So sánh tổ chức, thẩm quyền của toà án VN với toà trọng tài của CHLB Nga trong việc giảI quyết các tranh chấp kinh tế

Phần I: Đặt vấn đề . Giới thiệu đề tài. Tranh chấp kinh tế là một dạng của tranh chấp dân sự, tiêu chuẩn để phân biệt tranh chấp kinh tế hay tranh chấp dân sự phải là mục đích của các chủ thể tham gia. Nếu các bên tham gia quan hệ kinh tế nhằm mục đích kinh doanh thì tranh chấp xảy ra trong quan hệ kinh tế đó là tranh chấp kinh tế. Vụ án kinh tế xẩy ra giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với các cá nhân có đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật phát sinh từ các hoạt động kinh

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1262 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu So sánh tổ chức, thẩm quyền của toà án VN với toà trọng tài của CHLB Nga trong việc giảI quyết các tranh chấp kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh và các hoạt động kinh tế khác của họ. Hiện nay nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện đó, khi mà lợi ích kinh tế trở thành mục tiêu và động lực của hoạt động kinh doanh thì khối lượng tranh chấp xảy ra trong kinh doanh sẽ rất lớn bởi vì: Nước ta chưa có một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và phù hợp của nền kinh tế thị trường. Đó là nguyên nhân cơ bản dẫn đến nhiều tiêu cực trong hoạt động kinh doanh. Sự yếu kém về nghiệp vụ kinh doanh, về kiến thức pháp luật ở một bộ phận không nhỏ các nhà doanh nghiệp cũng là môi trường thuận lợi làm cho những hành vi kinh doanh không lành mạnh ra đời và phát triển. Những vụ lừa đảo, làm hàng giả, những hợp đồng đầy sơ hở mà các phương tiện thông tin đại chúng nêu ra gần đây đã chứng minh rõ ràng cho điều đó. Vì vậy để đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể tham gia các hoạt động kinh doanh đúng đắn, tuân theo các qui định của pháp luật đòi hỏi phải có một trình tự tố tụng riêng biệt. ở nước ta để giải quyết các tranh chấp này có toà kinh tế và toà trọng tài kinh tế, nhưng hiệu quả giải quyết và mức độ tin cậy của toà trọng tài là chưa cao nên trong phạm vi đề tài này chỉ xem xét đến toà kinh tế. Tranh chấp kinh tế không chỉ xảy ra giữa các chủ thể trong nước với nhau. Mà ngày nay thế giới đang có xu hướng hội nhập, các nước tham gia liên doanh liên kết, hợp tác với nhau về tất cả các lĩnh vực trong đó chủ yếu là lĩnh vực kinh tế, do đó những bất đồng, tranh chấp xảy ra các bên là không là không thể tránh khỏi. Vì vậy để đảm bảo quyền lợi của mình, tránh sự sai sót, sơ hở trong hợp tác liên doanh, liên kết thì người tham gia kinh doanh không những phảI hiểu rõ pháp luật nước mình mà còn phải hiểu biết luật nước mà mình tham gia hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy mà đề tài này nghiên cứu về vấn đề: “ So sánh tổ chức, thẩm quyền của toà án Việt Nam với toà trọng tài của CHLB Nga trong việc giảI quyết các tranh chấp kinh tế ”. 1.2 Mục đích yêu cầu của đề tài. ở nước ta tuy đã bước vào nền kinh tế thị trường nó thực sự chưa phát triển. Vì nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường chưa lâu nên toà kinh tế còn đang non trẻ, ít gặp phải những tranh chấp kinh tế phức tạp. Một thực ở nước ta nói chung và ở các hệ thống toà kinh tế nói riêng còn tồn tại một số vấn đề như: vẫn tồn tại những tư tưởng quan liêu, việc giải quyết các vấn đề tranh chấp nhiều khi chưa được công bằng, chưa được công minh, do trình độ nghiệp vụcòn có hạn chế nên số vụ án giải quyết sai, chồng chéo vẫn còn xẩy ra. Nga là một nước có nền kinh tế thị trường tương đối phát triển , các quan hệ kinh tế đa dạng và phúc tạp. Vì vậy để giải quyết được các tranh chấp xẩy ra thì đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật kinh tế chặt chẽ và rộng lớn, tình tự tố tụng riêng biệt và trình độ nghiệp vụ của các tài phán, thẩm phán cao, làm việc có hiệu quả. Vì vậy so sánh tổ chúc, thẩm quyền giữa hai nước trong việc giải quyết các vụ án kinh tế là cần thiết, từ đó để thấy được các điểm mạnh, điểm yếu của mỗi bên và có các điều chỉnh thích hợp. Phần II: Nội dung Toà án kinh tế Việt Nam trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế. Về cơ cấu tổ chức toà án kinh tế. Vấn đề tổ chức toà án kinh tế như thế nào cho phù hợp vừa đáp ứng được yêu cầu của tranh chấp kinh tế trong nền kinh tế thị trường, vừa kế thừa được những di sảnvề mặt tổ chức mà nhà nước ta hiện có, vừa đảm bảo thúc đẩy sự phát triển cả về kinh tế lẫn xã hội, đó quả là điều nan giải. Vì vậy vấn đề này từ lâu đã trỡ thành một nội dung cơ bản và quan trọng trong các đề tài khoa học và thảo luận khoa học. Trong quá trình nghiên cứu, trao đổi về tổ chức toà án kinh tế, có nhiều ý kiến khác nhau về mô hình này. Mô hình thứ nhất (do bộ tư pháp đưa ra) là tổ chức toà kinh tế thành các toà chuyên trách thuộc toà án nhân dân. Mô hình thứ hai (do trọng tài kinh tế hồ chí minh nêu ra) là tổ chức các toà án kinh tế (thương mại) độc lập song song tồn tại với toà án nhân dân. Nhìn chung, mỗi một mô hình đều có mặt ưu điểm và nhược điểm của nó, có ý nghĩa tham khảo cho các cơ quan có thẩm quyền quyết định việc thành lập toà kinh tế. Tuy nhiên, việc tổ chức toà kinh tế thành toà chuyên trách thuộc toà án nhân dân để giải quyết tranh chấp trong kinh doanh là hợp lý, không cần thiết phải thành lập toà kinh tế thành một hệ thống toà án riêng biệt tách khỏi hệ thống toà án nhân dân. Việc tổ chức toà án kinh tế được tiến hành dựa trên cơ sỡ những chỉ đạo sau: Thứ nhất, việc tổ chức toà án kinh tế xuất phát từ tính chất, đặc trưng và yêu cầu tranh chấp kinh tế. Thứ hai, việc tổ chức toà án kinh tế phải tính đến thực tế phát triển của nền kinh tế hiện nay và trong những năm tới. Thứ ba, việc tổ chức toà án kinh tế xuất phát từ chức năng, thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế. Thứ tư, việc thành lập toà án kinh tế phải quán triệt quan điểm mới của cơ quan tài phán, chủ trương cải cách tư pháp, đồng thời có sự kế thừa những thành quả và kinh nghiệm giải quyết tranh chấp trong những năm qua. Trên cơ sở những tư tưởng chỉ đạo trên, toà kinh tế được tổ chức với tính cách là toà chuyên trách nằm trong toà án nhân dân từ cấp tỉnh trỡ lên theo qui định của luật sữa đỗi, bổ sung một số điều của luật tổ chức toà án nhân dân, được Quốc Hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 14/12/1993, cơ cấu tổ chức toà án kinh tế gồm: Toà án nhân dân tối cao (bổ sung vào khoản 2 điều 17 và khoản 1 điều 23). Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao. Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Toà án quân sự trung ương, Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà hành chính, Toà lao động và các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; trong trường hợp cần thiết, uỷ ban thường vụ quốc hội quyết định thành lập các Toà chuyên trách khác theo đề nghị của chách án Toà án nhân dân tối cao. Ngoài ra nó còn bao gồm cả bộ máy giúp việc. Trong đó uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao bao gồm: chánh án, các phó chánh án và các chánh toà. Hội đồng thẩm phán: gồm các thành viên của uỷ ban thẩm phán và các phó chánh toà. Cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Uỷ ban thẩm phán: gồm chánh án, phó chánh án và các chánh toà. Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính, trong trường hợp cần thiết uỷ ban thường vụ quốc hội quyết định thành lập các toà chuyên trách khác theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau khi thống nhất ý kiến với chánh án Toà án nhân dân tối cao. Bộ máy giúp việc là cơ quan hành chính để đảm bảo sự hoạt động của toà. Toà án nhân dân cấp huyện: không chia thành các Toà chuyên trách. Cơ cấu tổ chức gồm: chách án, phó chánh án và thư ký toà, các thẩm phán và bộ máy giúp việc. Nhìn chung, mô hình tổ chức toà án kinh tế như qui định của pháp luật nói trên sẻ đảm bảo thống nhất về tổ chức, cơ quan xét xử, tổ chức bộ máy nhà nước gọn nhẹ, tránh thêm đầu mối, không gây ra tranh chấp về thẩm quyền giữa các toà án. Thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế: ở nước ta hiện nay, khái niệm kinh doanh được dùng trong các quy định pháp luật có nội dung gần như khái niện hành vi thương mại trong pháp luật của các nước có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, về mặt nội dung, khái niệm kinh doanh được sử dụng trong pháp luật nước ta có phạm vi hẹp hơn chảng hạn: khoản 2 điều 3 của luật doanh nghiệp định nghĩa “kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục tiêu sinh lợi”.Điều 1 của pháp luật hội đồng kinh tế quy định: “hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cức, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh”. Vì vậy có thể khẳng định rằng, tranh chấp trong quá trình kinh doanh là thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án kinh tế. Tuy nhiên, tranh chấp đó có thể là tranh chấp trong hợp đồng kinh tế, có thể tranh chấp ngoài hợp đồng kinh tế – tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện kinh doanh. Như vậy, Toà án kinh tế có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp sau đây: Tranh chấp xẩy ra trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế, tranh chấp xảy ra trong quá trình thành lập doanh nghiệp. Những tranh chấp này vốn thuộc quyền giải quyết của trọng tài kinh tế. Một số tranh chấp xảy ra trong quá trình kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp mà hiện nay theo pháp luật đang thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án dân sự. Chẳng hạn như những tranh chấp sau: Các tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng có mục đích kinh doanh của các cá nhân có đăng ký kinh doanh mà không phải là doanh nghiệp tư nhân theo quy định của luật doanh nghiệp tư nhân. Tranh chấp về sỡ hữu công nghiệp, nhất là các tranh chấp về sỡ hữu và sử dụng các nhãn hiệu hàng hoá( Điều 29 của pháp lệnh bảo hộquyền sỡ hữu công nghiệp ngày 28/01/1989). Tranh chấp giữa các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoàivới nhau, hoặc các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các xí nghiệp khác trong trường hợp các bên lựa chọn toà án nhân dân giải quyết (Điều 24 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ). Những tranh chấp trong kinh doanh mới xuất hiện trong nền kinh tế thị trường mà đến nay chưa thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan nào cả. Đó là các tranh chấp: Tranh chấp giữa các công ty và các cổ đông; Tranh chấp giữa các cổ đông với nhau; Tranh chấp trong mua bán tiền tệ, chứng khoán, trái phiếu, cổ phiếu... Vấn đề tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo luật định và tổ chức thanh lý tài sản. Phá sản là hệ quả tất yếu của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, và là vấn đề kinh tế xã hội phức tạp. Vì vậy nó đòi hỏi phải có sự can thiệp của toà án kinh tế để đảm bảo lợi ích của các bên liên quan và lơị ích của toàn xã hội. Kết cục cuối cùng là toà án xoá kinh tế tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh. Để cụ thể hoá và tránh sự nhầm lẫn, pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế phân chia thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế thành các loại sau: 2.1: Thẩm quyền theo vụ việc: toà án kinh tế có quyền giải qyyết các tranh chấp kinh tế dưới đây: Tranh chấp về hợp đồng kinh tế. Tranh chấp giữa các thành viên công ty với công ty và giữa các thành viên trong công ty với nhau. Tranh chấp về chứng khoán. 2.2: Thẩm quyền của các cấp toà án. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là toà án cấp huyện) giải quyết theo thủ tục sơ thẩmnhững tranh chấp hợp đồng kinh tế mà giá trị tranh chấp dưới 50 triệu đồng trừ trường hợp có nhân tố nước ngoài. Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương( gọi chung là toà án cấp tỉnh) giải quyết theo thủ tục sơ thẩmnhững vụ án kinh tế được quy định tại điều 12 pháp lệnh này, trừ những vụ án thuộc thẩm quyền của toà án cấp huyện. Trong trường hợp cần thiết toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyếtvụ án kinh tế thuộc thẩm quyền câps huyện. 2.3: Thẩm quyền của toà án theo lãnh thổ. Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế là toà án nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú, trong trường hợp vụ án chỉ liên quan đến bất động sản thì toà án nơi có bất động sản giải quyết. 2.4: Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn. Nguyên đơn có quyền yêu cầu lựa chọn toà án để giải quyết vụ án trong trường hợp sau: Nếu không biết rõ trụ sở hoặc nơi cư trú của bị đơn, thì nguyên đơn có thể yêu cầu toà án nơi có tài sản, nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú cuối cùng của bị đơn giải quiết vụ án. Nếu vụ án phát sinh từ hoạt động của chi nhánh doanh nghiệp thì nguyên đơn có thể yêu cầu toà án nơi doanh nghiệp có trụ sở hoặc nơi có chi nhánh đó giải quyết vụ án. Nếu vụ án phát sinh do vi phạm hợp đồng kinh tế, thì nguyên đơn có thể yêu cầu toà án nơi thực hiện hợp đồng giải quyết vụ án. Nếu các bị đơn có trụ sở hoặc nơi cư trú khác nhau, thì nguyên đơn có thể yêu cầu toà án nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú của một trong các bị đơn giải quyết vụ án. Nếu vụ án không chỉ liên quan đén bất động sản, thì nguyên đơn có thể yêu cầu toà án nơi có bất động sản hoặc nơi có trụ sở hoặc cư trú của bị đơn giải quyết vụ án. Nếu vụ án liên quan đến bất động sản ở nhiều nơi khác nhau, thì nguyên đơn có thể yêu cầu toà án ở một trong các nơi đó giải quyết vụ án. Tóm lại, mặc dù thẩm quyền của toà án kinh tế rất rộng, nhưng nếu chúng ta xác định được tính chất và nội dung của hành vi kinh doanh và lấy đó là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt với hành vi dân sự, tranh chấp dân sự thì thẩm quyền xét xử của toà kinh tế cũng trở nên rõ ràng và dễ xác định. 3: Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế . Theo qui định của điều 1 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày16/3/1994 thì quyền khởi kiện một vụ án kinh tế là quyền cá nhân hoặc pháp nhân có đủ tư cách của một chủ thể kinh doanh có quyền và lợi ích hợp pháp bị tranh chấp hoặc bị xâm phạm. Quyền khởi kiện vụ án kinh tế là quyền tố tụng đầu tiên của cá nhân hoặc pháp nhân khi tham gia voà quan hệ pháp luật tố tụng kinh tế. Các cơ quan nhà nước ( như viện kiểm soát ) không có quyền này. Có thể nói chủ thể thực hiện quyền khởi kiện trong tố tụng kinh tế hẹp hơn chủ thể thực hiện quyền này trong tố tụng dân sự. 3.1: Thủ tục sơ thẩm. 3.1.1 Khởi kiện vụ án: Người khởi kiện phải làm đơn yêu cầu toà án giải quyết vụ án kinh tế trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày phát sinh tranh chấp, trừ trường hợp có quy dịnh khác. Khởi kiện là yêu cầu của người khởi kiện gửi toà án đề nghị toà án bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình đang bị vi phạm. Nội dung của đơn kiện gồm: ngày, tháng, năm viết đơn. Toà án yêu cầu giải quyết vụ án. Tên nguyên đơn, bị đơn. Tóm tắt nội dung tranh chấp, giá trị tranh chấp. Quá trình thương lượng của các bên. Yêu cầu đề nghị toà án xem xét giải quyết. Đơn kiện phải có chữ ký của nguyên đơn hoặc người đại diện của nguyên đơn.Kèm theo đơn kiện phải có các tài liệu chứng minh cho các yêu cầu của nguyên đơn. 3.1.2 Thụ lý vụ án: Là việc thẩm phán chấp nhận đơn của người khởi kiện và ghi vào sổ thụ lý của toà án . Về mặt thủ tục, trước khi thụ lý vụ án thẩm phán phải nghiên cứu kỹ đơn kiện và các điều kiện thụ lý vụ án, sau đó nếu toà án xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình thì thông báo cho nguyên đơn biết. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được thông báo nguyên đơn phải nộp tiền ứng án phí theo quy định của pháp luật và toà án vào sổ thụ lý vụ án vào ngày nguyên đơn xuất trình chứng cứ về việc tạm ứng án phí.( án phí kinh tế được quy định cụ thể trong nghị định 70 cp ngày 12/6/1997) cụ thể: Mức án phí kinh tế sơ thẩm đối với các vụ án kinh tế không có giá ngạch là 500.000 đòng ( khoản 1 điều 15). Mức án phí kinh tế sơ thẩm đối với các vụ án kinh tế có giá ngạch được quy định như sau: Giá trị tranh chấp kinh tế Mức án phí Từ 10.000.000 trở xuống Từ trên 10.000.000 đến 100.000.000 đồng Từ trên 100.000.000 đến 200.000.000 đồng. Từ trên 200.000.000 đến 500.000.000.đồng Từ trên 500.000.000 đến 1.000.000.000 đồng. Từ trên 1.000.000.000 đồng. 500.000 đồng 5% giá trị tranh chấp kinh tế. 5.000.000 đồng +4%của phần giá trị tranh chấp vượt quá 100.000.000. 9.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tranh chấp vượt quá 200.000.000. 18.000.000 đồng+ 2% của phần giá trị tranh chấp vượt quá 500.000.000. 28.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tranh chấp vượt quá 1.000.000.000. Như vậy toà án thụ lý vụ án kinh tế kể từ ngày nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án phí. Mọi trường hợp khởi kiện vụ án kinh tế nguyên đơn đều phải nạp tạm ứng án phí. Pháp luật tố tụng kinh tế không quy định các trường hợp miễn án phí. Đương nhiên, về sau ai phải chụi án phí điều đó còn thuộc loại vụ án và mức độ lỗi của nguyên đơn trong vụ án mà toà án giải quyết. 3.1.3: Hoà giải. Trước khi mở phiên toà, toà án tiến hành hoà giải để các đương sự có thể thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Nhìn chung, việc hoà giải vụ án tranh chấp kinh tế có thể tiến hành bất cứ giai đoạn nào của quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế. Hoà giải ở đây là hành vi tố tụng của toà án, là một thủ tục bắt buộc đối với toà án. Toà án tiến hành hoà giải đối với tất cả các vụ án kinh tế. Để tiến hành hoà giải, toà án triệu tập tất cả nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến toà án, những người này phải có mặt khi hoà giải. Trước khi hoà giải thẩm phán phải tiến hành điều tra để nắm vững những vấn đề cơ bản có liên quan đến vụ tranh chấp. Khi hoà giải phải giải thích cho các đương sự hiểu rõ pháp luật, kết hợp việc giải quyết những khúc mắc trong tâm tư tình cảm của đương sự, giúp các đương sự tiếp thu đúng đắn pháp luật, đường lối chính sách để họ tự nguyện giải quyết vụ án. Nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, thì toà án lập biên bảnhg thành và trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà các đương sự không có sự thay đổi ý kiến thì toà án sẽ quyết địn về sự thoả thuận của đương sự. Trong trường hợp các đương sự không thoả thuận với nhau được, thì toà án lập biên bản hoà giải không thành và quyết định đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, hoà giải không thành sẽ đưa tiến trình giải quyết vụ án sang giai đoạn tiếp theo giai đoạn xét xử sơ thẩm. 3.1.4 Mở phiên toà sơ thẩm. Theo quy định của pháp luật, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, toà án phải mở phiên toà, trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời đó không quá 20 ngày. Phiên toà được tiến hành với sự có mặt của các đương sự hoặc người đại diện cho đương sự. Nếu viện kiểm soát có yêu cầu tham gia phiên toà thì phiên toà được tiến hành với sự có mặt của kiểm soát viên. Nếu sự có mặt của người làm chứng, người giám định, người phiên dịch là không thể thiếu được thì phiên toà chỉ tiến hành khi có mặt họ. Thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm được pháp luật quy định cụ thể như sau: Thứ nhất là thủ tục phiên toà: Khi bắt đầu phiên toà, chủ toạ phiên toà đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, kiểm tra sự có mặt và căn cước của những người được triệu tập đến toà và giải thích cho họ biết quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên toà. Nếu người được triệu tập vắng mặt, thì hội đồng xét xử quyết định hoãn hoặc tiếp tục phiên toà. Chủ toạ phiên toà giới thiệu các thành viên của hội đồng xét xử, kiểm sát viên, thư ký phiên toà, người giám định, người phiên dịch và giải thích cho người tham gia tố tụng nói tại các điều 20,22 và 23 của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế về quyền yêu cầu thay đổi thành phần hội đồng xét xử, kiểm sát viên, thư ký phiên toà, người giám định, người phiên dịch. Nếu có yêu cầu, thì hội đồng xét xử xem xét và quyết định. Chủ toạ phiên toà giải thích cho người giám định, người phiên dịch về quyền và nghĩa vụ của họ. Những người này phải cam đoan làm tròn nghĩa vụ. Người làm chứng phải cam đoan khai đúng sự thật. Nếu thấy người làm chứng có thể bị ảnh hưởng bởi lời khai của người khác, thì chủ toạ phiên toà cho cách ly người làm chứng với người khác trước khi lấy lời khai của ngươì làm chứng. Chủ toạ phiên toà hỏi đương sự hoặc người đại diện, kiểm soát viên về việc cung cấp thêm chứng cứ hoặc yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng. Nếu có người yêu cầu thì hội đồng xét xử xem xét và quyết định. Thứ hai là xét hỏi tại phiên toà. Hội đồng xét xử xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án bằng cách nghe lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, hoặc người đại diện của đương sự, người làm chứng, người giám định, xem xét vật chứng. Khi xét hỏi, hội đồng xét xử hỏi trước, sau đó đến kiểm soát viên, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự. Những người tham gia tố tụng có quyền đề xuất với hội đồng xét xử những vấn đề cần được hỏi thêm. Thứ ba là tranh luận tại phiên toà : Sau khi hội đồng kết thúc việc xét hỏi, các đương sự hoặc người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trình bày các tình tiết liên quan đến vụ án và nêu ý kiến của mình về cách thức giải quyết vụ án, tham gia tranh luận, có quyền đáp lại ý kiến tranh luận của người khác, kiểm sát viên trình bày ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án. Thứ tư là nghị án: Các quyết định của hội đồng xét xử phải được các thành viên thảo luận và quyết định theo đa số. Khi nghị án phải có biên bản ghi các ý kiến đã thảo luận và quyết định của hội đồng xét xử. Thứ năm là tuyên án: Chủ toạ phiên toà công bố toàn văn bản và có trách nhiệm giải thích cho đương sự biết quyền kháng cáo vad nghĩa vụ chấp hành bản án. Vậy sau khi phiên toà kết thúc, đương sự được toà án cấp trích lục bản án hoặc quyết định về vụ án. Chậm nhất là 7 ngày tuyên án, ra quyết định, toà án cấp cho đương sự bản sao bản án hoặc quyết định theo yêu cầu của họ, đồng thời gửi cho viện kiểm sát cùng cấp. Nếu đương sự vắng mặt tại phiên toà, thì toà án gửi ngay cho họ trích lnục bản án hoặc quyết định về vụ án. 3.2: Thủ tục phúc thẩm. Thủ tục phúc thẩm là việc toà án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án, những quyết định sơ thẩm của toà án cấp dưới chưa có hiệu lực mà bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Việc tiến hành phúc thẩm các bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của toà án cấp dưới nhằm mục đích sữa chữa những sai lầm của toà án trong bản án, quyết định đó. Thủ tục phúc thẩm ngoài việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nó còn tạo khả năng thuận lợi cho toà án cấp trên kiểm tra chất lượng xét xử của toà án cấp dưới để thông qua đó mà chỉ đạo hoạt động xét xử của toà án cấp dưới cho phù hợp với pháp luật và thực tiễn khách quan. Nội của những quy định pháp luật về thủ tục phúc thẩm đề cập đến những vấn đề sau: 3.2.1 Chủ thể và khách thể của quyền kháng cáo và kháng nghị. Trong tố tụng kinh tế, chỉ có đương sự hoặc người đại diện cho đương sự có quyền kháng cáo bản án, quyết định của toà án, còn viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và trên một cấp có quyền kháng nghị bản án, quyết định của toà án sơ thẩm. Người kháng cáo phải làm đơn kháng cáo và gửi cho toà án trong thời hạn kháng cáo. Viện kiểm sát kháng nghị bằng một quyết định. Nội dung của đơn kháng cáo và quyết định kháng nghị phải nêu rõ lý do kháng cáo, kháng nghị, phần quyết định của bản án, quyết định của toà án sơ thẩm bị kháng cáo,kháng nghị, yêu cầu của người kháng cáo, kháng nghị. Khách thể của quyền kháng cáo, kháng nghị là bản án và quyết định chưa có hiệu lực của toà án sơ thẩm. Tuy nhiên, không phải tất cả các quyết định của toà án sơ thẩm đều là khách thể của kháng cáo, kháng nghị, mà có những quyết định không thể bị kháng cáo, kháng nghị. Chẳng hạn như quyết định đình chỉ vụ án vì lý do người khởi kiện rút đơn. 3.2.2 Trình tự thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị. Thứ nhất: Thời hạn thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị. Thời hạn kháng cáo là 10 ngày, kể từ ngày toà án tuyên án hoặc ra quyết định, đối với đương sự vắng mặt tại phiên toà thì thời hạn này tính từ ngày bản sao bản án, quyết định được giao cho họ hoặc được niêm yết tại trụ sở uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi họ có trụ sở hoặc cư trú. Thời hạn kháng nghị của viện kiểm sát cùng cấplà 10 ngày, của viện kiểm sát là 20 ngày, kể từ ngày toà án tuyên án hoặc ra quyết định. Nếu kiểm sát viên không tham gia phiên toà, thì thời hạn kháng nghị tính ntừ ngày viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản sao bản án, quyết định. Nếu kháng cáo, kháng nghị quá thời hạn vì trở ngại khách quan thì thời hạn kháng cáo, kháng nghị là 10 ngày kể từ ngày trở ngại đó không còn nữa. Thứ hai: Hậu quả pháp lý của việc kháng cáo, kháng nghị. Theo điều 64 của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì phần bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa có hiệu lực pháp luật. Phần bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật. Thứ ba: Bổ sung, sữa đổi nội dung kháng cáo, kháng nghị, rút kháng cáo, kháng nghị. Trước khi xét xử hoặc tại phiên toà phúc thẩm, viện kiểm sát, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị có quyền bổ sung chứng cứ mới. Toà án cấp phúc thẩm có thể tự mình hoặc theo yêu của đương sự tiến hành hoặc uỷ thác cho toà án khác tiến hành xác minh chứng cứ mới được bổ sung. Nếu trước hoặc trong khi mở phiên toà phúc thẩm, đương sự kháng cáo có quyền rút một phần hoặc toàn bộ nội dung kháng cáo. Viện kiểm sát sai đã kháng nghị hoặc viện kiểm sát cấp trên có quyền rút một phần hoặc toàn bộ nội dung kháng nghị và toà án ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với một phần hoặc toàn bộ nội dung kháng cáo, kháng nghị đã được rút. Thứ tư: Thông báo việc kháng cáo kháng nghị. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày người kháng cáo xuất trình chứng từ về việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, toà án sơ thẩm phải thông báo việc kháng cáo cho viện kiểm sát cùng cấp và cho đương sự, người có quyền, có nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, viện kiểm sát gửi bản sao kháng nghị cho đương sự có quyền, nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị. người có quyền liên quan đến kháng cáo, kháng nghị có trách nhiệm gửi cho toà án cấp phúc thẩm ý kiến của mình về kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo. Thứ năm: Thủ tục kháng cáo, kháng nghị. Đơn kháng cáo, kháng nghị được gửi đến toà án cấp sơ thẩm để giải quyết vụ án. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày người kháng cáo xuất trình chứng từ về việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm họăc kể từ ngày nhận được kháng nghị, toà án cấp sơ thẩm phải gửi kháng cáo, kháng nghị kèm theo toàn bộ hồ sơ vụ án cho toà án cấp phúc thẩm. Thứ sáu: Phiên toà phúc thẩm. Trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày nhận đủ hồ sơ do toà án cấp sơ thẩm gửi đến, toà án cấp phúc thẩm phải mở phiên toà xét xử, thời hạn này có thể gia hạn thêm nếu vụ án có nhiều tình tiết phúc tạp. Hội đồng xét xử gồm ba thẩm phán. Phiên toà phúc thẩm được tiến hành với có mặt của các thành phần sau: Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà phúc thẩm trong trường hợp viện kiểm sát kháng nghị. Đối với các trường hợp khác viện kiểm sát tham gia khi xét thấy cần thiết. Nếu viện kiểm sát tham gia phiên toà thì hồ sơ vụ án được chuyển cho viện kiểm sát nghiên cứu trong thời gian 10 ngày. Đương sự kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị phải được triẹu tập tham gia phiên toà phúc thẩm. Toà án chỉ triệu tập người giám định, người làm chứng khi có yêu cầu của đương sự và khi thấy cần thiết cho việc kháng cáo, kháng nghị. Nếu viện kiểm sát phải tham gia phiên toà hoặc có yêu cầu tham gia mà không tham gia được, thì hội đồng xét xử hoãn phiên toà. Nếu những người nói tại các điểm 2 và 3 của điều 68 này vắng mặt mà không có lý do chính đáng thì toà án vẫn tiến hành xét xử. Phiên toà phúc thẩm được tiến hành theo các thủ tục như phiên toà sơ thẩm nhưng trước khi xét xử, kháng nghị, một thành viên của hội đồng xét xử trình bày nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội kháng cáo, kháng nghị. Bản án, quyết định của cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên. 3.3: Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Đó là thủ tục để xem xét lại những bản án đã có hiệu lực pháp luật trong một số trường hợp nào đó. 3.3.1: Thủ tục giám đốc thẩm. Giám đốc thẩm là một giai đoạn đặc biệt của tố tụng kinh tế, trong đó toà án cấp trên kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ đối với các bản án, quyết định đã có tính hiệu lực pháp luật của toà án cấp dưới trên cơ sỡ kháng nghị của người có thẩm quyền. Nội dung của những quy định pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đề cập đến những vấn đề cơ bản sau: Chủ thể, khách thể của quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Theo quy định của luật tổ chức toà án nhân dân, luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân tối cao, phó chánh toà án nhân dân tối cao, phó viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao, chánh toà án cấp tỉnh, viện trưởng viện kiểm sát cấp tỉnh. Khách thể của quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nếu thấy vi phạm luật. Việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm dựa vào các căn cứ được quy định cụ thể tại điều 75 của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Trình tự thực hiện kháng nghị theo thủ giám đốc thẩm. Sau khi đã kiểm tra hồ sơ vụ án, có căn cứ để kết luậnbản án,quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật, người có thẩm quyền kháng nghị sẽ tiến hành kháng nghị bằng một văn bản (một quyết định kháng nghị). Trong kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm cần nêu rõ căn cứ kháng nghị, kháng nghị bản án, quyết định nào? của toà án nào? yêu cầu kháng nghị. Kháng nghị phải được gửi cho toà án đã ra bản án, quyết định bị kháng nghị. Toà án sẽ xét xử giám đốc thẩm, đương sự và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị. Toà án phải gửi kháng nghị, kèm theo hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu trong thời gian 10 ngày. Phiên toà giám đốc thẩm: Điều 78 của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định về thẩm quyền giám đốc thẩm. Tại điều 79 quy định: Phiên toà giám đốc thẩm không phải triệu tập đương sự, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị trừ trường hợp toà án xét thấy cần phải nghe ý kiến của họ trược khi quyết định. Tại phiên toà, một thành viên hội đồng xét xử trình bày nội dung vụ án, nội dung kháng nghị. Nếu toà án triệu tập người tham gia thị tố tụng thì họ trình bày ý kiến của mình trước khi kiểm sát viên trình bày ý kiến về việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử thoả luận và ra bản án, quyết định. 3.3.2: Thủ tục tái thẩm: Thủ tục tái thẩm cũng là một giai đoạn tố tụng kinh tế đặc biệt, trong đó toà án cấp trên kiểm tra tính hợp pháp và tính căn cứ đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực của pháp luật của toà án cấp dưới nếu phát hiện được những tình tiết mới quan trọng làm thay đổi nội dung vụ án, trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm quyền. Nội dung của những quy định pháp luật về thủ tục tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đề cập những vấn đề cơ bản sau: Theo quy định của điều 81 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35123.doc
Tài liệu liên quan