức quan trọng đó NHTW đã phải thông qua quá trình hoạch định chính xác và tổ chức thực thi có hiệu quả CSTT của mình.
Như vậy, NHTW và chính sách tiền tệ đều có một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Dưới đây là những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách tiền tệ.
1.1. Mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ của NHTW (NHTW) là một bộ phận quan trọng trong hệ thống các chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của chính phủ.
Chính sách tiền tệ là một tổng hoà các phương thức, mà NHTW thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của một đất nước trong một thời kỳ nhất định.
1.1.1. Tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu và quan trọng nhất trong 3 mục tiêu của chính sách tiền tệ. Do chính sách tiền tệ có thể ảnh hưởng tới của cải và chi tiêu của xã hội nên có thể sử dụng nó làm đòn bẩy kích thích tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế phải được hiểu cả về khối lượng và chất lượng. Chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế, tức là tỷ lệ tăng trưởng có được sau khi trừ đi tỷ lệ tăng giá cùng thời kỳ. Chất lượng tăng trưởng được biểu hiện ở một cơ cấu kinh tế cân đối và khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng hoá trong nước tăng lên.
Muốn tăng trưởng kinh tế thì phải gia tăng đầu tư, thực hiện tái sản xuất mở rộng. Để gia tăng đầu tư, bên cạnh việc sử dụng công cụ tài trợ của ngân sách Nhà nước, người ta phải chủ yếu trông vao sự gia tăng đầu tư tín dụng của hệ thống ngân hàng dưới tác động của NHTW. Như vậy, với tư cách là trung tâm tiền tệ, tín dụng và thanh toán trong nền kinh tế quốc dân, NHTW đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này.
1.1.2. Kiểm soát lạm phát.
Kiểm soát lạm phát là một mục tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại thường xuyên có lạm phát. ổn định giá cả có tầm quan trọng đặc biệt để định hướng phát triển kinh tế của quốc gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán những biến động của môi trường quốc gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán những biến động của môi trường kinh tế vĩ mô. Mức lạm phát thấp và ổn định tạo nên môi trường đầu tư ổn định, thúc đẩy nhu cầu đầu tư và đảm bảo sự phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả. Đây là lợi ích có tầm quan trọng sống còn đối với sự thịnh vượng kinh tế của quốc gia. Lạm phát cao hay thiểu phát liên tục là rất tốn kém cho xã hội, thậm chí ngay cả trong trường hợp nền kinh tế phát triển khả quan nhất. Sự biến động liên tục của các tỷ lệ lạm phát dự tính làm méo mó, sai lệch thông tin và do đó làm cho các quyết định kinh tế trở nên không đáng tin cậy và không có hiệu quả. Nguy hiểm hơn, sự bất ổn định giá cả làm dẫn đến sự phân phối lại không dân chủ các nguồn lực kinh tế trong xã hội giữa các nhóm dân cư.
1.1.3. Tạo việc làm.
Tạo công ăn việc làm là mục tiêu của tất cả các chính sách vĩ mô trong đó có chính sách tiền tệ. Tạo việc làm luôn là một đòi hỏi bức xúc và thường trực của xã hội. Vì vậy, nó đương nhiên phải là một mục tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ.
Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm chủ yếu tuỳ thuộc vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Khi đầu tư tăng và các hoạt động kinh tế được mở rộng thì người lao động càng có thêm cơ hội tìm kiếm việc làm. Tuy nhiên, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cải tiến kỹ thuật, thì việc làm có thể không tăng mà có thể giảm, dẫn đến thất nghiệp tăng. Tạo được nhiều việc làm là một mục tiêu có giá trị vì hai lý do sau:
- Nếu thất nghiệp cao sẽ gây ra nhiều đau khổ cho con người, các gia đình bị khốn cùng về tài chính mất đi lòng tự trọng cá nhân và gây ra nhiều tệ nạn xã hội tiêu cực.
- Khi thất nghiệp tăng lên thì không những có thêm nhiều người lao động không có việc làm mà còn có cả những nguồn tài nguyên để không (không sử dụng hết các nguồn lực) dẫn đến tình trạng các xí nghiệp bị đóng cửa, trang thiết bị không được sử dụng hết, sản xuất đình trệ, kết quả là sản phẩm giảm đi.
Tình hình đó đặt ra cho NHTW trách nhiệm là phải vận dụng các công cụ của mình góp phần tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh. Đồng thời, phải tham gia tích cực vào việc tăng trưởng liên tục và ổn định, khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá mức thất nghiệp tự nhiên.
Sự phối hợp giữa 3 mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là rất quan trọng. Bởi vì, không phải cùng một lúc cả ba mục tiêu đó đều có thể thực hiện được mà không có sự mâu thuẫn. Do vậy, khi xác định các mục tiêu này, phải tuỳ lúc, tuỳ thời mà sắp xếp thứ tự ưu tiên. Điều quan trọng là phải luôn nắm bắt được thực tế diễn biến của quá trình thực hiện các mục tiêu để kịp thoừi điều chính chúng khi cần thiết với những giải pháp thích hợp. Để đạt được các mục tiêu đề ra thì NHTW được coi là có nhiều khả năng thực hiện việc này vì nó nắm trong tay các công cụ điều chỉnh lượng tiền cung ứng. Như vậy, mục tiêu và nhiệm của chính sách tiền tệ chính là xuất phát điểm để đưa ra các công cụ điều hành.
1.2. Các công cụ của chính sách tiền tệ.
Công cụ chính sách tiền tệ là hoạt động được thực hiện bởi NHTW nhằm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất thị trường, để từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
1.2.1. Các công cụ trực tiếp.
Các công cụ trực tiếp là các công cụ mà thông qua chúng, NHTW có thể tác động trực tiếp đến cung cầu tiền tệ, không phải thông qua một công cụ khác.
Tác động chính sách của các công cụ trực tiếp của CSTT
Các công cụ trực tiếp
ấn định lãi suất tiền gửi - cho vay
Hạn mức tín dụng giảm
Phát hành tín phiếu NHTW
Mục tiêu trung gian
Lãi suất thị trường vốn tăng
Mức cung tiền giảm
Tỷ giá hối đoái giảm
Tác động
Tiết kiệm tăng
Nhu cầu tín dụng giảm
Cung ứng tín dụng giảm
Xuất khẩu ròng giảm
Chi tiêu đầu tư tiêu dùng giảm
Tổng cầu giảm
Mục tiêu cuối cùng
Chỉ số giá giảm
Sản lượng giảm
Công ăn việc làm giảm
1.2.1.1. ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay.
NHTW có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và buộc các ngân hàng kinh doanh phải thi hành.
Nếu lãi suất quy định cao thu hút được nhiều tiền gửi làm gia tăng nguồn vốn cho vay. Nếu lãi suất thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Song biện pháp này sẽ làm cho các ngân hàng thương mại (NHTM) mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. Mặc khác, nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng, nhưng lại thiếu vốn đầu tư, hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự trữ vàng, ngoại tệ, bất động sản, trong khi ngân hàng bị hụt hẫng về tiền mặt, cũng như nguồn vốn cho vay.
NHTW có thể quy định khung lãi suất cho vay buộc các ngân hàng trung ương giảm mức lãi suất cho vay buộc các ngân hàng kinh doanh chấp hành.
Biện pháp này có ưu điểm là giúp ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho vay, loại bỏ những dự án kinh tế kém hiệu quả.
Tuy nhiên, cũng như sự quy định khung lãi suất tiền gửi, biện pháp quy định khung lãi suất tiền gửi, biện pháp quy định khung lãi suất cho vay cho tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm, các ngân hàng thương mại bị động trong kinh doanh.
Việc ấn định các khung lãi suất tiền gửi và cho vay nhiền chung ngày càng ít được áp dụng ở các nước theo cơ chế kinh tế thị trường. Bởi vì, trong cơ chế kinh tế thị trường, lãi suất rất nhậy cam với đầu tư, nó phải được vận động theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
1.2.1.2. ấn định hạn mức tín dụng.
Đây là biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể. Thực chất, biện pháp này cho phép NHTW ấn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định và sau đó tìm con đường để đưa vào nền kinh tế.
Công cụ này được áp dụng phổ biến ở các nước trong thời kỳ hoạt động tài chính được điều tiết chặt chẽ. Ví dụ trong trường hợp lạm phát cao, hạn mức tín dụng được sử dụng nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng.
Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tiền tệ chưa phát triển hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động của lãi suất hay ngân hàng trung ương không có khả năng khống chế và kiểm soát được sự biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng trung gian thì công cụ hạn mức tín dụng là cứu cánh của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao bởi nó thiếu linh hoạt và đôi khi đi ngược lại chiều hướng biến động của thị trường tín dụng, do đó đẩy lãi suất lên cao hợc làm suy giảm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trung gian.
Trong nền kinh tế thị trường, cung cầu tín dụng biến động không ngừng, biện pháp này chỉ được áp dụng một cách hạn chế khi tình huống yêu cầu.
1.2.1.3. Phát hành trái phiếu Nhà nước để làm giảm lượng tiền trong lưu thông.
Trong điều kiện không thể áp dụng các biện pháp khác, chính phủ có thể phát hành một lượng trái phiếu nhất định để thu hút bớt lượng tiền trong lưu thông. Việc phân bổ trái phiếu thường mang tính chất bắt buộc.
1.2.2. Các công cụ gián tiếp.
Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ, thông qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các mục tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất.
Tác động chính của các công cụ gián tiếp của CSTT
Các công cụ gián tiếp
Lãi suất tái cấp vốn tăng
Nghiệp vụ thị trường mở nghiệp vụ bán
Dự trữ bắt buộc tăng
Mục tiêu trung gian
Lãi suất thị trường vốn tăng
Mức cung tiền giảm
Tỷ giá hối đoái giảm
Tác động
Tiết kiệm tăng
Nhu cầu tín dụng giảm
Cung ứng tín dụng giảm
Xuất khẩu ròng giảm
Chi tiêu đầu tư tiêu dùng giảm
Tổng cầu giảm
Mục tiêu cuối cùng
Chỉ số giá giảm
Sản lượng giảm
Công ăn việc làm giảm
Chỉ tiêu hoạt động
Lãi suất thị trường tiền tệ tăng
Cơ số tiền giảm
Dự trữ dư thừa giảm
Lãi suất tái cấp vốn tăng
2.2.1. Dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các ngân hàng trung gian buộ phải duy trì trên một tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại NHTW. Nó được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng thời gian nào đó. Mức dự trữ bắt buộv dịch vụ quy định khác nhau căn cứ vào thời hạn tiền gửi, vào quy mô và tính chất hoạt động của ngân hàng trung gian.
1.2.2.1. Cơ chế tác động.
Việc thay đổi tỷ lệ dữ trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng tiền ứng theo ba cách.
+ Thứ nhất, khi NHTW quyết định tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc, bộ phận dự trữ dư thừa trước đây của các ngân hàng chuyển thành dự trữ bắt buộc, làm giảm khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng.
+ Thứ hai, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc là một thành phần trong mẫu số của hệ số mở rộng tiền gửi. Viề thế sự tăng lên của tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hệ số mở rộng tiền gửi và do đó là khả năng mở rộng tiền gửi của hệ thống ngân hàng.
+ Thứ ba, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên làm giảm mức cung vốn NHTW trên thị trường liên ngân hàng. Trong điều kiện nhu cầu vốn khả dụng không thay đổi, sự giảm sút này làm tăng lãi suất dài hạn và giảm khối lượng tiền cung ứng.
Quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ gây nên những ảnh hưởng ngược lại.
1.2.2.1.2. Ưu nhược điểm của công cụ.
Ưu điểm:
+ Lợi thế chủ yếu của công cụ dự trữ bắt buộc trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng là sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng một cách bình đẳng đến tất cả các ngân hàng.
+ Ngoài ra, đây là công cụ có quyền lực ảnh hưởng rất mạnh đến lượng tiền cung ứng. Chỉ cần một phần trăm thay đổi tỷ lệ dữ trữ bắt buộc cũng sẽ dẫn đến sự thay đáng kể khối lượng tiền cung ứng.
Nhược điểm:
+ Công cụ này có ảnh hưởng mạnh đến lượng tiền cung ứng, bên cạnh ưu điểm trên thì chính điều này đã làm cho công cụ dự trữ bắt buộc trở nên thiếu linh hoạt. NHTW rất khó có thể thực hiện được những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ bằng cách thay đổi dự trữ bắt buộc.
+ Một bất lợi khác là việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề "mất khả năng thanh toán ngay" đối với những hàng có dự trữ vượt mức quá thấp.
+ Việc thay đổi liên tục dự trữ bắt buộc sẽ gây tình trạng không ổn định cho hoạt động của các ngân hàng và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của các ngân hàng khó khăn và tốn kém hơn.
Để khắc phục nhược điểm này NHTW thường sử dụng kết hợp với một vài công cụ khác nhằm giảm bớt mức độ ảnh hưởng của nó. Chẳng hạn, cùng với việc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW tiến hành các nghiệp vụ mua vào chứng khoán trên thị trường mở hoặc nới rộnt các điều kiện vay chiết khấu nhằm giúp cho các ngân hàng có thể nhanh chóng nâng mức dự trữ bắt buộc với chi phí thấp, tránh khỏi bị sốc.
1.2.2.2. Tái chiết khấu, tái cấp vốn.
Tái chiết khấu và tái cấp vốn là những cách thức cho vay của NHTW đối với các NHTM.
1.2.2.2.1. Cơ chế tác động.
Với việc ấn định lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn, NHTW có thể tác động đến khả năng vay của các NHTM và do đó làm cho cung cầu tiền tệ tăng lên hay giảm xuống.
Khi lãi duất tái chiết khấu, tái cấp vốn tăng lên, các ngân hàng kinh doanh sẽ bất lợi nếu vay vốn của NHTW. Trong điều kiện đó, các ngân hàng kinh doanh sẽ không có khả năng bành trướng tín dụng.
Ngược lại, khi lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn giảm, các ngân hàng kinh doanh sẽ có khả năng bành trướng tín dụng do được lợi trong việc vay vốn của NHTW.
1.2.2.2.2. Ưu nhược điểm của công cụ.
Ưu điểm:
Việd vay mượn được thực hiện trên nền của các giấy tờ có giá, nên thời hạn vay mượn tương đối rõ ràng, việc hoàn trả nợ tương đối chắc chắn, tiền vay vận động phù hợp với sự vận động của quy luật cung cầu thị trường.
Nhược điểm:
+ Trong nghiệp vụ này, NHTW ở vào thế bị động vì nghiệp vụ này chỉ thể phát huy tác dụng khi các ngân hàng trung gian có nhu cầu vay từ NHTW. Với sự phát triển của thị trường, các NHTM có thể tìm kiếm được các nguồn vay khác ngoài NHTW làm cho sự phụ thuộc của chúng vào NHTW giảm đi, do đó làm giảm mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này.
+ NHTW khó kiểm soát được hoàn toàn những tác động của công cụ này bởi NHTW chỉ có thể thay đổi mức lãi suất tái chiết khấu và các điều kiện chiết khấu mà không thể bắt các NHTM vay từ mình.
1.2.2.3. Nghiệp vụ thị trường mở.
Công cụ thị trường mở là chỉ việc NHTW mua hoặc bán giấy tờ có giá trên thị trường tài chính, nhằm đạt đến mục tiêu điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông.
1.2.2.3.1. Cơ chế tác động.
+ Nếu ý muốn gia tăng lượng tiền trong lưu thông, NHTW sẽ mua vào một lượng giấy tờ có giá trị nhất định. Khi ngân hàng kinh doanh hoặc công chúng bán giấy tờ có giá cho NHTW thì dự trữ của ngân hàng kinh doanh sẽ thừa ra, do ngân hàng kinh doanh nhận được tiền của NHTW về việc mua giấy tờ có giá, hoặc do dân chúng bán được giấy tờ có giá mà chuyển tiền vào tài khoản tiền gửi của mình tại ngân hàng trung gian.
+ Khi NHTW muốn giảm lượng tiền trong lưu thông, thì bán các giấy tờ có giá đang nắm giữ. Việc các ngân hàng trung gian mua giấy tờ có giá của NHTW sẽ làm giảm dự trữ của mình, hoặc dân chúng chuyển tiền vào NHTW để mua chứng khoán cũng làm giảm dự trữ của ngân hàng trung gian.
1.2.2.3.2. Đặc điểm của việc áp dụng công cụ.
+ Các chủ thể có liên quan đến công cụ này bao gồm: các ngân hàng, các tổ chức tài chính, các Công ty và cả những người chuyên buôn bán chứng khoán - những người này sau đó sẽ bán lại chúng cho các chủ thể trên.
+ Các chứng khoán mà NHTW sử dụng trong nghiệp vụ thị trường mở thường là các chứng khoán chính phủ, mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc. Lý do là vì các chứng khoán này có tính lỏng cao, cho nên NHTW có thể thực hiện nghiệp vụ thị trường mở một cách nhanh chóng và dễ dàng. Hơn nữa, thị trường chứng khoán chính phủ có một lượng lớn nghiệp vụ của NHTW mà không làm giá trên thị trường biến động quá mạnh, dẫn đến sụp đổi thị trường.
1.2.2.3.3. Ưu điểm của công cụ.
Ưu điểm:
+ Nghiệp vụ thị trường mở được tiến hành theo sáng kiến của NHTW, NHTW có thể kiểm soát hoàn toàn khối lượng của nghiệp vụ thị trường mở mà không chịu ảnh hưởng của bất kỳ nhân tố nào khác.
+ Nghiệp vụ thị trường mở rất linh hoạt và chính xác. Điều này thể hiện ở chỗ dù NHTW muốn thay đổi một mức rất nhỏ hay rất lớn của lượng cung tiền, nghiệp vụ thị trường mở đầu có thể đáp ứng được. Hơn nữa, nghiệp vụ thị trường mở có thể dễ dàng đảo ngược lại khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ. Chẳng hạn, NHTW nhận thấy rằng mình đã mua quá nhiều chứng khoán trên thị trường mở khiến cho cung tiền tăng quá nhanh, nó có thể ngay lập tức sửa chữa sai lầm bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở.
+ Nghiệp vụ thị trường mở được hoàn thành nhanh chóng mà không vướng phải những chậm trễ về hành chính và do đó có thể gây tác động tức thì đến lượng cung tiền tệ.
+ Nghiệp vụ thị trường mở tác động thông qua cơ chế thị trường nên các đối tượng chịu sự tác động thường khó chống đỡ hoặc đảo ngược chiều hướng điều chỉnh của NHTW. Mặc dù nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện bắt buộc mua hoặc bán theo mức giá do NTW ấn định nhưng NHTW có thể thực hiện được yêu cầu của mình bằng việc điều chỉnh giá sao cho nó trở nên hấp dẫn đối tác.
Nhờ những ưu điểm nêu trên mà nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ hữu hiệu nhất trong các công cụ của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, việc thực hiện công cụ này đòi hỏi sự phát triển của thị trường tài chính thứ cấp nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng. Ngoài ra, NHTW phải có khả năng dự đoán và kiểm soát sự biến động của lượng vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng.
Chương 2
Tình hình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay
2.1. Tình hình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
2.1.1. Thực trạng của việc sử dụng các công cụ trực tiếp.
2.1.1.1. Tình hình sử dụng công cụ lãi suất.
Lãi suất do ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định có vai trò hết sức hạn chế trong khoảng từ 1976 - 1985. Ngay từ 1986 - 1990, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới thì vai trò của lãi suất cũng còn rất lu mờ. Nét chung nhất lúc này là cơ chế đa lãi suất, tách rời tín hiệu thị trường. Lãi suất và lạm phát hầu như không có quan hệ gì với nhau trong nhiều năm.
Từ cuối năm 1995 có sự thay đổi trong chính sách lãi suất, bắt đầu từ Quyết định số 318/QĐ - NH1 ngày 28/12/1995 của Thống đốc NHNN và một loạt các quyết định điều chỉnh lãi suất được ban hành sau đó: lãi suất trần trở thành công cụ điều hành chính sách tiền tệ, cơ chế đa lãi suất được thu hẹp. Quyết định này cũng đưa ra một quy định gây nhiều tranh cãi và tỷ lệ chênh lệch giữa lãi suất huy động vốn với lãi duất cho vay không quá 0,35%/tháng, được cho là mang đậm dấu ấn của cơ chế quản lý tập trung bao cấp.
Từ năm 1996 - 1999, lãi suất được điều chỉnh giảm thấp hơn so với thời kỳ trước nhưng vẫn còn nhiều vấn đề, trong đó có việc áp đặt khung lãi suất, mức chênh lệch giữa tỷ lệ lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn.
Một điểm đáng chú ý khác là cơ chế lãi suất thiếu linh hoạt. Có lúc lãi suất hầu như không đổi trong khoảng thời gian dài, mặc dù tình hình kinh tế có nhiều yêu cầu phải thay đổi. Đến khi thay đổi, điều chỉnh liên tục như trong các năm 1996 - 1999.
Trong năm 1996. NHNN ban hành 4 quyết định điều chỉnh lãi suất, các ngân hàng thương mại cảm thấy hết sức lúng túng vì phải liên tục điều chỉnh mà trên thực tế tác dụng không có là bao (vì biên độ của mỗi lần điều chỉnh chỉ từ 0,1 - 0,2%).
Trần lãi suất trong năm 1999 được NHNN điều cỉnh liên tục, phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung càu vốn tín dụng tại từng thời điểm và góp phần thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư chính phủ thông qua cơ chế nới lỏng lãi suất tín dụng. Có thể nói, đây là năm NHNN điều chỉnh lãi suất tín dụng nhiều nhất từ trước đến nay, lãi suất năm 1999 luôn có xu hướng giảm sau các lần điều chỉnh, cụ thể như sau:
+ Ngày 17/1/1999, thống đốc NHNN có Chỉ thị 01/1999/CT - NHNN 1 điều chỉnh giảm lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của các NHTM quốc doanh đối với khách hàng ở khu vực thành thị từ 1,2 - 1,25%/tháng xuống 1,1 - 1,15% ; các tổ chức tín dụng (TCTD) khác vẫn thực hiện theo mức trần 1,2%/tháng đối với cho vay ngắn hạn và 1,25%/tháng đối với cho vay trung dài hạn.
+ Ngày 29/5/1999 do nền kinh tế đang có dấu hiệu thiểu phát, tăng trưởng kinh tế chậm lại, sức mua giảm sút, thống đốc NHNN đã có quyết định 184/1999/QĐ - NHNN 1 về việc điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam từ 1,2 - 1,25%/tháng xuống mức 1,15%/tháng áp dụng chung cho các TCTD cho vay trên địa bàn thành thị và nông thông khác nhau đã thống nhất một trần áp dụng chung cho các TCTD, không phân biệt quốc doanh hay cổ phần. Đây là một bước tiến trong chính sách, tạo chủ động hơn cho các TCTD trong việc ấn định lãi suất tiền gửi và cho vay phù hợp với điều kiện về chi phí, cung cầu với trên từng vùng khác nhau và mức độ rủi ro của từng khoản vay; tạo tiền đề cho việc áp dụng cơ chế điều hành chính sách lãi suất của NHNN theo lãi suất cơ bản.
+ Đến đầu tháng 8/1999, lạm phát 7 tháng đầu năm ở mức thấp, từ tháng 2 đến tháng 7 liên tục giảm phát, tình hình cung vượt quá cầu về vốn tín dụng, NHNN tiếp tục điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam từ 1,15%/tháng và Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cho vay thành viên là 1,5%/tháng.
+ Tháng 9/1999, Thống đốc NHNN có Chỉ thị 05/1999/Công ty - NHNN1 điều chỉnh giảm lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của các NHTM quốc doanh đối với khách hàng ở khu vực thành thị từ 1,05%/tháng xuống 0,95%/tháng. Đây là lần thứ 2 trong năm, NHNN tiếp tục chỉ đạo các NHTM giảm lãi suất cho gay đối với khu vực thành thị 0,1%/tháng để thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của Chính phủ những tháng cuối năm 1999.
+ Tháng 10/1999, trước tình hình thiểu phát của các tháng đầu năm 1999, NHNN một lần nữa điều chỉnh giảm 0,2% trần lãi suất cho vay của các TCTD đối với nền kinh tế. Như vậy, năm 1999, lãi suất tín dụng đã giảm 0,35% - 0,4% so với đầu năm và đang ở mức thấp nhất trong vòng 10 năm trở lại đây.
Sau một thời gian chuẩn bị xây dựng đề án với nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau, cuối cùng đến ngày 5/8/2000, theo quyết định 241/QĐ - NHNN1 của Thống đốc NHNN đã chính thức thay đổi cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có sự quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ.
Theo cơ chế này, các NHTM được chủ động quy định các mức lãi suất cho vay cụ thể của mình theo biên độ xoay quanh mức lãi suất cơ bản, trên cơ sở đó chủ động quy định các mức lãi suất tiền gửi. Trong đó, lãi suất cơ bản được NHNN công bố trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các TCTD được lựa chọn theo quyết định của thống đốc NHNN trong từng thời kỳ, còn biên độ thì được công bố hàng tháng trong trường hợp cần thiết, NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.
Đối với lãi suất cho vay bằng USD: các TCTD sẽ ấn định mức lãi suất cho vay theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất USD trên thị trường tền tệ liên ngân hàng Singgapore (SIBOR) kỳ hạn 3 tháng đối với cho vay ngắn hạn, kỳ hạn 6 tháng đối với cho vay trung dài hạn tại thời điểm cho vay và biên độ do Thống đốc NHNN quy định trong từng thời kỳ.
Với cơ chế điều hành lãi suất mới này, về mặt bản chất cũng giống như cơ chế lãi suất trần, bởi vì lãi suất nó mang tính cho vay bị khống chế bởi lãi suất cơ bản cộng thành lãi suất hoạt động cho mình một cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay khi mà Nhà nước chưa thể thả nổi lãi suất thì việc quy định biên độ dao động là nhằm bảo đảm quản lý của Nhà nước trước khi chuyển sang lãi suất thị trường, lúc đó việc điều hành chính sách tiền tệ chủ yếu bằng công cụ lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Trong tất cả các tháng: 8,9,10,11 và 12/2000, lãi suất cơ bản đối với tiền đồng Việt Nam (nội tệ) vẫn liên tục được giữ nguyên ở mức 0,75%/tháng; các NHTM được quy định mức lãi suất cho vay cụ thể xoay quanh biên độ: 0,3% đối với cho vay ngắn hạn 0,5% đối với cho vay trung và dài hạn. Lãi suất cho vay ngoại tệ được dựa trên cơ sở lãi suất trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Singapore kỳ hạn 3 tháng, cộng với biên độ: 1,0% đối với cho vay ngắn hạn: 2,5% đối với cho vay trung và dài hạn.
Trong các tháng cuối năm 2000, nhu cầu vốn tăng lên, sức ép tăng lãi suất rất lớn, các NHTM cạnh tranh với nhau đồng loạt tăng lãi suất huy động vốn lên một giới hạn nhất định, còn lãi suất cho vay thì hầu như không tăng, mức lãi suất tiền gửi 12 tháng ở các NHTM cổ phần lên tới 0,6 - 0,65%/tháng, tương đương với 7,2% - 7,8%/năm, kỳ hạn 6 tháng: 0,4% - 0,55%/tháng. Tiền gửi đô la Mỹ kỳ hạn 12 tháng phổ biến ở các ngân hàng là 5,5% - 6,0%/năm.
Biên độ lãi suất quá rộng, gây ra sự chênh lệch lãi suất quá lớn giữa các đối tượng khách hàng. Các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn, được hưởng nhiều ưu đãi, lại được Nhà nước bảo hộ, nên được các NHTM cạnh tranh với nhau tìm mọi cách thu hút, đưa ra các mức lãi suất cho vay thấp, thậm chí dưới 0,6%/tháng. Còn các loại hình doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp tư nhân phải vay với lãi suất cao, tới 0,75% , hoặc 0,85%/tháng. Đặc biệt các hộ nông dân phải vay với lãi suất tới 1,0% - 1,25%/tháng, gấp 2 lần lãi suất cho vay doanh nghiệp Nhà nước. Cơ chế lãi suất mà các NHTM thực hiện không tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, không thúc đẩy cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Đồng thời mối quan hệ giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ không hợp lý, nên tạo điều kiện cho sự chuyển dịch từ đồng Việt Nam sang đô la Mỹ gây nên tình trạng đô la Mỹ hoá nền kinh tế.
Sang năm 2001, NHNN tiếp tục thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản đối với đồng nội tệ (VNĐ). Lãi suất cơ bản đã 3 lần giảm, từ 0,75%/tháng xuống 0,725%/tháng và xuống còn 0,65%/tháng, nhưng vẫn giữ nguyên biên độ 0,3%/tháng đối với cho vay ngắn hạn và 0,5% đối với cho vay trung, dài hạn, tạo điều kiện cho các NHTM giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng. Do đó, trên thị trường lãi suất cho vay của NHTM thời gian qua và hiện nay phổ biến đối với ngắn hạn là 0,6% - 0,75%/tháng, trung và dài hạn từ 0,65% - 1,0%/tháng. Đồng thời, lãi suất tiền gửi và lãi suất huy động vốn cũng giảm từ 0,05% - 0,1%/tháng mỗi kỳ hạn. Mức lãi suất này phổ biến trong thời gian qua và hiện nay đối với không kỳ hạn là 0,5%/tháng; kỳ hạn 3 tháng 0,35 - 0,4%; kỳ hạn 6 tháng: 0,4 - 0,5%/tháng vào 0,55 - 0,6%/tháng. Các mức lãi suất cho vay, huy động vốn có sự chênh lệch nhỏ giữa các khối ngân hàng nước ngoài và NHTM quốc doanh có thấp hơn, các NHTM cổ phần có mức cao hơn.
Đối với lãi suất ngoại tệ: trong những tháng đầu năm 2001, NHNN tiếp tục điều hành lãi suất cho vay bằng USD dựa trên cơ sở lãi suất SIBOR 3 tháng cộng 1%/năm đối với cho vay trung dài hạn là lãi suất SIBOR 6 tháng cộng 2,5%/năm. Ngày 29/5/2001, Thống đốc NHNN đã ra Quyết định số 718 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ. Theo đó, các TCTD được quyền chủ động ấn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ trong nước. Đây là một bước đi tự tin, táo bạo và sáng suốt, đặt tiền đề hết sức quan trọng cho quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam.
Theo quyết định số: 546/2002/QĐ-NHNN, ngày 30/5/2002 của thống đốc NHNN, kể từ ngày 1/6/2002 chính thức thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng.
Theo quyết định này, các TCTD được quyền chủ động xác định lãi suất cho vay nội tệ trên cơ sở cung cầu vốn và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng. Tuy nhiên, hàng tháng NHNN vẫn t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29942.doc