BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
VÕ HỒNG SA
LUẬN VĂN THẠC SĨ
SO SÁNH TU TỪ TRONG
TỤC NGỮ VIỆT VÀ TỤC NGỮ ANH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
3
QUY ƢỚC VIẾT TẮT
CSSS: Cở sở so sánh
ĐHQG: Đại học Quốc gia
ĐH & TCCN: Đại học và trung cấp chuyên nghiệp
GD: Giáo Dục
HN: Hà Nội
KHXH: Khoa học xã hội
Nxb: Nhà xuất bản
Tp.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh
215 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3763 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu So sánh tu từ trong tục ngữ Việt và tục ngữ Anh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SSTT: So sánh tu từ
C-V: chủ ngữ - vị ngữ
TN: tục ngữ
4
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
0.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tục ngữ (TN) có liên hệ mật thiết với hầu hết mọi lĩnh vực của đời
sống, từ việc thể hiện tƣ duy, lối sống, thái độ sống đến việc hỗ trợ làm đẹp
lời nói con ngƣời. Ngƣời Việt Nam xem TN nhƣ “hạt cườm của tư duy bác
học”, là “giọt đọng trong văn chương” [16]. Alfred Lord Tennyson – nhà thơ
nổi tiếng ở Anh vào thế kỉ XIX – ca ngợi TN “là những đồ châu báu mãi mãi
lấp lánh trên ngón tay trỏ vươn dài của mọi thời đại”(1) [18, tr.7]. Có thể
khẳng định không một thể loại nào của văn học dân gian đƣợc sử dụng
thƣờng xuyên nhƣ TN. Ở Việt Nam cũng nhƣ nhiều quốc gia khác trên thế
giới, các nhà văn có tài thƣờng là những ngƣời biết quý trọng và sử dụng rất
sáng tạo vốn TN của dân tộc mình. Do đó, khi nghiên cứu văn học nói chung
và văn học dân gian nói riêng, chúng ta không thể bỏ qua thể loại TN.
Trong TN, so sánh là một biện pháp tu từ phổ biến. Từ xƣa ông cha ta
đã nhận ra không có cách nào làm cho ngƣời nghe nhanh chóng hiểu những
điều mình nói bằng một sự so sánh cụ thể. Thủ pháp này góp phần hữu hiệu
vào việc miêu tả, khắc họa những bài học kinh nghiệm trong TN thông qua
những mối tƣơng quan về mặt hình ảnh. Do đó, tìm hiểu so sánh tu từ (SSTT)
trong TN Việt sẽ góp phần làm rõ đặc điểm của thể loại và nâng cao chất
lƣợng giảng dạy TN Việt ở nhà trƣờng các cấp hiện nay.
Hơn nữa, trong xu thế hội nhập hiện nay, tiếng Anh đang đƣợc sử
dụng phổ biến và trở thành ngôn ngữ chính thức ở nhiều quốc gia. Ở Việt
Nam càng ngày càng có nhiều ngƣời học và sử dụng tiếng Anh. Do đó, những
hiểu biết về SSTT nói riêng và TN Anh nói chung sẽ giúp ngƣời học không
(1) “Proverbs are jewels that on the stretched forefinger of all time sparkle forever.”
5
chỉ biết mà còn hiểu sâu sắc hơn về ngôn ngữ và nền văn hóa của đất nƣớc
này.
Cuối cùng, việc tìm hiểu sự tƣơng đồng và khác biệt giữa SSTT trong
TN Việt và TN Anh sẽ ít nhiều làm rõ tƣ duy thẩm mỹ và bản sắc văn hóa của
mỗi dân tộc. Hiểu ngƣời cũng là một cách để hiểu mình hơn. Hi vọng rằng
đây sẽ là một tài liệu hữu ích cho việc giảng dạy và học tập chuyên đề TN của
học sinh, sinh viên Việt Nam ở nhà trƣờng các cấp cũng nhƣ của sinh viên
nƣớc ngoài ở các khoa Việt Nam học.
Đó là lý do ngƣời viết chọn đề tài “SSTT trong TN Việt và TN Anh”
làm đối tƣợng nghiên cứu.
0.2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Việc nghiên cứu so sánh tu từ trong TN Việt và TN Anh đã ít nhiều
đƣợc đề cập đây đó trong các công trình nghiên cứu chung về TN.
Ở Việt Nam, nhiều chuyên luận về TN có giá trị đã ra đời dƣới góc
nhìn của các nhà nghiên cứu văn học dân gian nhƣ: TN Việt Nam của Chu
Xuân Diên, Lƣơng Văn Đang, Phƣơng Tri [12], Tìm hiểu thi pháp TN Việt
Nam của Phan Thị Đào [14], Tục ngữ Việt Nam – cấu trúc và thi pháp của
Nguyễn Thái Hòa [24], Khảo và luận về tục ngữ người Việt của Triều Nguyên
[47], Văn học dân gian Việt Nam [77], Thi pháp văn học dân gian [57],….
Những công trình này thƣờng xoay quanh các vấn đề: xác định khái niệm, tìm
hiểu nội dung và hình thức diễn đạt của TN, mối quan hệ giữa TN và các thể
loại văn học khác. Các tác giả cũng ít nhiều có nói đến SSTT.
Chu Xuân Diên trong quyển “TN Việt Nam” (Nxb. KHXH, 1993) đã
có những nhận xét ngắn gọn, hợp lí về lối ví von, so sánh. Trƣớc tiên, ông cho
rằng “Có thể tìm thấy hình thức ví von so sánh trong những câu TN mà các
6
phán đoán thực hiện tư tưởng khẳng định về một đặc điểm nào đó của đối
tượng bằng cách so sánh, liên hệ đối tượng ấy với đối tượng khác. Thí dụ:
“Cơm với cá như mạ với con”, “Ăn cơm không rau như đau không thuốc”,
“Xe không bánh như cánh không lông”, “Vợ chồng như đũa có đôi”, “Con
có cha như nhà có nóc”, “Lòng người nhu bể khôn dò”,…” [12, tr.170]
Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến một biến dạng của cấu trúc so sánh,
trong đó, hai vế là hai phán đoán riêng biệt, gắn bó với nhau bằng mối quan
hệ so sánh, có thể diễn đạt bằng liên từ “cũng như”. Thí dụ: “Người đẹp về
lụa (cũng như) lúa tốt về phân”, “Canh suông khéo nấu thì ngon (cũng như)
mẹ già khéo nói thì con đắt chồng”, “Miếng ngon nhớ lâu (cũng như) lời đau
nhớ đời”, “Chim khôn chưa bắt đã bay (cũng như) người khôn chưa nói dang
tay đỡ lời”, “Uốn cây từ thuở còn non (cũng như) dạy con từ thuở con còn
ngây thơ”. [12, tr.170]
Trong quy mô của một công trình nghiên cứu chung về TN, kết quả
nghiên cứu của tác giả về SSTT chỉ dừng lại ở mức độ khái quát.
Trong công trình “Tìm hiểu thi pháp TN Việt Nam” (Nxb. Thuận Hóa,
Huế, 2001) , khi trình bày các thủ pháp tạo nghĩa trong TN, Phan Thị Đào có
đề cập đến SSTT. Sau khi trình bày khái niệm so sánh, tác giả chú ý khu biệt
giữa so sánh nghệ thuật trong ca dao và TN. Ở ca dao, “cái cần so sánh
thường là những cái trừu tượng, thuộc phạm trù tinh thần (thân phận người
con gái, quan hệ tình yêu lứa đôi,…), cái dùng để so sánh phần nhiều là
những cái cụ thể, thuộc phạm trù vật chất (hạt mưa sa, con hạc đầu đình, tấm
lụa đào, giếng giữa đàng, miếng cau khô, cây quế giữa rừng, lửa mới nhen,
trăng mới mọc, đèn mới khêu, con ong, con tằm,…) và qua cái dùng để so
sánh, cái cần so sánh được cụ thể hóa.” [14, tr.141]
7
Trong khi đó, ở TN, theo tác giả, tình hình khác hẳn. “Cái cần so sánh
lẫn cái dùng để so sánh hầu hết là cái cụ thể, tuy khác loại nhưng đều thuộc
phạm trù vật chất. Vai trò chủ yếu của vế dùng để so sánh không thiên về
hướng cụ thể hóa mà thiên về hướng khái quát hóa, “quy luật hóa” điều được
nêu lên ở vế cần so sánh.” [14, tr.142]
Tác giả còn đề cập đến cơ sở so sánh (CSSS): “chuẩn mực so sánh
trong TN cũng rất đa dạng. Bởi thế, qua TN, chúng ta có thể tìm thấy những
cách liên tưởng bất ngờ, góp phần tạo ra cho người đọc những ấn tượng thẩm
mỹ khá phong phú”; tác dụng của so sánh: “nghiêng về nhận thức, nghiêng về
lí trí”; cấu trúc của so sánh: “do sự hạn chế về độ dài của câu nên so sánh
trong TN thường là so sánh đơn, rất ít kiểu so sánh chuỗi như trong ca dao”.
[14, tr.142]
Ở công trình “Thi pháp văn học dân gian” (Nxb. GD, 2000), Lê
Trƣờng Phát cũng đề cập ngắn gọn đến phép so sánh. Về phƣơng diện cấu
trúc, tác giả cho rằng so sánh thƣờng đƣợc thể hiện bằng hai vế, vế đầu là hiện
tƣợng cần đƣợc biểu đạt một cách hình tƣợng, vế sau là hiện tƣợng dùng để so
sánh. TN rất cô đúc, ngắn gọn nên lối so sánh chuỗi rất hiếm mà thƣờng xuất
hiện lối so sánh đơn. Về từ ngữ, tác giả cho rằng giữa hai vế đƣợc nối với
nhau bằng kết từ so sánh: như, như là, như thể, bằng, hơn,…Tác dụng của so
sánh trong TN thiên về hƣớng khái quát hóa, quy luật hóa; nghiêng về lí trí,
nhận thức. [57, tr.114 – 115]
Quan niệm của ông tƣơng đối thống nhất với quan niệm của Phan Thị
Đào trong chuyên luận “Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam”. Tuy nhiên,
việc ông cho rằng về phƣơng diện cấu trúc, so sánh thƣờng đƣợc thể hiện
bằng hai vế là chƣa chính xác. Đồng thời, khi liệt kê các kết từ so sánh, ông
liệt kê cả từ “hơn” vào, trong khi cơ sở liên tƣởng của SSTT là dựa trên mối
8
quan hệ tƣơng đồng, chứ không nhằm xác định sự hơn thua giữa các đối
tƣợng.
Trong công trình “TN Việt Nam – cấu trúc và thi pháp” (Nxb. KHXH,
1996), Nguyễn Thái Hòa khi trình bày về kiểu câu có quan hệ so sánh tƣơng
đƣơng đã có những gợi ý vô cùng hữu ích về các từ nối. Chẳng hạn, từ so
sánh sẽ vắng mặt khi giữa phần nêu và phần báo có kiến trúc sóng đôi khá
chặt hoặc có sự đối nghĩa. Còn “như” đƣợc dùng trong các so sánh có tính
chất miêu tả, khi có một số nét nghĩa giống nhau giữa hai loại, hai sự kiện hay
hiện tƣợng đƣợc đƣa ra so sánh. “Bằng” là so sánh về giá trị. “Là” thì đƣợc
dùng trong kiểu câu so sánh có tính chất tƣờng giải, có tính hình tƣợng, đồng
thời thể hiện thái độ khen chê rõ rệt. [24, tr.84 – 93]
Nhìn chung, tuy chỉ mới dừng lại ở mức ngắn gọn và sơ lƣợc nhƣng
những nhận định trên đây là gơị ý ban đầu quý báu cho nh ững nghiên cứu cụ
thể về sau.
Ở Anh, khi tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về SSTT, Pierini Patrizia
trong công trình “Simile in English: from description to translation” (2) nhận
thấy: trong khi thủ pháp ẩn dụ thu hút sự tìm hiểu của nhiều ngành khác nhau
(2)
“While metaphor has attracted interest and research in a number of different disciplines –
philosophy, linguistics, cognitive psychology, literary theory and criticism – with an extraordinary
amount of papers and books on the subject, simile is much less investigated.” “Simile is a figure of
speech used in general language as well as specialized language, in everyday conversation as well
as literary, journalistic and promotional texts. Research on simile is carried out within rhetoric
(e.g. Mortara Garavelli 2002, 251 – 252), literary studies (e.g. Wellek & Warren 1973, 186 – 211),
linguistics and psycholinguistics (Ortony 1993; Miller 1993, Bredin 1998), often discussing simile
along with metaphor.”
9
nhƣ triết học, ngôn ngữ học, tâm lí học, lí thuyết và phê bình văn học,…với
vô số các bài báo và sách nghiên cứu thì SSTT ít đƣợc quan tâm hơn, chỉ
đƣợc đề cập lƣớt qua khi nhân tiện (simply mentioned in passing) trong các
công trình chung về tu từ học (nhƣ Mortara Garavelli, 2002, tr.251 – 252),
nghiên cứu văn học (Wellek & Warren, Theory of literature, Penguin, 2nd
edition, 1973, tr. 186 – 211), ngôn ngữ học và ngôn ngữ tâm lý (Andrew
Ortony, Miller, George A., Images and models, Similes and metaphors,
Cambridge University Press, 2
nd
edition, 1993; Hugh Bredin, Comparisons
and similes, Queen’s University, Northen Ireland, United Kingdom, 1998)
[103].
Còn SSTT trong TN Anh chỉ đƣợc các nhà nghiên cứu liệt kê rải rác
trong các công trình về văn bản học chứ chƣa thấy tài liệu nào chuyên viết về
vấn đề này.
Intensifying similes in English của Svartengren T. Hilding [108] là
công trình sƣu tầm về các SSTT xuất hiện trong ngôn ngữ và văn học Anh nói
chung, trong đó tác giả có trích dẫn cả các SSTT trong TN, từ các nguồn sau:
Ray, Complete Collection of English Proverbs, Cambridge, 1670.
Hazlitt, W. C, English Proverbs and Proverbial Phrases, 1904,
London.
Coivan, PS, Frank C, A Dictionary of the Proverbs relating to the
Sea, Greensborough, 1894.
Ở đây, SSTT đƣợc sắp xếp theo các đề tài: trí tuệ, tính cách (similes
referring to mind and character), cơ thể ngƣời (similes chiefly referring to the
human body); hình dáng, màu sắc, kích cỡ, hình thức và bản chất của sự vật
(similes otherwise referring to form, to colour, size, the surface and substance
10
of things); SSTT có ý nghĩa cụ thể (definite similes) và có ý nghĩa tổng quát
(indefinite or general similes).
Ngoài phần sƣu tầm, tác giả có bài giới thiệu về công trình ở đầu
quyển sách. Tác giả có trình bày quan niệm của mình về SSTT qua một số ví
dụ:
(1) The giant whom Jack killed was as high as a house.
(Tên khổng lồ mà Jack giết cao như một ngôi nhà.)
(2) The bricklayer thinks that his scaffold was just as high as a house.
(Người thợ nề nghĩ rằng giàn giáo của anh ta cao vừa bằng ngôi nhà.)
Trƣờng hợp (1) là một SSTT, còn trƣờng hợp (2) chỉ là một sự đo
lƣờng, ƣớc lƣợng xác thực, không có giá trị tu từ.
Ngoài việc sƣu tầm các SSTT, tác giả còn hi vọng rằng quyển sách
này sẽ tìm ra phần nào sở thích, kinh nghiệm, hoàn cảnh sống, cách nhìn,
quan điểm của những ngƣời sáng tạo ra chúng. (3)
Với tƣ cách là một công trình sƣu tầm về SSTT trong văn học Anh nói
chung và TN nói riêng, “Intensifying similes in English” chỉ dừng lại ở việc
liệt kê ra những SSTT trong TN mà chƣa có sự miêu tả cụ thể về đặc điểm,
bản chất của chúng.
(3)
“The aim of this work is not only to collect these similes, but to try to find out the
human interests behind them, the experiences and the circumstances of life and the outlook upon
life that have helped to create them.”
11
Trong bài báo “Comparisions and similes” của Bredin, Hugh
(Queen’s University, 1998), ở phƣơng diện ngôn ngữ, ông đề cập đến 2 vấn
đề: so sánh và SSTT. Ông cho rằng sự khác biệt giữa so sánh thông thƣờng và
SSTT nằm ở chỗ SSTT là so sánh vị ngữ, nhằm miêu tả về chủ ngữ. Còn so
sánh thông thƣờng là một so sánh đối xứng, trong đó chủ ngữ và vị ngữ hoàn
toàn độc lập. Trong các so sánh thông thƣờng, chủ ngữ và vị ngữ có thể thay
thế cho nhau mà nghĩa của câu không thay đổi. (4)
Ở phần cuối của bài viết, ông cũng chỉ ra SSTT hoàn toàn khác biệt,
độc lập với ẩn dụ (5). Cả so sánh và ẩn dụ đều đƣợc thiết lập dựa trên mối quan
hệ giữa hai thực thể nhất định, nhƣng hai biện pháp tu từ này khác nhau ở 3
phƣơng diện sau: SSTT đối chiếu các thực thể đƣợc đề cập văn bản với nhau,
trong khi ẩn dụ so sánh thực thể này với một khái niệm hoàn toàn khác; SSTT
có thể có nghĩa đen hoặc nghĩa bóng, ẩn dụ thì chỉ đƣợc hiểu theo nghĩa bóng;
SSTT đƣợc đánh dấu bằng nhiều phƣơng tiện thể hiện quan hệ so sánh khác
nhau, ẩn dụ thì không có dấu hiệu nào trên bề mặt. Có lẽ còn có một sự khác
biệt nữa giữa hai biện pháp tu từ này, xét về mặt ảnh hƣởng, tác động, SSTT
ít có sức thu hút, tính chất gợi mở và hiệu quả, ấn tƣợng bằng ẩn dụ tu từ. [84]
(4)
“The difference between a simile and an ordinary comparison, however, is that similes are
predicative comparisons (in which the predicate describes the subject), and ordinary comparisons
are symmetrical comparisons (in which the subject and the predicate are referentially independent).
In the latter, but not in the former, the subject and the predicate can be intersubstituted without any
consequential change of meaning. Some concluding remarks deal with simile in discourse and in
literature, and demonstrate that simile is quite different from, and independent of, metaphor.”
(5)
“Both simile and metaphor establish a connection between two entities, but the two figures differ
in three respects: simile compares the entities, while metaphor conceptually assimilates them to
one another; the former can be literal or non-literal, the later is only non-literal; the former is
signalled by a variety of comparision markers, the later has no surface marker. Probably, there is
also a difference in impact: a simile usually has less power, suggestiveness and effectiveness than a
good metaphor.”
12
Quan niệm của Hugh Bredin đƣợc đánh giá rất cao ở Anh và đƣợc
nhiều nhà nghiên cứu sau này kế thừa, trích dẫn.
Trong công trình sƣu tầm văn bản Fifteen thousand useful phrases/
Striking similes (Funk & Wagnalls company, 1917), Kleiser Grenville đã
dành chƣơng 8 để liệt kê các SSTT nổi bật tổng hợp từ nhiều nguồn khác
nhau gồm thành ngữ, TN, các tác phẩm văn học viết, báo chí,… [92]
Ngoài ra, ở Anh còn có hai quyển từ điển về SSTT của Wilstach &
Frank Jenners: A dictionary of similes
(6)
; Ruth Paris & Robert Baldwin: The
Book of Similes
(7)
. Các quyển từ điển này liệt kê SSTT theo thứ tự A – B – C,
cũng lấy từ nhiều nguồn khác nhau nhƣ văn học dân gian, sách vở, kinh thánh,
các tác phẩm văn học viết,…
Trong các giáo trình về văn học Anh nhƣ Introduction to English
folklore [80]; English literature [87]; A course in British literature [98]; Lịch
sử văn học Anh quốc [40] …; ngƣời viết cũng không thấy các nhà nghiên cứu
đề cập đến vấn đề SSTT trong TN.
Tóm lại, theo tài liệu chúng tôi tìm đƣợc, các nhà nghiên cứu văn
học, ngôn ngữ ở Anh chƣa xem SSTT trong TN của nƣớc họ là một đối tƣợng
nghiên cứu riêng biệt.
Về việc nghiên cứu đối chiếu giữa TN Việt và TN Anh, hiện nay
công việc này chủ yếu vẫn dừng lại ở việc so sánh TN về phƣơng diện văn
hóa nhƣ: “Khảo luận về TN người Việt [47] của Triều Nguyên, “Dấu ấn văn
hóa qua TN” [10] của Nguyễn Đức Dân, “So sánh TN Anh – Việt trong quá
trình hình thành và phát triển” [25] của Nguyễn Thƣợng Hùng, “Một số biểu
(6) London, G.G. Harrap & Company, 1917.
(7)
Illustrated by David Austin, Publishing: Routledge & Kegan Paul, London, 1982.
13
hiện của văn hóa qua các thành ngữ, TN có từ chỉ bộ phận cơ thể người trong
tiếng Anh và tiếng Việt” [17] của Nguyễn Thị Vân Đông, “Ngôn ngữ với việc
phản ánh các yếu tố văn hóa và nhân sinh quan – thông qua TN Việt, Anh”
[41] của Nguyễn Văn Mƣời, … Một số kết quả nghiên cứu của các công trình
trên là định hƣớng quý báu cho ngƣời viết khi đi vào lí giải dấu ấn văn hóa
qua SSTT trong TN ở chƣơng III của luận văn.
Về nghiên cứu đối chiếu SSTT trong TN Việt và Anh, ngƣời viết tìm
đƣợc bài viết “Phép tỉ dụ trong TN Việt – Anh” của Trần Văn Phƣớc, Hoàng
Kim Anh [59]. Bài viết này đƣợc triển khai theo thứ tự: khái niệm phép tỉ dụ,
cấu trúc, phân loại, đặc điểm về ngôn ngữ của tỉ dụ Việt Anh, đặc điểm về văn
hóa của tỉ dụ Việt Anh. Ở phần cấu trúc phép tỉ dụ, hai tác giả cho rằng cấu
trúc này vô cùng đơn giản, gồm hai thành tố, đƣợc nối với nhau bằng liên từ.
Nhƣng khi liệt kê liên từ, họ có sự nhầm lẫn giữa so sánh logic và SSTT khi
liệt kê cả dạng so sánh hơn “-er than”, “more than” trong TN Anh, “không
bằng, chẳng bằng, không tày, chẳng tày, hơn” trong TN Việt.
Ở phần phân loại, các tác giả phân loại phép tỉ dụ theo quan điểm của
Juozas Tininis
(8)
(dựa vào thành tố thứ nhất – trƣớc từ nối) và IR. Galperin (9)
(dựa vào thành tố thứ hai – sau từ nối). Nhƣng ngay từ đầu, các tác giả đã có
một sự nhầm lẫn. Đó là việc nhập nhằng giữa khái niệm thành ngữ và TN,
nên đã dẫn cả những ví dụ minh họa sau:
TN Việt:
-Béo như chim ra ràng.
-Nhanh như ngựa chạy trạm.
-Nháo nhác như gà lạc mẹ.
(8) Juozas Tininis (1971), Similes in Lithuanian Folk Proverbs, Lituanus Foundation, Inc., Lituania.
(9) I.R. Galperin (1971), Stylistics, Higher School Publishing House, Moscow
14
TN Anh:
-Like a drowned rat. (Nhƣ chuột chết chìm.)
-To swim like a duck. (Bơi nhƣ vịt.)
-As snug as a bug in a rug. (Thoải mái và ấm áp nhƣ rệp
trong chăn.)
-To fit like a glove. (Vừa vặn nhƣ chiếc găng tay.)
-To stick to somebody like a leech. (Dính ai nhƣ đỉa.)
-To eat like a pig. (Ăn nhƣ heo/lợn.)
Còn trong phần đặc điểm về ngôn ngữ trong tỉ dụ Anh, Việt, các tác
giả đƣa ra ba luận điểm: tính âm thanh của lời nói (lặp vần, lặp âm đầu), tính
đa thành tố (hai vế, ba vế so sánh), tính tiềm ẩn của liên từ so sánh. Trong
phần đặc điểm về văn hóa của tỉ dụ trong TN Việt Anh, họ đƣa ra ba luận
điểm: tính dân tộc, tính hài hƣớc châm biếm, tính sáo ngữ. Các luận điểm
thƣờng ngắn, không có sự lí giải và chỉ đƣợc chứng minh bằng vài câu TN (có
lẫn cả thành ngữ).
Nhìn chung, trong giới hạn của một bài viết ngắn đăng trên tạp chí, hai
tác giả không thể đào sâu để nói cho đủ, nói cho hết về vấn đề này. Phƣơng
pháp nghiên cứu còn chƣa hợp lí, tài liệu khảo sát chƣa xác đáng, dẫn đến kết
quả chỉ mới dừng lại ở mức định hƣớng, gợi ý sơ lƣợc cho những công trình
sau.
Tóm lại, trong phạm vi tài liệu mà ngƣời viết tìm hiểu đƣợc, chƣa có
công trình nào xem SSTT trong TN của ngƣời Việt và ngƣời Anh là đối tƣợng
nghiên cứu riêng biệt, chƣa có khảo sát nào thật sâu để làm nổi bật giá trị của
chúng. Trên tinh thần kế thừa những thành tựu của các nhà nghiên cứu đi
trƣớc, ngƣời viết hi vọng rằng có thể làm sáng tỏ phần nào sự tƣơng đồng và
15
dị biệt qua SSTT trong TN Việt và TN Anh dƣới góc độ ngôn ngữ học và văn
hóa học.
0.3. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
So sánh bao gồm so sánh logic và SSTT. Trong luận văn này, ngƣời
viết chỉ khảo sát thủ pháp so sánh với tƣ cách là phƣơng thức diễn đạt tu từ
“khi đối chiếu hai sự vật hiện tượng khác loại trong thực tế khách quan,
không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó,
nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng”. [31, tr.
157 – 159]
Ẩn dụ cũng là một phƣơng thức so sánh mà bản thân sự vật hiện tƣợng
đƣợc nói đến đã bị giấu đi một cách kín đáo. Luận văn sẽ không khảo sát thủ
pháp so sánh ngầm này mà chỉ tìm hiểu những biện pháp so sánh cụ thể trong
đó yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh hiện diện rõ trên văn bản.
SSTT có thể đƣợc nghiên cứu từ nhiều góc độ, từ nhiều quan điểm
khác nhau, nhƣng ở luận văn này, do thời gian và khả năng có hạn, ngƣời viết
chỉ khảo sát các SSTT trong TN Việt và TN Anh từ góc độ ngôn ngữ học và
văn hóa học.
Ngoài ra, ngƣời viết không coi việc sƣu tầm văn bản, minh định
những vấn đề còn tồn nghi là nhiệm vụ cần giải quyết mà sẽ sử dụng kết quả
nghiên cứu của các công trình từ điển học đã đƣợc công bố rộng rãi. Cụ thể,
cơ sở của việc thống kê phân loại và khảo sát sẽ là:
+ Về TN Việt, ngƣời viết sử dụng các văn bản đƣợc in trong quyển
“TN Việt Nam” của Chu Xuân Diên, Lƣơng Văn Đang, Phƣơng Tri [12]. Sách
này gồm hai phần, phần nghiên cứu về TN do Chu Xuân Diên chấp bút, còn
phần biên soạn các câu TN do Chu Xuân Diên, Lƣơng Văn Đang, Phƣơng Tri
16
thực hiện. Đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam sƣu tập TN với tƣ cách là
một thể loại riêng biệt, công phu. Trong đó, 4206 câu TN Việt đƣợc sắp xếp
theo hệ thống 73 đề tài rất khoa học. Công trình đƣợc giới nghiên cứu ở Việt
Nam đánh giá rất cao.
+ Về TN Anh, ngƣời viết chọn khảo sát các văn bản đƣợc in trong
quyển “The Penguin Dictionary of Proverbs” (Penguin Books) [86]. Ở Anh,
đây là quyển từ điển đơn ngữ tƣơng đối đầy đủ về TN gồm 6708 câu đƣợc sắp
xếp theo hệ thống 188 đề tài hợp lí. Trong mỗi đề tài, các câu TN đƣợc sắp
xếp theo từng nhóm thể hiện các khía cạnh khác nhau của đề tài. Đây là tài
liệu tham khảo vô cùng cần thiết cho những công trình nghiên cứu chuyên sâu
về TN Anh. Sách do nhà xuất bản rất uy tín ở Anh là Penguin ấn hành. Phần
chuyển ngữ các câu TN đƣợc in trong sách từ tiếng Anh sang tiếng Việt là do
ngƣời viết thực hiện.
Nhìn chung, mức độ bao quát và tần số xuất hiện của các hình ảnh
so sánh có thể sẽ dao động khi đối chiếu kết quả thống kê giữa công trình này
và công trình khác nhƣng chắc chắn rằng, những hình ảnh quen thuộc có ảnh
hƣởng đến đời sống vật chất và tinh thần của mỗi dân tộc sẽ có tần số xuất
hiện cao trong tất cả các công trình.
Sở dĩ ngƣời viết chọn khảo sát hai công trình văn bản học này vì
chúng đã tạo đƣợc tiếng vang rất lớn trong giới nghiên cứu, trong đó TN đƣợc
khảo sát với tƣ cách là một thể loại riêng biệt, không có sự nhập nhằng với
thành ngữ, và chúng đều đƣợc phân loại theo đề tài. Điều đó sẽ giúp chúng ta
có thể theo dõi đƣợc vốn TN phong phú, đa dạng của ngƣời xƣa “không phải
là trong trạng thái rời rạc, mà là trong một hệ thống nội dung liên tục, qua đó
hình dung được một cách tổng quát về xã hội và con người thời xưa từ các
17
lĩnh vực đời sống lao động, đời sống vật chất, đời sống xã hội, đến lĩnh vực
đời sống tinh thần.” [12, tr. 191]
0.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Những phƣơng pháp chủ yếu mà ngƣời viết sử dụng trong quá trình
thực hiện luận văn gồm:
- Phƣơng pháp thống kê – phân loại: Đây là phƣơng pháp đƣợc tiến
hành đầu tiên nhằm cung cấp những dữ kiện, số liệu chính xác, tạo
cơ sở thực tế tin cậy cho các kết luận khoa học. Sử dụng phƣơng
pháp thống kê, ngƣời viết tiến hành phân loại các vấn đề theo nội
dung nghiên cứu yêu cầu. Đơn vị thống kê nhỏ nhất là từ thể hiện
quan hệ so sánh và lớn nhất là cả câu TN.
- Phƣơng pháp so sánh – đối chiếu: Đây là phƣơng pháp quan trọng
để làm nổi bật đặc trƣng văn hóa, quan niệm thẩm mỹ và trình độ
nhận thức của ngƣời sáng tạo. Đối tƣợng so sánh đối chiếu là SSTT
trong TN của ngƣời Việt và ngƣời Anh. Nội dung so sánh đối chiếu
là về hai phƣơng diện ngôn ngữ và văn hóa. Chẳng hạn, qua thao tác
so sánh, ngƣời viết nhận ra hình ảnh ma quỷ qua SSTT trong TN
Việt mang tính chất tiêu cực, còn trong TN thì mang cả tính chất
tiêu cực lẫn trung hòa.
- Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp: Dựa trên cơ sở phân tích các
thành tố so sánh cụ thể, ngƣời viết tiến hành khái quát những đặc
điểm tƣơng đồng và dị biệt để tổng hợp thành hệ thống các giá trị
của phép SSTT trong TN mỗi nƣớc ở phƣơng diện ngôn ngữ và văn
hóa.
- Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: TN không chỉ đề cập đến
những kinh nghiệm trong sản xuất và đời sống của nhân dân mà còn
18
là nơi lƣu giữ lời ăn tiếng nói, phong tục tập quán, tín ngƣỡng của
ngƣời bình dân. Đƣợc lan truyền chủ yếu bằng phƣơng thức ghi nhớ
và truyền miệng, TN bị chi phối bởi môi trƣờng văn hóa dân gian
mà nó tồn tại. Do đó, để tiếp cận đƣợc với đối tƣợng này, chúng ta
cần có một phƣơng pháp nghiên cứu tổng hợp: nghiên cứu liên
ngành. Những kiến thức về các ngành khoa học khác nhƣ lịch sử,
địa lí, dân tộc học, xã hội học, đất nƣớc học,… sẽ giúp chúng ta hiểu
đƣợc các quan niệm khác nhau còn đƣợc lƣu giữ trong TN của mỗi
nƣớc. Chẳng hạn những hiểu biết về địa lí, khí hậu, về loại hình văn
hóa của dân tộc Việt và dân tộc Anh sẽ giúp ngƣời viết lí giải sự
khác biệt về hệ động thực vật, phƣơng thức sản xuất, cách tƣ duy,
nhân sinh quan của ngƣời Việt và ngƣời Anh trong luận văn.
0.5. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
- Về phương diện khoa học:
+ Luận văn góp phần làm rõ bản chất c ủa thể loaị TN nói chung và
SSTT trong TN của hai dân tộc nói riêng. Đây là một công trình nghiên cứu
chuyên ngành hẹp, đi sâu tìm hiểu giá trị của phép SSTT trong TN Việt và
Anh thông qua tầm nhìn liên ngành.
+ SSTT trong TN thể hiện những tƣơng đồng và dị biệt trong cách tƣ
duy, tri nhận về sự vật của ngƣời bản ngữ. Nó đƣợc coi là phƣơng tiện để
khám phá ra những bí mật của quá trình tƣ duy cũng nhƣ những kinh nghiệm
đƣợc hình thành trong quá trình con ngƣời và giới tự nhiên tƣơng tác với nhau.
Qua SSTT trong TN của ngƣời Việt và ngƣời Anh, chúng ta có thể thấy đƣợc
văn hóa Việt, tinh thần Việt cũng nhƣ văn hóa Anh, tinh thần Anh. Đồng thời
cũng hiểu thêm phần nào cái hay, cái đẹp trong ngôn ngữ của hai dân tộc; về
lối cảm, lối nghĩ, lối diễn đạt riêng của mỗi nƣớc.
19
- Về phương diện thực tiễn:
+ Khi đi vào hƣớng nghiên cứu đối chiếu này, chúng ta có điều kiện
làm sáng tỏ thêm vấn đề đặc trƣng tâm lí cộng đồng trong chiều sâu ngôn ngữ,
văn hóa. Đây là cơ sở giúp ta mở rộng hiểu biết, tạo tiền đề cho quá trình hội
nhập.
+ Luận văn góp phần vào quá trình trang bị những tiền đề tâm lí – văn
hóa – xã hội, làm cơ sở cho việc hiểu sâu ngôn ngữ, trực tiếp góp phần nâng
cao chất lƣợng giảng dạy và học tập tiếng Anh cho ngƣời Việt cũng nhƣ tiếng
Việt cho ngƣời Anh.
+ Phần phụ lục ghi chép đầy đủ và có hệ thống về các trƣờng hợp
SSTT trong TN Việt và TN Anh có khả năng ứng dụng vào việc giảng dạy và
nghiên cứu về TN nói chung cũng nhƣ SSTT nói riêng.
0.6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Kết cấu luận văn ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, nội dung chính
gồm có các chƣơng mục sau:
Chương I: Những vấn đề chung về SSTT trong TN Việt và TN Anh
Trong chƣơng I, ngƣời viết sẽ trình bày khái quát các quan niệm khác
nhau về TN cũng nhƣ SSTT trong TN, từ đó lựa chọn cho mình một quan
niệm nhất quán để tiến hành việc khảo sát, nghiên cứu. Chƣơng I là cơ sở, nền
tảng cho các chƣơng sau.
Chương II: SSTT trong TN Việt và TN Anh, nhìn từ góc độ ngôn ngữ
học
Ở chƣơng II, tiếp cận SSTT dƣới góc độ ngôn ngữ học, ngƣời viết sẽ đi
vào làm rõ sự giống nhau và bản sắc riêng của mỗi dân tộc khi miêu tả từng
thành tố trong cấu trúc của SSTT. Việc lựa chọn có tính chất nhất quán đặc
20
điểm, cấu tạo của các yếu tố trong SSTT là dấu hiệu quan trọng cho phép ta
nhận diện đƣợc phong cách riêng của mỗi dân tộc. Để đánh giá các yếu tố
trong cấu trúc SSTT, ngƣời viết sẽ chú ý tìm hiểu xem các yếu tố trong so
sánh có đầy đủ không, cấu tạo và đặc điểm của chúng, …
Chương III: SSTT trong TN Việt và TN Anh, nhìn từ góc độ văn hoá
học.
Qua SSTT, chúng ta có thể nhận ra những đặc trƣng của phong cách
thời đại, phong cách dân tộc. Là đề tài vận dụng một khái niệm của phong
cách học (SSTT) vào việc tìm hiểu một thể loại văn học dân gian, ngƣời viết
sẽ khảo sát những nét tƣơng đồng và dị biệt trong quan niệm thẩm mỹ, bản
sắc văn hoá và trình độ nhận thức của mỗi dân tộc qua quá trình phân tích các
câu TN có chứa SSTT. Đó không chỉ là ngôn ngữ mà còn là dấu tích của các
nền văn hoá.
Ngoài ra luận văn còn có phần Phụ lục với 135 câu TN Việt có SSTT
và 178 câu TN Anh có SSTT. Các SSTT này đƣợc thống kê theo yêu cầu của
chính văn, chia thành 12 bảng. Trong đó, SSTT trong TN Việt và Anh đƣợc
phân loại theo yếu tố A, B về phƣơng diện đề tài và phƣơng diện từ vựng – cú
pháp. CSSS trong TN Việt và Anh đƣợc phân loại theo cấu tạo của chúng.
Ngoài ra còn có phụ lục về các hình ảnh lặp đi lặp lại ở yếu tố B trong SSTT
của TN Việt và Anh và bảng kê các số liệu đã đƣợc sử dụng trong luận văn.
Phần chuyển ngữ từ Anh sang Việt là do ngƣời viết thực hiện.
21
Phần thứ hai: NỘI DUNG
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ SSTT TRONG TN VIỆT
VÀ TN ANH
1.1. KHÁI NIỆM TỤC NGỮ
1.1.1. Khái niệm TN ở Việt Nam
1.1.1.1. Khái niệm TN dưới góc nhìn của các nhà nghiên cứu văn học
Ở Việt Nam, khi tìm hiểu về TN các nhà nghiên cứu văn học thƣờng
nêu ra một số đặc trƣng sau đây:
+ Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ ca dao Việt Nam [56, tr. 39]:
“TN là một câu tự nó diễn đạt trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh
nghiệm, một lý luận, một công lý, có khi là một sự phê phán.”
+ Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Văn học dân gian Việt Nam,
[26, tr.244]
“Tục ngữ là những câu nói ngắn gọn, có ý nghĩa hàm súc, do nhân dân
lao động sáng tạo nên và lưu truyền qua nhiều thế kỉ.”
+ Bùi Mạnh Nhị, Tục ngữ// Văn học dân gian – những công trình
nghiên cứu [ 48, tr. 254]:
“Tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn, ổn định, có nhịp
điệu, hình ảnh và thường mang nhiều nghĩa, thể hiện những kinh nghiệm của
nhân dân về mọi mặt (tự nhiên, lao động sản xuất, xã hội), được nhân dân áp
dụng vào đời sống, tư duy và lời ăn tiếng nói hàng ngày.”
22
+ Hoàng Tiến Tựu, Văn học dân gian Việt Nam [77, tr.109]:
“TN là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức, nêu
lên những nhận xét, phán đoán, lời khuyên răn của nhân dân dưới hình thức
những câu nói ngắn gọn, giản dị, súc tích, có nhịp điệu, d._.ễ nhớ, dễ truyền”.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu văn học dân gian đã tìm hiểu, đào sâu
nghiên cứu TN ở cả phƣơng diện nội dung và hình thức.Theo các ý kiến trên,
nội dung của tục ngữ xoay quanh các kinh nghiệm, tri thức của dân gian; dƣới
hình thức một câu, ngắn gọn, súc tích, có vần điệu, giàu hình ảnh; do nhân
dân lao động sáng tạo và lƣu truyền qua nhiều thế kỉ. Những ý kiến trên đã
đặt nền móng vững chắc cho một quan niệm đầy đủ về TN.
Để việc nghiên cứu nhất quán và hiệu quả, trong quá trình làm việc,
chúng tôi xin dựa vào định nghĩa TN của Chu Xuân Diên và các tác giả khác
trong tiểu luận về “TN Việt Nam”. Trƣớc hết, quan niệm này đã cho ngƣời
đọc cái nhìn bao quát nhƣng cụ thể về TN, cho thấy vai trò của TN trong việc
phản ánh lối sống của con ngƣời trong từng thời đại, với lối nghĩ của nhân
dân và lối nói của dân tộc. Đó “là sản phẩm của sự nhận thức của nhân dân
về các sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan, chứa đựng và phản ánh
tri thức của nhân dân”, có chức năng “làm phong phú thêm những kinh
nghiệm sống của con người, từ đó xác định cho con người những phương
châm xử thế phù hợp”, với lối nói “có hình ảnh”, “hàm súc”, “bằng một
hình thái tu từ” và“bằng ngôn ngữ thẩm mĩ”. [12, tr.172]
1.1.1.2. Khái niệm TN dưới góc nhìn của các nhà nghiên cứu ngôn
ngữ học:
Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học cho ta góc nhìn khác về TN.
23
Cù Đình Tú trong “Góp ý kiến về phân biệt thành ngữ và tục ngữ” [74,
tr. 39 – 49] dựa vào tiêu chí chức năng cho rằng: “TN cũng như các sáng tạo
khác của dân gian như ca dao, truyện cổ tích, đều là các thông báo. Nó thông
báo một nhận định, một kết luận về một phương diện nào đó của thế giới
khách quan. Do vậy mỗi TN đọc lên là một câu hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn
một ý tưởng. Đó cũng là lí do giải thích TN có cấu tạo là các kết cấu hai
trung tâm”.
Đỗ Hữu Châu trong “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt” [6, tr.72], dựa
vào tiêu chí cấu tạo và ngữ nghĩa, cho rằng TN và thành ngữ đƣợc phân biệt
trong mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tƣ duy. Theo ông, thành ngữ biểu thị
khái niệm, TN biểu thị phán đoán. “Nghĩa của thành ngữ tương đương với
nghĩa của cụm từ…Nghĩa của TN là một phán đoán, một sự đánh giá, một sự
khẳng định về một chân lí nào đó, nghĩa là một tư tưởng hoàn chỉnh”
Hoàng Văn Hành trong “Tục ngữ theo cách nhìn của ngữ nghĩa học”
[22, tr. 59- 63] dựa vào tiêu chí cấu tạo và ngữ nghĩa, ông đã xem xét TN nhƣ
một phức thể đa diện và quan niệm TN là câu thông điệp nghệ thuật: “Khi nói
TN là những câu – thông điệp nghệ thuật là cùng một lúc chúng ta nhấn mạnh
hai đặc trưng bản chất, không tách rời nhau của nó: Một là, TN là câu,
nhưng là câu đặc biệt khác với mọi câu nói thông thường ở tư cách là làm
thông điệp nghệ thuật”.
Trong một hƣớng tiếp cận khác, Nguyễn Thái Hòa (Tục ngữ Việt Nam
– cấu trúc và thi pháp) khẳng định TN là loại “phát ngôn đặc biệt” [24, tr. 47
– 48]. Trong công trình của mình, tác giả đã xem xét TN trên các bình diện
thể chất, cấu trúc và chức năng. Ông kết luận:
24
+ TN là những phát ngôn hình thành trong lời thoại hàng ngày. Đó là
những đơn vị lời nói nhƣng tồn tại trong kí ức cộng đồng nhƣ là một đơn vị
ngôn ngữ, nói nhƣ J.Lyons là “những phát ngôn làm sẵn”.
+ Giữa thành ngữ (cụm từ cố định) là đơn vị cơ bản của phát ngôn và
TN (những phát ngôn làm sẵn) có những hình thức trung gian cũng nhƣ giữa
TN và ca dao cũng tồn tại những hình thức trung gian tƣơng đồng về chức
năng và cấu trúc. Nhƣng những hình thức trung gian ấy là chỗ “giáp ranh thú
vị” (R. Jakobson) không lớn so với tổng số TN khảo sát.
+ Gọi là “những phát ngôn làm sẵn” có thể nhầm lẫn với một số phát
ngôn làm sẵn khác tồn tại trong lời nói, chƣa phản ánh đầy đủ những đặc
trƣng của TN. Vì vậy, chúng tôi quan niệm TN là những phát ngôn đặc biệt –
hình thành từ trong lời thoại hàng ngày nhưng tồn tại như một đơn vị ngôn
ngữ, (…) có cơ cấu ngữ nghĩa cú pháp đa dạng, có khuôn hình cố định, làm
cơ sở cho sự tái hiện, lưu giữ và sản sinh những kiểu nói TN. [24, tr. 72]
Nhìn chung, theo các nhà ngôn ngữ, tục ngữ là những phát ngôn
làm sẵn, diễn đạt một tƣ tƣởng hoàn chỉnh, có chức năng thông báo với cấu
tạo cố định, tƣơng đƣơng với một phán đoán trọn vẹn.
Ở bình diện ngôn ngữ, quan điểm về TN của Chu Xuân Diên trong
quyển “TN Việt Nam” mà ngƣời viết chọn làm cơ sở để tiến hành việc nghiên
cứu của mình, cũng rất gần với quan điểm của các nhà ngôn ngữ học khi cho
rằng TN “là một đơn vị thông báo”, “đơn vị câu độc lập”, “là loại câu cố
định về thành phần và cấu trúc, bền vững về ngữ nghĩa”, nội dung của TN
“được diễn đạt thông qua những tư tưởng khẳng định hoặc phủ định của các
phán đoán”, “được tái hiện dưới dạng làm sẵn khi được sử dụng trong lời
nói”, “TN thoạt tiên và trước hết thuộc ngôn ngữ nói” [12, tr. 119, 158, 159].
25
1.1.2. Khái niệm về TN ở Anh:
Theo Wolfgang Mieder trong “Proverbs are out of season” (Oxford
University Press, 1993), TN là “những câu nói ngắn gọn, được phổ biến rộng
rãi của dân gian thể hiện sự thông thái, chân lí, đạo đức và những quan niệm
truyền thống dưới hình thức ẩn dụ, cố định và dễ nhớ, nó được truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác”. (10) [97]
Từ điển tục ngữ Oxford (The Oxford dictionary of proverbs, 2007) bổ
sung thêm: TN là những câu nói phổ biến và cổ xưa được lặp đi lặp lại, đặc
biệt chúng thường ngắn và diễn tả một cách sinh động thực tiễn, hoặc những
kinh nghiệm, quan sát. (11) [100]
Nhà nghiên cứu Richard L. Berry thì quan niệm: TN là những câu nói
ngắn gọn chứa đựng sự thông thái hoặc diễn đạt những kinh nghiệm cụ thể,
rõ ràng. Chúng chứa đựng rất nhiều giá trị văn hóa của con người. TN Anh
được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm văn học viết, văn học
dân gian, kinh thánh, lịch sử và kinh nghiệm thông thuờng. Chúng rất có giá
trị và là chìa khóa để hiểu người Anh.(12)
Theo từ điển bách khoa toàn thƣ trên mạng, trang tiếng Anh
( khái niệm “TN” (proverb) có nguồn gốc từ tiếng
(10) A proverb is a short, generally known sentence of the folk which contains wisdom, truth, morals,
and traditional views in a metaphorical, fixed and memorizable form and which is handed down
from generation to generation.
(11) “An old and common saying which is often repeated; especially, a sentence which briefly and forcibly
expresses some practical truth, or the result of experience and observation.”
(12) “Proverbs are sayings, which contain wisdom or express an idea clearly without using many words. They
contain a great deal of the accumulated culture of the people. English proverbs come from many sources
including literature, folk tales, the bible, history and simple wisdom. They are very valuable and are a key to
understanding English people.”(Website: RichardBerry.com)
26
Latinh “proverbium”(13). “Đó là những câu nói ngắn gọn, cụ thể được phổ
biến rộng rãi và được lặp đi lặp lại, thể hiện chân lý dựa vào các giác quan
thông thường hay những kinh nghiệm thực tiễn của loài người.”
Sau khi thống kê lại, ngƣời viết thấy quan niệm về TN của ngƣời Việt
và ngƣời Anh tƣơng đối giống nhau chứ không có sự khác biệt quá lớn: đó là
những câu nói ngắn gọn, sinh động, có ý nghĩa khái quát, có tính truyền
thống, nhằm truyền đạt kinh nghiệm của người xưa.
Nhìn chung, ngƣời Việt và ngƣời Anh đều có kho tàng phong phú về
TN của dân tộc mình. Ở Việt Nam, công trình sƣu tầm giới thiệu TN đồ sộ
nhất là quyển “Kho tàng TN người Việt” của Nguyễn Xuân Kính, Nguyễn
Luân, Nguyễn Thúy Loan, Phan Lan Hƣơng [29]. Đây là công trình giới thiệu
TN với số câu nhiều nhất - 16.098 câu (có trong 52 đầu sách - 63 tập, trong đó
cuốn xuất bản sớm nhất là năm 1896, và mới nhất đƣợc in năm 1999), có ghi
xuất xứ và các dị bản trong trƣờng hợp một câu có nhiều bản. Về TN Anh,
hiện nay cuốn từ điển đầy đủ nhất, đồ sộ nhất là quyển “The Oxford
dictionary of English proverbs” của Smith William George, Wilson F.P.,
Wilson Joanna [106]. Sách dày 950 trang, bao gồm khoảng 10540 câu TN
Anh. Nhƣ vậy, kho tàng TN của ngƣời Việt và ngƣời Anh quả là giàu có.
Nội dung của TN Việt và TN Anh cũng rất phong phú, đa dạng, bao
quát hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống. Đó có thể là các kinh nghiệm của dân
gian về thiên nhiên, lao động sản xuất, về các mối quan hệ trong gia đình và
ngoài xã hội, các quan niệm về nhân sinh, tôn giáo, tín ngƣỡng,…Nhìn chung,
đề tài của TN Việt và TN vô cùng rộng lớn, bất cứ lĩnh vực nào dân gian khi
có kinh nghiệm đều có thể đúc kết thành TN.
(13) A proverb, (from the Latin proverbium), is a simple and concrete saying popularly known and repeated,
which expresses a truth, based on common sense or the practical experience of humanity.
27
Về phƣơng diện nghệ thuật, TN Anh và Việt đều mang tính chất ngắn
gọn, súc tích, đa nghĩa với lối nói giàu hình ảnh thông qua các biện pháp tu từ
nhƣ so sánh, ẩn dụ, nhân hóa,… Tuy nhiên, do tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập
nên TN Việt rất giàu nhạc tính với vần, nhịp và sự hòa đối. Còn tiếng Anh là
ngôn ngữ biến hình, đa âm tiết nên TN của họ không có đặc điểm này mà chỉ
là những lời nói bình thƣờng, gần với phong cách của văn học viết. Về hình
thức, TN Việt có thể gồm một, hai hoặc ba vế trở lên, trong đó nhiều nhất là
loại câu có hai vế với kết cấu đối xứng, nhịp nhàng, giàu nhạc điệu. Trong khi
đó, TN Anh chủ yếu gồm một mệnh đề độc lập, chứa một phán đoán duy nhất.
Tóm lại, từ những bài học triết lí khô khan, TN Việt và Anh trở nên
hấp dẫn hơn và đi vào lòng ngƣời một cách dễ dàng là do nhiều nguyên nhân,
trong đó có đóng góp không hề nhỏ của biện pháp SSTT.
1.2. SSTT TRONG TỤC NGỮ
Cách đây gần 2500 năm, Aristote (384 – 322 trƣớc công nguyên)
trong cuốn “Nghệ thuật thi ca” nổi tiếng đã đề cập đến phép tu từ so sánh.
Hégel (1770 – 1831) trong cuốn “Mĩ học” cũng có bàn luận về so sánh.
1.2.1. Khái niệm SSTT
Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam, “so sánh” là
lối đối chiếu hai hay nhiều đối tƣợng có dấu hiệu giống và khác nhau về hình
thức bên ngoài hay tính chất bên trong. Cách nói này nhằm mục đích giải
thích, miêu tả, đánh giá hoặc biểu lộ tình cảm về đối tƣợng đƣợc nói đến. Nhờ
so sánh, ta thấy rõ bản chất của sự vật, hiện tƣợng đƣợc phản ánh. Đây là hình
thức rất phổ biến trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, vì nó giúp ngƣời nghe hiểu
điều mình muốn nói một cách nhanh chóng.
28
Còn “tu từ”, theo nghĩa từ nguyên Hán Việt, “tu” là sửa chữa cho
hay, cho tốt đẹp hơn, “từ” là từ ngữ, lời nói, câu viết. Theo Từ điển tiếng Việt
của Hoàng Phê (Viện ngôn ngữ học, 2002, tr. 1059), “tu từ” là những thuộc
tính biểu cảm của các phƣơng tiện ngôn ngữ, giúp lời văn hay hơn, đẹp hơn.
Ở phƣơng Tây, ngƣời ta dùng khái niệm tƣơng đồng là “figura”, có
nguồn gốc từ tiếng Latinh. “Figura” có nghĩa là bóng bẩy, có sức hấp dẫn, lôi
cuốn. “Figura” đƣợc các nhà nghiên cứu văn học ở Việt Nam dịch ra thành
nhiều thuật ngữ khác nhau nhƣ biện pháp tu từ, mỹ từ pháp,…Với tƣ cách là
một thuật ngữ khoa học, “figura” đƣợc xem là những cách thức diễn đạt bóng
bẩy, gợi cảm, có sức hấp dẫn, lôi cuốn khi trình bày.
Về khái niệm SSTT, Cù Đình Tú trong Phong cách học tiếng Việt
cho rằng: “SSTT là sự đối chiếu hai sự vật (về tính chất, trạng thái, sự việc) A
và B cùng có một dấu hiệu chung nào đấy giống nhau. A là sự vật chưa biết,
nhờ qua B mà người đọc biết A hoặc hiểu thêm về A (…)
SSTT còn gọi là so sánh hình ảnh, đó là một sự so sánh không đồng
loại, không cùng một phạm trù chung, miễn là có một nét tương đồng nào đó
về mặt nhận thức hay tâm lý (thí dụ: con mắt và ngôi sao, trái tim đau thương
và một cái cốc vỡ). Đó là một sự so sánh có giá trị hình tượng và giá trị biểu
cảm”. [73, tr. 100 – 103]
Đinh Trọng Lạc trong“99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng
Việt” cũng quan niệm tƣơng tự: “So sánh (còn gọi là so sánh hình ảnh, SSTT)
là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng
khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ
có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác
mới mẻ về đối tượng.” [31, tr. 154 – 159]
29
Chẳng hạn trong câu TN “Người ta hoa đất”, con ngƣời đƣợc so
sánh với một hình ảnh cụ thể là “hoa” dựa trên cơ sở mối quan hệ tƣơng
đồng: con ngƣời và hoa đều là tinh túy của đất trời, đều là cái đẹp cần đƣợc
nâng niu. Hai sự vật đƣợc đem ra so sánh ở đây hoàn toàn khác loại: ngƣời và
hoa. Chính hình ảnh hoa đã nâng cảm xúc thẩm mỹ vƣợt lên mức thông
thƣờng.
Nhƣ vậy, SSTT (hay còn gọi là so sánh nghệ thuật, so sánh văn
chƣơng, so sánh hình ảnh) chính là “đôi cánh giúp chúng ta bay vào thế giới
của cái đẹp, của tưởng tượng hơn là đến ngưỡng của logic học.”[30]
Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu Anh, Richard L. Berry cho
rằng: SSTT (14) được sử dụng khi chúng ta muốn nói cái này giống cái kia.
Chúng được giới thiệu bởi các từ: “like”, “as..as..”. Có nhiều giá trị văn hóa
tồn tại trong SSTT.
Theo Từ điển ngôn ngữ tiếng Anh, SSTT là 1 hình thái của lời nói
mà trong đó hai sự vật khác nhau được mang ra so sánh trong một cụm từ
được giới thiệu bằng “like” hoặc “as”. (15)[88]
Chẳng hạn nhƣ câu:
Curses, like chickens, come home to roost (Những lời nguyền rủa
giống nhƣ lũ gà lại quay về chuồng nhà mình mà đậu.)
Lời nguyền rủa và lũ gà là hai sự vật hiện tƣợng khác loại, nhƣng
dân gian đã phát hiện ra điểm giống nhau giữa chúng: gà quay về chuồng của
( 14 )
Similes are used when we say that something is like something else. They are usually
introduced with the words “…like…” or “as…as…”. There is a great cultural value in similes.
(Trích từ website: RichardBerry.com)
(15) “A figure of speech in which two essentially unlike things are compared, often in a phrase
introduced by like or as.”
30
mình mà đậu cũng nhƣ lời nguyền rủa sẽ quay về làm hại chính chủ nhân của
nó – sự độc ác lại rơi xuống đầu của những kẻ độc ác!
Tóm lại, với các nhà ngôn ngữ ở Anh, tiêu biểu là Bredin Hugh,
SSTT là biện pháp tu từ ngữ nghĩa dựa vào sự đối chiếu, là quá trình tƣ duy
quan trọng khi chúng ta suy nghĩ và phát ngôn về thế giới chung quanh. (16)
[ 84]
Nhìn chung, quan niệm của các nhà nghiên cứu về SSTT không có
sự khác biệt nào quá lớn. Để nhất quán trong quá trình làm việc, ngƣời viết
xin chọn quan điểm của Cù Đình Tú về SSTT để làm cơ sở cho việc khảo sát.
Về việc phân biệt SSTT với so sánh logic, ta thấy so sánh trong TN
thuộc hai dạng: so sánh logic (còn đƣợc gọi là so sánh luận lí, so sánh định
lƣợng) và SSTT (còn đƣợc gọi là so sánh hình ảnh, so sánh văn chƣơng).
Cù Đình Tú cho rằng trong phép so sánh luận lí, “cái được so sánh
và cái so sánh là đối tượng cùng loại và mục đích của sự so sánh là xác lập
sự tương đương giữa hai đối tượng. Trong SSTT tình hình diễn ra có khác.
Các đối tượng được đưa ra so sánh là các đối tượng khác loại và mục đích
của phép so sánh là nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của một đối
tượng. Muốn nhấn mạnh vào tính chất này có nhà ngôn ngữ học dùng thuật
ngữ “so sánh hình ảnh”. Chính do mục đích diễn tả một cách hình ảnh này
mà các phép SSTT ít nhiều đều khập khiễng, đều mang tính chất khoa
trương.” [72, tr. 272]
(16)“Simile is a semantic figure based on comparision, a mental process playing a central role in
the way we think and talk about the world...”
31
Đinh Trọng Lạc cũng phân biệt rất rạch ròi hai khái niệm này trong
quyển “99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt” của mình. Tác giả
khẳng định: “trong so sánh luận lí, cái được so sánh và cái so sánh là các đối
tượng cùng loại và mục đích của sự so sánh là xác lập sự tương đương giữa
hai đối tượng”. Chẳng hạn, SSTT: “Mặt tươi như hoa”, còn so sánh luận lí:
“Mặt con cũng tròn như mặt mẹ”. [31]
Nhƣ vậy, những câu TN mà đối tƣợng đƣa ra so sánh là đồng loại
kiểu nhƣ: “Lệnh ông không bằng cồng bà”; “Thuốc không hay bằng thang”;
“Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại”; “Nhất thủ, nhì vĩ”; …không thuộc
phạm vi khảo sát của luận văn. Các câu so sánh logic này chỉ phản ánh một
kinh nghiệm, một quan niệm dựa trên cơ sở xác định sự hơn thua giữa các đối
tƣợng. Còn những câu TN đƣợc cấu tạo bằng biện pháp so sánh mà trong đó,
các đối tƣợng đƣợc đƣa ra so sánh là khác loại, dựa trên cơ sở liên tƣởng
tƣơng đồng nhằm làm nổi bật đặc điểm, thuộc tính của đối tƣợng này thông
qua đặc điểm, thuộc tính của đối tƣợng kia một cách hình tƣợng mới chính là
đối tƣợng nghiên cứu của luận văn. Chúng đƣợc sử dụng rất phổ biến trong
TN, phản ánh cách tƣ duy, lối nghĩ của nhân dân.
Tóm lại, SSTT khác với so sánh logic ở:
+ tính dị loại (không cùng 1 loại) của sự vật hiện tƣợng.
+ tính hình tƣợng, tính biểu cảm
Chỉ có SSTT mới đem lại xúc cảm thẩm mĩ, là cơ sở để ngƣời ta có
thể nhận ra những nét riêng của ngƣời sử dụng. Do đó, chúng cần đƣợc khảo
sát.
32
1.2.2. Cấu trúc của SSTT:
Theo Hoàng Văn Hành trong “Về bản chất của thành ngữ so sánh
tiếng Việt” [21], Nguyễn Thị Bích Thủy trong “Cấu trúc tỉ dụ trong thơ Tố
Hữu” [69], một SSTT nói chung có thể gồm đến 5 yếu tố ở dạng đầy đủ:
A (t1) như B (t2)
Trong đó, A là yếu tố cần so sánh, tức cái đƣợc hay bị so sánh; t1 là
thuộc tính của A; B là cái dùng làm chuẩn để so sánh, hay còn đƣợc gọi là cái
so sánh; t2 là thuộc tính của B; “như” là từ thể hiện quan hệ so sánh.
Các nhà nghiên cứu khác thì cho rằng t1 và t2 ở cấu trúc so sánh có 5
thành tố là thuộc tính riêng của A và B, mà khi đã hình thành cấu trúc so sánh
thì giữa A và B phải có ít nhất 1 thuộc tính trở thành thuộc tính chung – chính
điểm chung này làm nảy sinh mối liên tƣởng tƣơng đồng – chứ không phải
thuộc tính của sự vật nào vẫn đi với sự vật ấy. Do đó, mô hình trên chƣa chỉ
ra đƣợc đâu là thuộc tính chung, làm cơ sở cho sự so sánh.
Lê Trƣờng Phát trong Thi pháp văn học dân gian [57, tr.114] thì quan
niệm SSTT chỉ gồm 2 yếu tố: “Về phương diện cấu trúc, so sánh thường
được thể hiện bằng hai vế. Vế đầu là hiện tượng cần được biểu đạt (cái được
biểu đạt) một cách hình tượng. Vế sau là hiện tượng dùng để so sánh (cái
biểu đạt).”
Trƣớc đây, trong sách Tiếng Việt dạy học sinh lớp 6 của nhà xuất bản
Giáo dục, 1995 [1], mô hình so sánh chỉ gồm 3 yếu tố: A – từ so sánh – B.
Yếu tố CSSS nếu có xuất hiện thì bị đẩy về A, coi đó là thuộc tính của A.
Việc hƣớng dẫn học sinh chỉ quan tâm đến những sự vật nào, hình ảnh nào
đƣợc so sánh với nhau mà không hỏi xem các sự vật đó có tính chất, trạng
thái gì chung là một thiếu sót lớn. Chỉ khi nào biết đƣợc những tính chất,
33
trạng thái chung đó thì mới hiểu đƣợc vì sao những sự vật tƣởng chừng nhƣ
xa lạ lại có thể đem so sánh với nhau, mang lại bao xúc cảm và nhận thức
trong lòng ngƣời tiếp nhận.
Còn một số tác giả khác nhƣ Nguyễn Thế Lịch [ 36], Cù Đình Tú [72],
Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa [ 30], Đỗ Thị Kim Liên [37] cho rằng các
SSTT bao gồm 4 yếu tố cơ bản ở dạng đầy đủ (cái được/bị so sánh, cái so
sánh, CSSS, từ so sánh), tùy hoàn cảnh, mục đích sử dụng mà số lƣợng các
yếu tố có thể bớt đi. Trong khi các tác giả khác cho rằng so sánh gồm hai yếu
tố (yếu tố đƣợc so sánh – yếu tố so sánh) hay ba yếu tố (yếu tố đƣợc/bị so
sánh – từ so sánh – yếu tố so sánh) đều không tách ra một thành phần của cấu
trúc so sánh là yếu tố CSSS, đều cho thuộc tính đƣợc nói đến hay ngầm ẩn
thuộc yếu tố đƣợc/ bị so sánh (A) thì việc phân tích cấu trúc so sánh thành 4
yếu tố đã làm hiện ra CSSS, hiện ra thuộc tính chung giữa các sự vật đem so
sánh với nhau. Yếu tố CSSS nhất thiết phải có, nếu không xuất hiện ở dạng
hiển ngôn thì ở dạng ngầm ẩn.
Khi viết về SSTT trong tiếng Anh, Patrizia Pierini [103] quan niệm
cấu trúc của một SSTT gồm ba phần: chủ thể (thực thể đƣợc miêu tả), phƣơng
tiện (thực thể đem ra so sánh với chủ đề), chúng liên kết với nhau bằng từ thể
hiện quan hệ so sánh. Còn điểm tƣơng đồng (thuộc tính chung giữa chủ thể và
phƣơng tiện so sánh) có thể đƣợc đề cập rõ ràng hoặc ẩn đi.(17) Quan niệm này
về cơ bản cũng chỉ ra đƣợc 4 yếu tố của cấu trúc SSTT ở dạng đầy đủ.
Nhƣ vậy, ta sẽ có mô hình cấu trúc của SSTT nhƣ sau:
(17)
“A simile can be defined as the statement of a similarity relation between two entities, essentially
different but thought to be alike in one or more respects. It has a tripartite structure, consisting of: topic (the
entity descibred by the simile), vehicle (the entity to which the topic is compared), accompanied by a
comparision marker. Similarity feature(s) (the properties shared by topic and vehicle), which can be
expressed explicitly or left unsaid.”
34
Bảng 1.1: Cấu trúc đầy đủ của SSTT
Yếu tố đƣợc/ bị
so sánh
CSSS Từ thể hiện
quan hệ so
sánh
Yếu tố so sánh
Gái có chồng nhƣ đeo gông vào cổ
Đàn bà cạn lòng nhƣ đĩa
Đàn ông bạc nghĩa nhƣ vôi
Curses (lời
nguyền rủa)
come home to roost
(quay về chuồng
nhà mình mà đậu)
like (nhƣ) chickens (lũ gà)
Time (thời gian) is (là) money (tiền bạc)
Yếu tố đƣợc/ bị so sánh (kí hiệu là A) có thể là 1 từ, 1 ngữ hoặc nhiều
cấu trúc chủ vị.
Yếu tố so sánh (kí hiệu là B) hay còn gọi là yếu tố đƣa ra làm chuẩn
để so sánh cũng đƣợc thể hiện bằng một từ, một ngữ, một hoặc nhiều cấu trúc
chủ vị. Một yếu tố đƣợc/ bị so sánh có thể tƣơng ứng với nhiều yếu tố so sánh,
chẳng hạn: “Gái có chồng như chông như mác/ Gái không chồng như rác như
rơm.”
CSSS (t) – nét tƣơng đồng giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố chuẩn
để so sánh – có thể đƣợc nêu ra hoặc giấu đi. Khi CSSS đƣợc nêu ra, các nhà
ngôn ngữ học gọi đây là SSTT nổi, nếu nó bị giấu đi, ta có SSTT chìm. Mà dù
có đƣợc nêu ra, nó vẫn luôn chứa đựng những liên tƣởng vô tận khác ở ngƣời
đọc.
35
Từ so sánh là từ nối yếu tố A và B, thể hiện quan hệ so sánh.
Nhƣ vậy, mô hình đầy đủ của SSTT là:
A – Cở sở so sánh – Từ so sánh – B
Tùy trƣờng hợp mà trật tự của các yếu tố có thể thay đổi hoặc bớt đi
một số yếu tố trong mô hình trên.
Cái hay, giá trị đặc biệt của một so sánh chính là việc lựa chọn yếu tố
so sánh. Một so sánh mới lạ nhƣng vẫn đủ để cho phép ngƣời đọc có thể phát
hiện ra nét tƣơng đồng giữa nó với yếu tố đƣợc so sánh là một so sánh hay.
Từ đó, chúng ta sẽ có thêm nhận thức mới, sâu sắc hơn về đối tƣợng và cả
thái độ, tình cảm của dân gian với đối tƣợng ấy nữa. Chẳng hạn trong câu:
Phải duyên thì dính như keo
Trái duyên chổng chểnh như kèo đục vênh.
Theo Cù Đình Tú trong Phong cách học TV, sự gắn bó của tình yêu so
sánh với sự gắn bó của keo với nhau hay của keo với một vật khác thì đó là
một sự so sánh không phải không hay, vì ngƣời so sánh đã phát hiện rất đúng
đắn nét giống nhau giữa hai đối tƣợng khác loại (tình yêu và keo), nhƣng cách
so sánh này không thật mới mẻ, bất ngờ. Khi dân gian so sánh sự không gắn
bó của tình yêu với sự nghễnh ngãng của cái kèo nhà bị đục vênh thì quả là
một sự so sánh vừa độc đáo vừa mang sắc thái dân tộc, vì cách so sánh này
không phải dễ nhận thấy, dễ phát hiện, cho nên nó luôn mới mẻ, gợi hình, gợi
cảm. Phép so sánh ở đây mộc mạc, chân chất, chính xác và pha màu hài hƣớc
của trí tuệ dân gian. [73, tr. 102]
1.2.3. Tác dụng của SSTT
SSTT trong TN giúp ta hiểu tường tận, sâu sắc hơn về môi trường
cảnh quan, cuộc sống, xã hội, con người,…, đặc biệt là những vấn đề trừu
36
tượng, vô hình, khó nắm bắt. Chẳng hạn trong câu “Đời người như ngọn nến”,
đời ngƣời, kiếp ngƣời là một khái niệm mơ hồ, trừu tƣợng, khó nắm bắt. Tác
giả dân gian đã cụ thể hóa bằng cách ví nó nhƣ một ngọn nến vì cả hai đều
ngắn ngủi, yếu ớt, chóng tàn.
Đôi lúc SSTT còn nhằm khái quát hóa, quy luật hóa điều được nêu lên,
nghiêng về nhận thức lí trí. Ở câu “Hatred is a blind as love” (Oán thù cũng
mù nhƣ tình yêu), cái cần so sánh và cái dùng để so sánh đều là cái trừu tƣợng,
tuy khác loại nhƣng cùng thuộc phạm trù tinh thần. Câu TN không thiên về
hƣớng cụ thể hóa nhƣ ở trên mà thiên về hƣớng khái quát hóa: oán thù và tình
yêu giống nhau vì đều mù quáng, không sáng suốt.
Ngoài ra, SSTT còn cung cấp thêm thông tin về đặc trưng văn hóa,
quan niệm thẩm mỹ và trình độ nhận thức của người sáng tạo. Chẳng hạn, khi
nói về tầm quan trọng của lƣơng thực, ngƣời Việt ví von “Cơm tẻ, mẹ ruột”,
ngƣời Anh thì nói khác: “Bread is the staff of life” (Bánh mì là chiếc gậy của
cuộc sống). Hình ảnh cơm của ngƣời Việt và bánh mì của ngƣời Anh đã hé
mở cho ta thấy sự khác biệt giữa hai phƣơng thức sản xuất, hai nền văn hóa.
Không chỉ miêu tả đối tƣợng, SSTT còn bao gồm cả sự giải thích,
đánh giá và biểu lộ tình cảm. Chẳng hạn trong câu “Quan thấy kiện như kiến
thấy mỡ”, hình ảnh so sánh ở đây thể hiện thái độ bình giá rõ rệt của nhân dân:
phê phán, đả kích, châm biếm.
Khi nói về tác dụng của SSTT, Patrizia Pierini [103] quan niệm SSTT
sẽ giúp việc giao tiếp súc tích và hiệu quả, chúng là một trong những công cụ
của ngôn ngữ học (các biện pháp tu từ) nhằm mở rộng nguồn tài nguyên đa
dạng về ngôn ngữ. Ngoài ra, SSTT còn có chức năng nhƣ một công cụ tri
nhận giúp chúng ta bay vào thế giới của sự tƣởng tƣợng thông qua cách thiết
37
lập sự tƣơng đồng. Trong các văn bản văn học, SSTT còn có chức năng thẩm
mỹ, là những cách nói sáng tạo, đầy bất ngờ về các sự vật, hiện tƣợng. (18)
Nhƣ vậy, tìm hiểu SSTT cũng đồng nghĩa với việc bƣớc vào thế giới
nghệ thuật độc đáo, giàu hình tƣợng, giàu cảm xúc của TN Việt và Anh. Sự
hấp dẫn, cái hay cái đẹp của nội dung và hình thức phép SSTT đã góp phần
làm cho TN trở thành những tác phẩm nghệ thuật đích thực.
1.3. TIẾP CẬN SSTT TRONG TỤC NGỮ VIỆT VÀ TỤC NGỮ
ANH TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ HỌC VÀ VĂN HÓA HỌC
SSTT trong TN là một đề tài nghiên cứu khá hấp dẫn. Trong luận văn
này, ngƣời viết không chỉ nghiên cứu SSTT trong ngữ Việt và TN Anh từ góc
độ ngôn ngữ học mà còn nghiên cứu từ góc độ văn hóa học. Những luận điểm
đƣợc nêu ra trong các chƣơng tiếp theo sẽ làm sáng tỏ đặc trƣng của SSTT hai
dân tộc Việt, Anh theo quan điểm của phong cách học và trình bày những đặc
trƣng văn hóa ẩn tàng dƣới hình thức ngôn ngữ ấy.
Ở chƣơng II, để tìm ra phong cách riêng của mỗi dân tộc khi kiến tạo
các SSTT, ngƣời viết tiến hành phân xuất cấu trúc SSTT ra từng thành tố
riêng lẻ để tiện cho việc quan sát, khái quát hóa. Ở mỗi yếu tố, ngƣời viết sẽ
lần lƣợt trình bày các kết quả thống kê, phân loại chúng trong TN Việt, Anh;
cấu tạo và đặc điểm của chúng. Từ đó, chúng ta sẽ hiểu đƣợc tại sao các nhà
nghiên cứu đã nói TN của ngƣời Việt giàu sắc độ tu từ hơn TN Anh [28, tr.6].
Mô tả cấu trúc SSTT nhìn từ góc độ ngôn ngữ là một công việc đòi hỏi sự tỉ
(18)
“Similes can fulfil various functions. First, they serve to communicate concisely and efficiently:
they are one of a set of linguistic devices (figures of speech) which extend the linguistic resources
available. Secondly, they can function as cognitive tools for thought in that they enable us to think
of the world in novel, alternative ways, namely, they can create relations of similarity….. In
literary texts – be it fiction, poetry or drama – similes fulfil an aesthetic function, and are usually
creative, a way of talking about something in a surprising way.”
38
mỉ và chính xác mà thông qua đó, ngƣời viết có thể đƣa ra những đặc điểm về
phƣơng diện ngôn ngữ và tƣ duy, làm nền tảng cho việc khám phá đặc trƣng
văn hóa dân tộc qua SSTT trong TN Việt, Anh.
TN vừa là nơi phản ánh đặc điểm ngôn ngữ, tài năng sử dụng ngôn
ngữ của nhân dân, vừa là nơi thể hiện tập trung sâu sắc nhất trí tuệ, truyền
thống văn hóa, phong tục của dân gian. Do đó, khi đã làm rõ cơ chế sáng tạo,
đặc điểm, giá trị của SSTT với tƣ cách là những đơn vị ngôn ngữ đầy tính
nghệ thuật, chúng ta có thể khám phá những đặc trƣng văn hóa ở cả phƣơng
diện vật chất lẫn tinh thần của ngƣời Việt và ngƣời Anh.
Ở chƣơng III, để nhận diện đƣợc bức tranh văn hóa xã hội của mỗi
dân tộc còn in dấu trong TN, ngƣời viết sẽ tiến hành xem xét trên bình diện
câu chứ không dừng lại ở từng thành tố riêng lẻ nữa. Chu Xuân Diên [12]
trong công trình của mình đã phân loại TN theo ba nhóm đề tài: quan hệ giữa
con ngƣời và giới tự nhiên, con ngƣời và đời sống xã hội, con ngƣời và đời
sống tinh thần. Kế thừa quan điểm này, ngƣời viết sẽ triển khai chƣơng III
thành hai vấn đề lớn: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần trong SSTT của
TN Việt, Anh. Trong phần văn hóa vật chất, ngƣời viết sẽ khảo sát về mối
quan hệ giữa con ngƣời và giới tự nhiên, con ngƣời và đời sống vật chất. Ở
phần văn hóa tinh thần, ngƣời viết sẽ trình bày những đặc trƣng văn hóa trong
đời sống xã hội và đời sống tinh thần của ngƣời Việt và ngƣời Anh. Nghiên
cứu, tìm hiểu về văn hóa là một công việc vô cùng lí thú. Trên tinh thần “nói
có sách, mách có chứng”, dựa trên những kết quả thống kê khảo sát cụ thể,
ngƣời viết hi vọng có thể bƣớc đầu đƣa ra cách lí giải thuyết phục về bức
tranh văn hóa toàn cảnh của mỗi dân tộc qua các SSTT trong TN của nƣớc họ.
39
Tóm lại, TN nói chung và SSTT trong TN nói riêng là cứ liệu đáng tin
cậy để nghiên cứu phong cách ngôn ngữ và đặc trƣng văn hóa dân tộc của
ngƣời Việt và ngƣời Anh.
40
Chương 2:
SO SÁNH TU TỪ TRONG TỤC NGỮ VIỆT VÀ TỤC NGỮ
ANH, NHÌN TỪ GÓC ĐỘ TU TỪ HỌC
Cách thức, tần suất sử dụng các phƣơng tiện tu từ trong TN phản
ánh khá trung thực quan niệm và kĩ năng vận dụng ngôn ngữ nghệ thuật của
mỗi dân tộc. Theo khảo sát, ngƣời Việt có khuynh hƣớng sử dụng SSTT
nhiều hơn ngƣời Anh.
Bảng 2.1: Thống kê tỉ lệ câu SSTT trong TN Việt và TN Anh
TN Việt TN Anh
Tổng số câu TN có SSTT 135 178
Tổng số câu TN khảo sát 4206 6708
Tỉ lệ % câu TN có SSTT 3.2 2.65
Để nhận diện đặc điểm và giá trị nghệ thuật của các SSTT, ngƣời
viết sẽ xem xét từ các yếu tố cấu tạo.
2.1. Đặc điểm của yếu tố được / bị so sánh (A) trong TN Việt và TN
Anh:
Ngƣời viết sẽ trình bày đặc điểm của yếu tố đƣợc/ bị so sánh (A) và
yếu tố so sánh (B) theo thứ tự sau:
- Kết quả thốn._.ũ (phàng) x 2
tiền vào nhà khó
ngƣời x 2
thấy việc
dữ
ác
187
lòng ngƣời
lời nói x 2
ngƣời sa lời nói
nói đúng
nói với ngƣời say
nói
ngƣời không học
xấu
ngƣời dốt
ngãi
khỏe
lênh đênh
to
rẻ
ngƣời đẹp vì lụa
một lần dọn nhà
ngông nghênh nhăng nhít
Quan niệm về
tôn giáo, tín
ngƣỡng
phải duyên thì dính
3 trái duyên chổng chểnh
miệng bà đồng
Tổng cộng
166
Phụ lục 5: PHÂN LOẠI YẾU TỐ B TRONG SSTT CỦA TỤC NGỮ VIỆT
THEO ĐỀ TÀI
Đề tài Yếu tố B
Số
lƣợng
Con ngƣời và giới tự
nhiên
Tự nhiên
non
12
sông có nguồn
nƣớc thủy triều
lửa đốt đầu
gió
gió vào nhà trống
trời mƣa
188
bể
mây
giếng khơi
nƣớc lã
ruộng
Động vật
máu rồng
31
cánh không lông
gà thấy ngô
cóc cụt đuôi
hổ
miêu
quạ thấy gà con
cò bợ phải trời mƣa
rồng có vây
gà giữ ổ
nòng nọc đứt đuôi
lông cánh phƣợng
lông lợn hạch
đách lợn sề
ông Ba Vì
chó nằm gầm chạn
bồ nông mò biển
rái
vích
mày mạy
đòng đong
chó x 3
kiến thấy mỡ
khỉ
tế giác
chim sổ lồng
voi
con tằm
189
hổ vô đầu
Thực vật
hoa đất x 2
22
cây có cội
dâu ngả bóng
bồ hòn có rễ
bè nghể trôi sông
thài lài phải cứt chó
nứa trôi sông
cây không rễ thì cây hƣ
măng ấp bẹ
chuối chín cây
tre ấm bụi
cái nhân sâm
bèo trôi sông
lúa tốt vì phân
cây gỗ tròn
hoa
bèo x 2
chuối hột
nghệ
rơm
Bộ phận cơ
thể ngƣời
bóng không ngƣời
6
chân tay
cuống ruột
trôn trẻ
máu
thân không của
Con ngƣời - đời sống
vật chất
Đồ vật
chổi trời
53 cƣa trời
tấc vàng
tiền bỏ đi
190
kho
thuốc tiêu
thuốc gió
thuốc tiên
bè tháng sáu
rào giậu
giỏ x 2
hom
vang
cơi đựng trầu
đĩa
vôi
cái bầu
kỳ vô phong
keo
kèo đục vênh
cái nơm
rối x 2
tiền bỏ đi x 2
tiền gieo xuống suối
giỏ phân
hom
đũa có đôi
lỗ tiền chôn
giỏ có hom
rợ buộc chân
cối xay chết ngõng
chông
mác
rác
tủ không khóa
gông đeo cổ
phản gỗ long đanh
vàng x 2
191
nhà có nóc
gạch
tƣợng mới tô
bồ nghe chửi
rợ cọc chèo
lồng chim khƣớu
than vào lò
ngãi
gói vàng
ngọc không mài
kèo neo không mấu
Ăn mặc, vui
chơi
nƣớc mắm thối chấm lòng
lợn thiu
3 hạt cơm dính mỡ
ao rƣợu
Kinh nghiệm
sản xuất
néo không mấu
3
bào
chèo
Con ngƣời và đời sống
xã hội
Quan hệ
trong gia đình
vợ giữa làng
13
chồng giữa làng
gái năng tô
mẹ ruột
đĩ thấy cha
bố vợ phải đấm
rể nằm nhà ngoài
gái không chồng
làm dâu có chồng
gái mạnh về chồng
gái theo chồng
chồng xấu dễ sai
192
dạy con
Quan hệ xã
hội
thiên hạ có vua
4
bà hoàng hậu
chúa muôn loài
khách vãng lai một thời
Con ngƣời và đời sống
tinh thần
Quan niệm về
nhân sinh
làm giàu không thóc
15
đánh nhau không có ngƣời
gỡ
vạ vào mình
cứu hỏa
đuổi xuân đi
mơ thấy vàng
mơ đƣợc vàng
trông vào vách
ngƣời ta chết để tiếng
vay không trả
ba lần cháy
gãi vào chỗ ngứa
đàn bà một mắt
ngƣời khôn x 2
Quan niệm về
tôn giáo, tín
ngƣỡng
nhà giàu chết không kèn
trống
11
tiên x 5
ma chửa cất
ma
duyên nợ nần
duyên
tiên trên đời
Tổng cộng
173
193
Phụ lục 6: PHÂN LOẠI YẾU TỐ A, B TRONG SSTT CỦA TỤC NGỮ VIỆT
THEO TIÊU CHÍ TỪ VỰNG – CÚ PHÁP
1/ Yếu tố A:
Danh từ/
Danh ngữ
Động từ/ Động ngữ
Tính từ/
Tính ngữ
Cụm C-V
nƣớc mƣa làm ruộng không trâu đẹp x2 gió thổi
mƣa tháng ba ăn cơm không rau đẹp con nhà có cố có ông
mƣa tháng sáu
ăn đƣợc ngủ đƣợc
ngông
nghênh
nhăng nhít
con không cha thì
con trễ
tấc đất
không ăn không ngủ
vênh váo
nứa trôi sông không
giập thì gãy
mặt đỏ thấy việc khôn x 3 con giữ cha
mặt vàng thấy ăn lởn vởn dại x 3 trâu chết để da
một nạm gió cứu bệnh phũ x 2 gái có con
một cây mít có mẹ già dữ gái không con
cơm tẻ phải duyên thì dính ác thuyền không lái
một lời nói
trái duyên chổng
chểnh
xấu
gái không chồng
ngƣời dốt đêm nằm mê mẩn x 2 khỏe nam vô tửu
tiền
bắt chấy cho mẹ
chồng
lỗi thời
nam thực
ngãi ăn trầu không có rễ to nữ thực
của một lần dọn nhà rẻ trai thấy gái lạ
của
ăn x 2
trai tơ lấy phải nạ
dòng
một cái rắm làm cƣới vợ không cheo
trẻ mùa hè
nói đúng
cƣới vợ không cheo
mỗi năm mỗi
tuổi
nói với ngƣời say
lấy vợ không cheo
ngƣời già nói trai phải hơi vợ
đàn ông
uốn cây từ thuở còn
non
gái phải hơi trai
đàn bà
chồng cần vợ kiệm
phận gái vợ chồng may rủi
lời nói vợ chồng hòa thuận
chồng già vợ trẻ trai có vợ x 3
vợ già chồng trẻ làm ruộng có trâu
đàn ông thuyền mạnh về lái
194
chồng gái có chồng x 3
vợ gái không chồng x 3
vợ chồng thuyền theo lái
mẹ già củi tre dễ nấu
con đàn nồi đồng dễ nấu
chị em dâu ruộng đầu chợ
chị em gái ruộng giữa đồng
anh em con có cha
bố chồng x 2 con không cha
mẹ chồng x 2 con có mẹ
nàng dâu con có mạ
bố vợ con trai ở nhà vợ
mẹ vợ ngƣời đẹp vì lụa
chàng rể quan thấy kiện
tiền của lễ vào quan
đồng tiền tiền vào nhà khó
ngƣời ta cờ phải nƣớc bí
của ngƣời sa lời nói
miệng bà đồng nhà không móng
việc quan xe không bánh
lính tuần quân vô tƣớng
miệng quan nhà không chủ
ơn dân cơm không rau
dân cơm vào dạ
ngƣời ta nàng dâu mới về
ngƣời gái lớn trong nhà
ngƣời ngƣời không học
của
hoa thơm ai chẳng
nâng niu
lòng ngƣời ruộng không phân
đàn ông x 2 dâu năng hái
đàn bà x 2 hòn đất nỏ
61
22
20
63
Tổng cộng: 166 yếu tố A
195
2/ Yếu tố B:
Danh từ/ Danh
ngữ
Động từ/ Động
ngữ
Cụm C-V
cƣa trời làm giàu không thóc nhà giàu chết không kèn trống
chổi trời
đánh nhau không có
ngƣời gỡ
tiền bỏ đi
hoa đất
cứu hỏa
đĩ thấy cha
máu rồng đuổi xuân đi gà thấy ngô
tấc vàng mơ thấy vàng cây có cội
giỏ phân mơ đƣợc vàng dâu ngả bóng
sào ruộng néo không mấu sông có nguồn
bó chèo bị phải trời mƣa bè nghể (ngổ) trôi sông
chó bào quạ thấy gà con
mẹ ruột
gãi vào chỗ ngứa
nƣớc mắm thối chấm lòng lợn
thiu
voi vay không trả ma chửa cất
tiên trông vào vách tủ không khóa
bèo x 2
cóc cụt đuôi
chuối hột bồ hòn có rễ
kho kỳ vô phong
non kèo đục vênh
nắm thuốc tiêu
gái theo chồng
bè tháng sáu chồng xấu dễ sai x 2
ba rào giậu tiền gieo xuống suối
giỏ cò bợ phải trời mƣa
giếng khơi thài lài phải cứt chó
đĩa gông đeo cổ
hom phản gỗ long đanh
vôi rồng có vây
cơi đựng trầu cối xay chết ngõng
liều thuốc gió làm dâu có chồng
lọ thuốc tiên gái mạnh về chồng
miêu giỏ có hom
keo rợ buộc chân
duyên nợ nần đũa có đôi
cái bầu tiền bỏ đi
hổ
gái chồng rẫy chẳng chứng nọ
cũng tật kia
196
tiên gà giữ ổ
cái nơm nhà có nóc
rối nòng nọc đứt đuôi
rối cây không rễ thì cây hƣ
con tằm măng ấp bẹ
lỗ tiền chôn thiên hạ có vua
chông chuối chín cây
mác tre ấm bụi
rác tƣợng mới tô
rơm bồ nghe chửi
giỏ bèo trôi sông
hom bố vợ phải đấm
tiên chó nằm gầm chạn
duyên rể nằm nhà ngoài
tiên trên đời bồ nông mò biển
bầu nƣớc lã khách vãng lai một thời
cái nhân sâm lúa tốt vì phân
chân tay kiến thấy mỡ
lông cánh phƣợng than vào lò
lông lợn hạch lửa đốt đầu
đách lợn sề gió vào nhà trống
bà hoàng hậu
hạt cơm dính mỡ
rợ cọc chèo chim sổ lồng
ông Ba Vì gái không chồng
nƣớc thủy triều ngọc không mài
chúa muôn loài
bóng không ngƣời
cuống ruột
cánh không lông
rái hổ vô đầu
vích gái năng tô
mày mạy kèo neo không mấu
đòng đong vợ giữa làng
tiên chồng giữa làng
chó thân không của
lồng chim khƣớu dạy con từ thuở con còn ngây thơ
ao rƣợu vạ vào mình
trôn trẻ
ngƣời khôn ai chẳng kính yêu
mọi bề
197
chó
ngƣời khôn ai chẳng nâng niu bên
mình
cây gỗ tròn ngƣời ta chết để tiếng
ba lần cháy
hoa đất
hoa
vàng
ngãi
tê giác
khỉ
đàn bà một mắt
bể
gói vàng
một đọi máu
mây
gió
ma
tiên
gạch
vàng
vang
nghệ
90 12 71
Tổng cộng: 173 yếu tố B
Phụ lục 7:
THỐNG KÊ CÁC HÌNH ẢNH LẶP LẠI Ở YẾU TỐ B TRONG SSTT
CỦA TN VIỆT
1/ “Tiên”:
-Ăn được ngủ được là tiên...
-Chồng già vợ trẻ là tiên/ Vợ già chồng trẻ là duyên nợ nần.
-Chồng cần vợ kiệm là tiên…
-Vợ chồng may rủi là duyên/ Vợ chồng hòa thuận là tiên trên đời.
-Đẹp như tiên lo phiền cũng xấu.
-Khôn như tiên không tiền cũng dại…
2/ Giỏ & hom:
198
-Trai có vợ như giỏ có hom.
-Đàn ông như giỏ, đàn bà như hom
3/ Rối:
-Đẹp như rối, không mối không xong.
-Đẹp như rối, chẳng có mối tối nằm không.
4/ Tiền:
-Cưới vợ không cheo, tiền gieo xuống suối.
-Ngông nghênh nhăng nhít là tiền bỏ đi.
-Trai có vợ như lỗ tiền chôn.
-Đồng tiền là chúa muôn loài/ Người ta là khách vãng lai một thời.
-Tiền của như nước thủy triều.
5/ Hoa:
-Người ta là hoa đất.
-Người như hoa ở đâu thơm đấy.
6/ Hoa thơm, ngƣời khôn:
-Hoa thơm ai chẳng nâng niu
Người khôn ai chẳng kính yêu mọi bề.
-Hoa thơm ai chẳng muốn đeo
Người khôn ai chẳng nâng niu bên mình.
7/ Vàng:
-Người là vàng, của là ngãi.
-Lời nói, gói vàng.
-Tiền là gạch, ngãi là vàng.
-Bố dòng lấy được gái tơ/ Đêm nằm mê mẩn như mơ thấy vàng.
-Nạ dòng lấy được trai tơ/ Đêm nằm mê mẩn như mơ được vàng.
8/ Bèo:
-Rẻ như bèo nhiều hươu cũng hết.
-Gặp thời thì nổi hòa huênh/ Lỗi thời thì lại lênh đênh như bèo.
9/ Chó:
-Hà tiện mới có, phũ như chó mới giàu.
-Có độc mới đủ, có phũ như chó mới giàu.
-Khôn như tiên không tiền cũng dại/Dại như chó có ló (lúa) cũng khôn.
199
10/ Cơm không rau:
-Ăn cơm không rau như đánh nhau không có người gỡ.
-Cơm không rau như nhà giàu chết không kèn trống.
Phụ lục 8: PHÂN LOẠI YẾU TỐ A TRONG SSTT CỦA TỤC NGỮ ANH
THEO ĐỀ TÀI
Đề tài Yếu tố A
Số
lƣợng
Con ngƣời và giới tự
nhiên
Tự nhiên
England x 2 (nƣớc Anh)
5
change of the weather (sự thay đổi
của thời tiết)
the air of a window (gió ngoài cửa
sổ)
march (tháng ba)
Động vật
a wolf (con sói) 1
Thực vật
a black plum (cây mận đen)
2 the sloe tree (cây mận gai)
Cơ thể
ngƣời
a good face (gƣơng mặt đẹp)
10
the mouth x2 (cái miệng)
the eyes (mắt)
a flatterer's throat (cổ họng)
health (sức khỏe)
a cough (ho)
a brain (não)
a tongue x 2 (lƣỡi)
Con ngƣời và đời
sống vật chất Đồ vật a back door (cửa sau) 13
the mirror (tấm kính)
debt (nợ)
200
riches (của cải)
the chamber of sickness(căn
phòng bệnh)
fortune (gia tài)
a dowry (của hồi môn)
money x 3 (tiền)
a women's sword (thanh gƣơm)
the pen (cây viết)
a book (quyển sách)
Ăn mặc, vui
chơi
fine dressing (mặc đẹp)
10
wine x 2 (rƣợu)
bread (bánh mì)
an apple-pie without some cheese
(bánh nhân táo không có phó mát)
cards (bài bạc)
hunger x 2 (cái đói)
fair play (chơi đẹp)
sleep (giấc ngủ)
Kinh
nghiệm lao
động, sản
xuất
building (xây dựng)
7
a bargain (sự trả giá)
dear bought (việc mua ngọt ngào)
business (kinh doanh)
affairs(việc buôn bán)
trade (thƣơng mại)
three removals (ba lần chuyển
nhà)
Con ngƣời và đời
sống xã hội
Quan hệ gia
đình
children x 2 (trẻ con)
7
two daughters(hai cô con gái)
the wife(ngƣời vợ)
wedlock(tình trạng có gia đình)
marriage x 2(hôn nhân)
Quan hệ xã
hội
nobility (quý tộc)
40
a merry companion (ngƣời bạn
vui tính)
201
a friend(ngƣời bạn)
friendship(tình bạn)
a physician(bác sĩ)
law x 2(luật sƣ)
a client (khách hàng)
a young maid (cô gái trẻ)
a woman x 2 (ngƣời phụ nữ)
man (ngƣời đàn ông)
the world x 3 (thế giới)
sailors (thủy thủ)
soldiers (ngƣời lính)
women x 6 (những ngƣời phụ nữ)
the receiver (ngƣời nhận)
the liar and the murderer (kẻ nói
dối và tên giết ngƣời)
a whore (cô gái điếm)
a solitary man (ngƣời đàn ông đơn
độc)
great talkers (những ngƣời nhiều
chuyện)
a flatterer (ngƣời nịnh hót)
who has done no good while he
lived (ngƣời không làm gì tốt khi
còn sống)
a blab (ngƣời ba hoa)
an ilde person (kẻ lƣời biếng)
lovers (những ngƣời đang yêu)
he that gives honour to his enemy
(ngƣời nhƣờng danh dự cho kẻ
thù)
a gentleman without an estate
(quý ông không có tài sản)
custom x 2 (phong tục)
old age (tuổi già)
gentility (ngƣời thuộc dòng dõi
cao quý)
great birth (ngƣời thuộc tầng lớp
quý tộc)
202
Con ngƣời và đời
sống tinh thần
Quan niệm
về nhân sinh
wickedness with beauty (sự độc
ác và cái đẹp)
83
a fair woman without virtue(ngƣời
phụ nữ đẹp không có đức hạnh)
beauty x 2 (cái đẹp)
a change (sự thay đổi)
brag (sự khoe khoang)
conscience x 5 (lƣơng tâm)
content (sự hài lòng)
a contented mind (đầu óc thỏa
mãn)
enough (vừa đủ)
a man's discontent (sự không hài
lòng)
cruelty (sự tàn bạo)
war (chiến tranh)
deeds (hành động)
words x 2 (lời nói)
slander (lời phỉ báng)
reward and punishment (thƣởng
và phạt)
fame x 6 (danh tiếng)
a good name (tiếng tốt)
credit lost (mất uy tín)
fear (sự sợ hãi)
music (âm nhạc)
virtue and happiness (đạo đức và
hạnh phúc)
virtue (đạo đức)
gossips (những ngƣời ngồi lê đôi
mách)
the secret (bí mật)
laughter (nụ cƣời)
mirth (sự vui vẻ)
joy and sorrow (niềm vui và nỗi
buồn)
hatred(oán thù)
plain dealing (sự thẳng thắn)
203
honesty (thành thật)
an honesty man's word (lời nói
của ngƣời thành thật)
honour without profit (danh dự
mà không có lợi nhuận)
hope x 2 (niềm hi vọng)
sloth (sự lƣời biếng)
ignorance and incuriousity (sự
ngu dốt và không tò mò)
learning (học vấn)
wit without learning (thông minh
mà không học)
knowledge (kiến thức)
practice (thực hành)
learning in the breast of a bad man
(học vấn trong đầu óc của kẻ xấu)
liberty (sự tự do)
life x 4 (cuộc đời)
every day of the life (mỗi ngày
trong đời)
love x 2 (tình yêu)
war, hunting and love (chiến
tranh, săn bắn và tình yêu)
love without return (yêu mà
không quay đầu lại)
a man without reason (ngƣời sống
không có lí tƣởng)
zeal without knowledge (nhiệt
tình mà thiếu hiểu biết)
patience (kiên nhẫn)
pride (tự hào)
promises x 2 (lời hứa)
proverbs (TN)
revenge (sự trả thù)
silence x 2 (im lặng)
quietness (sự yên tĩnh)
speech (lời nói)
skill and confidence (kĩ năng và
sự tự tin)
time x 2 (thời gian)
204
mistrust (sự nghi ngờ)
truth x 2 (sự thật)
mere wishes (mong ƣớc suông)
literature (văn học)
Quan niệm
về tôn giáo,
tín ngƣỡng
curses (những lời nguyền rủa)
9
beasts x 2 (quái vật)
the devil's mouth (miệng của quỷ)
a man without religion (ngƣời
không có đạo)
the blood of the martyrs (máu của
kẻ tử vì đạo)
the church (nhà thờ)
death (cái chết)
a monk out of his cloister (thầy tu
ra khỏi tu viện)
Tổng cộng:
187
Phụ lục 9: PHÂN LOẠI YẾU TỐ B TRONG SSTT CỦA TN ANH THEO ĐỀ
TÀI
Đề tài Yếu tố B
Số
lƣợng
Con ngƣời và giới tự
nhiên
Tự nhiên
fire x 2 (lửa)
10
a shipwreck (nạn đắm tàu)
a little garden full of very sour
weeds (khu vƣờn nhỏ đầy hạt
giống xấu)
a river (dòng sông)
a shadow (bóng râm)
a field of nettles (cánh đồng trồng
cây tầm ma)
the wind x 2 (cơn gió)
a fair garden (khu vƣờn đẹp)
Động vật
pigeons (bồ câu)
chickens (gà)
an ass x 3 (con lừa)
205
a dog x2 (con chó)
muck (phân động vật)
a beast x2 (con thú lớn)
frogs (ếch)
a goose twixt two foxes (con
ngỗng giữa hai con cáo)
a lion (sƣ tử)
a lamb (cừu)
horses x3 (ngựa)
butterflies (bƣơm bƣớm)
a fish x2 (cá)
monkeys (khỉ)
a lamb's tail (đuôi cừu)
wasps (ong bắp cày)
Thực vật
a white plum (cây mận trắng)
11
a flower x 3 (hoa)
a blossom (hoa)
fruits (quả)
leaves (lá)
a plant (cây)
a tree without fruit (cây không có
trái)
flax (cây lanh)
cherry (anh đào)
Cơ thể
ngƣời
bond x 2 (xƣơng)
8
the breath (hơi thở)
a scab (ghẻ, vảy ở vết thƣơng sắp
lành)
the plague (bệnh truyền nhiễm)
a span (gang tay)
tongue (lƣỡi)
the eye (mắt)
Con ngƣời và đời
sống vật chất Vật thể nhân
tạo
a house x 2 (ngôi nhà)
58
a letter of recommendation (thƣ
giới thiệu)
206
ancient riches (của cải lỗi thời)
debt (nợ)
a wagon (xe ngựa)
a pillow x 2 (cái gối)
a coat of mail (áo giáp)
the philosopher's stone (đá tạo
vàng)
a sheet (tờ giấy)
a sword (thanh gƣơm)
the walls (bức tƣờng)
the glass of the mind (tấm gƣơng
của trí tuệ)
the staff of life (chiếc gậy của
cuộc sống)
the window of the soul (cửa sổ
tâm hồn)
the perfume of heroic deeds
(hƣơng thơm của những hành
động anh hùng)
a magnifying glass (kính phóng
đại)
a heritage (tài sản thừa kế)
a Venice-glass (kính của nƣớc Ý)
the prison of the heart (tù ngục của
trái tim)
a jewel of great price (trang sức
quý giá)
the medicine (thuốc men)
great riches (của cải)
a cross-bow (cái ná)
a jewel x 4 (trang sức)
a ring (chiếc nhẫn)
a bottomless pit (hố không đáy)
padlock (cái ổ khóa)
lottery (vé số)
a bed full of brambles (chiếc
giƣờng đầy gai)
a new house thatched with old
straw (căn nhà mới lợp rơm cũ)
treasure x 2(tài sản)
207
the key x 2 (chìa khóa)
a miser's purse (chiếc ví)
a mine of gold (mỏ vàng)
chimneys (ống khói)
a hospital (bệnh viện)
an anvil (cái đe)
garment (trang sức)
silver (bạc)
golden (vàng)
a good weapon (vũ khí lợi hại)
leaky pitchers (cái bình bị rò rỉ)
money (tiền bạc)
an axe (cái búa)
a weathercock (chong chóng chỉ
hƣớng gió)
a net (cái lƣới)
a good staff (cây quyền trƣợng tốt)
a bad crutch (cái nạng tồi)
rust (rỉ sét)
a stage (sân khấu)
a ladder (cái thang)
Ăn mặc, vui
chơi
palled wine (rƣợu nhạt)
20
a pudding x 2 (bánh pudding)
a very poor dish (món ăn dở)
a rest (nghỉ ngơi)
a feast x 3 (tiệc tùng)
the honey (mật ong)
the food (thức ăn)
the sugar (đƣờng)
the salt (muối)
salt fish (cá khô)
the bread (bánh mì)
meat (thịt)
the sauce (nƣớc chấm)
a cake (chiếc bánh ngọt)
pie-crust (vỏ bánh)
a dish (món ăn)
208
the ace of trumps (con át chủ bài)
Con ngƣời và đời
sống xã hội
Quan hệ gia
đình
mother and daughter (mẹ và con
gái) 1
Quan hệ xã
hội
a thief x 4 (tên trộm)
28
a pick-purse (tên móc túi)
a witnesses (nhân chứng)
a tyrant (tên bạo chúa)
the physician (bác sĩ)
children of the same village (trẻ
con cùng một ngôi làng)
a turncoat (kẻ phản bội)
the executioner (đao phủ)
the doctor (bác sĩ)
a backbiter (kẻ nói xấu sau lƣng)
a flatterer (kẻ nịnh hót)
a friend x 2 (ngƣời bạn)
a liar (ngƣời nói dối)
the prisoner (tù nhân)
neighbours (hàng xóm)
a lickpenny (móc túi)
the idol of fools (thần tƣợng của
kẻ ngốc)
madmen (ngƣời điên)
the mistress (bà chủ)
an army (quân đội)
the monarch (quốc vƣơng)
a servant (đầy tớ)
master (ông chủ)
a file (gã láu cá)
evil x 2 (thảm họa, tai họa)
Con ngƣời và đời
sống tinh thần
Quan niệm
về nhân sinh
an evil conscience (lƣơng tâm tội
lỗi)
11
a kiss without a squeeze (cái hôn
mà không ôm chặt)
a thin shadow of eternity (cái bóng
của sự trƣờng tồn)
209
the discourse of fools (bài diễn
văn của kẻ ngốc)
love (tình yêu)
the dream (giấc mộng)
a leaf in the history (một trang
trong lịch sử)
pleasure (điều thú vị)
a question without an answer (câu
hỏi không có câu trả lời)
Quan niệm
về tôn giáo,
tín ngƣỡng
the devil's hook baited (mồi câu
của quỷ)
28
God (Chúa)
the divinity (thần thánh)
an sepulchre (ngôi mộ)
the paradise (thiên đƣờng)
the hell (địa ngục)
the purgatory (tĩnh ngục)
death x 2 (cái chết)
the devil's books (sách của quỷ)
the chapel of devotion (nhà
nguyện)
the trumpeter of death (lính thổi
kèn của thần chết)
an angel x 3 (thiên thần)
a devil x2 (ác quỷ)
the devil's workshop (phân xƣởng
của quỷ)
the devil's cushion (cái nệm của
quỷ)
a pilgrimage (cuộc hành hƣơng)
devil's nets (lƣới của quỷ)
saints (thánh)
death's feast (bữa tiệc của thần
chết)
the seed of the church (hạt giống
của nhà thờ)
a beast (con quái vật)
God's daughter (con gái của Chúa)
210
a spectre (bóng ma)
the snares of Satan (bẫy của quỷ
Satan)
Tổng cộng:
198
Phụ lục 10: PHÂN LOẠI YẾU TỐ A, B TRONG SSTT CỦA TỤC NGỮ ANH
THEO TIÊU CHÍ TỪ VỰNG – CÚ PHÁP
Yếu tố A Danh từ Cụm C-V
March children pick up words
A wolf children utter them (words) again
Debt he that is a blab
Money march comes in
Friendship march goes out
War a young maid married to an old man
Curse
he who has done no good while he
lived
…. he that gives honour to his enemy
Số lƣợng: 179 8
Tổng: 187 yếu tố
Yếu tố B Danh từ Cụm C-V
Fire pigeons peas
Wind a good dog but dares not bite
Lamb a foul house swept before the doors
Cherry
a tyrant that's always attended with
fear
Sword a new house thatched with old straw
Chimney the honey that is licked from the thorn
Axe the dream of those that wake
Cake god shall please
God a plant which must be often watered
Paradise
muck, which stink in a heap, but
spread abroad make the earth fruitful
Angel
an angel when employed, but a devil
when one must pay him
Wagon a flower that grows not in every one's
211
garden
Anvil
a flower that grows in the devil's
garden
Weathercock
an anvil which has worn out many
hammers
Warsp a dish that can be eaten cold
… a file that wears and makes no noise
Số lƣợng: 182 16
Tổng: 198 yếu tố
Phụ lục 11:
THỐNG KÊ CÁC HÌNH ẢNH LẶP LẠI Ở YẾU TỐ B TRONG SSTT
CỦA TN ANH
1/ Rich:
Gentility is but ancient riches.
Dòng dõi cao quý chỉ là thứ của cải lỗi thời.
Health is great riches.
Sức khỏe là tài sản vô giá.
2/ A pudding wanting suet:
Nobility, without ability, is like a pudding wanting suet.
Giới quý tộc không có năng lực giống như chiếc bánh pudding cần có lớp mỡ bao
quanh.
A gentleman without an estate is like a pudding without suet.
Quý ông không có tài sản giống như chiếc bánh pudding không có lớp mỡ bao
quanh.
3/ Dish:
Revenge is a dish that can be eaten cold.
Sự trả thù là một món ăn có thể ăn nguội.
Great birth is a very poor dish at table.
Dòng dõi cao quý là món ăn rất tồi trong bữa tiệc.
4/ Gold:
A useful trade is a mine of gold.
Một việc buôn bán có lợi là mỏ vàng.
Speech is silver, silence is golden.
Nói là bạc, im lặng là vàng.
5/ Evil:
A great book is a great evil.
Một quyển sách hay là một thảm họa khủng khiếp.
212
A man's discontent is his worst evil.
Sự không hài lòng của một người là tai họa tồi tệ nhất.
6/ Bond:
An honest man's word is as good as his bond.
Lời nói của người chân thật cũng quý như xương tủy của anh ta.
An Englishman's word is his bond.
Lời nói của một người Anh là cái xương của anh ta.
7/ Friend:
The best mirror is an old friend.
Tấm gương tốt nhất là một người bạn cũ.
As a wolf is like a dog, so is a flatterer like a friend.
Con sói thì giống con chó, cũng như kẻ nịnh hót nhìn giống như một người bạn.
8/ Pillow:
Ignorance and incuriosity are two very soft pillows.
Sự ngu dốt và không tò mò là hai chiếc gối rất êm ái.
A good conscience is a soft pillow.
Lương tâm trong sạch là chiếc gối êm ái.
9/ Death:
Love is as strong as death.
Tình yêu cũng có sức mạnh như cái chết.
Life without a friend is death without a witness.
Sống mà không có bạn bè thì cũng như chết đi mà không có người chứng kiến.
10/ Treasure:
Quietness is a great treasure.
Im lặng là châu báu quý giá.
Knowledge is a treasure but practice is the key to it.
Kiến thức là một kho báu nhưng thực hành là chìa khóa để mở nó.
11/ Wind:
The mouth is wind, the pen is a track.
Miệng là cơn gió, bút viết là dấu tích.
Women are as wavering as the wind.
Phụ nữ thay đổi như cơn gió.
12/ God:
Children pick up words as pigeon peas and utter them again as God shall please.
(Trẻ con học từ nhƣ chim bồ câu nhặt đậu và nói lại nhƣ Chúa muốn nhƣ vậy)
Truth is God’s daughter.
(Sự thật là con gái của Chúa)
213
13/ Feast:
A good conscience is a continual feast.
Lương tâm trong sạch là những bữa tiệc liên tục.
A contented mind is a continual feast.
Cách nghĩ hài lòng là những bữa tiệc liên tục.
Enough is as good as a feast.
Vừa đủ cũng tốt như là được đi dự tiệc.
War is death's feast.
Chiến tranh là bữa tiệc của thần chết.
14/ Thief:
Two daughters and a back door are three arrant thieves.
Hai cô con gái và cái cửa sau là ba tên trộm vĩ đại.
The receiver is as bad as the thief.
Người chỉ biết nhận thì cũng tệ như là kẻ trộm.
Sleep is the greatest thief, for it steals half one's life.
Giấc ngủ là tên trộm vĩ đại nhất vì nó cướp mất nửa đời người.
Building is a thief.
Xây dựng là một tên trộm.
15/ Glass:
Wine is the glass of the mind.
Rượu là tấm gương của trí tuệ.
Fame is a magnifying glass.
Danh tiếng là chiếc kính phóng đại.
Credit lost is like a Venice-glass broken.
Uy tín bị mất cũng giống như tấm kính quý bị vỡ.
16/ Jewel:
Virtue is a jewel of great price.
Đạo đức là trang sức quý giá.
Plain dealing is a jewel.
Sự thẳng thắn là châu báu.
Honesty is a fine jewel, but much out of fashion.
Sự trung thực là trang sức quý giá nhưng đã lỗi thời.
Fair play is a jewel.
Chơi đẹp là đồ trang sức quý giá.
Liberty is a jewel.
Tự do là vàng bạc.
17/ Devil:
Women are the devil's nets.
Phụ nữ là cạm bẫy của quỷ.
An idle person is the devil's cushion.
214
Kẻ lười biếng là cái nệm của quỷ.
An idle brain is the devil's workshop.
Một cái đầu lười biếng là phân xưởng của quỷ.
Cards are the devil's books.
Bài bạc là sách của quỷ.
Wickedness with beauty is the devil's hook baited.
Sự độc ác đi chung với cái đẹp là mồi câu của quỷ.
18/ Angel:
A solitary man is either a beast or an angel.
Người cô độc có thể là một con quái vật hoặc là một thiên thần.
A physician is an angel when employed, but a devil when one must pay him.
Bác sĩ là thiên thần khi được mời đến, nhưng là quỷ sứ khi ai đó phải trả tiền cho
ông ta.
Women are saints in church, angels in the street, and devils at home.
Phụ nữ là thánh trong nhà thờ, thiên thần trên đường phố và quỷ ở nhà.
19/ Horse:
A man without religion is like a horse without a bridle.
Người không có đạo như ngựa không có cương.
Zeal without knowledge is a runaway horse.
Nhiệt tình mà thiếu hiểu biết giống như con ngựa lồng lên.
Sailors get money like horses and spend it like asses.
Thủy thủ kiếm tiền như ngựa và tiêu xài chúng như con lừa.
20/ Flower:
Patience is a flower that grows not in every one's garden.
Kiên nhẫn là một đóa hoa không nở ở mọi khu vườn.
Pride is a flower that grows in the devil's garden.
Sự kiêu căng là một đóa hoa nở trong khu vườn của quỷ.
Beauty fades like a flower.
Cái đẹp phai tàn như một bông hoa.
21/ Fire:
Three removals are as bad as a fire.
Ba lần dọn nhà thì cũng tệ như là một lần cháy.
A woman is flax, man is fire, the devil comes and blows the bellows.
Phụ nữ là những sợi lanh, đàn ông là lửa, bọn quỷ đến và thổi vào ống bể.
22/ Ass:
The law is an ass.
Pháp luật là một con lừa.
He that gives honour to his enemy, is like to an ass.
Người nhường danh dự cho kẻ thù của mình chẳng khác gì một con lừa.
215
Sailors get money like horses and spend it like asses.
Thủy thủ kiếm tiền như ngựa và tiêu xài chúng như con lừa.
Phụ lục 12: CẤU TẠO CỦA CSSS TRONG SSTT CỦA TỤC NGỮ VIỆT
VÀ TỤC NGỮ ANH
TN Việt TN Anh
Động từ/
động ngữ không lo cũng hết fades (phai tàn)
ăn mòn cũng hết
come home to roost (về nhà mình mà
đậu)
lởn vởn
ought to be a good while a-soaking (chỉ
trở nên tốt khi nhúng vào nước)
sa đâu ấm đấy
consumes faster than labour wears
(phân hủy nhanh hơn khi lao động)
mê mẩn x 2
better broken than kept (nên bẻ gãy hơn
là giữ lại)
dính
made to be broken (được làm ra để bẻ
vụn)
gặp đâu úp đấy wavering (dao động)
chẳng có mối tối nằm không wags (ve vẩy, lúc lắc)
không mối không xong
ở đâu thơm đấy
khôn dò
không coi cũng ngã
lại rút ruột ra
lênh đênh
Tính từ/
tính ngữ nông nổi sweet (ngọt ngào)
sâu sắc good x 3 (tốt)
cạn lòng bad x 2 (xấu, tệ)
bạc nghĩa white (trắng)
chổng chểnh
narrowest at its source and
broadest afar off (hẹp nhất ở thượng
nguồn và rộng nhất phía hạ nguồn)
khôn x 2 as well as (cũng tốt như)
dại x 2 fine but much out of fashion (đẹp
216
nhưng hầu hết đã lỗi thời)
strong (mạnh mẽ)
as full of trouble as pleasure (đầy đủ
niềm vui cũng như nỗi buồn)
Cụm C-V nào ai bày cỗ
that turn all it touches into gold (nó
chuyển mọi thứ nó chạm vào thành
vàng)
nhiều hƣơu cũng hết
which stink in a heap, but spread
abroad
make the earth fruitful (nó sẽ bốc mùi
hôi thối khi chất thành đống nhưng nếu
rải ra thì nó sẽ làm cho mặt đất trở nên
màu mỡ)
they drink and talk (chúng nhậu nhẹt và
bắt đầu nói)
if you let it (secret) go, you art a
prisoner to it (nếu bạn để bí mật ra đi,
bạn đã tạo nên một tù nhân cho nó)
that grows not in every one's garden (nó
(bông hoa) không nở trong mọi khu
vườn)
that grows in the devil's garden (đóa
hoa chỉ nở trong khu vườn của quỷ)
some are caught, others fly away (vài
con đậu, vài con bay)
that can be eaten cold (món ăn có thể
ăn khi nguội)
for it steals half one's life (vì nó (giấc
ngủ) đánh cắp hết nửa đời người)
everything runs out of them (mọi thứ
chảy ra ngoài chúng)
she does not let it rust (cô ấy không để
nó rỉ sét)
the more we stir in it, the more we are
entangled (chúng ta càng chuyển động
thì càng bị mắc kẹt trong đó)
every man plays his part (mỗi người sẽ
diễn phần của mình)
some to go up and some down (một số
người lên và một số người xuống)
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5159.pdf