lời mở đầu
Thế giới đã và đang diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc. Các quốc gia trên thế giới phụ thuộc lẫn nhau trong mối quan hệ kinh tế, không có quốc gia nào phát triển mà không mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là ngoại thương. Xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá càng thể hiện một cách rõ nét chẳng hạn như sự lớn mạnh của các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới: WTO, EU, ASEAN, APEC ... Thêm vào đó, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới diễn ra hết sức sôi độn
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1562 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Sự cần thiết của hội nhập AFTA Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g và phát triển như vũ bão . Sự phát triển của khoa học công nghệ đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới. Chính vì vậy, ngày nay hợp tác quốc tế đã trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển đi lên cửa mỗi quốc gia.
Hoà nhập với xu thế trên, trong công cuộc phát triển kinh tế ,xây dựng đất nước, đặc biệt là sau khi tiến hành đổi mới kinh tế xã hội, Đảng và Chính phủ Việt Nam rất coi trọng hoạt động kinh tế đối ngoại. Việc định ra một chiến lược phát triển kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, là một yêu cầu thực sự cấp bách đối với Việt Nam hiện nay. Chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu của Việt Nam phải hướng vào không ngừng mở rộng phân công và hợp tác quốc tế trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, khai thác tối đa và có hiệu quả lợi thế so sánh của đất nước để phát triển kinh tế thông qua con đường xuất khẩu.
Để thực hiện chiến lược trên, trong những năm qua Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới, các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Việc gia nhập ASEAN (07/1995) đánh dấu một bước khởi đầu cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập với các tổ chức kinh tế trên thế giới. Là thành viên của ASEAN, Việt Nam đã cam kết thực hiện CEPT/AFTA. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đặt cho Việt Nam những cơ hội và thách thức mới đối với hoạt động ngoại thương. Những cơ hội và thách thức này đỏi hỏi trong tiến trình thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, Việt Nam cần đặt ra cho mình các chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu sao cho phát huy được những mặt lợi thế và khắc phục những mặt hạn chế.
Xuất phát từ thực tế khách quan trên và dưới sự tận tình hướng dẫn của Tiến sĩ Tạ Đức Khánh tôi đã chọn đề tài “Sự cần thiết của hội nhập AFTA thực trạng và giải pháp” cho đề án môn học của mình, với mong muốn từ sự phân tích thực trạng xuất khẩu của Việt Nam trong quá trình hội nhập AFTA, sẽ là cơ sở đánh giá các mặt ưu nhược điểm trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.Từ đó đề ra một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu đối với Việt Nam trước thềm thế kỷ mới.
Chương I. Sự cần thiết của hội nhập kinh tế
1. Xu thế toàn cầu hóa sự phát triển kinh tế.
1.1. Tình hình quốc tế trong những năm gần đây.
Quan (GATT) và các tổ chức đa phương khác , đi , đôi với khu vực hoá kinh tế . Việc thành lập các khối trong xu hướng hòa bình , hợp tác , nổi lên xu hướng toàn cầu hóa kinh tế với việc thành lập tổ chức thương mại thế giới (WTO) thay cho hiệp định chung về thương mại và thuế và khu vực kinh tế , về cơ bản , thống nhất với xu thế tự do hóa thương mại toàn cầu . Song giữa các k trong xu hướng hòa bình , hợp tác , nổi lên xu hướng toàn cầu hóa kinh tế với việc thành lập tổ chức thươhối và khu vực cũng có những khác biệt về chính sách và lợi ích . Đồng thời trên thế giới cũng đang xuất hiện khả năng tăng cường hợp tác ở tầm khu vực ,khối , như liên minh châu âu và ASEAN … Một thế giới mới đang mở ra nhiều cơ hội và khả năng cho Việt Nam trong huy động nguồn nội lực do phát triển; đồng thời cũng đang đặt Việt Nam trước nhiều thách thức trong việc tận dụng các cơ hội và khả năng. đIều này đòi hỏi chúng ta phảI có một chính sách kinh tế đối ngoại vừa có định hướng chiến lược đúng , vừa có sự mềm dẻo, linh hoạt , thích ứng với bối cảnh thế giới mới, trong đó phảI đặt trọng tâm vào việc thiết lập quan hệ và khai thác thị trường của các nước và trung tâm lớn của thế giới như liên minh châu Âu , Mỹ và Nhật Bản.
Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN , đang thực hiện lộ trình của khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA) và sắp tới sẽ là thành viên của WTO, APEC … Như vậy giữa Việt Nam và các nước sẽ hình thành một loạt các quan hệ song phương, đa phương đan chéo nhau:
Việt Nam vớiASEAN, AFTA.
Việt Nam với từng nước( hoặc nhóm nước nhỏ) trong ASEAN, trong AFTA.
Việt Nam với WTO.
Việt Nam với APEC, và sau này có thể quan hệ vớinhiều tổ chức khác.
ĐIều đó có nghĩa là một mặt chúng ta phảI tham gia tích cực trong khuôn khổASEAN , AFTA và AIE, mặt khác , phảI chú ý tới tất cả quan hệ với các ngoàI ASEAN thuộc khu vực châu á tháI bình dương.
Để thực hiện được đIều này đòi hỏi phảI có một tầm nhìn toàn cầu và chiến lược, với một đối sách thích hợp bảo đảm lợi ích của Việt Nam trong nền kinh tế thế giới cả về ngắn hạn cũng như dàI hạn .
Xu thế đa nguyên và đa dạng hóa các trung tâm kinh tế. Thế giới ngày nay không còn do một số ít siêu cường kinh tế chi phối. Mỹ tuy vẫn còn là một cường quốc kinh tế lớn nhưng vai trò đã giảm mạnh . Nhiều trung tâm kinh tế đã nổi lên chia sẻ quyền lực với Mỹ và Nhật Bản như EU, ASEAN, Trung Quốc…Và trong tương lai không xa,khi Nga và các nước thuộc Liên Xô(cũ) ổn định, phục hồi và phát triển thì cán cân lực lượng kinh tế sẽ thay đổi.
Mối quan hệ của Việt Nam với các trung tâm kinh tế và các cực đang có nhiều thay đổi quan trọng : quan hệ thương mại và đầu tư nước ngoàI trực tiếp(FDI) của Việt Nam chủ yếu với các nước ASEAN và Đông á, song tỷ trọng đang giảm đI đáng kể kể từ năm 1993 ; quan hệ thương mại và đầu tư của Việt Nam với châu Âu đứng thứ hai, và đang phát triển vững chắc; quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với Mỹ và Bắc Mỹ tuy còn khiêm tốn nhưng đang tăng trưởng nhanh ; quan hệ kinh tế và đầu tư của Việt Nam với Trung Quốc , nhất là sau khi Hồng Kông trở về Trung Quốc ngày càng quan trọng .
Thế giới và khu vực đang vận động theo xu hướng đa cực rất phức tạp , bao hàm cả đa cực trong một cực . Giữa các khối , các khu vực, giữa các trung tâm kinh tế có sự hợp tác vừa có cạnh tranh và không loại trừ khả năng có xung đột gây ảnh hưởng lớn đến kinh tế toàn bộ khu vực và toàn cầu. Chúng ta cần có chính sách cân bằng và phối hợp chính sách tốt với ASEAN để gây ảnh hưởng và đạt được lợi ích quốc gia tối đa trên trường quốc tế , nhất là trong quan hệ phức tạp với đa trung tâm.
Như vậy , tự do hóa thương mại toàn cầu đI đôI với xu hướng bảo vệ lợi ích quốc gia , hợp tác đI đôI với cạnh tranh là nội dung xuyên suốt trong các quan hệ kinh tế song phương và đa phương.
Về cơ bản xu hướng này mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia, tuy nhiên sự phân bố lợi ích lại rất khác nhau giữa các nước , các khối, các khu vực trong đó các nước giàu , các nước công nghiệp vẫn chiếm ưu thế. Lợi ích quốc gia bên cạnh hợp tác đa phương, Việt Nam cần chú trọng hợp tác song phương.
Việt Nam cần phối hợp nhịp nhàng giữa nhiều chímh sáchkinh tế đối ngoại khác nhau , kết hợp mềm dẻo giữa song phương và đa phương , quan hệ với các khối và cáckhu vực khác nhau , nhằm tạo sự cân bằng góp phần duy trì sự hoà bình ổn định có lợi cho sự phát triển đất nước.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa nền kinh tế thế giới , Việt Nam có thể trao đổi hàng hóa , dịch vụ , vốn, công nghệ , thông tin với thế giới, tạo cơ sở và động lực cho tăng trưởng kinh tế ,nếu biết tận dụng thời cơ , vượt qua nguy cơ , chuẩn bị đIều kiện để khai thác lợi thế cạnh tranh và lợi thế so sánh của đất nước ; nếu biết phối hợp với các nước khác để bảo vệ quyền lợi của mình trên các diễn đàn quốc tế . Đồng thời Việt Nam cũng đứng trước thách thức là có thể bị lôI cuốn một cách thụ động vào các quá trình phát triển của nền thương mại quốc tế dẫn tới tụt hậu nghiêm trọnh so với các nước khác .Trong khuôn khổ ASEAN và AFTA , nhất là sau năm 2006 Việt Nsm không còn bảo hộ thị trường nội địa bằng hàng rào thuế quan thì thách thức cạnh tranh sẽ đặt ra rất gay gắt đối với các sản phẩm trong nước , thậm chí ngay cả đối với sản phẩm dùng nguyên liệu trong nước như xi măng, lọc dầu … Vì vậy việc tiếp tục đổi mớikinh tế , đổi mới thể chế và chính sách để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường trong nước và quốc tế cần được xem là một biện pháp cơ bản để Việt Nam hội nhập một cách hiệu quả vào nền kinh tế thế giới.
Trong bối cảnh tự do hóa thương mại , Việt Nam cần phảI xác định rõ lợi thế so sánh của mình .vị trí dịa lý thuận lợi , ổn định chính trị, lao động được đào tạo tiền lương rẻ…là những lợi thế so sánh quan trọng mà nước ta cần khai thác triệt để để thu hút đầu tư của nước ngoàI và tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa . Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, nhất là trong đIều kiện phát triển mạnh mẽ của khoa họa và công nghệ thì lợi thế so sánh đó không thể tồn tại lâu dàI không phảI là bất biến mà có tính thời gian và thay đổi qua các giai đoạn . Vì vậy bên cạnh khai thác lợi thế so sánh cần phảI hết sức chú ý đến việc xác định rõ lợi thế cạnh tranh , khai thác tốt lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế nước ta từ đó có những biện pháp phù hợp nhằm phát huy và tận dụng được các lợi thế. Chất lượng sản phẩm , thời hạn giao hàng , đặc trưng và sự khác biệt của sản phẩm hàng hóa , dịch vụ Việt Nam so với hàng hóa , dịch vụ các nước khác trong việc thoả mãn nhu cầu của khách hàng là những trưng của lợi thế cạnh tranh cần phảI được quan tâm thích đáng . Bên cạnh vai trò của nhà nước trong việc cảI thiện môI trường vĩ mô cho việc phát huy lợi thế cạnh tranh , cần phát huy vai trò, tính chủ động, sáng tạo, ý thức trách nhiệm,quyền lợi của nhà kinh doanh Việt Nam. Phát triển và tận dụng lợi thế cạnh tranh đang là chiến lược và là động lực tiềm tàng lâu dai để các nước hội nhập một cách có hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu. Lợi thế cạnh tranh là sức mạnh của trí tuệ có tính lâu dàI và cơ bản để cho các nước hội nhập kinh tế thế giới và khu vực một cách chủ động và thắng lợi.
Khai thác lợi thế so sánh đã khó, nhưng khai thác cạnh tranh còn khó hơn nhiều. Lợi thế so sánh chủ yếu dựa vào tiềm năng sẵn có của đất nước về tàI nguyên thiên nhiên, lao động, vị trí địa lý. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế thế giới và trình độ phát triển khoa học, công nghệ, kỹ thuật hiện nay của thế giới, lợi thế này không còn có ý nghĩa`to lớn như trong thập kỷ 60,70 và sẽ trôI qua nhanh chóng . Còn lợi thế cạnh tranh, lai đang giữ vai trò ngày càng quan trọng, đang là lợi thế tiềm tàng cơ bản cho công cuộc cạnh tranh trên quy mô toàn cầu. Chỉ có xem xét trên khía cạnh này, mới có thể lý giảI được tại sao nhiều nước không giàu, thậm chí nghèo tàI nguyên thiên nhiên , như Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc….lại tạo lên những thần kỳ về kinh tế . Xét về mặt lợi thế cạnh tranh, Việt Nam không dễ một lúc đã có thể cạnh tranh vững vàng và thắng lợi trên thị trường thế giới và hình như không phảI đã có nhiều người, nhất là trong bộ máy nhà nước nhận thức được đầy đủ ý nghĩa của nó. Để có thể đạt được lợi thế cạnh tranh cần có hai đIều kiện .Một là, có môI trường kinh tế vĩ mô mang tính cạnh tranh và thuận lợi cho các nhà đầu tư, trong đó chính phủ đóng vai trò then chốt để vừa tạo ra môI trường đó vừa mở đường và hỗ trợ cho khu vực kinh doanh thâm nhập và cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Hai là, phảI có môI trường kinh tế vĩ mô năng động và hoạt động có hiệu quả, trong đó nhà kinh doanh đóng vai trò then chốt, có năng lực quản lý cao, vừa có tính trách nhiệm xã hội.
Quốc tế hóa sản xuất tiếp tục phát triển và ngày càng đI vào chiều sâu, đặc biệt là chiều dọc, vừa làm tăng khả năng và cơ hội tăng trưởng cho mỗi nước và cho toàn bộ nền kinh tế thế giới, vừa làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa nền kinh tế các nước và khu vực, các vùng khác nhau. Vai trò của các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia ngày càng mạnh mẽ và chi phối tới sự vận động của nền kinh tế thế giới. Có ý kiến dự đoán rằng thế kỷ 21 là thế kỷ kinh tế của các công ty, hiệp hội xuyên quốc gia và đa quốc gia.
Sự phân công lao động và phân công sản xuất quốc tế vẫn tiếp tục diễn ra ngày càng mạnh mẽ cả về chiều sâu và chiều rộng, do đó vấn đề đặt ra là Việt Nam phảI tham gia như thế nào trong quá trình này. Việc xác định được các lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh do vậy có ý nghĩa đặc biệt quan trọng . Nó giúp chúng ta xác định rõ các ngành công nghiệp thích hợp của Việt Nam tham gia có hiệu quả nhất vào quá trình quốc tế hoá đó.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và tự do hóa nền thương mại thế giới không thể xây dựng cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh theo quan niệm trước đây, thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nghĩa là Việt Nam tự lực xây dựng đủ các ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp nặng và bảo hộ chúng. Mà trong tương lai Việt Nam phảI biết tận dụng cơ cấu nền kinh tế thế giới, khu vực để có thể hoàn thiện hóa nền kinh tế của mình.
Việc cạnh tranh trên thị trường vốn và thị trường quốc tế ngày càng khắc nghiệt. Các nước đều cần vốn để chuyển cơ cấu nền kinh tế. Các nước ASEAN và Trung Quốc là những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng trong thu hút vốn nước ngoàI đối với Việt Nam. Do vậy Việt Nam cần phảI cạnh tranh, nhanh chóng cảI thiện môI trường đầu tư của mình .
Cách mạng khoa học công nghệ với tư cách là động lực của việc quốc tế hóa và tự do hóa nền kinh tế thế giới tiếp tục phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu với đặc trưng là tốc độ thương mại hóa các thành quả khoa học công nghệ diễn ra nhanh chóng, thậm chí tức khắc trên quy mô thị trường toàn cầu và có sự lan toả sâu, xa tới nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế xã hội. Hơn lúc nào hết, chúng ta phảI thấy rõ sự gắn kết chặt chẽ giữa khoa học và thương mại, cũng như quy mô tác động của nó.
Việt Nam cần có chiến lược thúc đẩy, tăng tốc thu hút đầu tư nước ngoàI và nhất là đối với các công ty lớn, các công ty nắm tiềm lực công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật của thế giới để tiếp cận nhanh chóng với công nghệ tiên tiến của thế giới, từ đó mới có thể thực hiện được chiến lược “ đI tắt đón đầu”,” đuổi kịp “ các nước trong khu vực và thế giới về công nghệ và đặc biệt phảI tạo cơ hội để thương mại hóa các thành quả công nghệ và gắn kết với nền kinh tế thế giới. Muốn vậy +phảI đầu tư lớn vào con người và giáo dục, khoa học; phảI có chiến lược cử người đI học và nắm bí quyết công nghệ ở nước ngoàI. Nhưng thách thức lớn đối với Việt Nam là phảI xử lý tốt mối quan hệ giữa nhu cầu đầu tư dàI hạn, chiến lược áp lực đầu tư ngắn hạn.
Trên cơ sở sự báo su hướng của nền chính trị thế giới là hoà bình, ổn định. Mặc dù có thể có những biến động, xung đột cục bộ, xu hướng tăng trưởng của nền kinh tế thế giới và khu vực và cơ bản có triển vọng, tạo cơ sở cho nền kinh tế Việt Nam trong thời gian dàI sẽ có. Kinh tế thế giới đang phục hồi và sẽ tăng trưởng trung bình ở mức cao trong các năm tới, đạt mức tăng trung bình 4,4% và theo dự đoán mới đây do tác động của cuộc khủng hoảng tàI chính Châu á, tốc độ này sẽ chỉ là 3,7% trong giai đoạn 1997 – 2000. Kinh tế Châu á mặc dù có những dự báo bi quan song vẫn dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng; riêng tốc độ tăng GDP của các nước đang phát triển của khu vực sẽ đạt trung bình là 7,5%. Việt Nam nằm ở khu vực này vào trao đổi chủ yếu với khu vực mậu dịch tự do, do vậy đây là cơ hội lịch sử hiếm thấy cho Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới và khu vực nếu biết tận dung khả năng và lợi thế từ thành công của đổi mới kinh tế trong 10 năm qua để đạt tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian dàI sắp tớt.
Tuy nhiên, bên cạnh lợi ích cơ bản thu hút được từ việc tỵ do hoá thương mại và đầu tư toang cầu, không được xem thường các sung đột giữa các nền văn hoá khác nhau, giữa các giá trị văn hoá Phương Đông và Phương Tây… Thậm trí có thể xảy ra chiến tranh. Xung đột không chỉ còn ở dạng tiềm tàng mà đã bùng nổ lẻ tẻ trên thế giới, nhất là ở vùng Trung Đông… Đe doạ tới nhiều hướng phát triển lạc quan của nền kinh tế thế giới.
Xét cho cùng, để có thể hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, trước hết phảI biết khai thác tiềm lực trong nước, phảI có con người và tổ chức, trong đó đặc biệt là doanh nghiệp có khả năng hội nhập với kinh tế thế giới, bởi lẽ có phát huy và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong nước thì mới có khả năng hội nhập kinh tế thế giới thành công.
1.2- Toàn cầu hoá kinh tế – xu thế phát triển của thời đại.
Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế mới của quá trình phát triển kinh tế thị trường, phản ánh trình độ cao của lực lượng sản xuất xã hội mà ở đó phân công lao động quốc tế và quốc tế hóa sản xuất đã trở thành phổ biến.
Trước khi phương thức sản xuất TBCN ra đời, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, giao thông chưa phát triển, việc sản xuất hàng hóa và trao đổi hàng hóa còn bị giới hạn, năng suất lao động thấp. Khi diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp, đời sống kinh tế các nước có sự thay đổi căn bản. Tình trạng tự cấp tự túc, bế quan toả cảng được thay thế bằng sự sản xuất và tiêu dùng mang tính quốc tế.Đặc biệt sau đó do tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật, lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hết sức nhanh chóng. Thêm vào đó là thắng lợi của phong trào giảI phóng dân tộc làm cho hệ thống phân công lao động xã hội được phân bố tốt gọi là toàn cầu hóa kinh tế . Toàn cầu hóa kinh tế là quá trình phát triển mới của phân công lao động xã hội và hợp tác sản xuất vượt ra khỏi biên giơí quốc gia vươn tới quy mô toàn thế giới đạt đến trình độ chất lượng mới. Kể từ những năm 80 đến nay toàn cầu hóa phát triển với tốc độ nhanh chóng đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại.
Đặc trưng nổi bật của toàn cầu hóa kinh tế là nền kinh tế thế giới tồn tại và phát triển như một chỉnh thể, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận có quan hệ tương tác lẫn nhau với nhiều hình thức phong phú. Tham gia toàn cầu hóa kinh tế, các quốc gia vẫn hoàn toàn độc lập về chính trị, xã hội, vẫn là chủ thể tự quyết định con đường phát triển của mình. Toàn cầu hóa kinh tế làm cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau hơn về vốn, kỹ thuật, công nghệ, nguyên liệu và thị trường. Đến nay toàn cầu hóa đã cuốn hút hầu hết các quốc gia ở các châu lục, đã có 27 tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu ra đời và hoạt động. Đây là sự phát triển chưa từng có. Toàn cầu hóa kinh tế, mặc dù cho đến nay vẫn có những quan đIúm tráI ngược nhau, nhưng rõ ràngnó là xu thế phát triển của thời đại không thể khác đI được. Chỉ quốc gia nào bắt kịp xu thế này, biết tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức mới đứng vững và phát triển. Cự tuyệt hay khước từ toàn cầu hóa kinh tế tức là tự gạt mình ra khỏi sự phát triển.
Trên cơ sở dự báo xu hưóng của nèn chính trị thế giới là hoà bình, ổn định. Mặc dù có thể có những biến động và xung đột cục bộ , xu hướng tăng trưởng của nền kinh tế thế giới và kkhu vực về cơ bản có triển vọng , tạo cơ sở cho nền kinh tế Việt Nam trong một thời gian dài sẽ có. Kinh tế thế giới đang phục hồi và sẽ tăng trưởng trung bình ở mức cao trong các năm tới , đạt mức tăng trung bình 4,4%và theo dự đoán mới đây do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu â , tôc độ này sẽ chỉ là 3,7% trong giai đoạn 1997 – 2000. Kinh tế châu á mặc dầu có những dự báo bi quan song vẫn dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng ; riêng tốc độ tăng GDP của các nước đang phát triển của khu vực sẽ đạt trung bình 7,5%. Việt Nam nằm ở khu vực này và trao đổi mậu dịch chủ yếu với khu vực này ,do vậy ,đây là cơ hội lịch sử hiếm thấy cho Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới và khu vực nếu biết tận dụng kả năng và lợi thế từ thành công của đổi mới kinh tế trong 10 năm qua để đạt tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian dài sắp tới.
Tuy nhiên , bên cạnh các lợi ích cơ bản thu được từ việc tự do hoá thương mại và đầu tư toàn cầu , không được xem thường các xung đột giữa các nền văn hoá khác nhau, giữa các giá trị văn hoá của phương Tây với các giá trị văn hoá của phương Đông … Thậm chí có thể xảy ra chiến tranh , xung đột không chỉ còn ở dạng tiềm tàng, mà đã bùng nổ lẻ tẻ trên thế giới , nhất là ở vùng Trung Đông … đe doạ tới chiều hướng phát triển lạc quan của nền kinh tế thế giới.
Xét cho cùng , để có thể hội nhập vào nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới , trước hết phải biết khai thác tiềm lực trong nước , phải có con người và các tổ chức, trong đó đặc biệt là các doanh nghiệpcó khả năng hội nhập với thế giới , bởi lẽ có thể phát huyvà sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong nước thì mới có khả năng hội nhập kinh tế thế giới thành công.
2. Tham gia hội nhập kinh tế là xu thế tất yếu đối với sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá của Việt Nam.
2.1. Tính tất yếu khách quan tham gia hội nhập kinh tế.
Tham gia hội nhập kinh tế là quá trình điều chỉnh chính sách kinh tế , tạo một thị trường mạnh mẽ để tự do hoá trên mọi lĩnh vực về kinh tế đồng thời sẵn sàng vận dụng sự ưu đãi của các thành viên khác cho mình để phát triển sản xuất , mở rộng thị trường . Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng khả năng phối hợp chính sách và tập trung mọi nỗ lực của các quốc gia nhằm giải quyết vấn đề kinh tế mang tính toàn cầu. đồng thời nó cũng tạo khả năng phân bố nguồn tài nguyên, kết quả phát triển của khoa học kỹ thuật của nhân loại và các nguồn lực tài chính trên phạm vi toàn cầu góp phần phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế được tạo điều kiện cắt giảm các khoản chi về an ninh , quốc phòng tập trung cho sự nghiệp CNH – HĐh đất nước đồng thời có thể ổn định về kinh tế chính rị xã hội . Mặt khác tham gia hội nhập kinh tế làm cho các quốc gia đan xen phụ thuộc lẫn nhau dẫn đến sự bình đẳng trong sự giao lưu và quan hệ kinh tế quốc tế , tránh tình trạng cô lập , tạo điều kiện cho Việt Nam học hỏi kinh nghiệm trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế , tổ chức sản xuất … Vì vậy, trước các điều kiện đặt r a đó thì hội nhập kinh tế của Việt Nam là một tất yếu.
2.2. Những cơ hội và thách thức trong hội nhập kinh tế của Việt Nam.
Là một nước đang phát triển tham gia hội nhập kinh tế quốc tế , nước ta sẽ có những cơ hội mới để phát triển. Đó là :
Tạo khả năng mở rộng thị trường ra nước ngoài trên cơ sở các hiệp định thương mại đã ký kết với các nước trong khu vực và trên thế giới : Nừu thực hiện đầy đủ các cam kết trong AFTA thì đến năm 2006 hàng công nghiệp chế biến có xuất xứ từ nước ta sẽ được tiêu thụ trên tất cả các thj trường các nức ASEAN với dân số trên 500 triệu người và GDP trên 700 tỷ USD. Nừu sau năm 2000 , nước ta gia nhập UTO thì sẽ được hưởng những ưu đãi dành cho nước đang phát triển theo quy chế tối huệ quốc trong quan hệ với 132 nước đó dễ dàng hơn. Từ 2020 , hàng rào thuế quan của các nước APEC sẽ được rỡ bỏ đây là cơ hội để nước ta xuất khẩu hàng hoá vào các nước thành viên APEC.
Có cơ hội mở rộng thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài : Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội thị để thị trường nước ta được mở rộng , điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư . Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào nước ta ,sử dụng lao động và tài nguyên vốn có của nước ta , làm ra các sản phẩm trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta có . Cơ hội mở rộng thị trường kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài . Đây cũng là cơ hội để thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả .
Tranh thủ được kỹ thuật , công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh các tiến trình của các nước đi trước để đẩy nhanh tiến trình CNH HĐH tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho công cuộc xây dựng CNXH . Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường để khai thông thị trường nước ta với thế giới , tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn có hiệu quả , qua đó các kỹ thuật công nghệ nước ngoài . Nhằm phát triển năng lực kỹ thuật công nghệ quốc gia . Trong canh tranh quốc tế có thể công nghệ này là cũ đối với các nước phát triển nhưng lại là mới và có hiệu quả tại một nước đang phát triển như Việt Nam .
Tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực của nước ta với các nước : với dân số 76,3 triệu người nguồn nhân lực của nước ta khá dồi dào , nhưng không hội nhập thì việc sử dụng trong nước bị lãng phí , kém hiệu quả . Song bên cạnh những cơ hội trên hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt nước ta trước những khó khăn và thách thức như :
Tham ra vào các tổ chức kinh tế quốc tế để đi đến tự do hoá thương mại tức là chấp nhận tư cách thành viên cạnh tranh ngang bằng với các nước khác , nhưng hiện nay vẫn còn tụt hậu khá xa về kinh tế so với nhiều nứơc trong các tổ chức kinh tế mà ta đã tham gia . Trên thị trường nội địa , do kỹ thật công nghệ và quản lý còn kém nên nhiều sản phẩm của ta thiếu sức cạnh tranh với mặt hàng cùng loại cả về số lượng và chất lượng và giá cả .
Ví dụ : Đường RS của ta giá xuất xưởng năm 1999 là 340-400 USD/tấn nhưng giá nhập khẩu chỉ có 260-300USD/Tấn .
Trên thị trường thế giới , ta mới xuất khẩu chủ yếu là các nguyên liệu và sản phẩm sơ chế như dầu thô gạo ... Trong khi đó , giá cả các mặt hàng nguyên liệu và sơ chế lại bấp bênh , hay bị tác động xấu bất lợi cho xuất khẩu . Tham gia toàn cầu hóa kinh tế tức là nước ta chấp nhận những chấn động có thể xẩy ra trong hệ thống kinh tế toàn cầu . Trong trường hợp đó , nếu năng lực quản lý kinh tế vi mô kém , hệ thống tài chính ngân hàng lạc hậu , tệ tham nhũng và quan liêu hoành hành không chủ động phòng vệ tich cực thì nền kinh tế khó tránh khỏi sự đổ vỡ , khủng hoảng . Đây là một thách thức lớn đối với nước ta .
2.3. Những điều kiện cần thiết để tiến đến việc xây dựng nền kinh tế tự chủ và chủ động trong việc hôị nhập vào nền kinh tế quốc tế .
Về mặt khoa học , việc trình bầy lý luận để CNH HĐH xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ khá dễ , vì chỉ cần căn cứ trên lý luận Mác về 2 KVSX , khu vực 1 sản xuất các máy và khu vực 2 sản xuất hàng tiêu dùng . Do hiệu quả cao của khu vực sản xuất 1 nên ưư tiên cấp vốn ngoại tệ và tiền nội cho KVSX1 . Ngoài ra , cũng nên bổ túc lý luận Mác bằng kinh nghiệm người Nhật và người Hàn Quốc về việc sản xuất hàng tiêu dùng cấp cao để thay hàng ngoại và để tăng nhanh suất khẩu , tạo điều kiện thực hiện xuất siêu . Các nhà kinh tế cũng đều đồng ý phải nâng cao đầu tư nên 30% GDP thì mới thực hiện được việc phát khởi
Tuy nhiên việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ vấp phải rất nhiều khó khăn với nền kinh tế thị trường không có tổ chức và kế hoạch.2. AFTA & Sự hội nhập của Việt Nam.
Giữa thập niên 90 Việt Nam tham gia ASEAN & CEPT trong một bối cảnh: trình độ phát triển thấp xa so với bên cạnh đó thuế nhập khẩu còn là một tỏng những nguồn thu quan trọng của Chính phủ. Do vậy khi tham gia AFTA, Việt Nam cần phải đạt được các mục tiêu sau:
Không gây ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách.
2. Kéo dài đến mức có thể sự bảo hộ hợp lý đối với sản xuất có thêm thế giới chuẩn bị đối phó với những thách thức, của AFTS.
3. Tạo điều kiện khuyến khích chuyển giao công nghệ, đổi mới công nghệ kỹ thuật, nhằm thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
4. Tranh thủ ưu đãi để mở rộng thị trường cho xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
Căn cứ vào bối cảnh, mục tiêu cần đạt được và những quy định của CEPT, Việt Nam đã xây dựng lịch trình cắt giảm thuế theo từng loại danh mục và các kênh giảm thuế như sau:
1. Danh mục 1: Danh mục loại trừ hoàn toàn được xây dựng phù hợp với điểm 9 của hiệp định CEPT; danh mục này bao gồm các mặt hàng có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia văn hoá lịch sử, sức khoẻ, và những mặt hàng chúng ta kém lợi thế phải nhập khẩu nhiều từ các nước ASEAN như vũ khí, chất nổ, ô tô chở khách từ 15 chỗ ngồi trở xuống...v..v.. danh mục này Việt Nam đưa ra 146 mặt hàng.
2. Danh mục 2: Danh mục loại trừ tạm thời được xây dựng căn cứ vào quy định của CEPT và kế hoạch phát triển đến năm 2010 của các ngành kinh tế ở nước ta. Danh mục loại trừ tạm thời phải bảo đảm không ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách và bảo hộ một số ngành sản xuất trong nước có tiềm năng phát triển. Danh mục này Việt Nam có 1.189 mặt hàng. Nó bao gòm các mặt hàng có thuế suất trên 2% và những mặt hàng có thuế suất dưới 20%, nhưng trước mắt cần bảo hộ bằng thuế quan và phi thuế quan. Từ ngày 1.1.1999 đến 1.1.2003 mỗi năm chúng ta chuyển 20% trong tổng số mặt hàng loạ này sang danh mục cắt giảm thuế.
3. Danh mục 3: Danh mục các mặt hàng nông sản chưa qua chế biến nhạy cảm, chúng ta xây dựng dựa trên kinh nghiệm của các nước ASEAN và căn cứ vào yêu cầu bảo hộ cao của sản xuất trong nước danh mục này gồm có 50 mặt hàng như thịt, trứng, sữa, gạo....
4. Danh mục 4: Danh mục cắt, giảm thuế, tháng 10.1995 tức là sau 3 tháng chúng ta gia nhập ASEAN. Việt Nam đã công bố chính thức danh mục giảm thuế nhập khẩu 1633 mặt hàng cho thời kỳ 1996-2000. Danh mục cặt giảm thuế quan ngay của Việt Nam chủ yếu bao gồm những mạt hàng có thuế suất cao, nhưng chúng ta đang có lợi thế so sánh.
Hội nghị Bộ trưởng kinh tế lần thứ 31 và hội đồng AFTA lần thứ 13 diễn ra từ ngày 29/9 đến ngày 10/1999 tại Singapore vốn chủ đề tính: đẩy nhanh quá trình thực hiện AFTA, tiến tới loại bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong ASEAN thoả thuận công nhận lẫn nhau về mục tiêu chuẩn kỹ thuật để tạo điều kiện trong thương mại của ASEAN. Tại hội nghị các thành viên đã thống nhất.
1. Mỗi thành viên rà soát danh mục loại trừ hoàn toàn của mình theo hướng, chuyển 1 số lượng đáng kể mặt hàng từ danh mục loại trừ hoàn toàn sang diện cắt giảm thuế. Việt Nam đã tuyên bố chuyển 23 mặt hàng từ danh mục cắt giảm thuế.
2. Mục tiêu cắt giảm thuế của thuế trong danh mục cắt giảm thuế là 0-5% theo quy định trước đây CEPT được thay thế bằng mục tiêu giảm thuế suất xuống 0% để đạt được ASEAN là khu mậu dịch tự do hoàn toàn. Đối với Việt Nam hội nghị khuyến khích tối đa hoá dòng thuế có thuế suất 0-5% vào năm 2003.
3. Các bộ trưởng kinh tế đã ký nghị định thư về thoả thuận đặc biệt sản phẩm nhạy cảm cao. Nội dung chính của Nghị định này là: các mặt hàng nông sản chưa chế biến thuộc diện nhạy cảm sẽ đưa vào diện giảm thuế năm 2001 (đối với Việt Nam năm 2004) và đạt mức thuế suất còn 0-5% vào năm 2010 (đối với Việt Nam năm 2013). Năm 2010 cũng là năm các nước ASEAN thống nhất loại bỏ hoàn toàn hàng rào phi thuế quan. Đối với mặt hàng nhạy cảm cao (chủ yếu là Gạo nhập khẩu vào malaysia, Philippin và Inđônêsia) được linh hoạt hơn nhưng thuế suất không quá 20%.
Qua gần 3 năm thực hiện cặt giảm thuế theo CEPT, nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam chưa nhận thức được hết khó khăn thách thức, tính cạnh tranh gay gắt của việc mở cửa thị trường hội nhập vào kinh tế khu vực. Do vậy họ chưa có những điều chỉnh cần thiết để phù hợp với lịch giảm thúê nhập khẩu với ASEAN mà vẫn tiếp tục đầu tư và kinh doanh theo phương thưc cũ, thậm chí nhiều doanh nghiệp còn kiến nghị Chính phủ tiếp tục bảo hộ như trước đây.
Thách thức về lộ trình giảm thuế và phi thuế quan khi Việt Nam thực hiện CEPT có những điểm chú ý sau:
1. Tiến trì._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0177.doc