Sự cần thiết phải tổ chức lại bộ máy Dân số, Gia đình & Trẻ em cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên

Mục lục Trang I. Đặt vấn đề 2 II. Nội dung 4 1. Tình hình đặc điểm kinh tế – xã hội của địa phương 4 2. Hệ thống tổ chức bộ máy Dân số – Gia đình - Trẻ em 6 3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả 12 III. Xây dựng và lựa chịn phương án giải quyết và kế hoạch tổ chức thực hiện 18 1. Xây dựng phương án 18 2. Lựa chọn phương án 19 3. Giải pháp tổ chức thực hiện 19 IV. Những kết luật và kiến nghị 22 Phần I Đặt vấn đề Quản lý Nhà nước về công tác Dân số – Kế hoạch hoá gia đình

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1438 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Sự cần thiết phải tổ chức lại bộ máy Dân số, Gia đình & Trẻ em cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhằm mục tiêu ổn định Dân số để phát triển kinh tế xã hội, đưa đất nước ngày càng phồn vinh giàu đẹp. Từ năm 1961 Đảng và Nhà nước đã có những văn bản đầu tiên về quản lý Dân số – Kế hoạch hoá gia đình. Hơn 30 năm sau công tác Dân số – Kế hoạch hoá gia đình ở Việt Nam đã có những chuyển biến mạnh mẽ và đã đạt được những thành tựu lớn . Khẳng định điều đó vào tháng 6/1999 Việt Nam đã được nhận giải thưởng Quốc tế về Dân số. Trong quá trình thực hiện mục tiêu về chính sách Dân số. Công tác tổ chức quản lý thông qua hệ thống bộ máy Nhà nước đóng vai trò quyết định vào thành công của chương trình. Giai đoạn đầu 1961 – 1989 công tác Dân số – Kế hoạch hoá gia đình dưới sự chỉ đạo của Bộ y tế, kết quả giai đoạn này bên cạnh những thành công đạt được còn có một số mặt hạn chế nhất định. Từ năm 1989 Uỷ ban Quốc gia Dân số – Kế hoạch hoá gia đình tách ra thành một cơ quan trực thuộc Chính phủ, quản lý theo ngành dọc từ TW đến địa phương, sự đầu tư cho chương trình đã được tăng lên rõ rệt. Do vậy giai đoạn 1989 – 2000 công tác Dân số – Kế hoạch hoá gia đình đạt được nhiều kết quả, tỷ lệ sinh giảm nhanh, số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ từ 3,85 con (năm 1989) xuống còn 2,3 con (năm 1999). Hoàn thành mục tiêu chiến lược Dân số đến năm 2000 và thực hiện có kết quả Nghị quyết IV Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng khoá VII về chính sách Dân số – Kế hoạch hoá gia đình. Bước vào giai đoạn chiến lược mới 2001 – 2010 mục tiêu công tác Dân số là: duy trì giảm sinh vững chắc và từng bước nâng cao chất lượng Dân số để đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ công cuộc CNH – HĐH. Công tác Dân số – Kế hoạch hoá gia đình ngày càng đòi hỏi yêu cầu cao hơn. Thực hiện được mục tiêu chiến lược Dân số đến năm 2010 thì giải pháp về tổ chức bộ máy và cán bộ là giải pháp tiên quyết. Tuy nhiên vấn đề khó khăn đặt ra là: thiếu sự thống nhất trong mô hình tổ chức bộ máy trong phạm vi toàn quốc thể hiện ở chỗ có nhiều mô hình sát nhập khác nhau như: có tỉnh có Uỷ ban Dân số – Gia đình – Trẻ em cấp huyện, có tỉnh lại không có. ở tỉnh Thái Nguyên Uỷ ban Dân số – Kế hoạch hoá gia đình tỉnh và Uỷ ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em tỉnh sát nhập lại thành Uỷ ban Dân số – Gia đình – Trẻ em. Nhưng ở cấp huyện Uỷ ban Dân số – Kế hoạch hoá gia đình và Uỷ ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em tỉnh cũng được sát nhập thành một bộ phận trong văn phòng HĐND – UBND huyện và sau đó được thành lập (năm 2003) thành Uỷ ban DS – GĐ - TE nhưng trực thuộc văn phòng HĐND – UBND huyện. Kết quả sau hơn ba năm thực hiện theo mô hình này cho thấy: việc không có Uỷ ban DS – GĐ - TE hoạt động độc lập như các phòng chuyên môn khác của huyện làm cho công tác quản lý Nhà nước về công tác DS – GĐ - TE huyện gặp nhiều khó khăn, lúng túng, ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả của chương trình DS – GĐ - TE. Đây là tình huống mà tôi chọn tiểu luận với đề tài “Sự cần thiết phải tổ chức lại bộ máy Dân số, Gia đình và Trẻ em cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên”. Phần II Nội dung 1. Tình hình đặc điểm kinh tế – xã hội của địa phương Thái Nguyên là tỉnh miền núi có vị trí nằm ở trung tâm của các tỉnh miền núi phía Bắc. Thái Nguyên tiếp giáp với các tỉnh: Bắc Cạn, Lạng Sơn, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang và Thành phố Hà Nội. Tỉnh Thái Nguyên có 7 huyện, 1 thị xã và 1 Thành phố. Toàn tỉnh có 181 xã / phường, trong đó có 18 xã vùng cao. Diện tích tự nhiên 3.541,1 Km2, đất canh tác nông nghiệp có 76,715 ha (22,3% diện tích tự nhiên). Dân số trung bình năm 2003 là 1.067.842 người trong đó trẻ em dưới 16 tuổi có 326.406 cháu (chiếm 30,6% Dân số), trẻ em dưới 1 tuổi có 13.891 cháu (chiếm 1,31%), trẻ em dưới 5 tuổi có 82.508 cháu (chiếm 7,78%). Mật độ Dân số 298 người/Km2 sự phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở thành phố và các huyện phía Nam của tỉnh: Thành phố Thái Nguyên 1.255 người/ Km2, thị xã Sông Công 670 người/ Km2, huyện Phồ Yên, Phú Bình 550-560 người /Km2. Trong khi đó các huyện vùng cao và miền núi dân cư thưa thớt. Võ Nhai 72 người/ Km2, Đồng Hoá 194 người/ Km2. Định cư trên địa bàn gồm 16 dân tộc, nhưng có 5 dân tộc chính là: Dân tộc Kinh 76,42%, dân tộc Tày 11,21%, dân tộc Nùng 5,1%, dân tộc Sắn Dìu 2,45%, dân tộc Dao 2,03% và còn lại là các dân tộc khác 2,76%. Năm 2003 dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của tỉnh uỷ, HĐND vằ UBND tỉnh, các ngành, các cấp và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã đoàn kết, nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức, phấn đấu vươn lên giành bước phát triển mới. Nền kinh tế tỉnh tiếp tục duy trì được nhịp độ phát triển với mức tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) đạt trên 3.272 tỷ đồng. Trong đó sản xuất công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt 14,3%, cơ cấu kinh tế của tỉnh tiếp tục được chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp trong GDP tăng từ 31,34% năm 2002 lên 33,37% năm 2003. Các chính sách của tỉnh ban hành đã từng bước phát huy nội lực cho công cuộc phát triển. Nhiều lĩnh vực đã đạt được những thắng lợi cụ thể: * Sản xuất nông lâm nghiệp, thuỷ sản: Các loại cây trồng đều đạt diện gieo trồng và năng suất so với năm 2002, năng suất lúa bình quân đạt 43,93 tạ /ha, sản lượng thóc đạt 309,86 ngàn tấn. Diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 2.006 ha, phát triển đàn gia súc, gia cầm đều tăng mạnh đảm bảo nhu cầu tiêu dùng của địa phương. * Sản xuất công nghiệp – XDCB. Tiếp tục duy trì được nhịp độ sản xuất, tốc độ tăng trưởng nhanh, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 3.325 tỷ đồng và giá trị xây lắp đạt 362 tỷ đồng. * Văn hoá - xã hội: Các hoạt động văn hoá, thông tin đã tổ chức hoạt động thiết thực, nhằm tuyên truyền chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ chính trị ở địa phương tới đông đảo quần chúng nhân dân, tạo ra môi trường văn hoá lành mạnh, góp phần ổn định tình hình chính trị, xã hội trên địa bàn tỉnh, toàn tỉnh có 52% gia đình đạt tiêu chuẩn văn hoá, 32,2% làng, phố văn hoá... * Công tác xã hội: Đã triển khai toàn diện các chương trình xã hội có mục tiêu trên địa bàn tỉnh, chương trình giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo tập trung vào hoàn thiện đề án chi tiết quy hoạch mạng lưới các trường dạy nghề giai đoạn 2001- 2010. Tổng số hộ nghèo toàn tỉnh còn 12,83%, ngoài ra triển khai mạnh mẽ công tác phòng chống tệ nạn xã hội... * Về giáo dục, đào tạo: UBND tỉnh đẩy mạnh việc triển khai thực hiện đồng bộ các nội dung của đề án phát triển giáo dục, đổi mới chương trình giáo dục phổ thông... Đào tạo bồi dưỡng giáo viên có nhiều tiến bộ, xây dựng xóa phòng học tạm, xây phòng học thiếu tại 36 xã đặc biệt khó khăn và ATK, để từng bước nâng cao cơ sở vật chất phục vụ công tác giáo dục đào tạo. Tỉnh Thái Nguyên đã được Bộ Giáo dục - Đào tạo quyết định công nhận là tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi. * Về y tế: Là một trong 10 tỉnh dẫn đầu cả nước thực hiện tốt các chương trình y tế cơ sở. Năm 2003 khám sức khoẻ cho trẻ em dưới 15 tuổi cho 804.943 lượt người. Số phụ nữ có thai và các cháu sơ sinh được tiêm chủng đạt 98%. Công tác khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế Nhà nước thực hiện tốt theo đúng các quy chế chuyên môn. Đến nay đã có trên 94% số xã, phường trong tỉnh có nhà trạm y tế, bình quân mỗi trạm y tế có 4,78 cán bộ và hầu hết các trạm y tế xã phường có bác sỹ. Trên đây là những kết quả đã đạt được nhưng tình hình kinh tế xã hội của tỉnh chưa vững chắc cần có nhiều giải pháp đồng bộ và tiên quyết hơn. Muốn phát triển kinh tế – xã hội thì phải dựa vào nguồn nhân lực có chất lượng, mà nguồn nhân lực gắn liền với tình hình biến động Dân số và chất lượng Dân số mà mục đích cuối cùng của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là không ngoài việc nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi người dân. 2. Hệ thống tổ chức bộ máy Dân số - Gia đình và trẻ em của địa phương. Hệ thống tổ chức bộ máy Dân số – GĐ - TE trước tháng 7/2001: * Về hệ thống tổ chức bộ máy Dân số – Kế hoạch hoá gia đình: Ngày 26/12/1961 Hội đồng chính phủ đã có nghị quyết số 216/CP về công tác sinh đẻ có kế hoạch. Thực hiện công tác này chủ yếu là các đội sinh đẻ ở cấp tỉnh và huyện, biện pháp tránh thai chủ yếu là đặt vòng. Sau hơn 20 năm tốc độ phát triển Dân số vẫn còn ở mức cao đã ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế – xã hội, nếu tính năm 1955 Dân số nước ta là 25,1 triệu người thì đến năm 1985 Dân số đã tăng lên 59,9 triệu người. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác Dân số – Kế hoạch hoá gia đình Đảng và Nhà nước ta đã có những quyết sách đúng đắn. Năm 1984 Uỷ ban quốc gia Dân số được thành lập nhưng trực thuộc Bộ y tế, ở các tỉnh cũng thành lập Uỷ ban Dân số – Kế hoạch hoá gia đình trực thuộc Sở y tế. Năm 1989 Uỷ ban Quốc gia Dân số – Kế hoạch hoá gia đình tách khỏi Bộ y tế thành một ngành độc lập thuộc Chính phủ, cũng trong năm đó Uỷ ban Dân số – Kế hoạch hoá gia đình tỉnh Bắc Thái (cũ) tách ra khỏi Sở y tế tỉnh và trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh. Năm 1993 Uỷ ban Dân số – Kế hoạch hoá gia đình cấp huyện được kiện toàn. Mỗi đơn vị cấp huyện có từ 3 đến 4 cán bộ, có tư cách pháp nhân riêng, có trụ sở và có tài khoản riêng tại kho bạc Nhà nước trực thuộc ngành dọc là Uỷ ban Dân số – Kế hoạch hoá gia đình tỉnh. Đến hết năm 1995 có 100% số xã trong tỉnh có Ban Dân số – Kế hoạch hoá gia đình. Uỷ ban Dân số – Kế hoạch hoá gia đình cấp huyện có chức năng chỉ đạo Ban Dân số – Kế hoạch hoá gia đình ở các xã, phường, thị trấn thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về Dân số – Kế hoạch hoá gia đình trên địa bàn. Đồng thời chịu sự chỉ đạo của Uỷ ban Dân số – Kế hoạch hoá gia đình tỉnh và UBND huyện. Hệ thống hoạt động điều hành từ trên xuống và từ dưới lên hoạt động rất nhịp nhàng và thực hiện cơ chế quản lý theo chương trình mục tiêu Quốc gia là: + Nâng cao năng lực quản lý (VDS – 01) + Thực hiện Dịch vụ – Kế hoạch hoá gia đình (VDS – 02) + Thông tin – giáo dục – truyền thông (VDS – 03) và các lĩnh vực khác như: xây dựng cơ bản và dự án như: Dự án dân số – sức khoẻ gia đình .... Chính phủ Uỷ ban Quốc gia Dân số – Kế hoạch hoá gia đình Uỷ ban Dân số – Kế hoạch hoá gia đình cấp Tỉnh Uỷ ban Dân số – Kế hoạch hoá gia đình cấp Huyện Ban Dân số – Kế hoạch hoá gia đình cấp Xã, Phường Sơ đồ tổ chức bộ máy chuyên trách như sau * Về hệ thống tổ chức bộ máy Uỷ ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em: Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Tỉnh Thái Nguyên được thành lập từ năm 1992. Cũng năm đó Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em cấp Huyện được thành lập mỗi huyện có từ 1 đến 2 cán bộ thường trực và trực thuộc Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Tỉnh, ở xã, phường, thị trấn có Ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Uỷ ban Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em là những đơn vị hoạt động quản lý nhà nước đồng thời mang tính chất điều phối liên ngành. Tham gia vào các Uỷ ban này ngoài bộ phận thường trực còn có các ngành thành viên như y tế, giáo dục, tài chính, kế hoạch… các đoàn thể như: phụ nữ, thanh niên, nông dân, cựu chiến binh… Công tác Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và công tác chăm sóc bảo vệ trẻ em được thực hiện với phương châm xã hội hoá, huy động các ngành các đoàn thể tổ chức xã hội cùng vào cuộc. Có như vậy mới đạt kết quả cao và tiết kiệm các nguồn lực cho chương trình. Thực tế với một tổ chức bộ máy như vậy trong những năm qua ở tỉnh, hai Uỷ ban Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và bảo vệ chăm sóc trẻ em đã hoàn thành tốt các chương trình mục tiêu của Uỷ ban nhân dân Tỉnh giao cũng như các chương trình mục tiêu Quốc gia. b. Hệ thống tổ chức bộ máy Dân số – Gia đình – Trẻ em từ ngày 01/07/2001. * Ngày 01/07/2001 Uỷ ban Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Tỉnh sát nhập thành Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em (DS – GĐ - TE) tại quyết định số 2528/QĐ-UB ngày 28/06/2001. Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em Tỉnh chịu sự lãnh đạo toàn diện của Uỷ ban nhân dân Tỉnh, là đơn vị có tư cách pháp nhân, được sử dụng con dấu riêng và mở tài khoản tại kho bạc nhà nước Tỉnh. Thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại thông tư liên tịch số 32/2001/TTLT – BTCCBCP – UBQGDS – KHHGĐ - UBBVCSTE ngày 06/06/2001 của Ban TCCB Chính phủ, Uỷ ban Quốc gia Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam về bộ máy gồm: - Lãnh đạo gồm: Chủ nhiệm và hai phó chủ nhiệm - Cơ quan chuyên môn giúp việc cho Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em gồm có: + Văn phòng + Phòng Kế hoạch – nghiệp vụ + Phòng Truyền thông + Phòng Thanh tra * Cấp huyện Uỷ ban Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em chuyển về Uỷ ban Nhân dân huyện, thành phố, thị xã quản lý và bố trí công chức thuộc văn phòng HĐND và UBND làm việc theo chế độ chuyên viên tham mưu cho UBND cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác Dân số – Gia đình - Trẻ em trên địa bàn. * Cấp xã, phường, thị trấn thành lập Ban Dân số – Gia đình - Trẻ em trên cơ sở hợp nhất Ban Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và Ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Là cơ quan giúp chủ tịch UBND xã thực hiện triển khai các hoạt động Dân số – Gia đình - Trẻ em ở phạm vi xã, phường, thị trấn, chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra của UBND huyện về chuyên môn, nghiệp vụ. - Thành phần Ban Dân số – Gia đình - Trẻ em gồm: + Trưởng ban: Do đồng chí chủ tịch UBND xã phụ trách. + Phó ban: 1 đồng chí cán bộ chuyên trách. 1 đồng chí kiêm nhiệm là trưởng trạm y tế. + Các uỷ viên: Đại diện các đoàn thể như phụ nữ, nông dân, đoàn thanh niên… Đến nay Ban Dân số – Gia đình - Trẻ em trong tỉnh đã được kiện toàn và đi vào hoạt động theo chương trình, mục tiêu Dân số – Gia đình - Trẻ em và có những kết quả đáng kể. Sơ đồ tổ chức bộ máy sau khi sát nhập UBND Tỉnh UBND Huyện Uỷ ban Dân số – Gia đình – Trẻ em Tỉnh Văn phòng HĐND – UBND Huyện Bộ phận DS - GĐ - Trẻ em UBND Xã Ban DS – GĐ - Trẻ em Việc không có Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em cấp huyện đã gặp nhiều khó khăn trong quản lý và điều hành chương trình theo ngành dọc thì Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em tỉnh không có chức năng chỉ đạo văn phòng HĐND – UBND cấp huyện, mọi hoạt động thường phải thông qua ý kiến và chỉ đạo của UBND tỉnh. Chỉ đạo nghiệp vụ, các hoạt động của Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em tỉnh xuống các huyện phải thông qua văn phòng sau đó mới đến bộ phận Dân số – Gia đình - Trẻ em. * Ngày 05/09/2003 UBND tỉnh có quyết định số 2107/QĐ-UB thành lập Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em ở huyện, thành phố, thị xã (gọi chung là huyện). Chức năng giúp UBND cấp huyện quản lý nhà nước về lĩnh vực Dân số – Gia đình - Trẻ em trong địa bàn cấp huyện. Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em huyện chịu sự quản lý toàn diện của UBND cấp huyện và sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em tỉnh. Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em huyện có bộ phận thường trực nằm trong văn phòng HĐND – UBND cấp huyện. Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em huyện thực hiện nhiệm vụ quy định tại thông tư số 32/2001/TTLT – BTCCBCP – UBQGDSKHHGĐ - UBBVCSTEVN. Tổ chức bộ máy của Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em huyện gồm: - Chủ nhiệm: Do phó chủ tịch UBND cấp huyện đảm nhiệm và làm việc kiêm nhiệm. - 1 phó chủ nhiệm là phó văn phòng HĐND và UBND cấp huyện làm việc chuyên trách. - Các thành viên làm việc kiêm nhiệm khác: Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em huyện có bộ phận chuyên trách giúp việc được bố trí trong văn phòng HĐND - UBND Sơ đồ tổ chức bộ máy sau khi có quyết định số 2107 – UB như sau UBND Tỉnh UBND Huyện Uỷ ban Dân số – Gia đình – Trẻ em Tỉnh Văn phòng HĐND – UBND Huyện Uỷ ban DS - GĐ - Trẻ em Huyện UBND Xã Ban DS – GĐ - Trẻ em Xã Văn phòng HĐND – UBND cấp huyện với chức năng tham mưu cho lãnh đạo huyện và đáp ứng công tác hậu cần cho HĐND – UBND huyện là chính nên khả năng điều phối hoạt động Dân số – Gia đình - Trẻ em và một số lĩnh vực mang tính sự nghiệp khác gặp nhiều khó khăn. Mặt khác các thủ tục hành chính trong điều hành cũng còn nhiều bất cập. Có ý kiến cho rằng mô hình này mới chỉ thành công được một việc là giảm bớt đầu mối các phòng ở huyện chứ chưa nâng cao được năng lực quản lý và điều hành của nhà nước về lĩnh vực Dân số – Gia đình - Trẻ em cấp huyện. Do vậy việc tổ chức lại bộ phận Dân số – Gia đình - Trẻ em cấp huyện là hoàn thiện cơ chế hoạt động của nó là một nhiệm vụ rất quan trọng và cấp bách. 3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả a/ Phân tích nguyên nhân: Với mục đích thực hiện cải cách hành chính, tinh giảm biên chế, tổ chức sắp xếp thu gọn các đầu mối nên chính phủ đã có nghị định số 12/2001/NĐ-CP ngày 27/3/2001. Trong đó khoản 1 điều 1 của nghị định này là: “Thành lập Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em trực thuộc UBND tỉnh trên cơ sở hợp nhất Uỷ ban Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em”. Khoản 3 điều 1 quy định “Căn cứ vào đặc điểm, địa lý, kinh tế, nhiệm vụ yêu cầu quản lý nhà nước và năng lực cán bộ quản lý. UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW quyết định thành lập các cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nhưng ở quận, huyện không quá 10 phòng, ở thành phố, thị xã thuộc tỉnh không quá 11 phòng…”. Sau nghị định 12/2001/NĐ-CP có thông tư liên tịch số 32/2001/TTLT-BTCCBCP-UBQGDSKHHGĐ-UBBVCSTEVN ngày 06/06/2001 giữa Ban tổ chức cán bộ chính phủ, Uỷ ban Quốc gia Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em ở địa phương. Trong đó: * Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em tỉnh: Được quy định rõ ràng về tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ: Lãnh đạo Uỷ ban và các phòng chức năng chuyên môn nghiệp vụ. * Đối với các huyện, thành phố, thị xã thuộc tỉnh: Trong thông tư chỉ rõ nội dung quản lý nhà nước và nhiệm vụ công tác Dân số – Gia đình - Trẻ em huyện, bao gồm 7 nội dung và nhiệm vụ cụ thể. Về tổ chức bộ máy cấp huyện trong thông tư hướng dẫn theo 2 hướng: - Thành lập Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em huyện. - Hoặc bố trí công chức làm việc theo chế độ chuyên viên tham mưu cho chủ tịch, phó chủ tịch UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về Dân số – Gia đình - Trẻ em trên địa bàn huyện. * Đối với cấp xã: Trong thông tư hướng dẫn nhiệm vụ cụ thể của Ban Dân số – Gia đình - Trẻ em, trong đó có nhiệm vụ “Thực hiện kế hoạch hàng năm về công tác Dân số – Gia đình - Trẻ em theo kế hoạch chương trình công tác do UBND huyện giao”. Dựa trên nghị định 12/ 2001/NĐ-CP và thông tư liên tịch số 32/2001/TTLT-BTCCBCP-UBQGDSKHHGĐ-UBBVCSTEVN, hướng dẫn sắp xếp tổ chức bộ máy cấp tỉnh, huyện và cấp xã. UBND tỉnh đã ra quyết định số 2528/QĐ-UB ngày 28/06/2001 về việc thành lập Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em trực thuộc UBND tỉnh. Như vậy thực hiện quyết định trên cấp huyện không có Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em. Uỷ ban Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em cấp huyện sát nhập vào văn phòng HĐND - UBND huyện. Ngày 01/07./2001 Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em tỉnh đã chính thức bàn giao hai uỷ ban trên cho UBND huyện bao gồm bàn giao toàn bộ nhân sự, trang thiết bị, tài sản, kinh phí, các chương trình mục tiêu… Bộ máy mới chính thức hoạt động từ 01/08/2001. b/ Kết quả sau hơn 3 năm thực hiện: Quyết định trên của UBND tỉnh Thái Nguyên xét về góc độ pháp lý là một quyết định hợp pháp và vào thời điểm đó là phù hợp với việc thực hiện cải cách hành chính nhằm xây dựng một nền hành chính vững mạnh và từng bước hiện đại hoá, giảm đầu mối, trách chồng chéo chức năng, nhiệm vụ và tăng cường hiệu quả của các cơ quan quản lý và tạo tiền đề tốt cho việc thực hiện lồng ghép các mảng công tác liên quan mật thiết đến lĩnh vực Dân số – Gia đình - Trẻ em, phát huy cao độ việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách, luật, các chiến lược và chương trình mục tiêu công tác Dân số – Gia đình - Trẻ em góp phần thiết thực vào việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Nhưng qua quá trình tổ chức thực hiện dần dần đã thể hiện những điều bất cập. Qua báo cáo đánh giá của các huyện sau hơn 3 năm hoạt động trên các mặt: Quản lý nhân sự, quản lý ngân sách, trang thiết bị, chỉ đạo chuyên môn và chương trình mục tiêu cho thấy rõ những tồn tại như sau: * Về quản lý nhân sự: - Do huyện quản lý và là một bộ phận của văn phòng HĐND – UBND nên cán bộ bộ phận Dân số – Gia đình - Trẻ em được trưng dụng khi huyện có yêu cầu đột xuất làm ảnh hưởng không nhỏ đến công tác chuyên môn. - Cán bộ thiếu sự yên tâm công tác hoặc không đi sâu vào công việc mình được phân công vì hiểu rằng là cán bộ văn phòng dễ bị điều động, mặt khác hiểu rằng công tác Dân số – Gia đình - Trẻ em không ổn định lâu dài. - Sự gắn bó giữa cán bộ, công chức làm việc công tác Dân số – Gia đình - Trẻ em cấp huyện với cơ quan thường trực Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em tỉnh không còn gắn kết như trước. Nên việc phân công công việc và chỉ đạo công tác chuyên môn, ý thức chấp hành còn hạn chế vì thực chất toàn bộ công việc, đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, công chức cấp huyện do văn phòng HĐND – UBND chi phối. Cán bộ thuộc Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em bình quân mỗi huyện có từ 4 đến 5 người làm việc. Hiện tại nhân sự ở một số huyện có sự xáo trộn như sau: + Huyện Phú Lương: 1 lãnh đạo chuyển sang công tác khác 1 cán bộ của Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em điều lên làm công tác tổng hợp của văn phòng. + Huyện Định Hoá: 2 cán bộ đang có sự điều chuyển của huyện sang lĩnh vực khác. + Huyện Phổ Yên: 1 cán bộ điều chuyển sang huyện uỷ. 1 cán bộ chuyển sang ngành y tế. Hiện nay hợp đồng thêm 2 cán bộ mới chưa có kinh nghiệm, chưa đào tạo về lĩnh vực Dân số – Gia đình - Trẻ em. + Huyện Võ Nhai: Là một huyện vùng cao, công tác Dân số – Gia đình - Trẻ em còn gặp nhiều khó khăn nhưng chỉ có 4 cán bộ trong đó: 1 người chuyển sang làm công tác kế toán văn phòng và 1 người mới vào làm hợp đồng nhưng 1/2 thời gian làm việc cho Dân số – Gia đình - Trẻ em còn lại làm bộ phận tổng hợp của văn phòng. * Về thủ tục hành chính: Sau khi sát nhập đồng chí phó chủ nhiệm chuyên trách Dân số – Gia đình - Trẻ em của huyện chỉ là phó văn phòng HĐND – UBND nên các thủ tục ký, duyệt đều phải thông qua đồng chí chánh văn phòng quyết định, trong khi đồng chí chánh văn phòng không có những kiến thức sâu sắc về lĩnh vực Dân số – Gia đình - Trẻ em hoặc chưa được đào tạo tập huấn về lĩnh vực này nên các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn… chuyển tải từ cấp tỉnh xuống huyện và đến Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em hoặc từ huyện lên tỉnh thường rườm rà, chậm tiến độ và thời gian quy định. Mặt khác đồng chí phó chủ nhiệm là phó văn phòng đều phải kiêm nhiệm khác do đó chi phối rất nhiều đến việc chỉ đạo cụ thể hoạt động công tác Dân số – Gia đình - Trẻ em. Việc phân định khi nào dùng dấu của văn phòng, khi nào dùng dấu của UBND huyện (do phó chủ tịch ký) thiếu sự thống nhất và chưa rõ ràng ở một số huyện. Trụ sở làm việc của Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em một số huyện cách văn phòng huyện 1 đến 2 km nên khó khăn trong việc báo cáo, xin dấu, chữ ký, văn thư… * Về kinh phí: - Vì không có tư cách pháp nhân nên không chủ động được các hoạt động về Dân số – Gia đình - Trẻ em khi động chạm đến ngân sách phải làm kế hoạch chuẩn bị báo cáo thông qua văn phòng mới được xem xét để duyệt rất mất nhiều thời gian nhiều khi công việc xong mới có kinh phí. - Khi cân đối ngân sách đại bộ phận các huyện do thu còn hạn chế phải chờ tỉnh và trung ương nên thường có số lượng thấp. Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em tỉnh không có cơ sở để hỗ trợ những huyện có khó khăn, ngay cả khi tỉnh có điều kiện vì chi thường xuyên đã bàn giao và do huyện quản lý chi trả nên không hỗ trợ được. * Về chỉ đạo chuyên môn: - Tổ chức triển khai và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn thường chậm, có việc không kịp do văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên chuyển về văn phòng sau đó mới chuyển đến Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em. Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em tham mưu báo cáo lãnh đạo văn phòng sau đó là lãnh đạo huyện mới tổ chức triển khai được. - Đây là một uỷ ban mang tính liên ngành vừa làm quản lý nhà nước vừa phối hợp liên ngành làm công tác truyền thông vận động xã hội, nên không có Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em độc lập như một phòng ban ở huyện thì không thể phối hợp liên ngành. Văn phòng HDND – UBND không có tư cách phối hợp liên ngành và không làm được nhiệm vụ phối hợp liên ngành. - Không có Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em độc lập như các phòng chuyên môn ở huyện thì sự gắn kết giữa các thành viên làm công tác Dân số – Gia đình - Trẻ em sẽ rất lỏng lẻo, điểm này làm ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả công tác và các hoạt động của công tác Dân số – Gia đình - Trẻ em. - Việc chỉ đạo chuyên môn xuống ban Dân số – Gia đình - Trẻ em xã, phường, thị trấn với tư cách là văn phòng thì cũng hạn chế, hiệu lực không cao. c/ Như vậy qua hơn 3 năm hoạt động mô hình Dân số – Gia đình - Trẻ em ở cấp huyện như hiện nay là chưa hợp lý. Việc sát nhập vào văn phòng HĐND – UBND không cùng chức năng dẫn đến vướng mắc, lúng túng trong việc điều hành. Thực tế khi sát nhập vào biên chế không giảm, mọi hoạt động chương trình giữ nguyên, cán bộ lại bị điều chuyển hoặc chuyển hẳn sang ngành khác, số cán bộ còn lại không yên tâm công tác. Trong giai đoạn chiến lược 2001 – 2010 đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của cả hệ thống mới hoàn thành được các mục tiêu đề ra. Do vậy cần có sự thay đổi về tổ chức bộ máy làm công tác Dân số – Gia đình - Trẻ em ở các huyện. Phần III Xây dựng và lựa chọn phương án giải quyết và giải pháp tổ chức thực hiện 1. Xây dựng phương án: Theo tôi cần phải tổ chức lại bộ máy Dân số – Gia đình - Trẻ em cấp huyện theo phương án sau: * Phương án 1: Thành lập Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em cấp huyện trực thuộc UBND huyện. - Thuận lợi: + Là một đơn vị có tư cách pháp nhân hoạt động thuận lợi hơn. + Có sự quan tâm của UBND huyện. + Thực hiện tốt công tác xã hội hoá. - Khó khăn: + Sự đầu tư theo ngành dọc sẽ còn nhiều hạn chế. + Bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn theo ngành dọc và chỉ đạo theo hệ thống sẽ khó khăn. * Phương án 2: Thành lập Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em cấp huyện trực thuộc Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em tỉnh: - Thuận lợi: + Là một đơn vị có tư cách pháp nhân độc lập, thuận lợi cho công tác chỉ đạo Ban Dân số – Gia đình - Trẻ em xã. + Mô hình này sẽ thực hiện tốt được chức năng khâu nối giữa các ngành, huy động các ngành tham gia công tác này. + Sự đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất từ trung ương xuống cũng thuận lợi. + Công tác chỉ đạo chuyên môn theo ngành dọc sẽ sâu hơn và thực hiện các công tác nghiệp vụ theo ngành dọc sẽ nhanh chóng hơn. - Khó khăn: Khi không trực thuộc UBND huyện sẽ khó khăn trong việc huy động các nguồn lực của huyện. 2. Lựa chọn phương án: So sánh giữa 2 phương án trên thì theo tôi phương án thành lập Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em cấp huyện trực thuộc Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em tỉnh có hiệu quả hơn cả. Thực tế hoạt động theo mô hình này nhiều năm trước đây (trước khi có nghị định 12 CP) đã chứng minh hoạt động có hiệu quả. Hiện nay chính phủ đã có nghị định số 172/2004/NĐ - CP ngày 29/9/2004 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em cấp huyện được thành lập là một cơ quan độc lập như các phòng chuyên môn khác của huyện và trực thuộc UBND huyện. Do vậy việc lựa chọn phương án 2 sẽ được thống nhất trong phạm vi cả nước. 3. Giải pháp tổ chức thực hiện: Việc thành lập Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em cấp huyện theo nghị định 172/2004/NĐ - CP theo tôi phải có các giải pháp phù hợp nhằm ổn định tổ chức và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác Dân số – Gia đình - Trẻ em cấp huyện cụ thể như sau: - Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em tỉnh cần có đánh giá chính thức hoạt động của Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em cấp huyện hơn 3 năm qua và báo cáo với tổ chức tỉnh uỷ và Sở nội vụ để có những bài học và rút ra kinh nghiệm cho việc thành lập Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em cấp huyện. - Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em Việt Nam phải sớm có thông tư hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em cấp huyện. - Các nhiệm vụ về công tác Dân số – Gia đình - Trẻ em cấp huyện nên được viết cụ thể hơn so với thông tư 32/TTLT. Xem xét những nhiệm vụ nào có thể thực hiện ở cấp huyện, chú trọng nhiệm vụ chỉ đạo tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, kế hoạch công tác Dân số – Gia đình - Trẻ em và phối hợp thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ở cấp huyện, không viết nhiệm vụ một cách chung chung. - Tổ chức tốt nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra các quy định và nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong công tác trước đây thực hiện chưa tốt và không được quan tâm và chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. - Quy định thống nhất việc bố trí là chủ nhiệm Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em cấp huyện tạo điều kiện cho triển khai các hoạt động và tạo sự phối hợp liên ngành dễ dàng và hiệu quả. - Quy định lại số Uỷ viên kiêm nhiệm của Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em huyện không mang tính hình thức, quá cồng kềnh vì lâu nay là chưa tham gia thường xuyên chỉ đạo hoạt động, một thực trạng là một số ngành chỉ coi đó là công việc kiêm nhiệm, sự tham gia một số uỷ viên còn mang tính mặt trận. - Số lượng cán bộ, chất lượng cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu công việc cần phải có chính sách đào tào và có quy hoạch cán bộ làm công tác Dân số – Gia đình - Trẻ em được lâu dài, tránh sự biến động quá lớn về tổ chức và thời gian thay đổi bộ máy tổ chức quá nhiều lần tạo sự không yên tâm công tác của một số cán bộ. - Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, Uỷ ban Dân số – Gia đình - Trẻ em phải xây dựng chức danh, mô tả công việc, xây dựng nhu cầu biên chế, báo cáo cấp có thẩm quyền bố trí đủ cán bộ để triển khai thực hiện công việc. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ công chức cấp huyện về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng quản lý cũng như các kiến thức bổ trợ khác (ngoại ngữ, tin học…) - Hiện nay tại cấp huyện cán bộ hợp đồng làm công tác Dân số – Gia đình - Trẻ em hướng kinh phí theo chương trình mục tiêu quốc gia Dân số - Kế hoạch hoá gia đình vẫn còn khá đông (17 đồng chí). Trong đó nhiều cán bộ hợp đồng có tâm huyết và đã làm tới 8 đến 9 năm. Nhưng chế độ đối với cán bộ hợp đồng này còn nh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0164.doc
Tài liệu liên quan