Sự cần thiết và các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH

a- Đặt vấn đề. Nông thôn có vai trò vị trí hết sức quan trọng trong phát triển Kinh tế, xã hội của đất nước. Về tự nhiên, Nông thôn là vùng đất đai tộng lớn thường bao quang các đô thị( thành phố, thị trấn, các khu công nghiệp) những vùng đất đai này khác nhau về địa hình, khí hậu, thuỷ văn... về kinh tế nông thôn chủ yếu làm nông nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp) cơ sở hạ tầng ở vùng nông thôn lạc hậu kém hơn đô thị. Trong quá trình phát triển, một số nước trước đây chỉ chú ý phát triển các đô t

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1481 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Sự cần thiết và các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hị, các khu công nghiệp hiện đại mà ít chú ý phát triển kinh tế nông thôn. đó là một số nước như: Brazin, Mêhicô... tình hình đó đã làm cho khoảng cách về kinh tế- xã hội, giữa đô thị và nông thôn ngày càng lớn, ảnh hưởmg đến sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của đất nước, tạo nên mâu thuẫn trong nội tại của cơ cấu kinh tế. Trong khi đó một số nước và vùng lãng thổ khác ở châu á có tốc độ tăng trưởng khá nhanh: Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan... đều chú trọng phát triển kinh tế nông thôn ngay từ đầu thời kì công nhiệp hoá, coi công nghiệp và nông thôn là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Phát triển nông thôn không chỉ vì lợi ích của nông thôn mà vì lợi ích chung của cả nước. Ngày nay, phát triển nông thôn không còn là một việc riêng của các nước đang phát triển mà còn là sự quan tâm chung của cộng đồng thế giới. Kinh tế phát triển nông thôn là vấn đề phức tạp rộng lớn. Nông thôn có vai trò vị trí hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế –xã hội của đất nước. đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam thì phát triển nông thôn lại càng có ý nghĩa to lớn. Đó là cơ sở đầu tiên để tổ chức sản xuất và đáp ứng yêu cầu cơ bản của nhân dân. Đất đai, lao động, có cơ sở vật chất và kỹ thuật là những nguồn lực quan trọng nhất của mỗi nước ngay từ bước đầu phát triển kinh tế. Vì vậy nghiên cứu phát triển nông thôn là cần thiết góp phần vào sự phát triển kinh tế quốc gia nhằm phát triển đất nước theo định hướng "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh" đúng như Đại hội của Đảng IX đã đề ra. B- Nội dung. I- Khái niệm Kinh tế Nông thôn. 1. Khái niệm. Nông thôn là vùng đất đai rộng lớn với một cộng đồng dân cư chủ yếu làm nông nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp) có mật độ dân cư thấp, cơ sở hạ tầng kém phát triển, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, trình độ sản xuất hàng hoá thấp va thu nhập mức sống của dân cư thấp hơn đô thị. Về tự nhiên, nông thôn là vùng đất đai rộng lớn thường bao quanh các đô thị (thành phố thị trấn, khu công nghiệp). Những vùng đất đai này khác nhau về địa hình, thuỷ văn... Về kinh tế nông thôn chủ yếu làm nông nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp) cơ sở hạ tầng ở vùng nông thôn lạc hậu thấp kém hơn đô thị. Trình độ phát triển cơ sở vật chất và kỹ thuật (điện, thuỷ lợi, cơ khí hoá, hoá chất ... ) trình độ sản xuất hàng hoá kinh tế thị trường cũng thấp kém hơn đô thị. Về xã hội, trình độ học vấn, khoa học- kỹ thuật, y tế, giáo dục và đời sống vật chất tinh thần của dân cư nông thôn thấp hơn so với đô thị. Tuy nhiên, những di sản văn hoá, phong tục tập quán cổ truyền ở vùng nông thôn thường phong phú hơn đô thị. Mật độ dân cư nông thôn thấp. Kinh tế nông thôn là tổng thể quan hệ sở hữu trong nông thôn bao gồm nhiều loại hình sở hữu kinh tế nông thôn. Kinh tế nông thôn là một khái niệm dùng để chỉ một tổng thể các hoạt động kinh tế xã hội diễn ra trên địa bàn nông thôn. Nó bao gồm cả nông nghiệp công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn đó. Kinh tế Nông thôn là vấn đề phức tạp rộng lớn. Nông thôn có vai trò vị trí hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Kinh tế nông thôn là vấn đề hết sức rộng lớn, có liên quan đến nhiều môn khoa học khác nhau như xã hội học kinh tế học, địa lý và môi trường, dân số và lao động, điạ chính và tài nguyên kinh tế công nghiệp, kinh tế dịch vụ, kinh tế nông nghiệp ... Kinh tế nông thôn có tính chất liên ngành, liên vùng rõ rệt. Tính chất liên ngành thể hiện ở kinh tế nông thôn bao gồm nhiều ngành như công nghiệp, dịch vụ và cả những ngành phi kinh tế, như văn hoá, giáo dục y tế, quốc phòng an ninh. Tính chất liên vùng thể hiện phát triển kinh tế nông nghiệp có nhiều vùng có liên quan kể cả sự tác động của các đô thị (thành phố thị trấn) . 2. Vai trò cần thiết phát triển kinh tế nông thôn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước. ở nước ta, nông thôn là nơi sản xuất lương thực thực phẩm cho nhu cầu cơ bản của nhân dân; cung cấp nông sản, nguyên, nhiên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu trong nhiều năm qua nông nghiệp sản xuất ra khoảng 40% thu nhập quốc dân và trên 40% giá trị xuất khẩu góp phần tạo nguồn tích luỹ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nông thôn là nơi cung cấp nguồn lực dồi dào cho xã hội, chiếm trên 70% lao động xã hội. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá lao động nông nghiệp chuyển dần sang làm công nghiệp; dịch vụ; tuyển lao động nông thôn vào các đô thị các khu công nghiệp. Nông thôn nước ta chiếm 80% dân số cả nước. Đó là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn phát triển sẽ cho phép nâng cao đời sống, và thu nhập dân cư ở nông thôn, tạo điều kiện mở rộng thị trường để phát triển sản xuất trong cả nước. ở nông thôn có trên 50 dân tộc khác nhau sinh sống baogồm nhiều thành phần, nhiều tầng lớp có các tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau. Đó là nền tảng quan trọng để đảm bảo tình hình kinh tế xã hội của đất nước, để tăng cường sự đoàn kết của các dân tộc. Nông thôn nước ta nằm trên địa bàn rộng lớn có điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội khác nhau, đó là tiềm lực to lớn về tài nguyên đất đai, khoáng sản, thuỷ sản để phát triển đất nước. Vì vậy phát triển kinh tế nông thôn là cần thiết trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. II. Thực trạng, phương hướng và giải pháp để phát triển Kinh tế Nông thôn 1. Thực trạng kinh tế nông thôn nước ta trong thời kì đổi mới. Sau 10 năm đổi mới, kinh tế nông thôn Việt Nam đã có những bước chuyển biến căn bản, các nguồn lực huy động triệt để và sử dụng có hiệu quả hơn, nhiều mô hình kinh tế sống động xuất hiện, nhiều mối quan hệ kinh tế được hình thành trong nông thôn. Sản lượng lương thực đã tăng khá nhanh và vững chắc, đảm bảo được nhu cầu lương thực trong nước, ngoài ra có dư để xuất khẩu. Việt Nam trở thành nước đứng thứ hạng cao trên thế giới về xuất khẩu gạo (năm cao nhất đạt 4,5 triệu tấn, xuất khẩu cho 30 nước, kim ngạch đạt 1 tỷ USD). Các mặt hàng xuất khẩu nông sản khác như cây công nghiệp, cây thực phẩm đều tăng nhanh (trên 430 nghìn tấn / năm, kim ngạch xuất khẩu đạt 530 triệu USD), đứng thứ ba trên thế giới về xuất khẩu hạt điều (30 triệu tấn/năm, kim ngạch xuất khẩu đạt 120 triệu USD), cao su xuất khẩu hàng năm trên 160 nghìn tấn mũ khô, chè xuất khẩu gần 60 nghìn tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 60 triệu USD. Về thuỷ sản việc nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản đều phát triển với tốc độ cao, bình quân 5%/năm tổng sản lượng tăng từ 1 triệu tấn năm 1990 lên 2 triệu tấn năm 2000; đạt kim ngạch xuất khẩu năm 2000 là 1,475 tỷ USD, tăng gấp 7 lần so với năm 1990. Hiện nay nước ta chỉ còn phải nhập khẩu một số nông sản chủ yếu gồm bông, dầu thực vật, sửa bò, thịt cao cấp, bột giấy và gỗ. Đã hình thành trong nông thôn các vùng sản xuất hàng hoá tập trung chuyên canh như các vùng lúa, cao su, cà phê, điều, mía, rau quả, chè, lợn, bò, tôm, cá. Trong đó có những vùng phát triển khá ổn định như lúa, cao su, cà phê, chè. Phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu với khối lượng và tỷ suất hàng hoá ngày càng tăng. Nông thôn từng bước được thuỷ lợi hoá, cơ khí hoá, hoá học hoá, điện khí hoá, và việc áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng sinh học đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và điều kiện làm việc của người lao động được từng bước cải thiện. Cơ sở hạ tầng trong nông thôn như thuỷ lợi, giao thông, công nghiệp chế biến nông sản đã có những tiến bộ đáng kể. Thuỷ lợi đã bảo đảm được tưới cho 84% diện tích gieo trồng, hàng vạn ha rau màu, cây công nghiệp góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Mức độ cơ giới hoá khâu làm đất tăng từ 22% năm 1986 lên 54% năm 2000; cả nước hiện có 145,8 máy kéo các loại sử dụng trong nông nghiệp, trong đó nông dân trực tiếp quản lý 88% máy kéo lớn và 97% máy kéo nhỏ; gần 800 ngàn thức ăn gia súc. Điện cung cấp cho nông nghiệp nông thôn tăng từ 536 triệu Kwh năm 1990 lên trên 200 triệu Kwh năm 2000. Khoa học kỹ thuật được áp dụng rộng rãi, năng suất nhiều cây trồng vật nuôi tăng nhanh: so với năm 1990, năm 2000 năng suất lúa tăng 1,36 lần; cao su tăng 2,36 lần; cà phê tăng 1,55 lần; trọng lượng lợn xuất chuồng tăng 27%; sản lượng khai thác thuỷ sản tăng 1,74 lần. Công nghệ sinh học trong 10 năm gần đây đã tạo ra nhiều giống lúa, ngô, rau, đậu, cây ăn quả, cây lâm nghiệp năng suất cao phù hợp với các vùng sinh thái. Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật về công nghệ sinh học được áp dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, công nghệ chế biến, công nghệ sản xuất phân vi sinh, sản xuất nấm. Cơ cấu kinh tế nông thôn dịch chuyển theo hướng tích cực, nghĩa là cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng sản xuất hàng hoá, tạo sự giao lưu kinh tế giữa các vùng, tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho người nông dân góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cơ cấu kinh tế nông thôn dịch chuyển theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp nhưng sản lượng về nông nghiệp vẫn tăng lên về tuyệt đối nhằm bảo đảm an ninh lương thực, thực phẩm cho đất nước và xây dựng một nông thôn mới hiện đại và văn minh. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn đã và đang phục hồi góp phần quan trọng tạo việc làm và tăng thu nhập ở nông thôn. Những cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, may, thêu ren, làm đồ gốm, thuỷ tinh, da, giấy, thủ công mỹ nghệ và dịch vụ, xây dựng, sửa chữa cơ khí đã và đang được phục hồi và được phát triển góp phần cho phục vụ thị trường trong nước. Quan hệ sản xuất được đổi mới một cách cơ bản theo hướng xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá với nhiều thành phần kinh tế tham gia, phát huy mạnh mẽ vai trò của kinh tế hộ, đổi mới kinh tế hợp tác và hợp tác xã. Doanh nghiệp Nhà nước chi phối những khâu then chốt, doanh nghiệp dân doanh phát triển mạnh trong tất cả các lĩnh vực góp phần phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Hiện nay số cơ sở sản xuất ngành nghề nông thôn 40.500 cơ sở, trong đó doanh nghiệp Nhà nước 14,1% hợp tác x; doanh nghiệp tư nhân 8,1%. Cả nước có khoảng hơn 1.000 làng nghề, trong đó 2/3 làng nghề truyền thống. Năm 2000 tổng giá trị của các ngành nông thôn đạt khoảng 40 nghìn tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 300 triệu USD và giải quyết được việc làm cho hơn 10 triệu lao động. Do đó đời sống vật chất và tinh thần của nhiều vùng nông thôn được cải thiện rõ rệt, các nhu cầu về văn hoá, y tế, xã hội được đáp ứng tốt hơn. Mức chi tiêu bình quân của một hộ ở nông thôn là 788.146 đồng (mức bình quân chung của cả nước là 911.671 đồng); 64,07% hộ có nhà ở kiên cố; 11,22% số hộ có ti vi màu; 11,61% số hộ có xe máy; 0,93% hộ có tủ lạnh; 0,29% số hộ có điện thoại riêng; 53,7% số hộ được dùng điện; 31,17% số hộ được dùng nước sạch. Số hộ nghèo đói giảm rõ rệt, số hộ khá và giàu trong nông thôn đã tăng hơn. Nhà ở, đường sá, giao thông, trạm y tế, trường học ở nông thôn được khang trang hơn trước nhiều. Trình độ học vấn của người nông thôn được nâng lên rõ rệt. Đội ngũ lao động cũng có sự tiến bộ lớn. ở nông thôn lao động có trình độ chuyên môn và kỹ thuật tăng hơn nhiều so với trước. Thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2001 trong điều kiện thế giới bị suy giảm, nhất là sau sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001 ở Mỹ kinh tế thế giới lâm vào tình trạng suy giảm nặng nề, thị trường và giá cả nhiều mặt hàng nông sản biến động bất lợi nhưng ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đã có nhiều cố gắng, tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, hầu hết các chỉ tiêu đều đạt được và tăng về số lượng, đời sống nông thôn tiếp tục được cải thiện; các chương trình mục tiêu quốc gia triển khai khá; cơ cấu sản xuất nông nghiệp có bước chuyển biến tích cực theo hướng sản xuất hàng nông sản thay thế hàng nhập, khối lượng hàng nông sản xuất khẩu tăng nhanh về số lượng, về kim ngạch xuất khẩu. Nếu không bị ảnh hưởng bởi giá cả thị trường thì đã đạt được chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Nhìn chung bộ mặt ở nông thôn nước ta sau 10 năm đổi mới đã có nhiều thay đổi tích cực tuy nhiên bên cạnh những thay đổi đó nông thôn Việt Nam còn tồn tại nhiều mặt yếu kém và hạn chế. Có thể nêu lên những tồn tại chủ yếu sau: Kinh tế nông thôn vẫn còn mang tính chất thuần nông. Nếu xét về cơ cấu lao động, cơ cấu nhân khẩu, cơ cấu đầu tư, cơ cấu sản phẩm thì nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng tuyệt đối còn công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng nhỏ bé. Lao động chủ yếu ở trong nông nghiệp chiếm 75% lao động cả nước; thu nhập của dân cư ở nông thôn còn khá thấp (90% số nghèo đói tập trung ở nông thôn, 1.500 xã còn trong diện đói nghèo). Tỷ trọng nông nghiệp trong giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản có xu hướng giảm nhưng vẫn chiếm trên 80%, trong cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp tỷ trọng trồng trọt vẫn chiếm 75-78%; tỷ trọng chăn nuôi trong nhiều năm chỉ chiếm từ 22-25%; sản lượng lương thực vẫn chiếm tới 75% thu nhập của dân cư ở nông thôn. Do ảnh hưởng của tập quán nông nghiệp truyền thống và do mới chuyển đổi từ phương thức sản xuất theo kiểu tập thể hoá trước đây nên ở nhiều nơi nông dân vẫn chủ yếu sản xuất theo tập quán, thói quen của người sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc dựa vào lao động thủ công và khai thác các nguồn lực hiện có. Số đông nông dân trên các vùng còn thiếu hiểu biết về kinh tế thị trường, thiếu năng lực, bản lĩnh và trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hoá. Do đó sản xuất hàng hoá phần nhiều mang tính tự phát, thiếu ổn định và thiếu định hướng thị trường do đó mặt dù đã được khai thác tốt hơn song sản xuất hàng hoá vẫn cơ bản theo chiều rộng, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất thấp. Sản phẩm hàng hoá tuy đa dạng, phong phú nhưng manh mún có tính thời vụ và chưa tương thích với nhu cầu thị trường. Chất lượng nhiều mặt hàng nông sản (kể cả nông sản xuất khẩu) hiện vẫn còn thua kém nhiều so với các nước trong khu vực, trong khi giá thành sản xuất còn ở mức khá cao và thiếu sức cạnh tranh. Chẳng hạn: giá thành mía nguyên liệu cho 1 tấn đường ở nước ta cao hơn 40% so với ở ấn Độ; 48,8% so với Thái Lan và gấp 1,6 lần so với giá nguyên liệu ở Australia. Đây là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng ứ đọng tiêu thụ nông sản hàng hoá và tình trạng rủi ro thua thiệt của nông dân của các nhà sản xuất kinh doanh hiện nay. Cơ cấu đầu tư không thích hợp, vốn đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nông thôn. Vốn đầu tư chủ yếu cho thuỷ lợi và đê điều, đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp. Dân cư nông thôn nói chung còn nghèo, thu nhập tích luỹ ít, không đủ khả năng tự đầu tư theo hướng yêu cầu thâm canh cao và phát triển dịch vụ nông thôn nhất là đầu tư vào công nghệ tiên tiến. Công nghệ nông thôn chủ yếu sử dụng công nghệ thải loại từ công nghệ thành phố hoặc công nghệ nước ngoài hoặc công nghệ tự tạo nên công nghệ còn lạc hậu. Việc vay vốn phát triển nông thôn còn nhiều hạn chế (thời gian vay ngắn, mức vốn vay ít, không có đủ tài sản để thế chấp). Các trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thiếu vốn đầu tư cho sản xuất và đổi mới công nghệ. Vốn đầu tư nước ngoài (FDI) dựa vào các dự án phát triển nông thôn vừa ít về số lượng vừa nhỏ bé về quy mô. Điều đáng quan tâm là các nguồn vốn này đêù hoạt động kém hiệu quả. Kết cấu hạ tầng cơ sở trong nông thôn còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất và đời sống. Nhiều hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sản xuất, chế biến bảo quản và lưu thông tiêu thụ nông sản hàng hoá còn lạc hậu, yếu kém và thiếu hụt nghiêm trọng. ở nhiều vùng nông thôn miền núi, vùng cao, vùng xa điều kiện thuỷ lợi và giao thông còn rất khó khăn. Đây là một trong những trở ngại lớn trong nông thôn, hay trở ngại cho việc tổ chức sản xuất và lưu thông hàng hoá; đồng thời là nguyên nhân gây ra nhiều thất thoát, thiệt hại và làm giảm phẩm cấp, chất lượng của hàng nông sản nhất là đối với mặt hàng hải sản, hoa quả và thực phẩm tươi sống (theo số liệu điều tra của Viện Công nghệ sau thu hoạch và một số cơ quan chức năng thì tỷ lệ thất thoát sau khi thu hoạch của hầu hết các loại sản phẩm đều cao hơn đáng kể so với các nước trên thế giới và trong khu vực, tỷ lệ thất thoát lúa là 15%, rau quả 25-30%. Trong khi đó tỷ lệ chế biến sản lượng nói chung của nhiều loại sản phẩm còn ở mức rất thấp như chè mới đạt 40-45%; cây có dầu 15-20%; cao su khoảng 20%; rau quả thực phẩm 20%; thịt lợn 10-15%) mạng lưới thuỷ lợi tuy có tiến bộ nhưng không đồng bộ và hoàn chỉnh nên hiệu quả còn thấp, việc cung cấp điện có khá hơn nhưng chủ yếu mới phục vụ một phần cho đời sống và thuỷ lợi, còn phục vụ cho sản xuất còn khá thấp. Mạng lưới điện ở nông thôn còn thiếu quy hoạch, thiếu an toàn, tổn thất điện khá nhiều làm cho giá điện tăng cao ảnh hưởng khá nhiều đến tăng năng suất lao động trong nông thôn. Tỷ lệ dân số và lao động ở nông thôn còn khá cao, gây sức ép khá lớn về việc làm, về ruộng đất, về y tế, giáo dục. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn là vấn đề bức xúc. Mặc dù, chương trình quốc gia giải quyết việc làm trong những năm qua đã tạo được hơn1 triệu chỗ làm mới mỗi năm nhưng năm 2000 cả nước vẫn có khoảng 1447 nghìn người thất nghiệp, trong đó nông thôn 755 nghìn người chiếm 52%. Đối với khu vực nông thôn ngoài số không có việc làm còn nhiều người thiếu việc làm. Các cuộc điều tra về lao động tại thời điểm 1/7 hàng năm của những năm gần đây cho thấy lao động trong độ tuổi ở nông thôn thường chỉ sử dụng được 70% thời gian lao động. Cụ thể là: năm 1996: 72,3%; năm 1997: 73,1%; năm 1998: 71,1%; năm 1999: 73,6%; năm 2000: 74,2%. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm đã làm ảnh hưởng khá nhiều đến đời sống, đến trật tự an ninh xã hội, đến việc di dân tự do ồ ạt vào các đô thị. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở nông thôn nước ta tuy có được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều khó khăn thiếu thốn. Nhìn chung số hộ nghèo và trung bình chiếm tuyệt đại đa số. Số hộ giàu và khá có tăng lên nhưng vẫn còn thấp. Về trình độ học vấn của nhân dân tuy có nâng cao nhưng vẫn còn thấp, số mù chữ vẫn còn đặc biệt là ở vùng xa và cao. Mạng lưới y tế ở nông thôn tuy có phát triển, nhưng ở nhiều vùng có bất cập, đặc biệt ở nhiều vùng khó khăn số bệnh nhân thường muốn về đô thị, thành phố để chữa bệnh. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở các bà mẹ và trẻ em ở vùng xa và cao còn nhiều. Phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế chưa gắn với bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tình trạng tài nguyên thiên nhiên đất, nước, rừng, biển bị khai thác quá mức cho phép dẫn đến nghèo, kiệt ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái là thực tế tồn tại rất đáng lo ngại. Tình hình trật tự an ninh xã hội có tiến bộ. Tuy nhiên, tình hình dân chủ, công bằng xã hội kỷ cương pháp luật chưa được đảm bảo. Tình trạng lấn chiếm đất, tham nhũng, buôn lậu, đầu cơ, cho vay nặng lãi, các tệ nạn xã hội như: mê tín dị đoan, nghiện hút, cờ bạc... chưa giảm, tình hình khiếu kiện trong nhân dân có chiều hướng gia tăng còn những truyền thống tốt đẹp trong gia đình, tình làng nghĩa xóm chưa được phát huy đầy đủ. Như vậy nhìn khái quát thì sự phát triển nông thôn nước ta đến nay đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều mặt yếu kém, bất cập. Đòi hỏi phải có những quyết sách, giải pháp mới cụ thể phù hợp với tình hình đất nước và xu thế phát triển thế giới trong giai đoạn hiện nay nhằm phát triển kinh tế nông thôn theo hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 2. Quan điểm phát triển kinh tế nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển kinh tế nông thôn nhất thiết phải có hiệu quả kinh tế xã hội và môi trường. Nước ta là một nước nghèo đi lên chủ nghĩa xã hội không có cách nào khác là sản xuất và kinh doanh phải có hiệu quả. Quan điểm hiệu quả bao gồm 3 mặt gắn bó với nhau: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Hiệu quả kinh tế đòi hỏi sản xuất ngày càng nhiều nông sản phẩm với giá thành hạ, chất lượng sản phẩm và năng suất lao động cao, tích luỹ và tái sản xuất mở rộng không ngừng. Hiệu quả xã hội đòi hỏi đời sống của nông thôn không ngừng được nâng cao, lao động có việc làm với thu nhập ngày càng tăng, thực hiện xoá đói giảm nghèo, số hộ khá và giàu ngày càng tăng, thực hiện được dân chủ, công bằng, xã hội văn minh, xoá bỏ được các tệ nạn xã hội, phát huy được truyền thống tốt đẹp của cộng đồng nông thôn. Hiệu quả sinh thái đòi hỏi môi trường sinh thái ngày càng được bảo vệ và hoàn thiện. Khi đánh giá sự phát triển của nông thôn mà chỉ dựa vào tăng trưởng kinh tế không thì không đủ, còn phải tính đến đất đai bị xoá mòn, từng bị tàn phá, nguồn nước và không khí bị ô nhiễm. Có đảm bảo cả 3 mặt: hiệu quả kinh tế, xã hội , môi trường thì phát triển kinh tế nông thôn mới bền vững được. Tuỳ theo vùng nông thôn, từng thời gian mà xem xét và giải quyết các mặt hiệu quả sao cho thích hợp. Phát triển nông thôn với kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nước ta hiện nay đang phát triển kinh tế nông thôn theo hướng xã hội hàng hoá ngày càng cao. Muốn vậy đi đôi với phát triển sản xuất phải mở rộng thị trường ở nông thôn ở rất quan trọng. Mở rộng tự do cạnh tranh sẽ tạo điều kiện cho việc giao lưu hàng hoá ở nông thôn, cũng như giữa nông thôn với đô thị, trong nước và nước ngoài. Người sản xuất có thể mua bán những thứ cần thiết phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng theo giá cả thị trường tránh được tình trạng ép giá, ép cấp. Tham gia vào thị trường có nhiều thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước với các doanh nghiệp Nhà nước, kinh tế tập thể, cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế này cùng vận động hợp tác, liên kết, liên doanh một cách đa dạng về hình thức, quy mô và trình độ khác nhau. Cơ chế thị trường đòi hỏi không chỉ hợp tác mà còn phải cạnh tranh, chấp nhận những cơ may và rủi ro theo quy luật cung cầu và giá cả thị trường. Nhà nước cần phải có sự quản lý đối với thị trường để đảm bảo cho sản xuất và đời sống ở nông thôn hoạt động bình thường. Nhà nước quản lý điều tiết các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng và có hiệu quả. Phát triển nông thôn một cách toàn diện có tính đến lợi thế so sánh của các vùng khác nhau. Phát triển nông thôn không chỉ về mặt kinh tế mà cả về mặt xã hội, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường. Trong kinh tế không chỉ phát triển nông nghiệp và cả công nghiệp và dịch vụ. Trong nông nghiệp không chỉ phát triển trồng trọt mà cả chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản. Tuy nhiên, phát triển nông thôn một cách toàn diện phải tính đến lợi thế của các điều kiện tự nhiên, kinh tế của các vùng đồng bằng, trung du, miền núi, ven biển, các vùng xung quanh đô thị và các khu công nghiệp. Mỗi vùng có một thế mạnh nhất định vì vận cần phải có quy hoạch, định hướng phát triển các vùng nông thôn khác nhau thích hợp với điều kiện từng vùng. Các vùng trên gắn bó hỗ trợ nhau trong tổng thể phát triển nông thôn của cả nước. Phát triển nông thôn theo từng hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Muốn xoá bỏ dần sự lạc hậu của nông thôn, xây dựng nông thôn giàu đẹp và văn minh phải phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Trước tiên phải dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng xoá bỏ dần tính chất thuần nông, phát triển công nghiệp và dịch vụ. Việc phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản cho phép nâng cao giá trị nông sản phẩm hàng hoá phụ vụ cho xuất khẩu. Phát triển công nghiệp phải đi đôi với phát triển lâm nghiệp và thuỷ sản. Còn trong nông nghiệp giảm bớt tính chất độc canh, phát triển cây công nghiệp, rau quả, chăn nuôi. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phát triển cơ sở hạ tầng sản xuất và xã hội như: giao thông, thuỷ lợi, điện, thông tin liên lạc, các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, văn hoá, y tế, giáo dục làm thay đổi dần bộ mặt nông thôn. Việc áp dụng khoa học và công nghệ tiến bộ gắn liền với thuỷ lợi hoá, cơ khí hoá, điện khí hoá, công nghệ sinh học trong trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thuỷ sản ngành nghề, nhằm tăng năng suất, sản lượng, chất lượng cây trồng, vật nuôi với giá thành sản phẩm hạ và bảo vệ được môi trường sinh thái bền vững nông thôn. 3. Phương hướng và mục tiêu phát triển kinh tế nông thôn Việt Nam. a. Phương hướng dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam. Vấn đề cơ bản và hết sức quan trọng của việc phát triển kinh tế xã hội nông thôn là xác định cơ cấu kinh tế nông thôn hợp lý, làm cơ sở tiền đề cho việc khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tạo điều kiện phát triển nhanh các ngành kinh tế nông thôn, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Cơ cấu kinh tế nông thôn là cấu trúc bên trong của kinh tế nông thôn. Nó bao gồm các bộ phận cấu thành lên cơ cấu kinh tế nông thôn, các bộ phận đó có mối quan hệ hữu cơ với nhau theo tỷ lệ nhất định về mặt số lượng, liên quan chặt chẽ về mặt chất lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau trong điều kiện thời gian và không gian nhất định tạo thành một hệ thống kinh tế nông thôn. Việc xác lập cơ cấu kinh tế nông thôn chính là giải quyết mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa tự nhiên và con người trong khu vực nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là thay đổi tỷ lệ các ngành sản xuất vật chất và dịch vụ trong kinh tế nông thôn theo chủ định và định hướng đã định nhằm đạt trạng thái phát triển tối ưu và hiệu quả mong muốn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, tạo sự giao lưu kinh tế giữa các vùng, tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho người nông dân, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Cơ cấu kinh tế nông thôn dịch chuyển theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp nhưng sản lượng ngành nông nghiệp vẫn tăng lên về tuyệt đối nhằm đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm cho đất nước và xây dựng một nông thôn mới hiện đại, văn minh. Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX (tháng 3/2002) đã đánh giá: Hơn 10 năm qua, nông nghiệp nước ta về cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hoá, phát triển tương đối toàn diện, công nghiệp ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn bước đầu đã phục hồi và phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư xây dựng, môi trường sinh thái và đời sống nông dân ở hầu hết các vùng được cải thiện rõ rệt... Tuy vậy cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn chuyển dịch chậm chưa theo sát với thị trường. Sản xuất nông nghiệp nhiều nơi còn phân tán, manh mún, mang yếu tố tự phát,... công nghiệp chế biến ở nông thôn nhất là công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản phát triển chậm. Ngành nghề dịch vụ chưa thu hút nhiều lao động. Đánh giá trên cho thấy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở nước ta hiện nay đang là một chủ trương lớn của Đảng ta nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế; xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, kết cấu kinh tế hợp lý, kết cấu hạ tầng phát triển ngày càng hiện đại. Cụ thể phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn như sau: Phát triển mạnh công nghiệp nông thôn, đặc biệt coi trọng chế biến nông - lâm - thuỷ sản, các ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu tại nông thôn, các ngành nghề thủ công, tiểu thủ công nghiệp. Tranh thủ công nghệ hiện đại, tận dụng công nghệ truyền thống, chú trọng công nghệ tạo ra nhiều việc làm. Đồng thời phải coi trọng việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, mở mang nhiều nghề mới, song phải hết sức quan tâm tới bảo vệ môi trường. Phát triển mạnh mẽ các ngành dịch vụ nông thôn. Coi trọng dịch vụ nông thôn phục vụ trực tiếp thúc đẩy sản xuất phát triển cải thiện đời sống ở nông thôn. Các dịch vụ, bao gồm các khâu thiết yếu về tài chính, thương mại, kỹ thuật và đời sống. Mở rộng hệ thống khuyến nông, khuyến công, dịch vụ thuỷ sản, thú y, bảo vệ thực vật cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. Đảm bảo đáp ứng đầy đủ và kịp thời của sản xuất có hiệu quả, giá thành hạ... Thực hiện xã hội hoá thương mại với các nước bán hành chính nhất là Trung Quốc, Mỹ, EU; đáp ứng thông tin kịp thời cho nông dân và các doanh nghiệp. Đối với nông nghiệp: coi trọng việc đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất lúa gạo hàng hoá, chuyển mạnh sang sản xuất lúa gạo chất lượng cao, gắn với chế biến và tiêu thụ. Đẩy mạnh sản xuất ngô, sắn đáp ứng yêu cầu thức ăn chăn nuôi, nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu phát triển mạnh các cây trồng có khả năng cạnh tranh và xuất khẩu lớn. Mở rộng sản xuất các cây trồng thay thế nhập khẩu. Tăng diện tích trồng các loại cây xuất khẩu: chè, cao su, cây điều, cà phê. Với cây chè mở rộng diện tích đến năm 2010 đạt 100.000 ha; cao su: tiếp tục thâm canh diện tích cao su hiện có, để đến năm 2010 xuất khẩu khoảng 500.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu khoảng 500 USD/năm; cây điều: đạt mục tiêu xuất khẩu 100.000 tấn; cà phê đạt mục tiêu: đảm bảo thường xuyên có 450.000 ha, sản lượng 650.000 đến 700.000 tấn cà phê và chất lượng tốt, đảm bảo kim ngạch xuất khẩu từ 0,8 đến 1,2 tỷ USD/năm. Ngoài ra, cần tập trung cao độ sản xuất ngô, đậu tương, sắn bằng các giống có năng suất cao, hàm lượng đạm cao. Chăn nuôi: trong 10 năm tới chủ yếu sản xuất đủ nhu cầu trong nước. Thực hiện tổ công tác thú y phòng chống dịch bệnh, xây dựng khu vực an toàn dịch bệnh, cải tạo giống nhất là giống lợi hướng nạc, bò sữa, bò thịt, gà vịt để mở rộng sản xuất thịt chất lượng cao, an toàn thực phẩm, giá thành hạ. Đẩy mạnh tiếp thị, mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi. Đến năm 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 600 triệu USD. Phát triển đàn bò sữa khoảng 200.000 con, sản xuất 200.000 tấn sữa, giảm tỷ lệ nhập khẩu sữa từ 93% hiện nay xuống còn 70%. Lâm nghiệp: tăng diện tích trồng rừng, tiếp tục đẩy nhanh khoanh nuôi tái sinh rừng. Tập trung phát triển rừng kinh tế phục vụ chương trình sản xuất giấy và chế biến gõ. Đưa ngành sản xuất lâm nghiệp trở thành ngành quan trọng trong phát triển kinh tế miền núi. Phấn đấu xuất khẩu đạt 1 đến 1,5 tỷ USD/năm, nâng độ che phủ rừng lên 43% vào năm 2010. Thuỷ sản là ngành ki._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35385.doc
Tài liệu liên quan