Sự cần thiết và giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH

Tên đề tài Sự cần thiết và giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế Nông Thôn ở Nước ta trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. *********** Nhận xét của giáo viên: - Về lý luận: - Về thực tiễn: - Điểm: A- Đặt vấn đề: Nước ta là một nước nông nghiệp. Sự phát triển của xã hội chủ yếu dựa chủ yếu vào nền kinh tế nông thôn. Nông nghiệp là một ngành chiếm phần lớn trong cơ cấu của nền kinh tế đất nước. Hơn thế nữa đó là một nền nông nghiệp lạc hậu và thấp kém. Mà điều cần bàn là sự phá

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1606 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Sự cần thiết và giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t triển của ky nông thôn Việt Nam trong thời đại mới, song còn rất châm chạp và còn nhiều gian nan. So với một số nước trong khu vực tuy chúng ta có nhiều thế mạnh và tiềm năng hơn song năng suất của ta vẫn kém họ rất nhiều. Phát triển nông nghiệp, nông thôn được Đảng và Nhà nước đưa lên vị trí hàng đầu trong đường lối chiến lược phát triển kinh tế đất nước vì hôm nay ở nước ta nông nghiệp vẫn còn chiếm bộ phận lớn, trong nền kinh tế sản xuất nhỏ lại chiếm bộ phận lớn trong nông nghiệp. Vì nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực và nguyên liệu đồng thời là nguồn xuất khẩu quan trọng, nông thôn là thị trường tiêu thụ to lớn nhất hiện nay, cho nên cần cải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác. Phải cải tạo và phát triển nông thôn –nông nghiệp để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hoá nước nhà. Phải có nền nông nghiệp phát triển thì công nghiệp mới có thể phát triển mạnh. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2002 Đảng ta vẩn coi phát triển nông nghiệp,nông thôn là cơ sở của tăng trưởng kinh tế ổn định xã hội và nâng cao đời sống nhân dân, là điều kiện không thể thiếu được trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001- 2010 mà Đại hội Đảng toàn quấc lần IX đề ra là:” Đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rỏ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại “. Thế hệ trẻ – Chủ nhân tương lai của đất nước dã và đang có suy nghĩ gì trước thực trạng này và đang có hành động gì để khắc phục nó. Thế mới biết tìm hiểu về kinh tế nông thôn Việt Nam là rất quan trọng.Trước hết là nhìn lại được chính mình thấy được những yếu kém mà chúng ta đang có, trên cơ sở đó hãy phát huy những mặt mạnh và khắc phục những mặt yếu. Chúng ta sẽ đạt được những mong muốn và mục tiêu đặt ra. Hiểu biết về kinh tế nông thôn sẽ là nền móng,là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Và chính bản thân em đang học ở khoa kinh tế phát triển nông thôn nên em muố tìm hiểu về nền kinh tế nông thôn Việt Nam. Và em đã chon đề tài: “sự cần thiết và các giảp pháp cơ bản để phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta trong thơi kỳ quá độ nên Chủ Nghĩa Xã Hội “ để nghiên cứu. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Phạm Thành đã hướng dẩn em trong quá trình thực hiện đề án. Củng có thể những giải pháp và phương hướng để phát triển kinh tế nông thôn nước ta trong thời kỳ Quá độ hiện nay là ý tưởng, những bài học học hỏi từ thế hệ đi trước song chắc chắn rằng nó sẻ giúp ích cho em rất nhiều trong quá trình học tập hiện tại và công tác sau này. B- Nội dung I- Kinh tế nông thôn và vai trò cần thiết phát triển kinh tế nông thôn trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. 1. Khái niệm kinh tế nông thôn Cho đến nay chưa có định nghĩa nào chính xác và được chấp nhận một cách rộng rải về nông thôn. Khi định nghĩa về nông thôn người ta thường so sánh nông thôn với thành thị Nông thôn được hiểu là vùng đất đai rộng lớn với một cộng đồng dân cư chủ yếu làm nông nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp) có mật độ dân cư thấp, cơ sở hạ tầng kém phát triển, có trình độ văn hoá khoa học kĩ thuật, trình độ sản xuất hàng hoá thấp và thu nhập mức sống dân cư thấp hơn đô thị Như vậy về tự nhiên nông thôn là vùng đất đai rộng lớn thường bao quanh các đô thị, những vùng đất đai này khác nhau về địa hình, khí hậu, thuỷ văn … Về kinh tế nông thôn chủ yếu làm nông nghiệp (nông,lâm,ngư ngiệp). Cơ sở hạ tầng của vùng nông thôn lạc hậu kém hơn đô thị. Trình độ phát triển cơ sở vật chất và kĩ thuật (điện, cơ khí, hoá chất) trình độ sản xuất hàng hoá kinh tế thị trường củng thấp kém hơn đô thị Mặt khác, kinh tế nông thôn là một cơ ccấu kinh tế nhiều thành phần nền kinh tế quốc dân có bao nhiêu thành phần kinh tế thì nền kinh tế nông thôn có bấy nhiêu thành phần. Tuy nhiên các thành phần kinh tế trong kinh tế nông thôn có những hình thức biểu hiện riêng biệt của kinh tế nông thôn. Có thể nó kinh tế nông thôn là mô hình thu nhỏ của kinh tế quốc dân. Tuy nhiên nó có thể kém hơn về độ đa dạng song nó lại có những hình thức biểu hiện khá đặc biệt mang những nét điển hình cho nền kinh tế nông thôn. Về xã hội trình độ học vấn khoa học kĩ thuật, y tế giáo dục và đời sống vật chất tinh thần của dân cư nông thôn thấp hơn đô thị. Tuy nhiên những di sản văn hoá, phong tục tập quán cổ truyền ở vùng nong thôn lại phong phú hơn vùng đô thị. Mật độ dân cư thấp hơn đô thị Như vậy khái niệm nông thôn phải được hiểu tổng hợp nhiều mặt có quan hệ chặt chẻ với nhau, từng mặt riêng lẻ không thể tách rời. 2. Vai trò, tác dụng của phát triển kinh tế nông thôn và sự cần thiết phải phát triển kinh tế nông thôn Trong quá trình phát triển, một số nước trước đây chỉ chú ý phát triển các đô thị các khu công nghiệp hiện đại mà ít chú ý đến phát triển nông thôn. Đó là một số nước như: Braxin, Mêhicô, Ân Độ, Angiêri, Ăgôla…. Tình hình đó đã làn cho khoảng cách về kinh tế và xã hội, giữa đô thị và nông thôn ngày càng lớn ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội cuả đất nước làm tăng thêm sự mất cân đối giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa sản xuất và tiêu dùng tạo nên mâu thuẩn trong nội bộ của cơ cấu kinh tế Cùng lúc đó một số nước và vùng lảnh thổ khác ở Châu Ă tốc độ tăng trưởng khá nhanh như: Đài Loan, Thái Lan, Trung Quấc, Hàn Quấc, Malaixa đã quan tâm phát triển nông thôn ngay từ đầu thời kì công nghiệp hoá coi nông nghiệp nông thôn là bộ phận quan trọng của nền kinh tế quấc dân. Phát triển nông thôn không phải chỉ là lợi ích riêng của nông thôn mà vì lợi ích chung của đất nước. Ngày nay việc phát triển nông thôn không còn là việc riêng của các nước đang phát triển mà còn sự quan tâm của cộng đồng thế giới Việt Nam là một nước nông nghiệp do vậy nền kinh tế nông thôn dữ vai trò rất quan trọng không những đã nuôi sống xã hội bằng sản lượng lương thực mà sản xuất nông nghiệp đã tạo ra mà còn góp phần tăng chỉ số GDP nhờ việc xuất khẩu hàng nông lâm thuỷ sản. Nông thôn là nơi sản xuất lương thực phẩm cho nhu cầu cơ bản của nhân dân, cung cấp nông sản nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu. Trong nhiều năm nông nghiệp sản xuất ra 40% thu nhập quấc dân và trên 40% giá trị xuất khẩu góp phần tạo nguồn tích luỷ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Nông thôn là nơi cung cấp nguồn nhân lực dồi dào cho xã hội chiếm trên 70% lao động xã hôị. Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp chuyển dần sang làm công nghiệp, dịch vụ chuyển dần lao động nông thôn vào các khu đô thị và các khu chế xuất công nghiệp Nông thôn chiếm 80% dân số cả nước. Đó là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm công nghiệp và dịch vụ, nông thôn phát triển cho phép nâng cao đời sống và thu nhập của dân cư, nông dân tao ra điều kiện mở rộng thị trường để phát triển sản xuất trong cả nước ở nông thôn có trên 50 dân tộc khác nhau sinh sống bao gồm nhiều thành phần, nhiều tầng lớp có các tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau là nền tảng quan trọng để đảm bảo ổn định tình hình kinh tế xã hội của đất nước, để tăng cường sự đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Nông thôn nằm trên địa bàn rộng lớn của đất nước có điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội khác nhau. Đó là tiềm lực to lớn về tài nguyên đất đai khoáng sản để phát triển bền vững đất nước. Phát triển kinh tế nông thôn sẽ thực hiện được quá trình công nghiệp hoá hiện đại hóa tại chỗ, gắn bó tạ chỗ công nghiệp và nông nghiệp, vấn đề đô thị hoá sẽ được giải quyết theo vấn đề đo thị hoá tại chỗ và làm cho người lao động có việc làm tại chỗ. Giảm sức ép của sự chênh lệch kinh tế và đời sống nông thôn và thành thị, giữa vùng phát triển và kém phát triển. Chuyển dich cơ cấu kinh tế nông thôn đã tăng khả năng cung cấp máy móc công cụ phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả cao hơn. Sự phát triển của kinh tế nông thôn sẽ tạo cơ sở vật chất cho sự phát triển văn hoá ở nông thôn. Nông thôn vốn là vùng kinh tế lạc hậu sản xuất và sinh hoạt phân tán nhiều thủ tục, ít theo luật pháp. Mặt khác, nông thôn là nơi truyền thống cộng động cả tốt và xấu còn rất sâu đậm,phát triển kinh tế nông thôn sẽ tạo điều kiện để vừa phát huy chuyền thống văn hoá xã hội tốt đẹp vùa bài trừ văn hoá lạc hậu cổ hủ, vùa tổ chức tốt đời sống văn hoá tinh thần. 3. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế nông thôn Do vai trò to lớn sức quan trọng như vậy mà cần thiết phải phát triển kinh tế nông thôn.Như đã thấy phát triển kinh tế nông thôn góp phần tạo ra những tiền đề quan trọng không thể thiếu bảo đam cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đó là một tất yếu khách quan của các nước đang phát triển nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Trước hết là do tác động của quy luật sản xuất phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất không đồng đều và có nhiều trình độ khác nhaugiũa các vùng lãnh thổ nhất là giữa thành thị và nông thôn. Vì ở nông thôn khó có thể hình thành các khu công nghiệp tập chung như thành thị. Cho nên muôn cho kinh tế nông thôn phát triển cần phải có một loại hình tổ chức sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất cũng như trình độ phất triển của phát triển lao động của nông thôn. Thứ hai, do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp có sự khác biệt giữa thời gian sản xuất và thời gian lao động nên bao giờ ở nông thôn cung xuất hiện thời gian nông nhàn, hơn nữa các loại cây trồng vật nuôi mặc dù đã được giống cây mới có chu kỳ sinh trưởng ngắn hơn trước nhưng vẫn còn khá dài Thứ ba, phát triển công nghiệp nông thôn là một tất yếu phù hợp với xu hướng kinh doanh hiện tại đó là xư hướng thiên về quy mô vùa và nhỏ xư hướng đa dangj hoá nhu cầu và thị trường phù hợp với nhu cầu khác nhau các tiềm năng thế mạnh của nông thôn. Thứ tư, hiện nay ở nước ta tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu lao động xã hội rất cao, năng suất lao động cồn thấp cho nên thu nhập và đời sống nhân dân không cao. Từ đó làm cho thị trường nông thôn, sức mua của nông dân bị hạn chế đời sống giữa thành thị và nông thôn có sự chênh lệch khá lớn. Do đó làn sóng di dân từ nông thôn ra thành thị từ những vùng khó khăn đời sống thấp đến những vùng thuận lợi hơn làm nảy sinh nhiều vấn đề xà hội. Để khắc hiện tượng này cần phải tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn d. Trong đó phát triển công nghiệp nông thôn là vấn đề quan trọng, chính phát triển công nghiệp nông thôn và dịch vự sẽ thu hút được lực luợng lao đọng dư thừa, tăng thu nhập và sức mua ở nông thôn, làm cho công nghiệp và hàng hoá phát triển và nói chung kinh tế nông thôn phát triển. Phát triển công nghiệp nông thôn nhằm giải quyết một số vấn đề lớn về kinh tế xa hội ở nông thôn. Hiện nay ở vùng ngoại ô của một số tỉnh, đất nông nghiệp đã it lại càng bị thu hẹp do quá trình đô thị hoá diễn ra rất nhanh. Cho nên đời sống nhân dân ở nông thôn còn chênh lệch khá xa so với đời sông của nhân dân thành thị. Hiện tại nông nghiệp và nông thôn còn ba vấn đề liên quan đến cơ chế chính sách phải được đề cập một cách đồng bộ. Nhìn mặt bằng nông nghiệp Con người chịu chi phối của cơ chế thị trường, mối qua hệ của tình làng nghĩa xóm đã nhuốm mầu của đồng tiền, nó song hành với bản chất nhân văn của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Thiếu việc làm, tiêu cực xã hội phát sinh, mê tín dị đoan, người nông dân bỏ ra thành phố kiếm sống do vậy đã đến lúc phải nhìn đến nông thôn như một tài nguyên quý giá, phải được khơi dậy đảm bảo cho nhu cầu tát yếu xã hội và là nơi xuất phát điểm của phân công lại lao động xã hội. Phát triển kinh tế nông thôn sẽ tạo ra cơ sở vật chất cho sự phát triển văn hoá ở nông thôn đồng thời gắn với phát triển kinh tế văn hoá, chính trị, kiến trúc thượng tằng theo định hướng xã hội chủ nghĩa dẫn đến thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nông thôn góp phần quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cho nên nhiêm vụ trên càng trở nên cấp thiết cần nhanh tróng được thực hiện trong suốt thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước. Đảng luôn luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế nông thôn lên hàng đầu. Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế nông thôn Việt Nam đó là một nền kinh tế còn lạc hậu, kém phát triển có sự phân bố không đồng đều giữa các khu vực nên nền kinh tế nông thôn Việt Nam àng phải chú trọng, quan tâm hơn. Cụ thể là cơ sở hạ tầng kỹ thuật lạc hậu không đử sức tạo môi trường thuận lợi cho công nghiệp và nông thôn phát triển mạnh mẽ. Cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch chậm. Hiện nay đảng và chính phủ rất quan tâm đến việc làm thế nào để phát triển nền kinh tế nông thôn. ở các đại hội Đảng VI, VIIVIII, IX quốc hội đã đề ra rất nhiều phương hướng đổi mới nông thôn một cách tích cực là sao cho nó thích ứng với thị trường hiện nay. II- Thực trạng, phương hướng và giải pháp để phát triển kinh tế nông thôn nước ta trong thời kì quá độ: 1. Thực trạng kinh tế nông thôn trong thời kì đổi mới. a. Những thành tựu đã đạt được. Trong nhưng năm đổi mới nông thôn nước ta đã có những bước phát triển trên nhiều mặt đó là: Đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hoá nông thôn đã góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển vượt bậc. Nhưng nhìn chung lao động thủ công vẩn còn phổ biến, trình độ khoa học công nghệ còn thấp thua kém nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Cơ giới hoá một số khâu sản xuất phát triển, trong đó khâu làm đất tăng từ 27% năm 1986lên 34,1% năm 1996 và 38% năm 1998 (đồng bằng sông cửu long đạt 60-80%). Các loại máy móc nông nghiệp được nông dân đầu tư mua sắm nhiều, cả nước có khoảng 600000 máy bơm nước, có 160 nhìn máy xay xát, 100000 máy tuốt lúa có động cơ, tàu thuyêù đánh cá có ngắn động cơ có khỏang trên 70000 chiếc với tổng suất trên 1,2 triệu CV, tàu thuyền vận tải cơ giới có 98330 chiếc. Trong 3 năm 1997-1999 cả nước đã tăng thêm 1000 tàu đánh bắt cá có công trên 90 CV, đưa tổng cố tàu đánh bắt xa bờ lên 5000. Công nghệ tự động hoá đã được ứng dụng trong các dây truyền chế biến nông sản như: Đánh bóng phân loại gạo, cà phê, chế biến đường, bánh kẹo, ươm tơ chế biến thức ăn gia súc. Mức độ tự động hoá trong nông nghiệp nông thôn mới chiếm 0,3%, riêng khâu chế biến nông sản đạt 5%. Công nghệ sinh học trong hơn 10 năm gần đây đã tạo ra nhiều giống lúa, rau, ngô, đậu, cây ăn quả và cây lâm nghiệp năng suất cao phù hợp với các vùng sinh thái, nhiều tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ sinh học áp dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nôi trồng thuỷ sản. Chính nhờ vậy sản xuất lương thực đã tăng khá nhanh và vững chắc đảm bảo được nhu cầu lương thực trong nước, ngoài ra có 2-3 triệu tấn lương thực xuất khẩu hàng năm. Các mặt hàng sản xuất nông sản khác như: Cây công nghiệp, câythực phẩm, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản cũng đều tăng nhanh. Hiện nay nước ta chỉ còn nhập khẩu một số nông sản chủ yếu gồm: Bông, dầu thực vật, sữa bò, thịt bò cao cấp, giấy và gỗ Thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn đã thúc đẩy hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hoá tập trung chuyên canh như: Lúa, cao su, cà phê, bông, điều, hồ tiêu, lạc, mía, dâu tằm, rau quả, lợn, bò, tôm, cá,nấm….Tuy vậy trong lĩnh vực sản xuất còn phân tán, quy mô sản xuất hộ gia đình nhỏ, về lâu dài có thể gay trở ngại cho qúa trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn, hiện nay có khoảng 50 triệu hộ nông dân với diện tích bình quân để canh tác vào khoảng 0,8 ha tuy nhiên lại phân tán manh mún với tỉ lệ rất nhiều, chỉ thích hợp với lao động thủ công, việc hiện đại hoá trong sản xuất gặp nhiều khoá khăn. Nếu không có giải pháp từng bước tập trung đất đai thì không thể công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn có hiệu quả nhất là ở Đồng bằng Sông Hồng và Miền trung. Công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản đã có tăng trưỡng đáng kể nhưng nhìn chung còn nhỏ bé phân tán trình độ công nghệ thấp, sản phẩm chế biến đạt chất lượng chưa cao khả năng cạnh tranh còn nhiều hạn chế. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản liên tục tăng, tốc độ tăng trung bình bình quân hàng nămlà 12-14% và là ngành chiếm tỉ lệ khá lơn trong nông thôn 30-32% so với năm 1990, chế biến dường tăng 3,4 lần, cà phê 4 lần, cao su mủ 3,2 lần, xay xát gạo 1,9 lần, điều nhân gấp 80 lần. Giá trị sản lượng công nghiệp chế biến so với giá trị tổng sản lượng nông nghiệp ngày càng tăng từ 33,8% năm 1990 lên 42% năm 1995 và khoảng 46%hiện nay. Một số cơ sở chế biến đã tiếp cận công nghệ và thiết bị tương đối hiện đại ngang với trình độ khu vực và trên thế giới như: Xay xát gạo, tơ tằm, mía đường, bánh kẹo, nước quả cô đặc, chế biến gổ rừng trồng, chế biến thuỷ sản … tỉ lệ một số loại nông sản được chế biến còn thấp: Mía đường 45%, chè 60%, rau quả 5% … chất lượng chế biến nhìn chung chưa cao, mặt hàng đơn điệu, tính cạnh tranh kém giá trị thấp, xuất khẩu thường thấp hơn thị trường thế giới cùng loại từ 10-15%. Ngành nghề nông nghiệp đang phát triển nhanh đóng góp phần quan trọng trong việc tạo ra việc làm và tăng thu nhập ở nông thôn, nhưng qui mô nhỏ bé công nghệ kỉ thuật chất lượng kỉ thuật còn thấp. Theo kết quả điều tra ở 9 tỉnh và khảo sát trên mật số địa bàn khác thì trong nông thôn hiện có 17,62% thuộc nhóm chế biến nông lâm thuỷ sản, 32,5% thuộc nhóm công nghiệp tiểu thủ công nghiệp xây dựng và 49,88% thuộc nhóm dịch vụ. Nhiều ngành nghề truyền thống được phục hồi. Hiện nay cả nước có khoảng 1450 làng nghề đang hoạt động sôi nổi, tốc độ phát triển số hộ và ngành nghề nông thôn từ năm 1989 lại đây bình quân hàng năm từ 8,6-9,8% (năm 1993-1996 bình quân tăng 10%). Từ năm 1990-1994 số hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp giảm từ 13087 xuống còn 1648, xí nghiệp quấc doanh dịa phương giảm từ 2,37 xuống còn 14,4. Doanh nghiệp tư nhân tăng 770 lên 4909 các ngành nghề chế biến nông lâm thuỷ sản, sản xuất vạt liệu xây dựng, hàng tiêu dùng đặc biệt cấc ngành dịch vụ phát triển nhanh Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn đả có bước chuyển biến nhưng chậm, tỉ trọng nông nghiệp trong cơ cấu còn cao 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Nông nghiệp 84,5 84,7 84,5 85,3 84,3 84,8 84,6 85 Lâm nghiệp 7,7 6,8 7,0 6,5 6,8 6,0 5,5 5 Thủy sản 9,2 8,5 8,5 8,2 8,9 9,2 9,9 10 Cơ cấu giá trị sản xuất nông lâm thuỷ sản cả nước ( %) 1996 1997 1998 Nông nghiệp 71 70,8 70,3 Công nghiệp 14,7 15,5 15,9 Dịch vụ 13,8 13,7 13,8 Cơ cấu kinh tế nông thôn (%) Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 Công nghiệp 9,0 14 3,1 14 13,9 15 Tiểu thủ CV 5,2 4,6 8,9 11,5 7,7 7,8 Miền núi 9,5 0,9 4,9 2,5 3,5 3,9 ĐB sông Hồng 0,3 2,2 5,3 3,2 7,2 3,7 Khu 4 củ 1,6 2,7 2,3 5,6 6,9 4 Duyên hải MT 6,4 10,4 1,3 15,1 9,1 3,2 Tây nguyên 3,6 1,6 20 3,8 5,4 5,6 Đông Nam Bộ 21,7 20,3 21,9 16,4 8,3 18,2 ĐB sông CLong 1,3 55,4 7,9 17,1 9,0 8,1 Cơ sở hạ tầng kinh tế có bước phát triển mạnh mẻ do đó đã thúc đẩy nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển ổn định vượt qua mọi khó khăn thời tiết và thiên tai. Thuỷ lợi hiện nay cả nước có 8,265 công trình các loại trong đó có 754 hồ chứa nước loại vừa và lớn, hành chục nghìn hồ đập nhỏ, có 1017 đập, 4712 cống tưới tiêu loại vừa và lớn, gần 2000 trạm bơm điện các loại, tổng giá trị hiện tại khoảng 60000 tỉ đồng. Hệ thống đường giao thông nông thôn phát triển nhanh bằng cơ chế “ Nhà nước và nhân dân cùng làm” từ năm 1991-1997 cả nước huy động 7890,3 tỉ đồng đầu tư phát triển giao thông nông thôn (dân đóng góp 4485,5 tỉ chiếm 56,58% và hơn 210 triệu ngày công). Đã xây dựng mới 26599 Km đường, 28313 cầu các loại. Hiện nay có 22/61 tỉnh có 100% đường ô tô đi tới trung tâm xã nhưng còn hơn 500 xả chưa có đường ô tô đến. Hệ thống lưới điện quấc gia ngày càng lan toả vào các vùng nông thôn. Tổng công ty điện kực Việt Nam từ 1995 đến 1999 đã đầu tư 1546,802 tỉ đồng cho phát triển mạng lưới nông thôn, miền núi và hải đảo đã xây dựng 16986 Km đường dây trung thế, 9536 trạm biến áp có dung lượng 718.858 KVA, 6979 Km đường dây hạ thế, cung cấp 249.178 công tơ, cấp điện cho 1540000 hộ đến cuối năm 1999 điện lưới quấc gia đã đến tận tất cả các tỉnh, 95,7% số huyện, 77,2% số xã và 68,1% số hộ trong cả nước. Hệ thống chợ được hình thành ở các tụ điểm kinh tế nông thôn có tác dụng thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển Đời sống vật chất và tinh thần của nhiều vùng nông thôn đã được cải thiện rỏ rệt, điều kiện ăn ở đi lại học hành chửa ở nhiều nơi đã tiến bộ hơn trước.Số hộ nghèo đói đã giảm rỏ rệt số hộ khá và hộ giàu trong nông thôn tăng nhiều hơn, nhà ở đường giao thông, trrường học, trạm y tế ở nông thôn đuợc khang trang hơn truớc. Trình độ hộc vấn cửa người dân tăng lên rỏ rệt. Nhìn chung bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi b. Những tồn tại và thách thức Mặc dù có nhiều chuyển biến kinh tế trong nông thôn thời gian qua song vẩn còn tồn tại nhiều yếu kém Thị trường tiêu thụ nông sản và hàng hoá nông thôn phát triển không ổn định.Sản xuất nông nghiệp tăng hầu hết cắc mặt nhưng thị trường tiêu thụ khó khăn, nông sản hàng hoá bị ứ đọng, giá cả tụt xuống thấp mặc dù nhà nước đã có nhiều giải pháp tực tiếp củng như gián tiếp để đẩy mạnh tiêu thụ nông sản như:Trợ giá nông sản, xúc tiến xuất khẩu, đầu tư cơ sở chế biến Cơ cấu sản xuất nông thôn chuyển dịch chậm không đủ sức thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp, đã hạn chế nhiều trong việc tập trung đất đai để cơ giới hoá, tạo năng suất lao động cao Vốn đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu nông nghiệp nông thôn.Trước 1990 tỉ trọng vốn đầu tư ngân sách Nhà nước chiếm 20% vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế, thì nhiều năm giảm xuống còn 11-12% năm 1998 tăng lên khoảng 15%,song chủ yếu đầu tư cho thuỷ lợi và đê điều (chiếm khoảng 70%) đầu tư cho công nghệ còn thấp. Có tỉnh vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn giảm cả về số lượng tuyệt đối và tỉ trọng như Đồng Nai 48,5 tỉ đồng (năm 1995) xuống còn 44,2 tỉ đồng (19960 và 38,8 tỉ đồng (1997) tỉ trọng từ 10% xuống còn 6,3% và4,8% trong 3 năm tương ứng Dân cư nông thôn nói chung nghèo, thu nhập thấp, tích luỹ ít không đủ khả năng tự đầu tư theo yêu cầu thâm canh cao và phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn nhất là đầu tư vào công nghệ tiên tiến công nghiệp nông thôn phần lớn sử dụng công nghệ thải loại từ công nghiệp thành phố, hoặc công nghệ tự tạo nên công nghệ lạc hậu. Việc vay vốn phát triển công nghiệp nông thôn còn rất hạn chế thời gian ngắn, mức vốn vay ít không có tài sản thế chấp. Các trang trại và doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thiếu vốn đầu tư cho sản xuất và đỏi mới công nghệ. Vốn đầu tư từ nước ngoài (FDI) dưạ vào các dự án nông nghiệp nông thôn vừa ít về số lượng vừa bé về quy mô. Đến tháng 9/1998 mới có 237 dự án với tổng mức vốn 1691 triệu USD chiếm 10% về số dự án và 5% về số vốn FDI đầu tư vào Việt nam, điều đáng quan tâm là hoạt động kém hiệu quả (đã có 37 dự án bị giải thể với số vốn 146 triệu USD) Phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế chưa gắn bảo vệ tài nguyên và môi trường.Tình trạng tài nguyên thiên nhiên như: Đất, nước, rừng, biển bị khai thác vượt quá mức cho phép dẩn đến nghèo kiệt, ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái là thực tế tồn tại đáng lo ngại. Tình trạng ô nhiểm môi trường và vệ sinh thực phẩm ở các làng nghề rất cần báo động và sớm có biện pháp xử lý. Công nghiệp hóa và hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là hướng đi tất yếu của nước nông nghiệp. Những tồn tại trên cần có biện pháp sớm khắc phục trước mắt dồn sức công phá những chương trình trọng điểm đổi mới công nghệ từng bước hiện đại một số lỉnh vực mủi nhọn sớm tiếp cận trình độ chung của khu vực và trên thế giới, tạo ra bước phát triển vượt bậc năng suất và chất lượng sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới 2. Phương hướng phát triển kinh tế nông thôn ở Việt Nam a. Quan điểm phát triển kinh tế nông thôn trong thời kì quá độ thự hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước + Thứ nhất phát triển kinh tế nông thôn nhất thiết phải có hiệu quả kinh tế –xã hội và môi trường Nước ta là một nuớc nghèo đi lên chủ nghĩa xã hội không có cách nào khác là phải sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Quan điểm hiệu quả không thể việc phát triển kinh tế nông thôn bằng bất cứ giá nào. Việc phát triển kinh tế nông thôn là một vấn đề hết sức phức tạp và rộng lớn phải đầu tư nhiều sức lao động và của cải dồi dào nên càng phải có hiệu quả. Quan điểm hiệu quả bao gồm ba mặt gắn bó với nhau: Hiệu quả kinh tế hiệu quả xả hội và hiệu quả môi trường Hiệu quả kinh tế đòi hỏi phải sản xuất ngày càng nhiều nông sản phẩmvà sản phẩm hàng hoá với giá thành sản phẩm hạ, chất lượng và năng suất sản phẩm cao, tích luỷ và tái sản xuất mở rộng không ngừng.Hiệu quả xã hội đòi hỏi đời sống của người nông dân không ngừng được nâng cao, lao động có việc làm ngày càng tăng, thực hiện được xoá đói giảm nghèo, số đói, số hộ khá và hộ giàu ngày càng tăng, thực hiện dân chủ công bằng xã hội văn minh, xoá bỏ tệ nạn xã hội, phát huy được những truyền thống tốt đẹp của cộng đồng nông thôn. Hiệu quả môi trường đòi hỏi môi trường sinh thái ngày càng được bảo vệ và cải thiện có đẩm bảo cả ba mặt hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường thì phát triển nông thôn mới bền vững. Quan điểm này phải chỉ đạo toàn bộ phương hướng, nội dung và giải pháp phát triển nông thôn.Tuỳ thao từng nôngthôn, từng thời gian mà xem và gải quyết các mặt hiệu quả sao cho thích hợp. + Thứ hai phát triển nông thôn với kinh tê nhiều thành phần thao cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước Chúng ta phải phát triển nông thôn theo hướng sản xuất ngày càng cao. Muốn vậy đi đôi với phát triển sản xuất phải mở rộng thị trường. Việc hình thành và phát triển thị trường như: Thị trường nông sản phẩm, thị trường đất đai, vật tư, vốn, lao động …ở nông thôn là hết sức quan trọng. Mở rộng cạnh tranh tự do sẽ tạo điều kiện cho việc giao lưu hàng hoá trong nông thôn, cũng như nông thôn và thành thị, trong nước và nước ngoài. Người sản xuất có thể muia bán những thứ cần thiết phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng thao giá thị trường tránh tình trạng bị ép cấp, ép giá. Tham gia vào thị trường có nhiều thành kinh tế, kinh tế nhà nước với các doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tập thể, cá thể, tiểu thủ… Việc phát huy đầy đủ mọi tiềm năng đất đai, sức lao động, vốn dân cư, cơ sở vật chất kĩ thuật, các thành kinh tế là động lực quan trọng để phát triển nông thôn. Việc quan tâm đầy đủ lợi ích của hàng triệu người dân, các trang trại, hàng nghìn hợp tác xã, hàng vạn tổ hợp kinh tế hợp tác xã là hết sức quan trọng với việc phát triển nông thôn. Trong cơ chế thị trường đòi hỏi không chỉ hợp tác nhau mà phải có sự quản lý của nhà nước đối vơí thị trường để đảm bảo cho sản xuất và đời sống ở nông thôn hoạt động bình thường. Dựa vào hệ thống quy hoạch, kế hoạch định hướng dựa vào các công cụ quản lý như kế hoạch tài chính tín dụng và ngân hàng … Các biện pháp kinh tế, tổ chức, hành chính, pháp luật. Nhà nước quản lý, điều tiết các quá trình phát triển kinh tế xã hội nông thôn tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động một cách hiệu quả và bình đẳng, nhà nước có chính sách xoá đói giảm nghèo nhưng cũng khuyến khích các hộ tiến lên khá và làm giàu. Nhà nước có các chính sách khuyến khích đồng thời có chính sách tiêu nthụ sản phẩm kịp thời với giá cả hợp lý, có chính sách đối với những vùng khó khăn và thuận lợi, đối với những năm được mùa và những năm mất mùa, đồng thời có chính sách điều chỉnh lại quan hệ cung cầu và giá cả thay đổi ở thị trường trong nước va thị trường thế giới + Thứ ba phát triển nông thôn một cách toàn diện có tính đến lợi thế so sánh của các vùng khác nhau Phát triển nông thôn không chỉ về mặt kinh tế mà cả về mặt xã hội an ninh quấc phòng và bảo vệ môi trường. Trong kinh tế không chỉ phát triển nông nghiệp mà cả công nghiệp và dịch vụ. Trong nông nghiệp không chỉ phát triển trồng trọt mà cả chăn nuôi, lâm nhiệp và thuỷ sản Việc phát triển một cách toàn diện nông thôn là tất yếu khách quan đáp úng nhu cầu kinh tế cho mọi hoạt đông kinh tế xã hội của cộng đồng nông thôn. Mổi vùng mổi ngành riêng lẻ không thể tự mình có hể phát triển được một cách bình thường mà phải có sự tác động hổ trợ của các ngành khác mới có hiệu quả. Nông nghiệp không thể phát triển có hiệu quả nếu không có công nghiệp và dịch vụ hổ trợ. Sự tách rời giữa nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản sẻ đẻ ra tình trạng phá rừng làm phát triển diện tích đồi núi trọc như trong thự tế xảy ra. Mặt khác nông thôn có nhiều nguồn lực đất đai, nước khoáng sản khác nhau, có nguồn lực lao động dồi dào, nguồn lực cơ sở vật chất kĩ thuật đa dạng. Muốn sử dụng một cách hiệu quả các nguồn lực trên thì trong nông thôn phải phát triển đa dạng nhiều cây trồng vật nuôi, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ khác. Nông thôn thuần nông không thể có hiệu quả cao được + Bốn là phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá Muốn xoá bỏ dần sự lạc hậu của nông thôn, xây dựng nông thôn giàu đẹp văn minh thì phải phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Trước tiên phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hường xoá bỏ dần tính chất thuần nông phát triển công nghiệp và dịch vụ. Việc phát triển công nghiệp đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản cho phép nâng cao giá trị nông sản phẩm và nông sản phẩm hàng hoá xuất khẩu. Phát triển nông nghiệp phải đi đôi với phát triển lâm nghiệp và thuỷ sản. Còn trong nông nghiệp giảm bớt tính chất độc canh phát triển cây công nghiệp rau quả, chăn nuôi. Công nghiệp hoá hiện đại hoá đòi hỏi phải phát triiển cơ sở hạ tầng sản xuất và xã hội như: Giao thông, thuỷ lợi, điện, thông tin liên lạc, cơ sở công nghiệp dịch vụ, văn hoá y tế giáo dục làm thay đổi dần bộ mặt nông thôn. Việc áp dụng khoa học công nghệ gắn liền với thuỷ lợi hoá cơ khí hoá. điện khí hoá, công nghệ sinh học trong trồng trọt chăn nuôi, lâm nghiệp và thuỷ sản ngành nghề nhằm tăng năng suất sản lượng, chất lượng cây trồng vật nuôi có giá thành sản phẩm hạ và bảo vệ được môi trường sinh thái bền vững trong nông thôn b. Phương hướng phát triển kinh tế nông thôn Dựa trên những quan điểm cơ bản phát triển kinh tế nông thôn, xuất phát từ thực tiển kinh tế nông thôn Việt Nam, phương hướng phát triển kinh tế nông thôn b._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35389.doc