Sự cần thiết và điều kiện áp dụng thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam

Lời nói đầu Chính sách thuế là một bộ phận của chính sách tài chính quốc gia, có tầm quan trọng đặc biệt vì nó mang tính chất chính trị, kinh tế-xã hội tổng hợp. Chính sách thuế không những liên quan đến hoạt động sản xuất đầu tư và tiết kiệm của xã hội mà nó còn liên quan chặt chẽ đến việc giải quyết quan hệ lợi ích giữa 3 chủ thể: Nhà nước, doanh nghiệp và từng người dân. Chính sách thuế đúng đắn, hợp lý sẽ có tác dụng làm bật dậy mọi tiềm năng của đất nước. Ngược lại, chính sách thuế không h

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1590 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Sự cần thiết và điều kiện áp dụng thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợp lý, phù hợp với tình hình thực tế thì dễ dẫn đến tình trạng suy thoái kinh tế, thậm chí gây mất ổn định chính trị, an ninh quốc gia. Bởi vậy việc đánh giá và tìm ra các giải pháp đổi mới hệ thống thuế hiện hành sao cho phù hợp điều kiện phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ luôn là một nhiệm vụ quan trọng được chính phủ quan tâm đặc biệt. Cuộc cải cách thuế nước ta từ năm 1990 đến nay được xem là một cuộc cải cách thuế toàn diện, sâu sắc. Qua một bước của cuộc cải cách (1990-1995) hệ thống thuế nước ta đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Chính vì vậy, hệ thống thuế nước ta lại được cải cách ở 2 bước. Việc áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu kể từ ngày 1/1/1999 là một trong những nội dung quan trọng của bước cải cách này. Sắc thuế này đã khắc phục được những đặc điểm chồng chéo thuế đánh trùng lên thuế của thuế doanh thu. Tuy nhiên, đây là một sắc thuế rất mới với nước ta nên sự hiểu biết trong nhân dân và các nhà doanh nghiệp còn bị hạn chế dẫn đến những nhận thức hết sức khác nhau về loại thuế này. Và em cũng là một trong vô số những người chưa hiểu biết thuế GTGT là gì ? Tại sao việc áp dụng sắc thuế này là rất cần thiết không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Để giải quyết những thắc mắc này và mở rộng thêm lượng kiến thức, em-sinh viên khoa Ngân hàng - Tài chính muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình trong việc nghiên cứu đề tài “ sự cần thiết và đIều kiện áp dụng thuế giá trị gia tăng ở việt nam “. Đề tài được chia làm ba chương Chương 1 : Luận cứ khoa học của đề tài Chương 2 : Thực trạng việc áp dụng thuế GTGT ở Việt nam Chương 3 : Những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện thuế gtgt Do hiểu biết còn nhiều hạn chế nên chắc chắn sẽ có rất nhiều thiếu xót, em rất mong muốn thày Nguyễn Hữu Tài và cô Cao Thị ý Nhi giúp em có được cái nhìn đúng đắn để đề tài được hoàn thiện. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn giúp đỡ của thày cô. Hà nội, ngày11 tháng 3 năm 2001. Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Tình Chương 1 luận cứ khoa học của đề tài. I. Khái niệm chung về giá trị gia tăng và thuế giá trị gia tăng 1.Khái niệm : ở Việt nam, việc áp dụng thuế GTGT để thay cho thuế doanh thu hiện hành đang được nhiều người quan tâm. Một số người cho rằng việc sớm ban hành luật VAT để thay cho luật thuế doanh thu hiện hành là rất cần thiết. Một số người khác lại cho rằng VAT là một sắc thuế tuy có tiến bộ nhưng phức tạp, còn nhiều nước chưa áp dụng, trong đó có Mỹ, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, chu đáo các đìêu kiện cần thiết đảm bảo tính khả thi thì khi áp dụng mới đạt được kết quả. Trước hết, chúng ta phải hiểu thế nào là giá trị gia tăng ? Trị giá gia tăng là giá trị tăng thêm với một sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ cho cơ sở sản xuất, chế biến, buôn bán hoặc dịch vụ tác động vào nguyên vật liệu thô hay hàng hoá mua vào, làm cho giá trị của chúng tăng thêm. Từ đó chúng ta hiểu được thuế GTGT là một loại thúê gián thu do người tiêu dùng chịu, đánh trên giá trị tăng thêm trong mỗi khâu của quá trình kinh doanh ( từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng cuối cùng ), sản phẩm chỉ phải chịu thuế một lần. 2. Phương pháp tính: Như luật thuế GTGT đã quy định, thuế GTGT chỉ tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ ở từng khâu bán hàng, không đánh vào phần đã chịu thuế ở khâu trước cho nên cách tính thuế GTGT là rất khoa học, rất cần thiết đối với phát triển sản xuất theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá và phù hợp với yêu cầu hội nhập Quốc tế. Để hiểu được phương pháp tính thuế, ta sơ lược qua một vài nội dung cơ bản : Theo thông tư số 89/1998/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 28/2998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật thuế GTGT. Đối tượng chịu thuế GTGT Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng ở Việt Nam ( tiêu dùng cho sản xuất và sinh hoạt ), không kể là hàng hoá dịch vụ được sản xuất,cung ứng từ trong nứơc hay nhập khẩu. Đối tượng không chịu thúê GTGT Có 26 loại hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tuợng chịu thuế GTGT. Nói chung các loại hàng hoá, dịch vụ này chủ yếu là các đối tượng mà lâu nay không phải chịu thuế doanh thu như: Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi của nông dân tự sản xuất, tự bán ra, sản phẩm muối, các dịch vụ không mang tính kinh doanh vì lợi nhuận, các loại dịch vụ công cộng, dịch vụ y tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo, thông tin đại chúng... Đối tượng nộp thuế GTGT Tất cả các cá nhân, tổ chức có sản xuất kinh doanh hoặc nhập khẩu hàng hoá dịch vụ ( gọi chung là cơ sở kinh doanh ) thuộc diện chịu thuế GTGT là các đối tượng nộp thuế GTGT. Bao gồm: Các tổ chức kinh doanh, không phân biệt thành phần kinh tế, là doanh nghiệp trong nước hay là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, là doanh nghiệp Nhà nước hay doanh nghiệp ngoài Quốc doanh, là HTX hay bất cứ một đơn vị kinh tế trực thuộc tổ chức nào có hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng hàng hoá, cung cấp dịch vụ. Các cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác có sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT. Có hai phương pháp tính thuế GTGT: Một là: Phương pháp khấu trừ thuế: Phương pháp này được áp dụng cho tất cả các cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ các yêu cầu về mỏ và ghi sổ kế toán, chấp hành đầy đủ các quy định của chế độ về hoá đơn, chứng từ. Cơ sở kinh doanh đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế phải sử dụng hoá đơn GTGT ( trừ trường hợp được dùng chứng từ ghi giá thanh toán đã có thuế GTGT ). Trên hoá đơn GTGT phải ghi rõ: giá bán chưa có thuế GTGT, các khoản phụ thu, thuế GTGT và tổng số tiền thanh toán. - = Thuế GTGT Thuế GTGT _ Thuế GTGT phải nộp đầu ra đầu vào Trong đó: Thuế GTGT đầu ra là số thuế tính trên bảng tổng giá bán ( chưa bao gồm thuế GTGT ) hàng bán ra và dịch vụ bán ra trong kỳ. Thuế GTGT đầu vào là số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT khi mua hàng hoá, dịch vụ hoặc trên chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu. Hai là: Phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng Phương pháp này được áp dụng cho các cá nhân, tổ chức kinh doanh chưa được thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, cơ sở kinh doanh mua, bán vàng bạc đá quý, ngoại tệ. Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp phải sử dụng loại hoá đơn thông thường (hoá đơn bán hàng). Giá bán hàng hoá, dịch vụ ghi trên hoá đơn bán hàng là giá đã có thuế GTGT Thuế GTGT phải nộp = Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra - Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào x Thuế suất thuế GTGT tương ứng Trong đó: Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra là số tiền bên mua phải thanh toán cho bên bán, bao gồm cả thuế GTGT và các khoản phụ thu, phí thu thêm mà bên mua phải trả. Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng với giá của hàng hoá, dịch vụ bán ra được xác định bằng giá trị của hàng hoá, dịch vụ mua vào ( bao gồm cả thuế GTGT ) mà cơ sở kinh doanh đã dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT bán ra. Thuế suất tương ứng là mức thuế quy định cho từng loại hàng hoá, dịch vụ tương ứng với hàng hoá, dịch vụ bán ra. Từ những vấn đề cơ bản đó chúng ta sẽ có những cái nhìn chính xác hơn về thuế GTGT. II - So sánh thuế GTGT với thuế doanh thu 1.Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu: Chỉ có sản xuất mới tạo ra của cải, vật chất cho xã hội và nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Do đó, Nhà nước có trách nhiệm quan tâm, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, lưu thông được thông suốt. Một môi trường đầu tư được coi là thuận lợi nếu trong đó có những cơ chế chính sách được quy định phù hợp, rõ ràng, ổn định, ít có biến động để tạo cho doanh nghiệp yên tâm bỏ vốn vào đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Chính từ nhận định đó, thuế GTGT đã nhanh chóng được áp dụng rộng rãI trên toàn thế giớithay thế cho thuế doanh thu và trở thành nguồn thu quan trọng của nhiều nước. ở nước ta, đến thời điểm này, Nhà nước thấy cần thiết phải áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu vì : thuế doanh thu có đặc trưng cơ bản là nhiều mức thuế suất, phân biệt theo ngành hàng và mặt hàng. Thuế thu hàng tháng và tính trên tổng doanh thu bán hàng không có khấu trừ thuế đã nộp ở khâu trưóc. Thuế suất có quy định thấp. Thuế doanh thu có ưu điểm là tính toán đơn giản thu dứt điểm từng lần bán hàng mà không cần phải theo dõi thoái trả số tiền đã nộp ở khâu trước. Vì vậy, nguồn thu của các cấp ngân sách và các cấp địa phương tương đối ổn định. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiên, thuế doanh thu đã bộc lộ nhiều nhược điểm, trong đó nhuợc điểm lớn nhất là thu thuế trùng lặp. Thuế doanh thu quy định cứ mỗi lần bán hàng là một lần phải nộp thuế, nên càng chuyên môn hoá sâu thì càng phải nộp nhiều thuế. Ngược lại nếu sản xuất khép kín kiểu tự cấp, tự túc thì phải nộp thuế ít hơn. Do đó thuế doanh thu không phù hợp với yêu cầu CNH-HĐH. Mặt khác, cơ chế thuế có nhiều mức thuế suất để bảo hộ đến từng nghành hàng, mặt hàng chỉ phù hợp với thời kỳ kế hoạch hoá, thời kỳ mà giá cả của mọi loại hàng hoá đều do nhà nước thống nhất quản lý. Song cơ chế kinh tế thị trường, giá cả hàng hoá do cung cầu trên thị trường quyết định, nếu vẫn duy trì cơ chế nhiều thuế suất thì chỉ làm tăng thêm khó khăn, phức tạp trong quản lý và tạo nhiều kẽ hở cho trốn lậu thuế. Chính vì vậy, trong cải cách thuế bước 2 này, Quốc hội đã ban hành thuế GTGT áp dụng từ 1/1/1999 thay cho thúê doanh thu. 2.Tính ưu việt của việc áp dụng thuế GTGT. Để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thích ứng với yêu cầu hội nhập trong khu vực và Quốc tế, việc áp dụng thuế GTGT là rất cần thiết. Thuế GTGT có nhiều ưu việt hơn thuế doanh thu. Một là, áp dụng thuế GTGT sẽ giảm bớt số lượng các mức thuế suất, chỉ với mức thuế suất GTGT ( 0%, 5%, 10% & 20% ) cũng đủ để thay cho 11 mức thuế suất thuế doanh thu, dao động từ 0%; 0,5% đến 30%. Hai là, thuế GTGT có diện bao quát rộng, bao gồm hầu như toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Thật vậy, chia các đối tượng chịu thuế trong nền kinh tế theo tiêu thức các hoạt động tạo ra thu nhập, các hoạt động tiêu dùng số thu nhập đã tạo ra và các đối tượng khác thì chỉ riêng thuế GTGT đã bao quát hết mảng thứ hai: tiêu dùng thu nhập đã có. Phần còn lại thuộc đối tượng của thuế thu nhập doanh nhgiệp, thuế thu nhập cá nhân và một số sắc thuế đặc thù khác. Do diện chịu thuế rộng nên về lâu dài thuế GTGT sẽ góp phần tăng thu ngân sách Nhà nước, sẽ là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước. Ba là, bản chất thuế GTGT mang tính trung lập về mặt kinh tế. Xét trong nội bộ nền kinh tế, thuế GTGT đánh vào khâu tiêu dùng cuối cùng, không đánh vào sản xuất. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chỉ là khâu trung gian, thu thuế hộ Nhà nước rồi nộp vào kho bạc Nhà nước. Đây là điểm “Cách mạng” của thuế GTGT nhờ phương pháp khấu trừ của nó. Chính vì thế mà thuế GTGT khắc phục được nhược điểm “thuế đánh lên thuế” của thuế doanh thu, tạo nên mặt bằng cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp cùng hạng với nhau, từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp cơ cấu lại bộ máy quản lý và dây chuyền công nghệ, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Bốn là, thuế GTGT có tác dụng kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Đối với lĩnh vực xuất khẩu, do vừa áp dụng mức thuế suất 0%, vừa được hưởng lợt thế khấu trừ thuế GTGT đầu vào nên cơ chế mới sẽ mang đến cho kĩnh vực xuất khẩu một liều thuốc kích thích mạnh. Ngược lại, nó sẽ không khuyến khích nhập khẩu bừa bãi vì hàng hoá nhập khẩu sẽ chịu thuế GTGT sau khi đã chịu thuế nhập khẩu. Năm là, khi được triển khai áp dụng, thuế GTGT sẽ ghóp phần đổi mới tư duy về cơ chế thu nộp thuế. Đổi mới tư duy là vấn đề khó khăn lâu dài, nhưng dẫu sao nếu được áp dụng đúng, thuế GTGT sẽ phát huy bản chất trung lập kinh tế,không ảnh hưởng đến kết quả quản lý của các doanh nghiệp. Cơ chế thu thuế sẽ được đổi thành cơ chế tự kê khai, tự động nộp thuế, thực hịên kiểm tra sau. Sáu là, thuế GTGT còn có tác dụng hội nhập Quốc tế, áp dụng thuế GTGT cho phép chúng ta nói chung tiếng nói với các nước trong khu vực và thế giới trong lĩnh vực thuế. Khi thuế GTGT đi vào cuộc sống, sự phân biệt trong tính chất thuế giữa sản phẩm trong nước và sản phẩm nước ngoài sẽ bị xoá bỏ. Các mặt hàng sau khi chịu thuế nhập khẩu sẽ cùng chịu một mức thuế GTGT như nhau, không phân biệt hàng sản xuất trong nước hay hàng nhập khẩu. Điều này giúp chúng ta nhìn nhận như một nước có môi trường kinh doanh bình đẳng. Do vậy, thuế GTGT có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp vươn ra thị trường nước ngoài và khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt nam. Bảy là, thuế GTGT được thực hiện thống nhất và chặt chẽ theo căn cứ vào hoá đơn mua, bán hàng để khấu trừ sổ thuế đã nộp ở khâu trước. Điều đó có nghĩa là, nếu không có hoá đơn mua hàng ghi rõ số thuế GTGT đã nộp ở khâu trước thì không được khấu trừ thuế. Vì vậy thuế GTGT khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh khi mua hàng đòi hoá đơn, và khi bán hàng phải có hoá đơn theo đúng quy định, với nguyên tắc thuế thu ở khâu sau được khấu trừ số thuế đã nộp ở khâu trước, thuế GTGT sẽ góp phần hạn chế được những sai xót, gian lận trong việc ghi chép hoá đơn. Hoạt động mua bán hàng hoá, cung cấp lao vụ, dịch vụ có hoá đơn chứng từ được đua vào nề nếp thành thói quen trong nền kinh tế sẽ là tiền đề cho việc tin học hoá quá trình quản lý sản xuất kinh doanh , hạn chế bớt những sai sót, tiêu cực và mang lạI nhiều lợi ích cho nề kinh tế. Rõ ràng, thuế GTGT có nhiều ưu đIểm nổi trội hơn thuế doanh thu. Mục đích chủ yếu của việc áp dụng thuế GTGT là tạo thêm thuận lợi cho các cơ sở sản xuất kinh doanh phát triển, chứ không nhằm tăng mức động viên, càng không phải là làm cho doanh nghiệp khó khăn hơn. 3. Những khó khăn có thể gặp phải trong việc áp dụng thuế GTGT Bên cạnh những ưu điểm kể trên, khi áp dụng thuế GTGT chắc chắn sẽ phát sinh nhiều khó khăn thách thức đối với Nhà nước, doanh nghiệp cũng như với xã hội. Thứ nhất, phương pháp tính thuế GTGT phức tạp hơn so với cách tính thuế trước đây. Thứ hai, thuế GTGT yeu cầu cao về cơ sở số liệu, hoạch toán kế toán hoá đơn và luân chuyển hoá đơn chứng từ cũng như trình độ nhận thức của mọi đối tượng liên quan từ Nhà nước và các đại diện của Nhà nước, các doanh nghiệp, nhân dân. Thứ ba, thuế GTGT yêu cầu cao đối với bộ máy thu và quản lý thuế, cũng như đối với việc thống nhất hoá, đồng nhất hoá các văn bản pháp quy có liên quan. Thứ tư, chuyển từ thuế doanh thu sang áp dụng thuế GTGT đòi hỏi phải thay đổi một thói quen vốn đã ăn sâu trong cách nghĩ và cách làm của mỗi người. Một trong những thói quen đó là: mua bán hàng không cần hoá đơn, linh hoạt đến mức tuỳ tiện trong việc ghi chép chứng từ, sổ kế toán...mà thay đổi một thói quen bao giờ cũng hết sức khó khăn. Do thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị gia tăng thêm nên để đảm bảo mức động viên ngang bằng thuế doanh thu thì suất thuế GTGT phải cao hơn thuế suất thuế doanh thu hiện hành. Điều này dễ gây tâm lý cho rằng Nhà nước tăng thuế & để dẫn đến tác động làm tăng giá, cho nên cùng với việc giải thích cần phải áp dụng biện pháp quản lý chặt chẽ và phải có các biện pháp kinh tế để kiềm chế ngăn ngừa lợi dụng tăng giá. Thứ năm, chuyển từ thuế doanh thu có 11 thuế suất sang áp dụng thuế GTGT có 4 thuế suất, dẫn đến dễ bị hụt hẫng trong thu ngân sách Nhà nước và bị sốc trong những doanh nghiệp. Những hàng hoá đang chịu thuế suất cao nay xuống thuế suất thấp sẽ làm giảm thu Ngân sách Nhà nước. Những hàng hoá đang chịu thuế suất thấp nay lên thuế suất cao sẽ gặp khó khăn lúng túng trong thời gian đầu. Do đó cần có những biện pháp điều tiết một phần từ những doanh nghiệp có thu nhập cao do được giảm thuế suất, đồng thời giảm bớt những khó khăn trong doanh nghiệp phải chịu thuế suất cao hơn trước. Thứ sáu, đối với các khu vực doanh nghiệp, có thể sẽ có một số ảnh hưởng tiêu cực đến một bộ phận doanh nghiệp cụ thể nào đó-thông thường là những doanh nghiệp nhỏ và yếu. Do không đủ điều kiện áp dụng thuế GTGT theo luật (10/5/1997 ), nên sẽ xuất hiện hiệu ứng hai chiều: đối với bản thân đơn vị, khi mua hàng, phải chi trả thuế GTGT mà không bao giờ được khấu trừ. Mặt khác, các đơn vị bán sẽ gặp phải khó khăn hơn, khó bán hơn do hàng hoá của họ sẽ không được người mua cũ để mắt tới nữa vì những doanh nghiệp này không mang lại khả năng khấu trừ thuế GTGT cho bên mua. Nói cách khác, rất có thể họ sẽ bị mất đi một lượng bạn hàng nhất định. Nếu không lường trước được vấn đề, có thể thuế GTGT sẽ gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất kinh doanh sau khi triển khai. Cần lưu ý rằng tuy doanh thu của khu vực này không phải là lớn nhưng số lượng doanh nghiệp lại rất đáng kể nên cần tránh những dư luận không tốt đối với thuế GTGT. Những khó khăn nói trên là những trở ngại thực sự, đòi hỏi phải có dự báo những tình huống có thể xảy ra và nhất là phải có những giải pháp sát hợp cho từng trường để chủ động phòng tránh mới có thể hạn chế được những rủi ro và đảm bảo thực hiện thành công thuế GTGT. Mặt khác, áp dụng thuế GTGT đem lại nhiều thuận lợ cho sản xuất kinh doanh cho nên khắc phục những khó khăn ban đầu để thực hiện có kết quả là góp phần bảo đảm lợi ích của cả nền kinh tế. Vấn đề là cả Nhà nước và doanh nghiệp đều phải nỗ lực thực sự thì áp dụng thuế GTGT mới đạt được kết quả mong muốn. Chương 2 Thực trạng việc áp dụng thuế GTGT ở Việt nam I. Điều kiện cần thiết để áp dụng thuế GTGT ở Việt nam Từ những vấn đề nêu trên, liên hệ với thực tế ở Việt nam, câu hỏi đặt ra là chúng ta đã có đủ điều kiện để áp dụng thuế GTGT chưa và điều kiện cần thiết để áp dụng thuế GTGT ở Việt nam là gì? Thật vậy, để phát huy giá trị tích cực của luật thuế GTGT đòi hỏi chúng ta phải tạo ra được các điều kiện cần thiết để thực loại thuế này như : -Các hoạt động SXKD, mua bán hàng hoá lớn và vừa phải thực hiện đầy đủ chế độ chứng từ hoá đơn, thuận tiện cho việc kiểm tra, xác định doanh thu tính thuế và khấu trừ thuế đối với từng cơ sở kinh doanh. -Mọi hoạt động thanh toán giữa các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế đều được thực hiện qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Hạn chế đến mức tối thiểu tình trạng thanh toán bằng tiền mặt giữa các tổ chức này. -Thực hiện hiện đại hoá công tác quản lý và thu thuế, nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ quản lý thuế về chế độ hoá đơn chứng từ, sổ kế toán, thông thạo về chế độ quản lý, tính thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế GTGT. Cơ quan thuế từng bước trang bị hệ thống máy vi tính, cán bộ ngày càng thông thạo về sử dụng các mạng máy vi tính, đạt hiệu quả cao. -ý thức tự nguyện, tự giác chấp hành luật thuế của các nhà doanh nghiệp từng bước được nâng lên theo phương châm tăng cường “đức trị”gắn với việc xử lý các vi phạm về thuế nghiêm minh theo phương châm “pháp trị”. -Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh và đưa dần việc thực hiện pháp luật vào nền nếp, kỷ cương cả trong nhận thức tư tưởng và trong hành động thực tế. Mỗi điều kiện đều có vai trò, vị trí quan trọng khác nhau, đồng thời có mối quan hệ bổ xung , hỗ trợ lẫn nhau để việc triển khai luật thuế GTGT được đồng bộ, đạt kết quả tốt. Thông qua những đIều kiện cần thiết đó thì Việt nam nên áp dụng luật thuế GTGT theo mô hình nào cho phù hợp với tình hình trước mắt và lâu dài của Việt nam? Và hiện nay luật thuế GTGT đã có những quy định gì mới? II. Sửa đổi, bổ sung thuế GTGT. Một số quy định mới. Qua sơ kết thời gian đầu triển khai luật thuế GTGT vẫn còn một số vấn đề vướng mắc cần nghiên cứu giải quyết. Trên cơ sở tổng hợp các vướng mắc từ doanh nghiệp và ý kiến của các bộ, các ngành địa phương ngày 27/10/2000 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành nghị quyết số 240/2000/NQ-UBTVQH 10 về sửa đổi và bổ xung danh mục, hành hoá, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế GTGT và thuế suất thuế GTGT đối với một số hàng hoá, dịch vụ. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2001 nhằm tiếp tục tháo gỡ những khó khăn cho doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư cho phát triển sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh xuất nhập khẩu. Theo đó một số vấn đề lớn của luật thuế GTGT được sửa đổi, bổ xung như sau: Về sửa đổi bổ xung danh mục hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT: Tại điều 4 Luật thuế GTGT quy định 26 nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT, nay bổ xung: thiết bị, máy móc, phụ tùng thay thế, phương tiện vận tảI chuyên dùng và vật tư cần nhập khẩu để tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò phát triển mỏ dầu khí mà trong nước chưa sản xuất được; hoạt động kinh doanh chứng khoán; quà tặng , quà biếu cho các nhân ở Việt nam theo mức độ quy định của Chính phủ; phần mềm máy tính tiêu thụ trong nước. Việc bổ sung một số nhóm hàng hoá, dịch vụ này vào nhóm không chịu thuế GTGT nhằm khuyến khích hoạt động tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ dầu khí phù hợp với luật dầu khí mới được sửa đổi, tạo môi trường thuận lợi cho việc phát hành và kinh doanh chứng khoán, khuyến khích huy động các nguồn vốn dài hạn trong nước và nước ngoài để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Đặc biệt việc bổ xung phần mềm máy tính không chịu thuế GTGT khi bán trong nước là chính sách ưu đãi cao nhất để khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất sản phẩm và làm dịch vụ phần mềm tại Việt nam. Về thuế suất thuế GTGT Bổ sung hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt xuất khẩu, phần mềm máy vi tính xuất khẩu, sửa chữa máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải cho nước ngoài và dịch vụ xuất khẩu lao động được áp dụng mức thuế suất 0%, doanh nghiệp được hoàn khấu trừ hoặc hoàn thuế GTGT đầu vào nhằm hạ thấp giá bán sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường Quốc tế. Điều chỉnh một số hàng hoá, dịch vụ từ nhóm thuế suất 10% xuống nhóm thuế suất 5%. Trước đây Chính phủ đã xử lý tạm giảm thuế GTGT cho một số nhóm hàng hoá, dịch vụ trong quá trình triển khai thuế GTGT nhằm tháo gỡ kịp thời những khó khăn cho doanh nghiệp. Qua gần hai năm thực hiện, việc tạm giảm đã góp phần làm ổn định sản xuất kinh doanh nên Uỷ ban thường vụ Quốc hội chính thức cho điều chỉnh mức thuế suất từ 10% xuống 5% bổ sung thêm một số hàng hoá, dịch vụ doanh nghiệp sản xuất hiện nay tuy gặp khó khăn như : sản phẩm luyện cán, kéo kim loại đen, kim loại màu, kim loại quý, trừ vàng nhập khẩu. Quy định tại khoản 24, điều 4 của luật thuế GTGT :khuôn đúc các loại, dây cáp điện sử dụng cho điện áp từ 600V trở lên, máy vi tính, cụm linh kiện máy vi tính, vật liệu nổ, que hàn, đá mài, giấy in báo, bình bơm thuốc trừ sâu...Những mặt hàng này phần lớn là những sản phẩm để sản xuất ra tư liệu sản xuất, một số là sản phẩm tiêu dùng thiết yếu được áp dụng mức thuế suất thấp nhất, tạo điều kiện cần thiết cho doanh nghiệp phát huy nội lực phấn đấu sản xuất kinh doanh có hiệu qủa. Ngoài những vấn đề được quy định ở luật và nghị quyết của UBTVQH, Chính phủ đã có Nghị định số 102/1998/NĐ-CP giải quyết về việc khấu trừ thuế từ 3%-5% đối với một số sản phẩm mua của người trực tiếp sản xuất không có hoá đơn hoặc có hoá đơn thông thường, nhưng trong quá trình thực hiện đã phát sinh bất hợp lý. Thời gian tới, trong Nghị định hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 240, có thể Chính phủ sẽ quy định cụ thể việc khấu trừ thuế theo hướng: các loại hàng hoá nông sản, lâm sản, thuỷ sản mua trực tiếp của người sản xuất, các loại đất, đá, cát sỏi mua của người trực tiếp khai thác; phế liệu mua của người thu gom không có hoá đơn mà chỉ có bản kê thì được khấu trừ theo mức thống nhất là 2% giá trị hàng hoá mua vào ghi trên bảng kê. Trường hợp mua hàng hoá có hoá đơn thông thường được khấu trừ 3%. Việc khấu trừ này được áp dụng cho cả hàng hoá, dịch vụ trong nước và xuất khẩu. Đây là một bước chuyển tiếp để trong một vài năm nữa khi nghiên cứu hoàn thiện luật thuế sẽ bỏ hản việc khấu trừ thuế mang tính ấn định này để đưa việc sử dụng hoá đơn chứng từ vào nền nếp, nâng cao công tác hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp. Về hồ sơ hoàn thuế Hồ sơ hoàn thuế đối với doanh nghiệp là các bản kê khai nộp thuế hàng tháng kèm theo văn bản đề nghị hoàn thuế. Đối với những trường hợp đề nghị hoàn thuế theo quy định tại Thông tư số 93/1999/TT-BTC ngày 28/7/1999, nếu bản kê khai của các tháng đã kê khai đúng thì đối tượng xin hoàn thuế chỉ cần gửi công văn xin hoàn thuế ghi rõ số thuế đề nghị hoàn theo bản kê khai nộp thuế của những tháng nào, nếu có đIều chỉnh số liệu đã kê khai, đơn vị xin hoàn thuế phải gửi bản giải trình bổ sung. Ngoài các hồ sơ phải gửi đến cơ quan thuế theo quy định, các hồ sơ khác liên quan đến hoàn thuế, khấu trừ thuế, các đối tượng đề nghị hoàn thuế. Khi cơ quan thuế tiến hành thanh tra, kiểm tra hoàn thuế tại cơ sở, cơ sở có trách nhiệm cung cấp đầy đủ hoá đơn, chứng từ và hồ sơ có liên quan làm cơ sở xác định số thuế GTGT phải nộp hoặc được hoàn Các đối tượng được hoàn thuế khi lập và gửi hồ sơ hoàn thuế đến cơ quan thuế phải kê khai đúng, trung thực các số liệu và chịu trách nhiệm trước pháp luật Về phía cơ quan thuế có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ hoàn thuế và xem xét giải quyết đúng theo quy trình và thời hạn quy định Khi xem xét hồ sơ hoàn thuế, cơ quan thuế không yêu cầu các doanh nghiệp và các đối tượng được hoàn thuế GTGT gửi cho cơ quan thuế bản sao các hoá đơn chứng từ, biên lai nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu, hợp đồng kinh tế, tờ khai hàng hoá xuất nhập khẩu và các tài liệu khác không quy định gửi kèm theo hồ sơ hoàn thuế. Đối với những hồ sơ hợp lệ, cơ quan thuế kiểm tra số liệu trên hồ sơ để xác định số hoàn thuế cho đơn vị. Đối với những hồ sơ lập chưa đúng quy định, cơ quan thuế phải thông báo bằng văn bản cho đối tượng biết trong vòng 7 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ hoàn thuế ( hai ngày đối với hồ sơ hoàn thuế của dự án sử dụng nguồn vốn ODA ). Trường hợp không thuộc đối tượng hoàn thuế cũng thông báo và gửi trả hồ sơ trong thời gian quy định. Các trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm các quy định về hoá đơn, chứng từ, số liệu kê khai không đúng, cơ quan thuế có thể áp dụng các biện pháp xác minh, đối chiếu một số hoá đơn, chứng từ, số liệu kê khai trước khi hoàn thuế. Cơ quan thuế có quyền ấn định thuế GTGT phải nộp đối với các đối tượng nộp thuế trong các trường hợp sau: -Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các chế độ hoá đơn chứng từ. -Không kê khai hoặc quá thời gian quy định gửi tờ khai mà đã được gửi thông báo nhắc nhở nhưng vẫn không thực hiện đúng, đã nộp tờ khai thuế nhưng kê khai không đúng các căn cứ xác định thuế GTGT. -Kinh doanh nhưng không có đăng ký kinh doanh, không đăng ký kê khai nộp thuế mà bị kiểm tra phát hiện. Với những sửa đổi, bổ sung và hướng điều chỉnh nói trên, về vấn đề cơ bản đủ giải quyết một số vướng mắc về thuế cho doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện tốt cho việc thực hiện cải cách hành chính trong kĩnh vực thuế. III. Những thành tựu và tồn tại sau khi áp dụng sắc thuế GTGT. Những thành tựu đã đạt được: Trong năm đầu triển khai các luật thuế mới, đặc biệt là thuế GTGT tuy còn gặp nhiều khó khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Bộ chính trị, của UBTVQH và sự điều hành của Chính phủ, cùng với sự cố gắng của các ngành, các cấp, của nhiều cơ quan đoàn thể, sự hưởng ứng của các đối tượng nộp thuế và sự đồng tình của nhân dân, sự nỗ lực của nghành tài chính, ngành thuế. Đến nay, sau hơn hai năm thực hiện cho thấy các luật thuế GTGT đã đi vào cuộc sống, sản xuất kinh doanh, bước đầu đã có những tác động tích cực đối với nền kinh tế-xã hội nước ta. Trước hết, việc thực hiện thuế GTGT thay cho thuế doanh thu đã góp phần khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh. Thật vậy, với việc thực hiện luật thuế GTGT đã tạo diều kiện cho giá thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản giảm khoảng 10%. Như ta đã biết, trong những năm gần đây nguồn vốn ODA ngày càng đóng vai trò quan trọng góp phần phát triển nền kinh tế-xã hội đất nước. Nguồn vốn này đã và đang sử dụng đầu tư cho hàng trăm dự án thuộc nhiều lĩnh vực như xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, năng lượng, y tế, giáo dục. Để thu hút thêm nhiều nguồn vốn ODA hơn nữa, đồng thời đẩy nhanh tốc độ giải ngân, sớm đưa dự án công trình đi vào sử dụng phát huy hiệu quả. Chính phủ, Bộ tài chính cùng nhiều ngành chức năng đã ban hành nhiều chính sách tạo sự thuận lợi thông thoáng nhằm thúc đẩy nhanh việc ký kết, thực hiện các dự án ODA. Đó là hàng hoá thuộc nguồn viện trợ và ODA không hoàn lại thuộc diện chịu thuế GTGT. Sự điều chỉnh bổ sung chính sách thuế GTGT đều thể hiện xu hướng ngày càng tạo sự thuận lợi, thông thoáng trong việc triển khai dự án sử dụng vốn ODA. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1999 tăng 14,1% so với năm trước. Tác dụng tích cực nhất của thuế GTGT là kích thích tối đa hoạt động xuất khẩu, vì hàng xuất khẩu được áp dụng mức thuế suất 0% có nghĩa là không những không phải nộp thuế đầu ra mà còn được hoàn lại thuế đầu vào, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường Quốc tế. Kim nghạch xuất khẩu năm 1999 tăng 23,18% so với năm trước, 10 tháng đầu năm 2000 cũng tăng 26,4%. Sau một thời gian thực hiện luật thuế GTGT, có thể nói hầu hết các doanh nghiệp đã quen với quy trình quản lý mới, đã thực hiện tốt việc kê khai nộp thuế và đảm bảo thời gian theo quy định của luật. Về phía cơ quan thuế đã tăng cường hướng dẫn nghiệp vụ và kiểm tra các đối tượng nộp thuế nên việc tính thuế đến nay đã có nhiều tiến bộ. Nhờ cố gắng nỗ lực của cả doanh nghiệp và ngành thuế nên kết quả thu Ngân sách ở một số lĩnh vực kinh tế đã đạt được yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra. Kết quả thu khả quan nhất là khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Hết tháng 11/1999 ước thu được 14.000 tỷ đồng-đạt 98,4% dự toán năm. Số thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài-đạt 102,6% dự toán năm. Thuế GTGT hàng nhập khẩu đạt 75,7% so với dự toán năm. Hồ sơ xin hoàn thuế và số thuế được hoàn tăng. Số thuế được hoàn tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩuvà ngành sản xuất hàng xuất khẩu của các ngành thương mại. Trong đó, các mặt hàng được hoàn thuế nhiều nhất là mặt hàng nông sản. Ngoài ra, trong lĩnh vực công nghiệp điện tử, tin học, những khó khăn do đặc thù của ngành này được tháo gỡ một phần ( việc phân loại mã số chi tiết từ 3700 dòng thành 7000 dòng đã cho phép tách nhiều sản phẩm, hàng hoá, sản phẩm tin học rất mới mẻ, phức tạp, đặc biệt là sản phẩm phần mềm tin học, ra khỏi nhữn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33904.doc