Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc nhận thức và vận dụng các quy luật, trong đó có quy luật xã hội là rất quan trọng, vì nó góp phần đẩy nhanh sự phát triển của xã hội. Trong các quy luật xã hội thì quy luật: "quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất’’ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì đây là quy luật cơ bản, xuyên suốt, chi phối quá trình phát triển của xã hội loài người, và làm cho lịch sử nhân loại được hiện ra như quá trình lịch sử tự nhiên
Sự
109 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1495 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất dưới tác động của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu những năm vừa qua, có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân các nước này đã vận dụng không đúng quy luật "quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất”.
Đối với nước ta, trước thời kỳ đổi mới, chúng ta đã nôn nóng muốn có ngay quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, chúng ta đã dùng sức mạnh của Nhà nước để xoá bỏ các loại hình quan hệ sản xuất khác; trong khi trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp, do đó, đã dẫn tới quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, đẩy đất nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện về kinh tế, xã hội.
Sau những năm đổi mới, chúng ta đã nhận thức lại, vận dụng đúng đắn sáng tạo quy luật: "quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất” và các quy luật khác. Chúng ta đã từng bước điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, bằng cách phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất, từ đó đã tạo ra bước ngoặt căn bản của đời sống xã hội trên đất nước ta.Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta còn có những yếu kém, bất cập, quan hệ sản xuất còn có mặt chưa phù hợp, hạn chế việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Do đó, việc tiếp tục xây dựng, điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp với lực lượng sản xuất là hết sức cần thiết để giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy sản suất phát triển.
Mặt khác, sự vận động, biến đổi của quan hệ sản xuất luôn luôn bị quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngày nay, sau một thời kỳ xây dựng, lực lượng sản xuất của ta đã có sự phát triển đáng kể (so với thời kỳ trước) cùng với xu thế của thế giới là toàn cầu hoá, hợp tác hoá, khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ đã tác động mạnh vào nước ta, làm bộc lộ nhiều mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, điều chỉnh quan hệ sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển làm cho nước ta hoà nhập với xu thế của thời đại là hết sức cần thiết và cấp bách.
Đất nước ta đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước vốn là thuộc địa, nghèo nàn, lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Việc chúng ta xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là rất cần thiết song cũng rất khó khăn, phức tạp, vì con đường ta đi là chưa có tiền lệ, chúng ta phải vừa xây dựng vừa khai phá. Do đó, qua mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, chúng ta lại phải điều chỉnh quan hệ sản xuất để thúc đẩy lưc lượng sản xuất phát triển và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Bưởi vậy, việc nghiên cứu sự biến đổi quan hệ sản xuất ở nước ta là rất quan trọng nó góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa cũng như thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Chính vì những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài: “Sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất dưới tác động của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên, cứu vận dụng quy luật: "Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất” trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là rất quan trọng. Do đó, trong thời gian vừa qua ở nước ta đã có nhiều các công trình, luận án, luận văn, tạp chí đề cập tới vấn đề này ở các khía cạnh khác nhau.
Các công trình nghiên cứu
Đào Duy Tùng: “Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1994) đã khái quát các giai đoạn tiến hành cách mạng ở nước ta.
GS Trần Xuân Trường: “Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam một số vấn đề lý luận cấp bách" (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1996 ) đề cập tới một số vấn đề lý luận trong tình hình mới.
PGS-TS Nguyễn Đức Bách: “Một số vấn đề về định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (Nxb Lao động, Hà Nội năm 1998) đã xem xét về con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
GS.TS Lương Xuân Quỳ: “Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến công bằng xã hội” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2002) đã đưa ra một số giải pháp để xây dựng quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ.
Các luận án tiến sĩ.
Những năm qua đã có một số luận án đề cập tới mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, vận dụng vào một địa phương cụ thể như:
Bùi Chí Kiên: “Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lâm Đồng" (Luận án tiến sĩ Triết học năm 1996).
Trung Giang Vin: “Sự vận dụng qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Tây Nguyên" (Luận án tiến sĩ Triết học năm 1998).
Nông Thị Mồng: “Xây đựng quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lạng Sơn" (Luận án tiến sĩ Triết học năm 2002).
Một số luận án đề cập tới sự biến đổi của các yếu tố trong quan hệ sản xuất.
Lê Thị Minh Hà: “Sự biến đổi các quan hệ sở hữu trong nông nghiệp dưới tác động của lực lượng sản xuất thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay” (Luận án tiến sĩ Triết học năm 2002).
Nguyễn Văn Ngọc: “Quan hệ biện chứng giữa các loại hình sở hữu trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay” (Luận án tiến sĩ Triết học năm 2002).
Luận văn thạc sĩ.
Đã có nhiều luận văn thạc sĩ nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất như:
Hoàng Xuân Bổng: “Suy nghĩ về sự tác động biện chứng của các yếu tố trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta” (Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1995).
Nguyễn Công Quyết: “Một số vấn đề nhận thức vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”(Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1995).
Trần Văn Dực: “Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay” (Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1995).
Vũ Xuân Kính: “Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" (Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1995).
Một số luận văn nghiên cứu về sự biến đổi của lực lượng sản xuất:
Hoàng Trọng Khuê: “Một số vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở nông thôn Thái Bình hiện nay” (Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1995).
Nguyễn Thị Quế: “ Yếu tố con người trong lực lượng sản xuất” (luận văn thạc sĩ Triết học năm 1995).
Các tạp chí:
Những năm qua, đã có nhiều bài báo của các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các nhà nghiên cứu đề cập tới mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản suất ở các khía cạnh khác nhau:
Tô Huy Rứa: “Nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (Tạp chí Cộng sản số 6 năm 2004).
Lê Hữu Nghĩa: “Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam thực trạng và giải pháp” (Tạp chí Triết học số 6 năm 2004).
Đào Duy Quát: “Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa” (Tạp chí Cộng sản số 6 năm 2003).
Đức Vượng: “Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường” (Tạp chí Cộng sản số 34 năm 2004).
Nguyễn Trọng Chuẩn: “Đổi mới quan niệm về chế độ sở hữu và ý nghĩa chiến lược của sự đổi mới đó đối với sự phát triển của Việt Nam hiện nay” (Tạp chí Triết học số 12 năm 2004).
Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về sự biến đổi của quan hệ sản xuất ở nước ta dưới sự tác động của lực lượng sản xuất.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu sự biến đổi quan hệ sản xuất ở nước ta, luận văn góp phần làm rõ về lý luận xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nhằm điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất để thúc đẩy sản xuất phát triển.
Nhiệm vụ:
Nghiên cứu sự biến đổi quan hệ sản xuất ở nước ta qua các thời kỳ dưới sự tác động của lực lượng sản xuất.
- Nghiên cứu sự tác động của quan hệ sản xuất đến sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta.
Đưa ra những phương hướng, giải pháp để xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ đề cập tới vấn đề quan hệ sản xuất dưới tác động của lực lượng sản xuất ở nước ta trong thời kỳ từ 1954 trở lại đây, để từ đó xác định con đường phát triển các loại hình quan hệ sản xuất trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn.
Luận văn vận dụng tổng hợp các nguyên tắc, phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để luận giải các nội dung đặt ra, trong đó chú trọng sử dụng các phương pháp logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp...v v.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn.
Luận văn góp phần tìm ra những vấn đề còn tồn tại của quan hệ sản xuất trong việc giải phóng lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
- Luận văn cũng góp phần vào việc xây dựng quan hệ sản xuất trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về lý luận hình thái kinh tế- xã hội và vai trò của quan hệ sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy ở các trường Đại học, Cao đẳng, các trường Chính trị và những người quan tâm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương và 4 tiết.
Chương 1
Sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất
ở Việt Nam trong những năm qua
1.1. Quan hệ sản xuất và sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất ở nước ta thời kỳ trước đổi mới
1.1.1. Quan hệ sản xuất và những yếu tố tác động đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất
* Khái niệm quan hệ sản xuất:
C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, Người cho rằng: tiền đề đầu tiên của sự tồn tại của con người và cũng là tiền đề của lịch sử là: "sản xuất vật chất". Thông qua việc nghiên cứu quá trình sản xuất vật chất của xã hội qua các giai đoạn lịch sử của nó, C.Mác đã phát hiện ra quy luật nội tại chi phối sự vận động, phát triển của xã hội. Trong những quy luật xã hội thì quy luật: " Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất" là quy luật cơ bản, chung nhất, chi phối sự vận động của các hình thái kinh tế xã hội - xã hội cũng như sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn.
Để tiến hành sản xuất vật chất thì con người phải tiến hành quan hệ song trùng; một mặt con người phải quan hệ với giới tự nhiên, biểu hiện của mối quan hệ này là lực lượng sản xuất, mặt khác con người phải quan hệ với nhau trong quá trình sản xuất, đó là quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất là hai mặt của một quá trình sản xuất, chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó lực lượng sản xuất qui định quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất cũng có sự tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không thể tiến hành một cách đơn lẻ, riêng rẽ mà phải liên kết với nhau, nương tựa vào nhau, hợp sức với nhau để có sức mạnh lớn hơn thì mới chinh phục được giới tự nhiên. Đó chính là quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người được hình thành một cách tất yếu, khách quan trong sản xuất vật chất. Nó được biểu hiện trên ba mặt đó là: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.
Trong quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định, vì nó quy định bản chất của quan hệ sản xuất, quyết định mục đích, hình thức tổ chức, phương thức quản lý và quyết định cả việc phân phối sản phẩm làm ra. Do vậy, quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của quan hệ sản xuất. Trong mối quan hệ giữa quan hệ sở hữu với lợi ích kinh tế thì quan hệ sở hữu là cái bên trong, được biểu hiện ra ngoài thông qua lợi ích. Lợi ích kinh tế là biểu hiện gần gũi nhất của quan hệ sở hữu. Bởi vì, lợi ích kinh tế của mỗi người, mỗi tập đoàn người, mỗi giai cấp cũng như vai trò của họ trong một hệ thống sản xuất vật chất được quy định trước hết do mối quan hệ của họ đối với việc chiếm hữu tư liệu sản xuất. Trong xã hội, giai cấp nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu, thì giai cấp đó nắm quyền chi phối xã hội đồng thời nắm quyền thống trị xã hội.
Quan hệ sở hữu quyết định hệ thống quản lý sản xuất kinh doanh, thông qua đó, nó quyết định hệ thống lợi ích kinh tế của các giai cấp khác nhau trong xã hội. Trong xã hội tư bản giai cấp tư sản nắm quyền sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu nên có quyền chi phối hệ thống quản lý sản xuất, do đó quyết định lợi ích của tất cả các giai cấp khác trong xã hội.
Lịch sử xã hội loài người đã có hai hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất đó là sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Cùng với sự phát triển của sản xuất, của phân công lao động thì các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất ngày càng trở lên đa dạng.
Trong các chế độ xã hội dựa trên công hữu về tư liệu sản xuất thì mọi thành viên đều bình đẳng trong tổ chức lao động và phân phối sản phẩm. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất tồn tại ở xã hội công xã nguyên thuỷ và xã hội công sản chủ nghĩa. Việc thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là tiền đề cho việc tổ chức quản lý và các hoạt động khác được thực hiện bình đẳng.
Xã hội loài người đã có ba loại hình sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất: Sở hữu tư nhân trong xã hội chiếm hữu nô lệ, sở hữu phong kiến và sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Đối với nước ta, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể là hai hình thức sở hữu cơ bản giữ vai trò định hướng sự phát triển của các hình thức sở hữu khác trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh, thích ứng với một kiểu quan hệ sở hữu là một chế độ tổ chức và quản lý sản xuất nhất định. Trong các xã hội mà nền sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thì người sở hữu tư liệu sản xuất cũng là người quản lý sản xuất, là kẻ bóc lột, còn người lao động không có tư liệu sản xuất là người bị quản lý và bị bóc lột.
Tuy phụ thuộc vào quan hệ sở hữu về liệu sản xuất, nhưng quan hệ tổ chức quản lý cũng có vai trò rất quan trọng và tác động trở lại đối với quan hệ sở hữu. Ngay cả khi chế độ sở hữu chưa có gì thay đổi nhưng nếu có một phương thức quản lý thích hợp thì sản xuất vẫn có bước phát triển. Trong nhiều trường hợp nó là yếu tố quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ và hiệu quả kinh tế. Khi lợi ích người lao động mâu thuẫn với chủ sở hữu và quản lý thì quan hệ tổ chức, quản lý mang nặng tính chất thống trị chuyên chế, cưỡng ép. Nếu quan hệ tổ chức quản lý được điều chỉnh, mâu thuẫn được tháo gỡ thì quan hệ giữa chủ sở hữu, nhà quản lý và công nhân mang tính hợp tác dân chủ hơn. Do vậy, có thể khai thác tính chủ động sáng tạo của người lao động, khi không có một hệ thống quản lý phù hợp thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại quan hệ sở hữu.
Thực tế cho thấy, các công ty bị vỡ nợ, phá sản nhiều khi không phải do công nghệ bị tụt hậu mà do chưa thiết lập được một quan hệ quản lý phù hợp, cũng có những công ty chỉ được trang bị công nghệ trung bình nhưng làm ăn phát đạt là nhờ có một hệ thống quản lý thích hợp. Vì thế, trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta, vấn đề đặt ra là không những cần phải xây dựng được một cơ cấu sở hữu hợp lý mà còn phải thiết lập được một hệ thống tổ chức quản lý hữu hiệu.
Quan hệ phân phối là một mặt cấu thành của quan hệ sản xuất. Trong quá trình sản xuất, quan hệ phân phối là cách thức phân chia kết quả sản xuất cho những người tham gia vào quá trình đó, việc phân phối sản phẩm phụ thuộc vào quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất. Do hình thức sở hữu rất đa dạng nên phương thức phân phối cũng rất phức tạp.
Trong các chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì quan hệ phân phối là bất bình đẳng. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến khác nhau, Adam Smit chỉ ra ở xã hội tư bản, người nông dân hưởng tiền công của họ do sở hữu sức lao động. Địa chủ hưởng địa tô, do sở hữu ruộng đất, tư bản hưởng lợi nhuận, do sở hữu tư liệu sản xuất. Điều đó có nghĩa là việc phân phối được tính theo các yếu tố của chi phí sản xuất và xác định qua giá cả thị trường. Trong khi đó, Mác chỉ ra cách phân phối mà ở đó tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư do bóc lột sức lao động của công nhân.
Quan hệ phân phối không chỉ phụ thuộc vào quan hệ sở hữu mà còn có sự tác động trở lại quan hệ sở hữu. Lịch sử loài người từ khi có sự phân chia giai cấp là lịch sử của đấu tranh giai cấp vì cách thức phân phối bất bình đẳng. Các cuộc đấu tranh đó xét đến cùng là để giải quyết mối quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất.
Trong ba nội dung cơ bản trên của quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định, nó chi phối các mặt khác của quan hệ sản xuất. Khi chế độ sở hữu thay đổi thì hình thức quản lý và phương thức phân phối cũng thay đổi theo. Mặt khác, quan hệ tổ chức quản lý đưa đối tượng sở hữu vào quá trình vận động và qua đó nó giải quyết các quan hệ lợi ích đảm bảo quyền sở hữu trên thực tế. Ngược lại, việc phân phối sản phẩm là động lực cho sự vận hành của quản lý và là động lực của các chủ sở hữu.
Những vấn đề trên đây là cơ sở lý luận để chúng ta điều chỉnh và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, thúc đẩy kinh tế phát triển theo quy luật khách quan.
Tuy nhiên, trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, quan hệ sản xuất thường tồn tại dưới nhiều loại hình khác nhau như: quan hệ sản xuất đóng vai trò chủ đạo, chi phối, quy định bản chất của mỗi hình thái kinh tế - xã hội trong mỗi giai đoạn của lịch sử. Các quan hệ sản xuất mang tính tất yếu nhưng không đóng vai trò chi phối mà chỉ bổ sung làm cho nền kinh tế phát triển đa dạng phong phú. Quan hệ sản xuất tàn dư, nó sẽ mất dần cùng với sự hình thành phát triển của nền kinh tế mới. Quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai thể hiện xu hướng phát triển của nền kinh tế sang giai đoạn cao hơn.
Điều này đã được lịch sử chứng minh, chẳng hạn: trong xã hội phong kiến, thì quan hệ sản xuất phong kiến biểu hiện thành quan hệ địa chủ - nông nô. Đây là quan hệ sản xuất chủ đạo, bên cạnh đó còn có quan hệ sản xuất tàn dư của chế độ thị tộc, bộ lạc mà cơ sở của nó là chế độ sở hữu đất công làng xã, hay còn tồn tại các nô tỳ vừa phục vụ trong các gia đình quý tộc phong kiến, vừa tham gia sản xuất như những người nô lệ. Cùng với sự phát triển của sản xuất phong kiến, mầm mống của sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng đã dần dần xuất hiện, làm cơ sở cho sự ra đời của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong thực tế, các loại hình quan hệ sản xuất không tồn tại biệt lập mà có sự tác động lẫn nhau, liên kết với nhau dưới nhiều hình thức muôn vẻ, để tạo thành cơ sở hạ tầng của một hình thái kinh tế - xã hội nào đó.
ở nước ta, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tất yếu còn tồn tại nhiều loại hình quan hệ sản xuất khách nhau, nó do trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta quy định. Do bản chất khác nhau của các loại hình quan hệ sản xuất, chúng vừa thống nhất, tương hợp lẫn nhau, vừa mâu thuẫn, xung đột với nhau. Điều đó tác động đến xu hướng vận động của cả hình thái kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ. Do vậy, việc xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta muốn trở thành hiện thực phải xây dựng, củng cố được vai trò chủ đạo của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở sở hữu toàn dân và tập thể.
Tóm lại: Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Nó bao gồm: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý, quan hệ phân phối sản phẩm. Trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định các quan hệ khác, hai quan hệ kia cũng có sự tác động trở lại, chúng có thể củng cố, phát triển quan hệ sở hữu, cũng có thể làm xói mòn, biến dạng quan hệ sở hữu, do đó không được tuyệt đối hoá một quan hệ nào, mà phải thấy được quan hệ biện chứng giữa chúng.
Khuynh hướng của sản xuất vật chất là luôn luôn vận động và phát triển, do đó quan hệ sản xuất cũng luôn có sự vận động và phát triển. Sự vận động, biến đổi của quan hệ sản xuất không chỉ diễn ra trong một hình thái kinh tế - xã hội mà còn diễn ra trong quá trình chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. Quan hệ sản xuất là quan hệ vật chất, nó mang tính khách quan và tương đối ổn định, sự hình thành phát triển của nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người mà do sự quy định của nhiều yếu tố khác nhau.
* Những yếu tố quy định sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
Trong lịch sử nhân loại, quan hệ sản xuất luôn luôn biến đổi cùng với sự phát triển của xã hội, sự thay đổi của phương thức sản xuất. Sự biển đổi của quan hệ sản xuất được quy định bởi nhiều nhân tố khác nhau, ở đây chúng ta chỉ đi vào những nhân tố chủ yếu.
- Lực lượng sản xuất:
Điểm xuất phát nghiên cứu của C.Mác là sản xuất vật chất, bởi vì lao động sản xuất là đặc trưng riêng của con người. Vượt qua tất cả các nhà triết học trước đó, Mác đã phát hiện ra những quy luật của lịch sử từ một sự thật đơn giản đó là: "con người trước hết phải ăn, uống, ở và mặc đã, rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo" [54, tr.500].
Để tiến hành sản xuất con người phải quan hệ với giới tự nhiên. Mối quan hệ đó được biểu hiện dưới dạng lực lượng sản xuất. Nhưng con người chỉ có thể tiến hành sản xuất có hiệu quả khi liên kết với nhau, hợp sức với nhau lại thì mới chinh phục được giới tự nhiên. Quan hệ giữa những con người với nhau trong quá trình sản xuất biểu hiện thành quan hệ sản xuất, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đều là kết quả hoạt động của con người, song bản thân mối quan hệ đó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người mà tuân theo những quy luật khách quan. Đó là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.
Quy luật này đã chi phối sự phát triển xã hội loài người và góp phần làm cho quá trình phát triển ấy trở thành một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Sản xuất vật chất của xã hội không ngừng biến đổi và phát triển. Sự phát triển đó bao giờ cũng bắt đầu từ lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất do con người sáng tạo ra nhưng nó tồn tại một cách khách quan ngoài ý muốn của con người, bởi vì:
Thứ nhất, lực lượng sản xuất không phải chỉ do một cá nhân sáng tạo ra nó là sản phẩm tổng hợp của sự hợp tác và phân công lao động của cả cộng đồng tạo ra. Sự hợp tác và phân công ấy không lệ thuộc vào ý muốn của ai mà là yêu cầu khách quan của sự phát triển. Mác viết:
Lực lượng xã hội, lực lượng sản xuất được nhân lên gấp bội và ra đời từ sự hợp tác và sự phân công lao động quy định cho những cá nhân khác nhau - xuất hiện trước những cá nhân ấy, không phải như một lực lượng kết hợp của bản thân họ, vì bản thân sự kết hợp đó không phải là tự nguyện, mà là tự nhiên và xuất hiện như một lực lượng xa lạ, ở bên ngoài họ, lực lượng mà bản thân họ cũng chẳng biết từ đâu đến và sẽ đi đâu, lực lượng mà do đó họ không thể chế ngự được và trái lại, lực lượng ấy hiện đang trải qua một chuỗi đặc biệt những giai đoạn và nhiều trình độ phát triển chẳng những độc lập với ý chí và hành động của loài người mà còn điều khiển ý chí và hành động ấy [50, tr.49].
Thứ hai, mỗi người mỗi thế hệ không thể tự lựa chọn lực lượng sản xuất cho mình mà kế thừa một cách tự nhiên những lực lượng sản xuất do thế hệ trước để lại dù anh ta có thích hay không: "con người không được tự do trong việc lựa chọ lực lượng sản xuất của mình... bưởi vì mọi lực lượng sản xuất đều là lực lượng được tạo ra, đều là sản phẩm của hoạt động trước đó" [57, tr.657].
Lực lượng sản xuất phát triển trong một dòng chảy liên tục, sự biến đổi của lực lượng sản xuất bao giờ cũng bắt nguồn từ người lao động. Người lao động vừa là người không ngừng sáng tạo ra các công cụ lao động mới, vừa là người sử dụng công cụ lao động để đạt lợi ích của mình, do đó người lao động là lực lượng sản xuất hàng đầu. Bên cạnh đó, yếu tố quyết định trong tư liệu sản xuất là công cụ lao động, công cụ lao động là yếu tố nối dài khí quan của con người trong quá trình cải tạo giới tự nhiên. Công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất quyết định sự phát triển của tư liệu sản xuất.
Sự phát triển về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất. Nguyên nhân sâu xa là do con người không bao giờ thoả mãn với những cái đã có, luôn luôn nẩy sinh nhu cầu mới cao hơn, để thoả mãn nhu cầu mới, con người đã sáng tạo ra nhiều công cụ mới để chinh phục tự nhiên, tích luỹ kinh nghiệm, sáng kiến, nâng cao trình độ của người lao động. Do đó lực lượng sản xuất không ngừng phát triển trước hết là công cụ lao động. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó lại làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là một yêu cầu khách quan.
Nghiên cứu sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất ta cần lưu ý:
- Sự phù hợp này do yêu cầu của lực lượng sản xuất đặt ra, phải lấy lực lượng sản xuất làm tiêu chuẩn và nhằm đáp ứng các yêu cầu của lực lượng sản xuất.
- Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là sự phù hợp xác định. Mác khẳng định mỗi giai đoạn mới của phân công lao động cũng quy định những quan hệ giữa cá nhân với nhau, căn cứ vào quan hệ của họ với tư liệu lao động, công cụ lao động và sản phẩm lao động.
- Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất có nghĩa là quan hệ sản xuất tạo điều kiện, địa bàn rộng rãi thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Tuy nhiên, sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là sự phù hợp của những mặt đối lập có sự mâu thuẫn biểu hiện ở chỗ, lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn phát triển do con người của mỗi thế hệ được kế thừa lực lượng sản xuất của thế hệ trước để lại và không ngừng hoàn thiện, sáng tạo thêm nhiều lực lượng sản xuất mới, trong khi đó quan hệ sản xuất lại tương đối ổn định. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức. Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó, nội dung thường xuyên biến đổi còn hình thức lại có tính ổn định tương đối.
Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức nào đó thì quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa, mâu thuẫn giữa chúng trở nên gay gắt, lúc đó. Mác viết "từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất - những quan hệ sản xuất ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu một thời đại mới của một cuộc cách mạng xã hội" [53, tr.607].
Khi mâu thuẫn đến cực điểm, tất yếu dẫn tới đòi hỏi phá vỡ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với nó. Quan hệ sản xuất mới lại thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và giữa chúng lại nảy sinh mâu thuẫn, để rồi đến một lúc nào đó quan hệ sản xuất mới lại bị thay thế bằng một quan hệ sản xuất khác. Cứ như vậy, tình trạng phù hợp - không phù hợp - rồi lại phù hợp đan xen nhau, chuyển hoá lẫn nhau diễn ra trong suốt quá trình vận động, biến đổi, tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Sự phù hợp, thống nhất của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là tạm thời, mâu thuẫn giữa chúng là liên tục và xuyên suốt quá trình sản xuất vật chất chất. Quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa chúng là động lực khách quan thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển không ngừng để thiết lập một sự phù hợp mới cao hơn, hoàn bị hơn.
Phát hiện ra quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một cống hiến khoa học vĩ đại của C. Mác. Phát hiện này cho chúng ta thấy tính quy luật của sự hình thành, phát triển quan hệ sản xuất bao giờ cũng do trình độ của lực lượng sản xuất qui định, nhưng đến lượt nó quan hệ sản xuất lại có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là cơ sở lý luận quan trọng, để chúng ta đổi mới, cải tiến các hình thức sở hữu, hình thức tổ chức quản lý và phương thức phân phối ở nước ta hiện nay.
Sự biến đổi của quan hệ sản xuất không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất mà còn do nhiều yếu tố tác động làm biến đổi quan hệ sản xuất như: điều kiện chính trị, lịch sử, truyền thống điều kiện quốc tế và điều kiện tự nhiên.
- Sự tác động của các nhân tố:chính trị, truyền thống, quốc tế, điều kiện địa lý tự nhiên đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
Nhân tố chính trị
Trong thời đại hiện nay, nhân tố làm biến đổi quan hệ sản xuất còn là nhân tố chính trị nó bao gồm thể chế chính trị và vai trò của người lãnh đạo. Theo quy luật thì quan hệ kinh tế bao giờ cũng giữ vai trò quyết định đối với chính trị, nhưng chính trị cũng có sự tác động trở lại đối với kinh tế. Trong nhiều trường hợp thể chế chính trị có sự tác động to lớn đối với quan hệ sản xuất. Chẳng hạn, công cuộc cải tổ, cải cách đã diễn ra ở một loạt nước xã hội chủ nghĩa như: Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác. Điều kiện để cải tổ, cải cách thành công một mức độ rất lớn tuỳ thuộc bởi nhân tố chính trị và tính năng động của người lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở mỗi quốc gia đó. Vấn đề là phải biết vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp một cách sáng tạo với thực tế sinh động của nước mình. Công cuộc cải tổ, cải cách đã đưa lại nhiều biến đổi trong quan hệ sản xuất.
Do tác động của thể chế chính trị, cơ cấu sở hữu ở các nước khác nhau đều có nhiều biến đổi khác nhau. Ngay cả ở các nước tư bản tỷ lệ % các hình thức sở hữu cũng khác nhau, phụ thuộc vào chính sách điều tiết vĩ mô của Chính phủ, do đó tạo ra những nét khác nhau của các._. nước tư bản.
yếu tố truyền thống
ở mọi thời điểm lịch sử nhất định, di sản truyền thống do lịch sử để lại bao giờ cũng bao hàm những yếu tố tích cực và hạn chế. Mâu thuẫn đó tồn tại đan xen, tác động đến sự biến đổi của thể chế kinh tế của bất cứ quốc gia nào.
Truyền thống có ảnh hưởng nhiều đến sự lựa chọn chiến lược và các giải pháp phát triển quan hệ sản xuất, nhất là đối với những nước đang trong giai đoạn chuyển đổi mô hình sang kinh tế thị trường, trong đó có nước ta. Xây dựng bất kỳ một thể chế kinh tế - xã hội đều phải dựa trên mảnh đất văn hoá truyền thống làm nền tảng.
Sự phát triển của quan hệ sản xuất suy cho cùng là phụ thuộc vào lực lượng sản xuất và sự biến đổi của các giá trị văn hoá, chỉ có dựa trên những yếu tố vật chất và tinh thần làm cơ sở thì thể chế kinh tế mới được đặt trên mảnh đất hiện thực. Quá trình biến đổi của văn hoá, truyền thống văn hoá đã sản sinh ra hệ thống giá trị và các thang giá trị đạo đức quy định hành vi ứng xử và tư duy của con người, từ đó trở thành cơ sở của sự phát triển các tư duy kinh tế. Vì thế, tác động của truyền thống tạo nên những biến đổi làm cho quan hệ sản xuất ở những nước này khác nước kia, nền kinh tế của nước này khác nước khác. Như vậy, yếu tố truyền thống là một tác nhân quan trọng góp phần vào sự biến đổi của quan hệ sản xuất ở mỗi quốc gia, tạo nên nét đặc thù trong sự phát triển của nền kinh tế, là cơ sở góp phần vào sự phát triển phong phú, đa dạng của các quốc gia.
Nhân tố quốc tế
Trong quá trình phát triển của lịch sử thế giới, quan hệ giữa nhân loại - dân tộc là quan hệ giữa phổ biến và đặc thù. Chính dưới ảnh hưởng của các chỉnh thể - lịch sử mà có sự khác biệt trong quá trình phát triển quan hệ sản xuất ở các quốc gia. Điều này xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong quá trình tồn tại, vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng. Chỉ dựa trên cơ sở phân tích lý giải so sánh chúng ta mới có thể lý giải được sự khác biệt trong quá trình phát triển của quan hệ sản xuất ở các quốc gia chẳng hạn: nước Mỹ bỏ qua quan hệ sản xuất phong kiến là do ảnh hưởng của điều kiện quốc tế quy định.
Việt Nam trước đây chỉ tồn tại hai loại hình sở hữu là sở hữu toàn dân và tập thể. Một mặt là do nhận thức sai lầm của chúng ta, mặt khác là sự tác động của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, Việt Nam phát triển đa dạng hoá các loại hình quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là do ảnh hưởng lực lượng sản xuất của thế giới phát triển mạnh mẽ mang tính chất quốc tế hoá, tạo điều kiện cho ta có thể hội nhập, đi tắt đón đầu.
Nhân tố quốc tế có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự biến đổi của quan hệ sản xuất, đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hoá, quốc tế hoá hiện nay.
Điều kiện tự nhiên
Điều kiện địa lý tự nhiên tuy không phải là nhân tố quyết định nhưng nó có vai trò quan trọng góp phần vào sự biến đổi của quan hệ sản xuất trong quá trình phát triển của các quốc gia. Nhiều hiện tượng sẽ không thể cắt nghĩa được nếu không căn cứ vào điều kiện địa lý tự nhiên.
Chẳng hạn, ngày nay vẫn còn có bộ lạc sinh sống theo lối nguyên thuỷ như người La Hủ ở miền núi phía Bắc Việt Nam hoặc những bộ tộc ở thượng lưu sông Amadôn, tất cả điều đó chỉ có thể lý giải là do tác động của điều kiện địa lý tự nhiên.
Hoàn cảnh địa lý khó khăn đã ngăn trở sự giao lưu của những bộ lạc này với cuộc sống hiện đại, những dãy núi cao, những cánh rừng bạt ngàn đã cô lập họ với xã hội hiện đại và bảo vệ cho lối sống nguyên thuỷ hầu như còn nguyên vẹn.
Sự vận động của quan hệ sản xuất chịu sự chi phối của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, ở mỗi quốc gia thì sự vận động có sự tương đồng khác biệt. Sự khác biệt do nhiều yếu tố khác nhau: điều kiện tự nhiên, điều kiện quốc tế, nhân tố chính trị truyền thống. Những nhân tố này là nguyên nhân tạo nên nét đặc thù trong sự phát triển đa dạng của các quốc gia.
Tuy nhiên, yếu tố quyết định cho sự vận động, biến đổi của quan hệ sản xuất là do trình độ của lực lượng sản xuất quy định. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận thực tiễn hết sự to lớn đối với việc đổi mới quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản ở nước ta thời kỳ trước đổi mới (1954 -1986)
Năm 1954, sau hiệp định Giơ - ne - vơ, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền, miền Bắc được giải phóng, nhưng miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của thực dân, đế quốc. Từ đó, hai miền thực hiện hai nhiệm vụ khác nhau: miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, còn miền Nam tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Từ 1954 - 1957, nhiệm vụ chủ yếu của miền Bắc là tập trung khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật để đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ này đất nước ta duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, bao gồm: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước.
Chính sự đa dạng hóa các loại hình quan hệ sản xuất như vậy, đã làm cho quan hệ sản xuất ở nước ta phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, nhờ vậy đã huy động được tiềm năng của dân tộc, chỉ trong một thời gian ngắn nền kinh tế đã được khôi phục vượt mức trước chiến tranh: "năm 1957 giá trị sản lượng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, tăng 299,9% so với năm 1939. Giá trị sản lượng nông nghiệp bình quân trong 3 năm (1955 - 1971) tăng 10%, năng suất đạt 18 tạ/ha, bình quân lương thực/ đầu người năm1957 đạt 329kg” [74, tr.12].
Chính sách đúng đắn của Đảng - Nhà nước về xây dựng quan hệ sản xuất thời kỳ đó đã thực sự tôn trọng quy luật kinh tế khách quan, thực chất là phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất, từ đó thúc đẩy sản xuất ở nước ta phát triển.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của chiến tranh, của mô hình kế hoạch hóa tập trung ở các nước xã hội chủ nghĩa và do nhận thức thời kỳ đó cho rằng sản xuất nhỏ hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản, nên các thành phần kinh tế đã không được khuyến khích phát triển.
Năm 1960 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng đã xác định đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường xã hội chủ nghĩa. Do đó, chúng ta đã tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất với mục tiêu là xóa bỏ các loại hình quan hệ sản xuất khác chỉ cho phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa " đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh hòa bình thống nhất đất nước, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa" [14, tr.79].
Đó là biểu hiện của tư tưởng nóng vội, chủ quan duy ý chí trong khi đất nước ta còn nghèo nàn, lạc hậu sản xuất nhỏ là phổ biến, lực lượng sản xuất hết sức thấp kém:
Miền Bắc nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu chủ yếu dựa trên sản xuất cá thể, cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản hết sức kém cỏi và non yếu, công nghiệp mới phôi thai, nông nghiệp và thủ công nghiệp có tính chất phân tán chiếm bộ phận lớn trong nền kinh tế quốc dân. Diện tích ruộng đất bình quân tính theo đầu người chỉ có ba sào Bắc bộ, số người thừa sức lao động ở nông thôn miền đồng bằng bắc bộ quá đông. Trình độ văn hóa của nhân dân còn thấp lực lượng kỹ thuật do xã hội cũ để lại hầu như không có gì nhất là về cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề [14, tr.52].
Với trình độ lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém như vậy, thì kinh tế nhiều thành phần là phù hợp và sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển, nhưng do mắc phải tư tưởng chủ quan, nóng vội nên ta đã mắc sai lầm khi vận dụng quy luật. Thời kỳ đó, chúng ta đã có quan niệm hết sức sai lầm rằng cần phải tạo ra quan hệ sản xuất mới, đi trước mở đường để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng triệt để nhất, sâu sắc nhất trong lịch sử loài người. Nó xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xóa bỏ giai cấp bóc lột thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, mở đường cho sản xuất từ trình độ lạc hậu tiến lên trình độ hiện đại, do đó mà sản xuất phát triển cao làm cho nhân dân lao động thoát khỏi cảnh nghèo đói [14, tr.5].
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Mác có nói xoá bỏ chế độ tư hữu về liệu sản xuất nhưng đó là quá trình hết sức lâu dài, nó không do ý muốn chủ quan của con người mà do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Quan hệ sản xuất chỉ có tác dụng mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển khi quan hệ sản xuất cũ đã trở nên lỗi thời, không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, khi đó phá bỏ quan hệ sản xuất cũ xác lập quan hệ sản xuất mới cho nó phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất sẽ làm cho lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng quan hệ sản xuất luôn bị quy định bưởi trình độ của lực lượng sản xuất chứ không phải do ý muốn chủ quan của con người.
Chúng ta đã mắc phải sai lầm cho rằng xây dựng quan hệ sản xuất mới thì tự động lực lượng sản xuất sẽ phát triển không cần tính đến trình độ của lực lượng sản xuất.
Do vậy, sự biến đổi của quan hệ sản xuất ở nước ta thời kỳ đó không phải do yêu cầu của lực lượng sản xuất mà do sự tác động của nhân tố chính trị. Điều này được chỉ rõ: "Muốn cải tạo xã hội chủ nghĩa đi đến thắng lợi hoàn toàn phải không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực, ra sức phát huy quyền lực chính trị và kinh tế của nhà nước để đè bẹp âm mưu phá hoại của bọn phản cách mạng” [14, tr. 64-65].
Với thắng lợi của giai đoạn khôi phục kinh tế sau chiến tranh, hội nghị trung ương Đảng lần 14 khóa II đã đề ra ba năm cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960) với nội dung chủ yếu là:
"Đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm trước mắt là đẩy mạnh cuộc cải tạo đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh đồng thời ra sức phát triển kinh tế quốc doanh" [23, tr.12]. Mục tiêu của công cuộc cải tạo khi đó là: xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân, xác lập công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể nhằm xoá bỏ chế độ người bóc lột người, tức là xóa bỏ đi loại hình quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa, xây dựng, phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Chúng ta muốn nhanh chóng có ngay một loại hình quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa thuần nhất.
ở miền Bắc lúc đó 90% dân số là nông dân nên Đảng đã chủ trương: hợp tác hóa nông nghiệp là khâu chính trong toàn bộ dây chuyền cải tạo xã hội chủ nghĩa, với sự tin tưởng của nông dân vào sự lãnh đạo của Đảng, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc đã diễn ra một cách thuận lợi, với tốc độ nhanh. Đến cuối năm 1960, 85,8% số hộ nông dân đã vào hợp tác xã với 73% tổng diện tích canh tác.
Đối với thợ thủ công và những người sản xuất cá thể khác đều được cải tạo theo con đường hợp tác xã. Đến cuối năm 1960 đã có 87,9% thợ thủ công tham gia hợp tác hoặc tổ sản xuất. Toàn miền Bắc có 2760 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp. Những người buôn bán nhỏ cũng được cải tạo với hình thức phổ biến là đưa họ vào hợp tác xã mua bán hoặc chuyển sang sản xuất.
Thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản dân tộc được coi là đối tượng của cách mạng xã hội chủ nghĩa cần phải được xóa bỏ. Đảng đã chủ trương cải tạo hòa bình, bằng cách chuộc lại trả dần và thông qua gia công đặt hàng, đại lý, xí nghiệp công tư hợp doanh. Đối với các xí nghiệp tư bản lớn hình thức cải tạo là công tư hợp doanh, với các xí nghiệp nhỏ chủ yếu là xí nghiệp hợp tác. Đến 1960, 100% hộ tư sản công nghiệp, 99,4% hộ tư sản thương nghiệp và 99% hộ kinh doanh trong ngành giao thông vận tải đã được cải tạo [74, tr.40].
Thành phần kinh tế quốc doanh được mở rộng theo hai con đường là cải tạo các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa và xây dựng hàng loạt các cơ sở mới thuộc khu vực nhà nước. Nhờ sự nỗ lực của toàn dân và sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, chỉ trong một thời gian ngắn, một loạt các cơ sở công nghiệp đã được xây dựng như: khu gang thép Thái Nguyên, nhà máy cơ khí Hà Nội, nhà máy nhiệt điện Uông Bí. Đến năm 1960 công nghiệp quốc doanh chiếm 55,3% giá trị tổng sản lượng, thương nghiệp quốc doanh chiếm 93,6% tổng mức buôn bán và 51% tổng mức bán lẻ. Các hoạt động tài chính, ngân hàng, ngoại thương Nhà nước giữ vai trò độc quyền.
Thành phần kinh tế cá thể bị thu hẹp, nhưng vẫn giữ một vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu của nhân dân, 1960 kinh tế cá thể chiếm 33,4% trong tổng sản phẩm xã hội, 21% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 14% giá trị sản lượng nông nghiệp [74, tr.41].
Sau ba năm cải tạo, xây dựng quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã chiếm ưu thế tuyệt đối trong nền kinh tế, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và tiền tư bản chủ nghĩa bị thu hẹp, ở ta chỉ còn tồn tại chủ yếu loại hình quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đó là do tác động của nhân tố chính trị.
Từ 1960-1986, trong giai đoạn này, quần chúng nhân dân rất tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, khắp nơi diễn ra phong trào thi đua sôi nổi như: phong trào "Sóng duyên hải", "gió đại phong, cờ ba nhất”... trong điều kiện đó mô hình kế hoạch hóa tập trung có vai trò to lớn trong việc huy động sức người, sức của cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, bộ mặt thành phố và nông thôn miền Bắc thay đổi nhanh chóng.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) công nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng kể: hàng năm nhà nước đầu tư vào công nghiệp 343 triệu đồng, xây dựng thêm 120 xí nghiệp, đưa tổng xí nghiệp 1960 là 1132 xí nghiệp, trong đó công nghiệp trung ương là 209, công nghiệp địa phương 927, hình thành một số khu công nghiệp như: Hà Nội, Đông Anh, Việt Trì, Thái Nguyên, Hải Phòng...
Trong nông nghiệp, từ 1961 - 1965 bình quân nhà nước đầu tư cho nông nghiệp được 651triệu đồng, tốc độ tăng bình quân 10% năm, riêng thủy lợi tăng 32%, điện tăng 9 lần, máy kéo tiêu chuẩn tăng 11,5 lần [74, tr.72].
Tuy nhiên, giai đoạn này đã bắt đầu bộc lộ những hạn chế và những dấu hiệu tiêu cực, năng lực quản lý của cán bộ thấp kém, hiện tượng tham ô lãng phí xuất hiện...
Trong lúc miền Bắc đang xây dựng chủ nghĩa xã hội thì năm 1964 đế quốc Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, khi đó chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc, khẩu hiệu lúc đó "tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Miền Bắc vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến" 'vừa sản xuất, vừa chiến dấu". Trong điều kiện đó việc quản lý kế hoạch tập trung càng phát huy vai trò trong chiến đấu và sản xuất, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Việt Nam được phát huy cao độ trong điều kiện chiến tranh, khắp nơi diễn ra phong trào thi đua sôi nổi trong sản xuất và trong chiến đấu như: phong trào 5 tấn thóc trong nông nghiệp, phong trào thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, phong trào thanh niên 3 sẵn sàng, phụ nữ 3 đảm đang. Nhà nước thực hiện chế độ phân phối chặt chẽ theo tem phiếu, theo định suất đó là một trong những điều kiện, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp chống Mỹ.
Tuy nhiên, điều kiện chiến tranh cũng làm này sinh nhiều mặt tiêu cực, do sản xuất không ổn định phải phân tán khắp nơi, vừa sản xuất vừa chiến đấu nên không thực hiện được chế độ hạch toán kinh tế, phải tiến hành sản xuất với bất cứ giá nào, lỗ thì nhà nước chịu, từ đó quản lý kinh tế bị buông lỏng, tham ô lãng phí phát triển, bao cấp tràn lan.
Trải qua quá trình đấu tranh gian khổ, đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cả nước thống nhất, đi vào thực hiện cùng một nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhờ đó, chúng ta đã tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, với mục tiêu là xoá bỏ sự tồn tại của các loại hình quan hệ sản xuất phi xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thuần nhất.
Đối với nông nghiệp, sau ngày miền Nam giải phóng, chúng ta đã tiến hành điều chỉnh lại ruộng đất, vận động nông dân đi vào làm ăn tập thể với các hình thức: tổ đoàn kết, tổ đổi công... Đến năm 1979 đại bộ phận nông dân đã đi vào hợp tác xã hoặc tập đoàn sản xuất.
Đối với công thương nghiệp tư bản tư nhân, đã áp dụng linh hoạt các hình thức cải tạo như:
Quốc hữu hoá các xí nghiệp tư sản mại bản.
Cải tạo một cách hoà bình tư sản dân tộc dưới hình thức công tư hợp doanh.
Xoá bỏ tư sản thương nghiệp.
Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa công thương nghiệp tư bản tư nhân được tiến hành môt cách mạnh mẽ, đến năm 1978 đã căn bản hoàn thành về hình thức. Nhưng trong thực tế, hầu hết tài sản của giai cấp tư sản đã được cất dấu hoặc các nhà tư sản đã thay đổi hình thức hoạt động dưới dạng công tư hợp doanh.
Việc chúng ta áp dụng mô hình cải tạo ở miền Bắc vào miền Nam đã không mang lại kết quả mong muốn. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn tồn tại nhưng dưới vỏ bọc của quốc doanh. Mặt khác sự thống nhất đất nước đã tạo điều kiện mở rộng giao lưu kinh tế giữa hai miền, làm cho kinh tế hai miền thâm nhập vào nhau. Trong quá trình giao lưu đó, thành phần kinh tế cá thể dần dần phát triển, kinh tế tư bản tư nhân xuất hiện trở lại: “năm 1976 kinh tế quốc doanh chiếm 27,74%, kinh tế tập thể chiếm 25,05%, kinh tế tư nhân ,cá thể chiếm 47,21%” [64, tr.66].
Những yếu tố đó đã tác động, làm xói mòn quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Hiện tượng “chân trong, chân ngoài” ngày càng trở lên phổ biến, sản xuất không phát triển, thậm chí còn suy giảm. Nông nghiệp cả nước giảm, “năm 1976 đạt 240 kg/ người, đến năm 1980 chỉ còn 214 kg/ người” [74, tr.105].
Mặt khác, năng xuất của tập thể thấp hơn cá thể do đó nhiều nơi xuất hiện khoán chui như Hải Phòng, Vĩnh Phú v v...
Sản xuất công nghiệp phát triển chậm "từ 1976 đến 1980 tốc độ tăng bình quân hàng năm chỉ có 0,6%. Nhiều xí nghiệp phải thu hẹp hoặc chuyển hướng sản xuất, hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị chỉ đạt trên dưới 50%, năng xuất lao động thấp, thu nhập của cán bộ, công nhân viên giảm sút, đời sống gặp nhiều khó khăn” [74, tr.84].
Đứng trước đòi hỏi bức xúc của cuộc sống, vấn đề cải tiến quản lý được đặt ra một cách cấp thiết. Tháng 8 năm 1979 Hội nghị Trung ương Đảng lần 6 khoá IV đề ra chủ trương cho phép sản xuất "bung ra” nhằm khắc phục một bước cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Đối với nông nghiệp, tháng 1 năm 1981 Ban bí thư trung ương đã ra chỉ thị 100 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động. Chỉ thị đã có tác dụng tích cực thúc đẩy người lao động tận dụng đất đai, vốn, kỹ thuật... vào thâm canh. Nhờ đó năng xuất lao động đã tăng lên “năng xuất bình quân một vụ từ1976 đến 1980 là 20,2 tạ/ha, thì từ 1981 đến 1985 là 25,8 tạ/ha” [41, tr. 57 ].
Để tiếp tục cải tiến quản lý kinh tế, Hội nghị lần 8 (6/1985) của trung ương Đảng đã đề ra chủ trương cải cách giá, lương, tiền. Đây là một nghị quyết nhằm xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp trong giá, lương, tiền để chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Song sau khi triển khai thực hiện, nhất là sau khi đổi tiền, tình hình kinh tế có nhiều diễn biến phức tạp: giá cả leo thang, đời sống mhân dân gặp nhiều khó khăn. Đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Trước đổi mới từ 1954 - 1985, sự vận động, biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất ở nước ta không tuân theo quy luật kinh tế khách quan. Chúng ta đã tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực quan hệ sản xuất với mục tiêu là: xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức quốc doanh và tập thể, xoá bỏ sự tồn tại của các loại hình quan hệ sản xuất khác. Cho đến năm 1985, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bị xoá bỏ, quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa chỉ còn lại rất ít. Điều này, là do ảnh hưởng của Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa và yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta. Mặt khác, do tư tưởng chủ quan, duy ý chí chúng ta đã tuyệt đối hoá vai trò của chính trị, coi chính trị là nhân tố quyết định tất cả, kinh tế phải thay đổi theo cho phù hợp với chính trị. Chúng ta đã tạo lập quan hệ sản xuất theo yêu cầu của chính trị và đòi hỏi lực lượng sản xuất phải phát triển phù hợp với quan hệ sản xuất chứ không phải ngược lại. Đây là sự vi phạm quy luật kinh tế khách quan, trái với lý luận hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác. Sự phát triển của quan hệ sản xuất không tuân theo yêu cầu của lực lượng sản xuất là nguyên nhân đẩy nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng về kinh tế- xã hội. Vì vậy, việc điều chỉnh lại quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất là một đòi hỏi tất yếu nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển.
1.2. Sự biến đổi của các loại hình quan hệ sản xuất từ khi đổi mới đến nay (từ 1986 - nay )
1.2.1. Tính tất yếu của sự phát triển đa dạng hoá các loại hình quan hệ sản xuất của nước ta
Đất nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến sản xuất nhỏ là phổ biến bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này đã được Đảng khẳng định rõ ngay từ cương lĩnh đầu tiên 1930 là "làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới chủ nghĩa cộng sản". Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng từ khi thành lập Đảng cho tới nay, Đảng ta đã luôn kiên trì lựa chọn con đường đó.
Do xuất phát điểm của nước ta còn thấp, lại bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, sự phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất là một đòi hỏi khách quan.
Về mặt lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng: Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội không chỉ có một loại hình quan hệ sản xuất thuần nhất mà thường có sự tồn tại đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất, bao gồm:
- Quan hệ sản xuất thống trị
- Quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội trước.
- Quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai.
Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ đạo chi phối các quan hệ sản xuất khác và tạo nên đặc trưng của cơ sở hạ tầng của xã hội đó.
Vận dụng tư tưởng của Mác- Ăng ghen khi nghiên cứu hình thái kinh tế -xã hội, Lênin đã có sự phát triển sáng tạo về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và đóng góp rất lớn trong việc xây dựng quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn độc quyền, trên cơ sở quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, Lênin đã đưa ra quan niệm mới của mình về thời kỳ quá độ. Người khẳng định nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế không thuần nhất, tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ. Tính chất quá độ đó được Lênin viết:
Danh từ quá độ có nghĩa là gì?.Vận dụng vào kinh tế có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không ? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có song không phải mỗi người thừa nhận điều ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế- xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở chỗ đó [47, tr.248].
Từ tư tưởng của Lênin, cho phép chúng ta nhận thức rằng thành phần kinh tế là những bộ phận cấu thành của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ được dựa trên quan hệ sản xuất tương ứng với trình độ của lực lượng sản xuất. Các thành phần kinh tế khác nhau về tính chất, quy mô sở hữu và trình độ của lực lượng sản xuất.
Lênin là người đầu tiên đề ra kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội và kế hoạch này được áp dụng đầu tiên ở nước Nga. Tuy nhiên, sau Cách mạng Tháng 10 Nga thành công 1917 nước Nga rơi vào cuộc nội chiến 1918 - 1920. Trong bối cảnh đó, Lênin đã áp dụng chính sách cộng sản thời chiến. Khi cuộc nội chiến kết thúc, hoà bình lập lại, cả nước bước vào một giai đoạn mới, kiến thiết, xây dựng lại đất nước.
Thực tế nước Nga lúc đó đã chỉ ra: Việc tiếp tục thực hiện chính sách đó là sai lầm, là nguyên nhân đưa nước Nga lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Để khắc phục sai lầm ấy Lênin đã đề xuất áp dụng chính sách kinh tế mới phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước Nga lúc đó. Lênin cho rằng một trong những nội dung biện pháp chủ yếu của chính sách kinh tế mới là phát triển kinh tế hàng hoá trên cơ sở sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần. Người chủ trương: ''Không đập tan các cơ cấu kinh tế - xã hội cũ, thương nghiệp, tiểu nông, công nghiệp nhỏ của chủ nghĩa tư bản mà là chấn hưng thương nghiệp, công nghiệp nhỏ tư bản chủ nghĩa bằng cách cố gắng nắm vững những cái đó một cách thận trọng, từng bước, bằng cách nhà nước điều tiết những cái đó, nhưng chỉ trong chừng mực làm cho chúng sẽ được phục hồi lại" [48, tr.275].
Tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước mà các tiền đề kinh tế - xã hội (như Mác đã nêu ra) chưa đầy đủ, chưa chín muồi như ở nước Nga ( một nước tư bản trung bình còn lạc hậu kém phát triển ) nhưng có chính quyền trong tay vẫn có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nếu Đảng, Nhà nước có những chủ trương giải pháp đúng đắn giải phóng lực lượng sản xuất.
Căn cứ vào thực tế kinh tế - xã hội lúc đó Lênin đã xác định ở nước Nga có 5 thành phần kinh tế trong một cơ cấu thống nhất biện chứng đó là:
+ Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một bộ phận lớn có tính chất tự nhiên.
+ Sản xuất hàng hoá nhỏ trong đó bao gồm đại bộ phận nông dân bán lúa mì.
+ Chủ nghĩa tư bản tư nhân.
+ Chủ nghĩa tư bản nhà nước.
+ Chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn nước Nga lúc đó cũng đã chỉ ra rằng thông qua cơ chế, chính sách và công cụ quản lý kinh tế phù hợp mềm dẻo, Nhà nước Xô viết đã huy động và sử dụng khá hiệu quả các nguồn lực ở trong và ngoài nước, của mọi thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư vào việc phát triển kinh tế.
Kết quả là công nghiệp nhẹ đã phát triển mạnh, công nghiệp nặng đã có sự cải thiện đáng kể (đã tạo được một số vốn nhất định để tạo đà cho sự phát triển) chế độ tài chính và đồng rúp được ổn định, nạn đói được giải quyết người lao động phấn khởi vì đã được khuyến khích, quan tâm.
Từ quan điểm của Lênin về năm thành phần kinh tế ở nước Nga, chúng ta có thể rút ra kết luận: tiêu thức cơ bản để phân định các thành phần kinh tế và việc xác định ở nước Nga có năm thành phần kinh tế là dựa trên trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất. Các thành phần kinh tế được sắp xếp gắn liền với 5 nấc thang của xã hội từ thấp đến cao. Tư tưởng của Lênin muốn nhấn mạnh: trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải chấp nhận nền kinh tế có nhiều mảng, nhiều bộ phận. Từ nhiều mảng, nhiều bộ phận ấy tất yếu có nhiều nấc thang đi lên chủ nghĩa xã hội. Các nấc thang này vừa mang tính tuần tự, vừa mang tính nhảy vọt. Tuy nhiên, không nên "đốt cháy" giai đoạn khi điều kiện không cho phép, không nên dùng chính trị để áp đặt cho kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay, quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng, tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất ngày càng cao và mang tính thời đại sâu sắc.Vì vậy, tuỳ thuộc vào mối quan hệ và khả năng hợp tác quốc tế, các quốc gia cần linh hoạt mềm dẻo trong vận dụng để rút ngắn thời kỳ phát triển, tránh tụt hậu so với các quốc gia trên thế giới.
Lênin cũng đã chỉ ra tính phổ biến của số lượng các thành phần kinh tế ở các nước khác nhau đi lên chủ nghĩa xã hội. Mặc dù các nước có sự khác nhau về điều kiện lịch sử, điều kiện khách quan và chủ quan, nhưng nhìn chung ở các nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phổ biến có ba thành phần kinh tế đó là:
- Kinh tế xã hội chủ nghĩa
- Kinh tế tư bản chủ nghĩa
- Kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ
Lênin cũng cho rằng cơ cấu thành phần kinh tế không phải là cơ cấu đóng, bất biến mà là cơ cấu mở, cơ cấu động. Số lượng các thành phần kinh tế không phải là cố định cứng nhắc. Vì vậy, tuỳ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất, tuỳ thuộc vào từng quốc gia mà số lượng các thành phần kinh tế là khác nhau. Đây là một trong những căn cứ lý luận quan trọng đối với các quốc gia trong việc định hướng phát triển nền kinh tế và cơ cấu các hành phần kinh tế nhằm phát huy tối đa các nguồn lực hiện có, khai thác được sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, thu hút được các nguồn lực bên ngoài vào sự phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân.
Lênin cho rằng muốn thu hút sử dụng được mọi nguồn lực trong và ngoài nước một cách có hiệu quả vào việc phát triển kinh tế đất nước, cần phải tôn trọng vai trò, vị trí của các thành phần kinh tế trong cơ cấu đa thành phần, đa dạng hoá các loại hình quan hệ sản xuất. Trong cơ cấu này, chúng vừa hợp tác vừa cạnh tranh, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn nhưng thống nhất là cơ bản vì đều theo một định hướng phát triển chung.
Về mặt thực tiễn, ở nước ta trong một thời kỳ dài (trước đổi mới) những điều chỉ dẫn đúng đắn có căn cứ khoa học nói trên của chủ nghĩa Mác-Lênin đã không được chúng ta tìm hiểu cặn kẽ, nghiêm túc. Do vậy, chủ trương, chính sách cải tạo quan hệ sản xuất và quản lý kinh tế chúng ta đề ra không phù hợp với tình hình thực tế. Khuynh hướng chủ đạo là muốn xoá bỏ nhanh các loại hình quan hệ sản xuất phi xã hội chủ nghĩa bằng cách cải tạo chúng thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đai hội VI của Đảng đã chỉ ra nguồn gốc lý luận của những sai lầm này là: ''chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất" [17, tr.23].
Chúng ta biết rằng, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp thành của một phương thức sản xuất, chúng có sự tác động qua lại biện chứng với nhau. Tương ứng với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất có một quan hệ sản xuất nhất định. Đồng thời quan hệ sản xuất cũng có sự tác động trở lại đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng thúc đẩy hoạc kìm hãm. Quan sản xuất không bao giờ ở trạng thái tĩnh, nó luôn vận động và phát triển gắn liền với sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Ngược lại, khi quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì nó trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng củng cố quan hệ sản xuất mới, chúng ta đã vi phạm mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượ._.õ ràng về tổ chức hoạt động, chế định tài chính, chế định về quyền sử dụng đất, sử dụng lao động tại các doanh nghiệp. Nhà nước cần xác định rõ hơn tư cách pháp lý, quyền và nghĩa vụ của hội đồng quản trị và người điều hành doanh nghiệp. Tuy nhiên, Nhà nước nên giảm bớt sự can thiệp trực tiếp không cần thiết của mình đối với hoạt động kinh doanh với doanh nghiệp để trao quyền tự chủ kinh doanh phát huy tính năng động sáng tạo của các doanh nghiệp. Giảm bớt các thủ tục hành chính phiền hà gây trở ngại cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Bốn là, Cần phải đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước có năng lực phẩm chất đạo đức.
Một trong những giải pháp để nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước là tăng cường đội ngũ cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, một bộ phận cán bộ nhà nước thoái hóa, biến chất, yếu kém về năng lực, đây là nguyên nhân làm cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy, các cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ kinh doanh, công nhân viên trong các doanh nghiệp nhà nước cũng cần được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, hiểu biết pháp luật, đổi mới về tư duy kinh doanh, kịp thời nắm bắt nhu cầu của thị trường, nắm vững được các tri thức kinh tế thị trường hiện đại.
Công tác giáo dục lý tưởng cho đội ngũ cán bộ là điều cần thiết cần được tăng cường để tạo ra đội ngũ cán bộ không chỉ có năng lực mà còn có lý tưởng cao đẹp, có hoài bão, có phẩm chất chính trị vững vàng vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Có như vậy chúng ta mới tạo dựng được đội ngũ cán bộ có đủ đức, đủ tài phục vụ trong các doanh nghiệp nhà nước, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước, cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước.
Tóm lại, để nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước cần phải có những giải pháp tổng hợp, đồng bộ và sự nỗ lực của các cấp các ngành, các doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước là nhằm bảo đảm phát huy vai trò chủ đạo, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã có vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế hợp tác xã càng trở nên cần thiết đối với những người lao động và những người sản xuất nhỏ. Đảng và Nhà nước xác định: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Để phát triển kinh tế tập thể trong những năm tới cần phải:
Một là, Nâng cao trình độ tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh trong các hợp tác xã.
Hiệu quả hoạt động của kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ cán bộ quản lý. Hiện nay, vấn đề nổi cộm của kinh tế hợp tác xã là trình độ tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của đội ngũ cán bộ quản lý còn yếu, ở nhiều địa phương có tới 50% hoặc trên 50% cán bộ trong ban quản lý hợp tác xã làm ăn kém hiệu quả, nhất là trong các ngành công nghiệp tiểu, thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Do vậy nâng cao trình độ tổ chức quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý ở các hợp tác xã là một yêu cầu cấp thiết để phát triển hợp tác xã.
Để nâng cao trình độ tổ chức quản lý của đội ngũ cán bộ hợp tác xã cần có các hình thức và nội dung đào tạo phong phú với các trình độ đào tạo khác nhau phù hợp với công việc quản lý và điều kiện tham gia đào tạo của các hợp tác xã. Cần chú trọng đào tạo các cán bộ chủ chốt của các hợp tác xã, bảo đảm cho bộ phận này có trình độ năng lực quản lý để điều hành hoạt động của các hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường.
Hai là, đổi mới nhận thức về kinh tế tập thể.
Về nhận thức, trước hết phải làm cho mỗi cán bộ quản lý nhà nước ở các địa phương thấm nhuần nguyên tắc cơ bản của kinh tế tập thể là nguyên tắc tự nguyện. Đây là nguyên tắc quan trọng nhất của kinh tế tập thể, bưởi vì nếu không có sự tự nguyện thì không thể có sự hợp tác, do đó Lênin đã coi đây là nguyên tắc số một của kinh tế tập thể.
Cần thống nhất trong nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tập thể. Kinh tế tập thể không chỉ bao gồm các hợp tác xã mà còn có nhiều hình thức đa dạng như: các tổ, nhóm hợp tác, các hợp tác xã, các hiệp hội theo ngành nghề... Hình thức của kinh tế tập thể rất đa dạng, phong phú nó phụ thuộc vào từng điều kiện kinh tế cụ thể của các đơn vị, việc lựa chọn các hình thức của kinh tế tập thể phải căn cứ vào điều kiện sản xuất kinh doanh của từng đơn vị. Nếu hình thức lựa chọn không phù hợp sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh các đơn vị rơi vào trì trệ. Do đó, các cấp chính quyền địa phương cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vị trí vai trò của các hình thức kinh tế tập thể, không nên chỉ bó hẹp ở hình thức các hợp tác xã. Trên cơ sở đó các cấp chính quyền cần hướng dẫn để những người lao động, người sản xuất tự lựa chọn hình thức phù hợp với họ, tránh sự áp đặt trong chuyển đổi các hợp tác xã.
Ba là, Phát triển các hợp tác xã cổ phần trong một số ngành, một số lĩnh vực của kinh tế tập thể.
Theo luật hợp tác xã, các xã viên phải góp vốn khi tham ra vào hợp tác xã, về lợi ích các xã viên được “Hưởng lãi theo vốn góp, công sức đóng góp của xã viên”. Luật hợp tác xã cũng quy định “ xã viên hợp tác xã có quyền tham ra quản lý, kiểm tra, giám sát hợp tác xã và có quyền ngang nhau trong biểu quyết”. Các quy định của hợp tác xã nói chung là phù hợp với kinh tế hợp tác. Tuy nhiên, trong điều kiện của kinh tế thị trường, thực tế cho thấy ở một số ngành, một số lĩnh vực đòi hỏi vốn khá lớn thì hợp tác xã mới hoạt động có hiệu quả. Để đáp ứng yêu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của hợp tác xã, trong nhiều trường hợp vốn của các xã viên là có hạn và khác nhau, khi vốn góp như nhau thì biểu quyết ngang nhau là hợp lý, song khi vốn góp có sự khác biệt thì quyền biểu quyết ngang nhau sẽ dẫn tới sự kìm hãm việc huy động vốn của các xã viên hợp tác xã và hạn chế việc huy động sức mạnh của các xã viên. Do vậy, trong các ngành các lĩnh vực mà hoạt động sản xuất kinh doanh cần có sự huy động vốn với quy mô khá lớn, vốn góp của các xã viên có sự khác biệt thì cần phát triển hình thức hợp tác xã cổ phần, dựa trên sự kết hợp quan hệ đối nhân và quan hệ đối vốn. Có như vậy chúng ta mới mở rộng các hình thức hợp tác và thúc đẩy kinh tế tập thể phát triển.
Tóm lại, để quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phát triển có hiệu quả, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, nhằm mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải tiếp tục đổi mới, phát triển có hiệu quả quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, để loại hình quan hệ sản xuất này giữ được vị trí chủ đạo, chi phối các loại hình quan hệ sản xuất khác.
2.2.3. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật tạo môi trường pháp lý phù hợp nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của các chủ thể kinh tế trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Để phát huy được tính năng động, sáng tạo của các chủ thể trong sản xuất kinh doanh và làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả, đúng định hướng, thì vai trò của nhân tố chính trị là rất quan trọng. Bởi lẽ nhân tố chính trị có sự tác động trở lại kinh tế rất mạnh mẽ, nó có thể làm cho kinh tế phát triển nhanh, có hiệu quả nếu nó phản ánh đúng quy luật kinh tế khách quan, ngược lại thì kìm hãm kinh tế phát triển.
ở nước ta Đảng, Nhà nước là những lực lượng lãnh đạo quản lý xã hội. Những lực lượng này có thể nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế chuyển chúng thành đường lối, chính sách, pháp luật, kế hoạch.... để tổ chức thực hiện, đưa vào cuộc sống nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Đảng và Nhà nước cũng là những thành tố cơ bản của hệ thống chính trị, của kiến trúc thượng tầng. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước chính là tăng cường sự tác động của chính trị xã hội đối với nền kinh tế, nhằm mục đích định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế. Mặt khác, sự phát triển của kinh tế thị trường buộc Đảng phải tự đổi mới, chỉnh đốn, đổi mới phương thức lãnh đạo, cách thức tổ chức quản lý cho phù hợp với yêu cầu, quản lý của kinh tế thị trường.
Thực chất của quá trình đổi mới kinh tế vừa qua ở nước ta là thừa nhận sự phụ thuộc của các thành phần kinh tế, của sự tồn tại đa dạng hóa các loại hình quan hệ sản xuất, thừa nhận quan hệ hàng hóa - tiền tệ và cơ chế thị trường.
Do đó, vai trò của Nhà nước ta với kinh tế cũng có sự thay đổi căn bản. Đó là quá trình chuyển Nhà nước từ độc quyền sang quan hệ giữa Nhà nước với thị trường. Nếu trước đây Nhà nước là chủ thể của chế độ sở hữu thì hiện nay đang giữ vai trò chủ đạo của hệ thống đa sở hữu. Nếu trước đây trực tiếp sản xuất kinh doanh thì nay là thiết kế luật chơi hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh.
Từ khi đổi mới đến nay, sự quản lý của Nhà nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, quản lý của nhà nước với nền kinh tế còn nhiều yếu kém, hiệu lực quản lý thấp. Hệ thống luật pháp, chính sách chưa đồng bộ, chưa nhất quán, kỷ cương luật pháp chưa nghiêm. Công tác tài chính, giá cả, quy hoạch quản lý đất đai... còn nhiều yếu kém, bất cập, thủ tục hành chính còn rườm rà. Do đó, việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước với nền kinh tế ở Việt Nam, nhằm phát huy được tính tự chủ sáng tạo của các chủ thể sản xuất kinh doanh là một yêu cầu cấp bách. Để thực hiện yêu cầu này cần phải có các giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế.
Hệ thống luật kinh tế là một công cụ quản lý vĩ mô quan trọng của nhà nước, chức năng của các hệ thống luật kinh tế là tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của các chủ thể kinh tế và điều chỉnh vi mô của chủ thể kinh tế.
Trong thời gian vừa qua, Nhà nước đã ban hành nhiều bộ luật, pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu đổi mới kinh tế. Hệ thống luật pháp đã góp phần tích cực vào việc hình thành cơ chế kinh tế mới theo hướng giảm dần sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động của các doanh nghiệp, các chủ thể kinh tế, đồng thời bảo đảm sự bình đẳng giữa các loại hình quan hệ sản xuất, tăng cường quyền tự chủ của mỗi doanh nghiệp, mỗi chủ thể kinh tế.
Tuy nhiên, luật pháp kinh tế còn nhiều bất cập còn ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế như:
Luật pháp kinh tế chưa đồng bộ, một số quan hệ kinh tế giữa các chủ thể, các doanh nghiệp nảy sinh trong sản xuất kinh doanh chưa có văn bản pháp quy để điều chỉnh như: chưa có luật cạnh tranh, luật chống độc quyền, hoạt động quảng cáo được điều chỉnh bằng các nghị định cần được thể hiện bằng văn bản luật.
Luật pháp về hợp đồng kinh tế còn có điểm bất hợp lý nên kém tính khả thi gây thiệt thòi cho các doanh nghiệp.
Cơ chế kiểm soát, điều hành xử lý vi phạm của Nhà nước đối với nền kinh tế thiếu đồng bộ.
Việc thực thi luật pháp còn thiếu nghiêm minh dẫn tới hiện tượng vi phạm pháp luật khá phổ biến, vi phạm luật bảo vệ môi trường, chế độ tài chính, quan hệ lao động.
Việc hoàn thiện hệ thống luật pháp kinh tế trong những năm tới gồm biện pháp sau:
Ban hành bổ sung những văn bản pháp quy để điều chỉnh các quan hệ kinh tế luật cạnh tranh, chống độc quyền, luật chứng khoán...
Sửa đổi, bổ sung những điều khoản cần thiết để hoàn thiện những văn bản đã ban hành còn có những nội dung bất cập không phù hợp hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tăng cường tính nghiêm minh trong việc thực thi luật pháp. Đây là yếu tố cơ bản bảo đảm luật kinh tế hoàn thành chức năng của nó, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm bảo đảm quyền bình đẳng và phát huy tối đa các tiềm năng, nguồn lực của các thành phần kinh tế, các loại hình quan hệ sản xuất ở Việt Nam.
Chính sách kinh tế vĩ mô là công cụ quản lý vĩ mô chủ yếu của Nhà nước. Thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô sẽ tác động tới lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế tạo động lực thúc đẩy các chủ thể kinh tế hoạt động theo định hướng của nhà nước. Phần lớn các chính sách kinh tế vĩ mô có liên quan tới các thành phần kinh tế, các loại hình quan hệ sản xuất trong đó có những chính sách liên quan trực tiếp và tác động mạnh mẽ tới hoạt động của các chủ thể kinh tế như: chính sách tài chính, chính sách thuế, chính sách ưu đãi, chính sách đầu tư...
Những năm đổi mới vừa qua, chính sách kinh tế vĩ mô đã có những đổi mới căn bản tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy việc phát huy các tiềm năng và nguồn lực của các chủ thể kinh tế, góp phần quyết định vào việc giải phóng sức sản xuất ở nước ta.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chính sách kinh tế vĩ mô còn có những vấn đề tồn tại, chậm được đổi mới chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế như:
Chính sách đất đai: Trong khi các doanh nghiệp nhà nước được giao đất ổn định lâu dài để sản xuất kinh doanh, thì các loại hình kinh tế khác như tư bản tư nhân, cá thể không được giao đất để sử dụng như vậy.
Chính sách tín dụng: Trong khi các doanh nghiệp nhà nước được vay vốn không cần thế chấp, thì các doanh nghiệp thuộc các loại hình kinh tế khác lại không có điều kiện như vậy.
Về chính sách thuế: doanh nghiệp nhà nước được ưu tiên hơn các loại hình doanh nghiệp khác như: được hoãn nợ, dãn nợ, khoan nợ....
Những bất bình đẳng giữa các loại hình quan hệ sản xuất, các chủ thể kinh tế trong các chính sách kinh tế vĩ mô đã tác động mạnh mẽ tới tâm lý lòng tin của các chủ doanh nghiệp tư nhân làm cho họ chưa thực sự yên tâm đầu tư kinh doanh làm ăn lâu dài.
Để phát triển các loại hình quan hệ sản xuất, các thành phần kinh tế trong những năm tới phải tiếp tục đổi mới hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô theo phương hướng sau:
Khắc phục sự bất bình đẳng giữa các loại hình kinh tế để các chủ thể kinh tế yên tâm đầu tư kinh doanh.
Tạo động lực kinh tế mạnh mẽ hơn nữa nhằm thúc đẩy các chủ thể thuộc các loại hình kinh tế phát huy tối đa tiềm năng nguồn lực của mình để phát triển sản xuất kinh doanh.
Trên cơ sở bảo đảm sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình kinh tế cần áp dụng các chính sách tự do cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp.
Thực hiện tốt chính sách kinh tế vĩ mô sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ ba, hình thành đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để phát huy vai trò của các chủ thể kinh tế trong sản xuất kinh doanh, nhà nước cần: Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố cấu thành thị trường bao gồm: thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ, bất động sản...
Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và tiếp tục phát triển. Thông qua chiến lược quy hoạch, kế hoạch, chính sách phù hợp nhằm sử dụng hiệu quả các lực lượng vật chất của nhà nước để định hướng phát triển kinh tế - xã hội, mặt khác Nhà nước cần tăng cường kiểm tra, giám sát để chống các tệ buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại, tham nhũng, lãng phí... tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, công khai của các chủ thể kinh tế. Tuy nhiên, cần phải định rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh, để từ đó thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế.
Việc hình thành đồng bộ cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ tạo môi trường kinh tế tốt là động lực cho các chủ thể kinh tế phát huy hiệu quả.
Thứ tư, đẩy mạnh cải cách hành chính:
Thời gian qua, Việt Nam đã tiến hành một bước cải cách hành chính. Tuy nhiên, hiệu quả của cải cách còn chưa cao, đã gây cản trở cho các chủ thể sản xuất kinh doanh. Đại hội toàn quốc lần IX đã khẳng định:
Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết hiệu quả thấp. Tổ chức bộ máy nhà nước cồng kềnh trùng lặp chức năng vì nhiều tầng nấc trung gian và những thủ tục hành chính phiền hà, không ít trường hợp trên và dưới, Trung ương và địa phương hành động không thống nhất, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế - xã hội và làm giảm động lực phát triển [20, tr.77].
Vì vậy, trong những năm tới phải đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm nâng cao năng lực quản lý của nhà nước, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong sản xuất kinh doanh theo hướng:
- Cải cách tổ chức bộ máy các cấp từ trung ương đến địa phương theo hướng tinh gọn, có hiệu lực, hiệu quả, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh.
- Cải cách thủ tục hành chính theo hướng thống nhất công khai, minh bạch, đơn giản, kiên quyết xóa bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà, sách nhiễu cho nhân dân và các doanh nghiệp.
- Thực hiện cải cách hành chính là nhằm xây dựng một nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh có hiệu lực, hiệu quả theo hướng xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Việc hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật nhằm tạo ra môi trường pháp lý; thúc đẩy thuận lợi cho các chủ thể kinh tế vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau là để phát huy hiệu quả, sức sáng tạo của các chủ thể kinh tế trong quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời góp phần điều chỉnh các quan hệ kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Kết luận
Nghiên cứu sự vận động, biến đổi của quan hệ sản xuất giúp chúng ta tìm ra sự không phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, đồng thời nắm bắt được xu hướng vận động biến đổi của nó, để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp, nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thực tế cho thấy, không phải bao giờ sự biến đổi của quan hệ sản xuất cũng tuân theo quy luật kinh tế khách quan. Đã có thời kỳ, chúng ta đã dùng chính trị áp đặt cho kinh tế, xây dựng quan hệ sản xuất mới không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Sự biến đổi của quan hệ sản xuất như vậy đã dẫn tới kìm hãm sản xuất, đẩy nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng về kinh tế - xã hội, buộc chúng ta phải đổi mới. Thực chất của đổi mới là điều chỉnh lại quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, quốc tế hoá hiện nay, lực lượng sản xuất ở nước ta đang phát triển nhanh, lại chịu ảnh hưởng của điều kiện quốc tế. Do đó, chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất, nhưng để đưa kết cấu kinh tế ấy phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải đổi mới quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm sao cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, phải tạo điều kiện cho các loại hình quan hệ sản xuất khác phát triển nhằm đưa nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Qua nghiên cứu sự biến đổi của quan hệ sản xuất ở nước ta hiện nay giúp chúng ta hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể nước ta vì mục tiêu:” dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Danh mục tài liệu tham khảo
Vũ Đình ánh (2004), "Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Lý luận chính trị, (5), tr.53-60.
Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp (2004), "Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước 2004-2005", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (3), tr.1-3.
Lê Xuân Bá (2002), "Kinh tế tư nhân bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế nước ta", Tạp chí Cộng sản, (22), tr.41-45.
Vũ Đình Bách (1998), Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Vũ Đình Bách (2004), Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Đức Bách (1998), Một số vấn đề về định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
Trần Ngọc Bút (2002), "Phát triển làng nghề thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (1), tr.9-10.
Trần Thị Minh Châu (2005), "Kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (7), tr.25-27.
Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Văn Chử (2003), "Cổ phần hóa - đổi mới doanh nghiệp nhà nước", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (299), tr.33-37.
Nguyễn Sinh Cúc (2004), "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn", Tạp chí Lý luận chính trị, (3), tr.20-26.
Tô Xuân Dân (2003), "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (297), tháng 2-2003, tr.3-16.
Phạm Bảo Dương (2004), "Phát triển các hợp tác xã ở Việt Nam, phân tích vi mô từ giác độ nông hộ", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (11), tr.8-10.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương khóa 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Lao động Việt Nam (1968), Văn kiện của Đảng và đường lối phát triển nông nghiệp ở miền Bắc nước ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Nguyễn Bích Đạt (2004), "Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam: kết quả và giải pháp thúc đẩy", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (7), tr.3-5.
Trần Kim Đồng (2004), "Để kinh tế tư nhân ngày càng phát huy tiềm năng và lợi thế so sánh", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (6), tr.9-10.
Trần Đức (1991), Sở hữu và cây đời, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Nguyễn Tĩnh Gia (1987), Biểu hiện đặc thù của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tình hình và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ khoa học Triết học, Học viện Nguyễn ái Quốc, Hà Nội.
Lê Thanh Hà (2002), Sự biến đổi của quan hệ sở hữu trong nông nghiệp dưới tác động của lực lượng sản xuất thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, Luận văn tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Lương Đình Hải (2005), "Xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay", Tạp trí Triết học, (3), tr.5-10.
Lưu Tiền Hải (2003), "Đầu tư trực tiếp nước ngoài, thực trạng và triển vọng", Tạp chí Con số và sự kiện, (5), tr.24-26.
Lưu Tiền Hải (2004), "Doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Con số và sự kiện, (5), tr.6-8.
Hoàng Xuân Hòa (2004), "Xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía bắc", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (11), tr.34-35.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình triết học chủ nghĩa duy vật lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hội đồng Trung ương (2000), Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Mạnh Hùng (2005), "Vai trò của kinh tế tập thể và việc hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (7), tr.20-22.
Hồ Xuân Hùng (2004), "Thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng về nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước", Tạp chí Cộng sản, (8), tr.18-22.
Nguyễn Ngọc Huyền (2003), "Về đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (3), tr.11-12.
Bùi Chí Kiên (1996), Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lâm Đồng, Luận văn tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Lae Hang Woo (2002), "Một số kiến nghị về đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, tháng 10-2002, tr.27-36.
Hoàng Thị Ngọc Lan (2004), "Đổi mới về phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở tỉnh Hà Tây", Tạp chí lý luận chính trị, (3), tr.30-35.
Chử Văn Lâm (1992), Hợp tác hóa nông nghiệp Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.
V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
Võ Đại Lược (1997), Đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ngô Quang Minh (2001), Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Hữu Nghĩa (2003), "Vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (3), tr.13-17.
Lê Hữu Nghĩa (2004), "Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay; thực trạng và giải pháp", Tạp chí Cộng sản, (6), tr.31-37.
Vũ Hữu Ngoạn (2001), "Chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX của Đảng", Tạp chí Lý luận chính trị, (7), tr.3-7.
Nguyễn Văn Ngọc (2000), Quan hệ biện chứng giữa các loại hình sở hữu trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam, Luận văn tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Vũ Văn Phúc (2004), "Sở hữu nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Lý luận chính trị, (3), tr.11-19.
Lương Xuân Quỳ (2001), Cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay: lý luận, thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lương Xuân Quỳ (2002), Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tô Huy Rứa (2002), "Doanh nghiệp nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (2), tr.31-38.
Tô Huy Rứa (2004), "Nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, (6), tr.13-17.
Samuel son (2002), Kinh tế học, tập 1, tập 2, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Vũ Hồng Sơn (2000), Xu hướng và đặc điểm của quá trình đa dạng hóa các hình thức sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Sơn (205), "Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vị thế quan trọng ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (4), tr.25-30.
Đàm Thái Sơn (2004), "Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam: một vài suy nghĩ", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (5), tr.13-17.
Lưu Văn Sùng (1996), Lý luận về hợp tác - kinh nghiệm lịch sử và sự vận dụng ở nước ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Tạp chí con số và sự kiện (2005), "Kinh tế Việt Nam 60 năm xây dựng và phát triển", (8), tr.1-7.
Đào Văn Tập (1990), 45 năm kinh tế Việt Nam 1945-1990, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Đoàn Duy Thành (2001), Vai trò then chốt của doanh nghiệp nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hà Huy Thành (2002), Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân: lý luận và chính sách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phan Hữu Thắng (2002), "Tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (2). tr.11-13.
Lê Thế Thịnh (2005), "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Khoa học chính trị, ( 5), tr.43-47.
Nguyễn Văn Thức (2004), Sở hữu: lý luận và vận dụng ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Văn Tạo (1990), Phương thức sản xuất châu á, lý luận Mác - Lênin và thực tiễn ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Phí Thị Thu Trang (2002), "Để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (6), tr.21-22.
Nguyễn Phú Trọng (2003), "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; quan niệm và giải pháp phát triển", Tạp chí Cộng sản, (31), tháng 11-2003, tr.3-12.
Đào Duy Tùng (1994), Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Thế Tùng (2004), "Lý luận của Lênin về các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông", Tạp chí Lý luận chính trị, (4), tr.11-15
Lê Xuân Tùng (1989), Các thành phần kinh tế và cách mạng quan hệ sản xuất, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Vũ Huy Từ (1992), Đổi mới kinh tế quốc doanh, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Lê Thị Anh Vân (2002), "thực trạng nông nghiệp nông thôn hiện nay", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (4), tr.5-10.
Hồ Văn Vĩnh (2003), "Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, (21), tr.15-18.
Vũ Văn Viên (2005), "Cổ phần hóa - một phương tiện quan trọng để thực hiện sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu", Tạp chí Triết học, (3), tr.21-26.
Hồ Trọng Viện (2003), "Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước", Tạp chí Cộng sản, (15), tr.25-28.
._.