So sánh một số khái niệm trong tâm lý học và duy thức học

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH ĐỖ THANH XUÂN SO SÁNH MỘT SỐ KHÁI NIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC VÀ DUY THỨC HỌC LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC TP. HỒ CHÍ MINH - 2010 LỜI TRI ÂN Kính thưa Quý Thầy Cơ, Hơm nay, tơi đã tương đối hồn thành Luận văn Cao học của mình. Tơi xin được bày tỏ lịng tri ân đến Quý Thầy Cơ đã nhiệt tình hướng dẫn trong suốt thời gian tơi tham dự khố học. Đặc biệt, tơi xin được bày tỏ lịng tri ân sâu sắc đến PGS. TS. Trần Tuấn Lộ - ngưịi

pdf67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1785 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu So sánh một số khái niệm trong tâm lý học và duy thức học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hướng dẫn khoa học - đã tận tình hướng dẫn một đề tài mà tơi ấp ủ từ lâu. Chúng tơi cũng khơng quên gửi lời cảm ơn đến các vị giáo sư, các giảng viên mà tơi từng đến tham khảo ý kiến. Cuối cùng, tơi xin gửi lời kính chúc sức khoẻ và thành cơng. Một lần nữa, tơi xin được gửi lời tri ân đến tất cả Quý vị. Học viên Đỗ Thanh Xuân LỜI CAM ĐOAN Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được cơng bố trong bất cứ cơng trình nào khác. Học viên ĐỖ THANH XUÂN 1. Lý do chọn đề tài Trong các trường Phật học, ở nước ta, hiện nay, vừa cĩ dạy Tâm lý học đại cương vừa cĩ dạy Duy thức học. Nhưng hai mơn đĩ được dạy mà khơng cĩ sự liên hệ và so sánh với nhau. Nhiều vị tăng ni hiện nay được đào tạo trong các trường đại học thế tục lẫn các trường Phật học, do đĩ, họ được học cả hai mơn nĩi trên. Trong quá trình thuyết pháp ở các cơ sở Phật giáo, nhiều nhà sư muốn vận dụng cả Tâm lý học lẫn Duy thức học, vì trong đồng bào Phật tử cũng cĩ những người hiểu biết ít nhiều về Tâm lý học, nên việc thuyết pháp như vậy sẽ càng thuyết phục hơn đối với những phật tử đĩ. Thực tế nêu trên đã thúc đẩy tơi lựa chọn đề tài này (So sánh một số khái niệm trong Tâm lý học và Duy thức học) để nghiên cứu. 2. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu 2.1/ Mục đích nghiên cứu 2.1.1/ Phục vụ cho việc giảng dạy và học tập mơn Tâm lý học đại cương và mơn Duy thức học trong các trường Phật học của nước ta hiện nay. 2.2.2/ Phục vụ cho việc thuyết pháp của các nhà sư ở những cơ sở Phật giáo. 2.2.3/ Gĩp phần phục vụ cho việc nghiên cứu và so sánh sự giống nhau và khác nhau giữa Tâm lý học và Duy thức học. 2.2/ Mục tiêu nghiên cứu Nêu lên được sự giống nhau và sự khác nhau giữa một số khái niệm trong Tâm lý học và trong Duy thức học liên quan tới nhận thức và ý thức về mặt giải phẫu, sinh lý, khái niệm (định nghĩa, phân loại, cấu trúc, đặc điểm, thuộc tính, sự hình thành và phát triển, các cấp độ). Từ đĩ, cĩ thể kết luận rằng trong Duy thức học, ngồi những khái niệm thuần túy phục vụ cho tín ngưỡng Phật giáo, cịn cĩ những khái niệm phản ánh hiện tượng tâm lý của con người đã được nêu lên trong Tâm lý học. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1/ Khách thể: tài liệu Tâm lý học và Duy thức học nĩi về những khái niệm liên quan tới nhận thức và ý thức. 3.2/ Đối tượng nghiên cứu: Sự giống nhau và khác nhau trong một số khái niệm nĩi trên của Tâm lý học và Duy thức học. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.1/ Tìm hiểu các khái niệm về tâm lý vừa cĩ trong Duy thức học vừa cĩ trong Tâm lý học và lựa chọn một số trong số đĩ để so sánh với nhau theo từng đơi một. 4.2/ Phân tích và so sánh các cặp khái niệm đã lựa chọn để thấy sự giống nhau và sự khác nhau. 4.3/ Tham khảo ý kiến của một số chuyên gia Tâm lý học và Phật học cũng như của một số giảng viên Tâm lý học và Duy thức học trong các trường Phật học để hạn chế những sai sĩt và nâng cao thêm chất lượng nghiên cứu. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1/ Các phương pháp nghiên cứu tài liệu: 5.1.1/ Lựa chọn các tài liệu và các khái niệm để nghiên cứu 5.1.2/ Phân tích từng khái niệm. 5.1.3/ So sánh các cặp khái niệm. 5.1.4/ Tổng hợp sự phân tích và so sánh ở trên để thấy được sự giống nhau và sự khác nhau. 5.2/ Các phương pháp nghiên cứu với chuyên gia: Tác giả đã phỏng vấn và trao đổi ý kiến với một số chuyên gia Tâm lý học và Duy thức học ở Thành phố Hồ Chí Minh. 6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 6.1/ Duy thức học là một hệ thống tư tưởng vừa về triết lý vừa về tâm lý của Phật giáo. Trong luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến một số thuật ngữ, khái niệm về tâm lý của Duy thức học mà thơi, khơng đề cập đến những quan niệm cĩ tính chất tơn giáo – tín ngưỡng và triết học trong Duy thức học của Phật giáo. 6.2/ Tâm lý học là khoa học và mơn học đang được nghiên cứu và giảng dạy trong các trường đại học và cao đẳng v.v… trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong đĩ cĩ Tâm lý học đại cương, Tâm lý học phát triển, Tâm lý học nhân cách, Tâm lý học xã hội v.v…; riêng mơn Tâm lý học đại cương cũng đang được giảng dạy ở các trường Phật học. Trong luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến một số thuật ngữ, khái niệm của Tâm lý học tương ứng với một số thuật ngữ, khái niệm về tâm lý của Duy thức học mà thơi. 6.3/ Những khái niệm mà tác giả của luận văn này nghiên cứu để phân tích và so sánh chỉ là tám cặp khái niệm tương ứng (mỗi cặp khái niệm gồm một khái niệm của Tâm lý học và một khái niệm của Duy thức học) sau đây: Những khái niệm Tâm lý học Những khái niệm Duy thức học 1 Thị giác Nhãn thức 2 Thính giác Nhĩ thức 3 Khứu giác Tỵ thức 4 Vị giác Thiệt thức 5 Mạc giác Thân thức 6 Ý thức Ý thức 7 Tự ý thức Mạt-na thức 8 Vơ thức Tàng thức 6.4/ Trong luận văn này, tác giả chỉ so sánh một cách khách quan thuật ngữ và nội hàm của các khái niệm, mà khơng đặt vấn đề phê phán đúng hay sai, nhất là về mặt triết học và tơn giáo – tín ngưỡng. 6.5/ Trong luận văn này, những từ Tâm lý học đều cĩ nghĩa chung là khoa học tâm lý học đang được nghiên cứu và giảng dạy ở các trường đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý. Cịn những từ Duy thức học, dù cĩ thể hiểu là Tâm lý học Phật giáo, nhưng khơng bao giờ được thay thế bằng từ Tâm lý học để người đọc khỏi hiểu lầm là khoa học tâm lý học đã nĩi ở trên. 7. Giả thuyết nghiên cứu Vì Tâm lý học và Duy thức học đều cĩ nội dung nĩi về tâm lý con người, nên cĩ thể so sánh với nhau ngồi những cái riêng khác nhau, cĩ thể cĩ những cái chung gần gũi với nhau, thậm chí giống nhau trong một số khái niệm và quan niệm. 8. Cái mới của luận văn -Trên cơ sở phân tích nội hàm của 8 khái niệm tương ứng với nhau giữa Tâm lý học và Duy thức học, cái mới mà luận văn này đĩng gĩp là sự so sánh 8 cặp khái niệm nĩi trên để thấy được những gì là tương đối giống nhau và những gì là khác nhau giữa chúng trong từng cặp. 9. Cấu trúc của luận văn A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu 6. Giới hạn nghiên cứu 7. Giả thuyết nghiên cứu 8. Cấu trúc của luận văn B. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Lịch sử nghiên cứu những vấn đề và cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài. 1.1/ Lịch sử nghiên cứu vấn đề. 1.2/ Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài. Chương 2: Phân tích một số khái niệm trong Tâm lý học và Duy thức học. 2.1/ Phân tích tám khái niệm trong Tâm lý học. 2.2/ Phân tích tám khái niệm trong Duy thức học. Chương ba: So sánh một số khái niệm trong Tâm lý học và Duy thức học. 3.1/ So sánh “5 loại cảm giác – tri giác” trong Tâm lý học và “5 thức trước” trong Duy thức học. 3.2/ So sánh “ý thức” trong Tâm lý học và “ý thức” trong Duy thức học. 3.3/ So sánh “tự ý thức” trong Tâm lý học và “mạt-na thức” trong Duy thức học. 3.4/ So sánh “vơ thức” trong Tâm lý học và “tàng thức” trong Duy thức học. C. PHẦN KẾT LUẬN 1. Kết luận 2. Kiến nghị TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC Chương 1: Lịch sử nghiên cứu vấn đề và cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài 1.1/ Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1/ Duy thức học là gì? Duy thức học (tiếng Phạn là Yogàcàra, tiếng Anh là The theory of mere-consciouness) là một mơn Phật học bao gồm một số bài học (giới Phật giáo gọi là bài tụng hay bài kệ) về thức. Duy thức học cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều do thức phĩng chiếu, ngồi thức đang cảm nhận thì khơng cĩ gì hiện hữu, khơng cĩ hiện thực khách quan. Hiện thực khách quan chỉ là sự trình hiện vì khơng cĩ tự thể (vơ ngã) và khơng cố định, khơng bất biến (vơ thường). Thức do vơ minh nên tin vào những gì mà nĩ tiếp xúc là thật, nhưng kỳ thực, đĩ là do nĩ phĩng chiếu ra. Thức vì căn cứ vào sự trình hiện để phân biệt nhị nguyên nên nhầm lẫn cĩ chủ thể và khách thể và vì vậy, chủ thể và khách thể đều khơng thật. Nếu sự phân biệt nhị nguyên đĩ được nhận diện (tức là khi thức (consciousness) chuyển thành trí (direct cognition) thơng qua thiền định), thì tất cả mọi nhầm lẫn về chủ thể và khách thể chấm dứt, đĩ là giác ngộ, tức là khơng bị thức phĩng chiếu. Theo Duy thức học, mọi sự vật, hiện tượng là sự trình hiện. Trong quan niệm này thì trình hiện là trình hiện cho một chủ thể, khơng cĩ chủ thể thì khơng cĩ trình hiện, cũng như khơng cĩ người mơ thì khơng cĩ giấc mơ. Trong vũ trụ, mọi sự vật khơng cĩ tính chất riêng tư, chúng khơng đến khơng đi, chúng khơng thật cĩ sinh cĩ diệt, chúng chỉ xuất hiện trong tương quan với mọi sự xung quanh và với người đang tương tác với chúng. Vì thế giới là một sự trình hiện, một dạng xuất hiện dưới mắt của một chủ thể nên cái “khách quan” phải cần một chủ thể nhận thức mới cĩ. Vì vậy, theo Duy thức học, người ta cĩ thể tìm hiểu được thế giới thực tại nếu nắm bắt được tính chất của chủ thể, nghĩa là nếu biết rõ chủ thể, thì sẽ biết rõ thực tại của chủ thể đĩ. Như vậy, trình hiện là sự xuất hiện của thế giới trong tương quan với chủ thể. Theo Duy thức học thì mọi hiện tượng tâm vật, thực tại bên ngồi lẫn hoạt động tâm lý dựa trên ba trình hiện của thức: thứ nhất là sáu thức nhận biết (cũng gọi là sáu thức trước), thứ hai là thức tư duy (cũng gọi là thức thứ bảy hay Mạt-na thức) và thứ ba là thức tàng chứa (cũng gọi là thức thứ tám hay Tàng thức hay A-lại-da thức). Như vậy, thức chỉ tồn bộ hoạt động “tinh thần”, từ năm giác quan, ý thức đến các tầng lớp tiềm thức, vơ thức mà thuật ngữ gọi là mạt-na thức, tàng thức. Tàng thức là nguồn gốc của các thức khác. Đặc tính của nĩ là nhận thức được sự vật và chính mình. Nĩ là chỗ tàng chứa những kinh nghiệm của cá thể với cảm xúc, ước mong, tư duy…, nơi chứa đựng những thĩi quen cố hữu, những khả năng đã thuần thục, những mơ ước chưa thành. Tàng thức chính là động lực, là năng lực của tái sinh. Vì thế, trong triết học Phật giáo, thức vừa cĩ vai trị của năng lượng, vừa là nguồn gốc của cái biết, cái thấy, nĩ làm chủ thể “cảm ứng” với khách thể. Cả chủ thể lẫn khách thể đều là sự biến hiện của thức khi thức vơ minh vọng động mà tự tách mình ra làm đơi, làm một chủ thể nhận thức và một khách thể bị nhận thức. Trên một mặt nhất định, ta cĩ thể nĩi: chính thức là yếu tố tạo tác ra thế giới, mặt khác ta cũng cĩ thể nĩi thức thấy thế giới đúng như “nghiệp cảm” của nĩ. Hạt giống1 (chủng tử) ở trong tàng thức biến hiện thành thế giới mà ta gọi là thực tại vật lý. Hạt giống cũng biến hiện trong mỗi cá thể để thành các dạng tâm lý như nhận thức, khả năng, ý thích, ước vọng, tư tưởng. Xuất phát từ vọng thức sai lầm, người ta thấy mình cĩ một cái tơi, đồng thời thấy thế giới bên ngồi tồn tại khách quan. Trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể đĩ (mà tất cả chung quy chỉ là thức biến hiện), cá nhân càng tiếp tục gieo rắc và nuơi dưỡng chúng để cung cấp lại cho tàng thức. Thân mạng của một cá nhân bao gồm thân thể, điều kiện tâm lý, khả năng và trình độ, nĩ nĩi lên biệt nghiệp của cá nhân đĩ. Mơi trường xung quanh, gồm cĩ gia đình, xã hội, thế giới, trong đĩ cá thể đang sống, nĩ phản ánh cộng nghiệp của cá nhân đĩ. Biệt nghiệp và cộng nghiệp đĩ cĩ mối liên hệ mật thiết với nhau và đều là biến hiện của thức. Thức của mỗi cá thể như thế nào thì thân của nĩ được tạo ra thế đĩ, vũ trụ được “vẽ vời”, được trình hiện như thế đĩ. Nghiệp và các tác động của nghiệp là: tất cả mọi kinh nghiệm của con người trong cuộc sống được lưu giữ trong tàng thức như một thứ vết tích và những vết tích đĩ cần phải được chứng thực. Theo đạo Phật, mỗi hoạt động trong đời sống của chúng ta, trong thế giới ba chiều cũng như trong các thực tại phi vật chất khác, đều để lại “dấu vết” cả. Tất cả các biến cố đem lại hiểu biết và kinh nghiệm, dù đĩ là năng lực, tư duy, thĩi quen, hành động, yêu thương, thù hận, xúc cảm, ức chế… cũng thế. Nĩi chung là tồn bộ đời sống trên ba bình diện thân, khẩu, ý đều để lại dấu vết, đều để lại hạt giống trong tàng thức cả. Một khi chúng để lại hạt giống thì tàng thức biến hiện cho cá thể đĩ được chứng thực, nếm trải, chứng nghiệm những dấu vết đĩ trong thế giới riêng của mình và chiêu cảm những hồn cảnh nhất định đến với mình. 1 Hạt giống là những thơng tin được tích luỹ trong tàng thức, đĩ cũng chính là nghiệp. Vì thế, theo quan niệm nghiệp lực, kẻ giết người sẽ bị giết hại, kẻ dối trá sẽ bị lừa đảo, kẻ ích kỷ sẽ bị cơ đơn, kẻ bủn xỉn sẽ bị nghèo khổ, kẻ ham học sẽ được sáng dạ… (thiện ác đáo đầu chung hữu báo). Những hồn cảnh đĩ xuất hiện một cách “tự động”, khơng cần ai xem xét và dàn xếp. Chúng đều là những sự trình hiện của thức đối với cá thể và cơ chế cộng nghiệp sẽ đem những cá thể cĩ liên hệ với nhau lại gần nhau, trong đĩ nhiều thế giới cùng trình hiện, lồng vào nhau mà khơng hề ngăn ngại. Trong sự tác động này của nghiệp, điều bí nhiệm nhất là mối quan hệ giữa cộng nghiệp (nghiệp chung của một nhĩm người, một xã hội và cả lồi người) và biệt nghiệp (nghiệp riêng của mỗi cá thể). Chúng đan kết vào nhau vơ ngại, biến hĩa thiên hình vạn trạng và tạo cảm tưởng như chỉ cĩ một thế giới, một thực tại. Nghiệp lực tạo thành tâm lý và thể chất của mỗi cá thể, nghiệp lực tạo thành mơi trường xung quanh, kết thành gia đình và xã hội. Từ đĩ tạo nên những giả hợp to lớn hơn như quốc gia, lồi người, các hành tinh và tồn bộ vũ trụ. Con người cĩ một cộng nghiệp là kiếp người nên thân thể của họ giống nhau, với tất cả các bộ phận, với những số lượng chính xác về cơ bắp và khớp xương, về các cơ quan nội tạng, về sự vận động của cơ thể. Những phát hiện về “gen” của con người cho thấy mức độ “giống nhau” giữa lồi người lên trên mức 99,9%. Điều này làm ta cĩ thể nghĩ genom là sự thể hiện về mặt vật chất của “nghiệp”. Phải chăng con số 99,9% nĩi lên mức độ “cộng nghiệp về mặt thân thể” của lồi người? Dưới tác dụng của vơ minh, của hạt giống, của nghiệp lực, tàng thức biến hiện là cho cá thể đĩ cảm nhận cĩ thế giới bên ngồi như một thực thể khách quan và cĩ đời sống của chính mình, của người nhận thức chủ quan. Mỗi cá thể thơng thường lại chấp chặt thế giới đĩ là thực cĩ, bản thân mình là một cái tơi thực cĩ. Qua đĩ mà cá thể lại thu nhận thêm kinh nghiệm, tạo tác thêm ước vọng, bồi dưỡng thêm năng lực, tăng trưởng thêm nghiệp lực và tiếp tục chứa chấp nĩ vào trong tàng thức. Một biến cố xảy ra vừa là kết quả của một biến cố cũ, vừa là nguyên nhân một biến cố tương lai. Cuộc sống là một dịng tâm thức bất tận, khơng đầu khơng đuơi. Nếu hơm nay ta nhức đầu thì cĩ lẽ tại hơm qua ta uống rượu quá nhiều chứ khơng do một lẽ bất cơng nào cả. Và ngay hơm nay ta cĩ thể chấm dứt uống rượu để ngày mai ta khỏi nhức đầu, đĩ là sự tự do mà mỗi cá thể đều cĩ và cĩ ngay bây giờ. Theo đạo Phật thì quả thật mỗi cá thể cảm nhận một thế giới riêng với thời gian và khơng gian riêng, thế nhưng các thế giới đĩ lồng vào nhau khơng bị ngăn ngại. Tùy theo nghiệp lực của cá thể hay từng nhĩm cá thể mà các biến cố tác động lẫn nhau, thúc đẩy để sự vật sinh thành và hoại diệt theo thuyết duyên khởi. Thời gian và khơng gian là những cộng nghiệp then chốt nhất. Những biến cố đĩ sẽ “lọt” vào thế giới của một cá thể nhất định (thí dụ cá thể nọ gặp được người bạn tốt, tìm được một việc làm như ý) hay “lọt” vào thế giới của một nhĩm cá thể (thí dụ một tai nạn xảy ra chung cho cả nhĩm). Thế giới chúng ta cĩ thể đồng thời được xem là một thế giới hay nhiều thế giới. Nếu lấy cái chung của mọi vọng thức làm nền tảng thì chỉ cĩ một thế giới duy nhất, nếu lấy cái riêng của mỗi dịng tâm thức thì mỗi cá thể là một thế giới. Cái chung và cái riêng, cái đồng và cái dị đều khơng cĩ tự tính, đều do quan hệ, theo gĩc nhìn mà đặt tên, đều là giả danh cả. Vì thế, vấn đề cĩ một thế giới hay nhiều thế giới, cĩ một hay nhiều thức tàng thức là điều mà ta chỉ cĩ thể đứng trên lập trường Trung quán mới thấy rõ được. Tất cả đều chỉ là sự cảm nhận, thế giới cũng như thức khơng cĩ tự tính gì cả. Duy thức học cho rằng thực tại chỉ là những hình ảnh xuất hiện trong thời gian và khơng gian. Chúng tác động lẫn nhau để sinh thành theo những quy luật nhất định, nhưng chúng khơng cĩ một chủ thể, một chất liệu chung. Chúng chỉ là củi và tro, hai trạng thái nối tiếp nhau, khơng cĩ một cái gì đi từ củi qua tro. Thế giới hiện tượng khơng hề độc lập tồn tại trên cơ sở tự tính riêng, mà nĩ là khách thể xuất hiện cùng một lúc với chủ thể. Khách thể khơng cĩ tự tính riêng biệt, nếu chủ thể diệt thì nĩ diệt theo. Mỗi cá nhân cĩ một thế giới riêng, cĩ một thực tại riêng, khơng cĩ một thực tại nào là tuyệt đối cho tất cả cá thể, cho tất cả lồi hữu tình. Mỗi thực tại của mỗi cá thể vì thế đều là tương đối. Thế nhưng, dựa trên cộng nghiệp của một nhĩm cá thể (một xã hội, một quốc gia hay cả lồi người), một thực tại nhất định được trình hiện, phù hợp với cộng nghiệp đĩ và được xem là cĩ giá trị cho nhĩm đĩ. Theo đĩ, thực tại vật lý mà nhà khoa học cứ đinh ninh là độc lập với chính mình chẳng qua là một thế giới được trình hiện chung cho cả lồi người, cho lồi hữu tình cĩ một nghiệp chung là mang thân người. Cộng nghiệp của lồi người làm ta cảm nhận một thực tại vật lý, với vũ trụ, thế giới đa dạng đang hiển hiện trước mắt ta. Mỗi người cảm nhận nĩ một cách riêng biệt, nhưng hành xử trong nĩ và ngơn ngữ về nĩ thì lại như nhau. Đĩ là lý do sâu kín làm cho mọi người nhầm tưởng cĩ một thực tại độc lập ở bên ngồi. Vì lẽ trên, muốn hiểu tính chất của thế giới “bên ngồi”, ta cần biết rõ cơ chế nào, tiêu chuẩn nào đã làm cho mỗi cá thể thấy một vật nhất định là thực tại, vật khác khơng phải là thực tại. Đạo Phật cho rằng cĩ nhiều thực tại trong vũ trụ. Từ trong thức của ta lưu xuất vơ số dạng hình của thức. Tất cả các dạng hình đĩ đều cĩ thực tại riêng của chúng và cĩ “giá trị”, tức là hễ chúng cĩ tác động là cĩ thực tại. Như thế, giấc mơ vẫn là thực tại. Thế nhưng chúng ta khơng xem chúng là thực tại vì chúng ta chỉ tập trung lên một thứ thực tại duy nhất. Đĩ là thực tại phù hợp với thân của chúng ta. Thân thể của con người là thân vật chất, nĩ là một tập hợp của những phần tử mà ta gọi là tế bào, nguyên tử và phân tử. Thân thể của con người cĩ thể nhận thức được bằng năm giác quan nên chỉ những gì được nhận thức bằng năm giác quan mới được ta thừa nhận là “thực tại”. Vì thế, Thân thể của con người cĩ một thực tại phù hợp với nĩ, đĩ là một thực tại cĩ thể được nhận thức bằng năm giác quan. Năm giác quan vốn dựa vào thân mà tồn tại. Thân người cịn cĩ một điều đặc biệt nữa là chỉ cảm nhận một khơng gian ba chiều và một thời gian trơi chảy cĩ trước cĩ sau. Thực tại là gì cũng mặc, thân ta chỉ biết cảm nhận như thế, khơng thể khác. Thế nên ta phải nĩi chính xác là, thực tại trình hiện với chúng ta như thế, thực tại “lọt” vào khơng gian ba chiều của chúng ta để chúng ta thấy nĩ như thế, để chúng ta cảm nhận nĩ cĩ diễn biến theo thời gian. Cuối cùng, vật gì được năm giác quan nhận thức được và được cộng nghiệp thừa nhận là thực tại thì nĩ là cĩ. Vì thế mà ta thấy những gì diễn ra lúc tỉnh táo là thực cịn trong mơ là giả. Ngày nay khi nền vật lý hiện đại xem khối lượng là một dạng của năng lượng, xem một vật nằm im thật ra là năng lượng đang tụ hội, xem vật thể là một “biến cố”, ta cĩ thể nĩi cách nhìn đĩ rất phù hợp với quan điểm Duy thức học. Vì đối với Duy thức học, mọi biến cố và vật thể trong thế giới ba chiều của chúng ta đều là sự phĩng chiếu, sự biến hiện của thức cả. Chúng là những hoạt động của thức trong tầm nhìn của ta vốn chỉ tập trung trong thế giới vật chất, điều đĩ cĩ nghĩa là phần lớn thực tại đều khơng được chúng ta biết đến, chúng nằm dưới một mức độ mà chúng ta cho là “thực cĩ”. Thế nhưng thực tại vật chất cũng khơng hề bị tách lìa khỏi tồn bộ thực tại đĩ mà ngược lại, thực tại vật lý phản ánh một cách trung thực sự hoạt động của cái tồn thể. Vì thế, theo Duy thức học, khơng ai khác giúp ta, ngồi chính chúng ta. Nếu thay đổi bản thân mình thì thế giới và cả thực tại vật lý cũng thay đổi theo. Kết luận này khơng đơn thuần là xuất phát từ những nguyên tắc luân lý hay từ lịng hiếu hịa như nhiều người thường nghĩ, mà đĩ là nhận thức luận về tính chất của thế giới và con người. Thế giới hiện tượng là thế giới trình hiện với bản thân ta, khơng thể bỏ nĩ mà về với ta được. Nĩ chính là ta, chính xác hơn là một phần của ta. Đạo Phật quan niệm hãy nhìn thế giới xung quanh (y báo) và thân thể (chánh báo) mà thấy chúng chính là tấm gương phản ánh đúng như tâm thức của ta đang là. 1 Duy thức học chia sự vật, hiện tượng ra làm năm nhĩm: 1 II.1, 301-307, 322, 323, 329, 335-337, 367, 368. -Tâm pháp (hay cịn gọi là tâm vương): gồm cĩ 8 loại hiện tượng tâm lý chủ đạo. Đây cũng là tám khái niệm của Duy thức học được đề cập đến trong luận văn này để so sánh với tám khái niệm của Tâm lý học. -Tâm sở hữu pháp (hay cịn gọi là tâm sở): gồm cĩ 51 loại hiện tượng tâm lý phụ thuộc. -Sắc pháp: gồm cĩ 11 sự vật thuộc về vật lý. -Tâm bất tương ưng hành pháp: gồm cĩ 24 sự vật, hiện tượng khơng thuộc tâm lý cũng khơng thuộc vật lý -Vơ vi pháp: gồm cĩ 5 sự vật, hiện tượng khơng bị các điều kiện chi phối. 1.1.2/ Lịch sử nghiên cứu Duy thức học và vấn đề so sánh với Tâm lý học Duy thức học được nghiên cứu và trình bày bởi nhiều nhà Phật học nổi tiếng, tiêu biểu là: -Vơ Trước sinh sống trong khoảng thế kỷ thứ tư sau Tây lịch, ở phía Bắc Ấn Độ, là người đặt nền mĩng cho Duy thức học. Các tác phẩm tiêu biểu cĩ liên quan đến Duy thức học là: Nhiếp Đại thừa luận, Hiển dương thánh giáo luận, Thuận trung luận, Kim cương kinh luận, Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tập luận, Lục mơn giáo thọ tập định luận. -Thế Thân (315 – 395) là người ở phía Bắc Ấn Độ, là em của Vơ Trước. Các tác phẩm tiêu biểu cĩ liên quan đến Duy thức học là: A-tỳ-đạt-ma Câu xá luận, Duy thức nhị thập tụng (20 bài kệ về thức), Duy thức tam thập tụng (30 bài kệ về thức), Luận Tỳ-bà-sa, Thành nghiệp luận. Các tác phẩm này phân loại và phân tích các yếu tố cơ bản của sự chứng nghiệm và thực tại, gồm: thiền định, quan niệm vũ trụ luận, học thuyết về nhận thức, nguyên nhân và sự chuyển hĩa các vấn đề đạo đức, học thuyết về luân hồi và quan trọng nhất là học thuyết về nghiệp. Theo Thế Thân, những gì mà con người nhận thức về thế giới khách quan khơng gì khác hơn là sự phĩng chiếu của tâm thức. Theo đĩ, đối với ơng, con người thường nhầm lẫn sự nhận biết về thế giới với chính bản thân thế giới. Từ đĩ, ơng đề nghị cần phải giác ngộ, tránh khỏi những phĩng chiếu sai lầm của thức. -An Huệ (sống vào khoảng thế kỷ thứ tư) là người miền Nam Ấn Độ. Các tác phẩm tiêu biểu cĩ liên quan đến Duy thức học là: Đại thừa trung quán thích luận, Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tạp tập luận, Duy thức tam thập tụng thích luận. Các tác phẩm của ơng phân tích sâu Duy thức tam thập tụng và cố gắng giữ lại nguyên trạng học thuyết của Vơ Trước và Thế Thân. -Hộ Pháp (530-561) là người Nam Ấn Độ. Các tác phẩm tiêu biểu cĩ liên quan đế Duy thức học là: Quảng ngũ uẩn luận, Nhị thập Duy thức luận thích, Tam thập Duy thức luận thích. Các tác phẩm của ơng chủ yếu là chú thích và mở rộng các tác phẩm về Duy thức học đã cĩ trước. -Huyền Trang (600 – 664) là người Trung Quốc. Các tác phẩm dịch thuật tiêu biểu cĩ liên quan đến Duy thức học là: Hiển dương thánh giáo luận tụng, Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tạp tập luận, Đại thừa ngũ uẩn luận, Du-già sư địa luận, Giải thâm mật kinh,Duy thức tam thập luận, A-tỳ-đạt-ma Câu xá luận, Đại thừa thành nghiệp luận, Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tập luận, Thành Duy thức luận, Duy thức nhị thập luận, Bát thức quy củ tụng. Các tác phẩm của ơng chủ yếu là dịch, soạn dịch, hệ thống và cơ đọng lại những vấn đề tinh túy của Duy thức học. -Khuy Cơ (632 – 682) là người Trung Quốc, là đệ tử của Huyền Trang. Ơng dịch Duy thức nhị thập tụng, Duy thức tam thập tụng ra Hán ngữ và và hệ thống hĩa lại và viết Thành Duy thức luận để phát triển Duy thức học và được gọi với một tên khác tại Trung Quốc là Pháp tướng tơng lấy mạch tư tưởng của Hộ Pháp làm chủ đạo. -Nhất Hạnh (Việt Nam) nghiên cứu Duy thức học và biên soạn thành 50 bài tụng mang tính thực tế và được gọi với một tên khác là Duy biểu học. Trong tác phẩm Duy biểu học, Nhất Hạnh đã soạn lại và đưa ra 50 bài kệ về Duy thức học cĩ tính thực tế để áp dụng cho các thiền sinh. Trong tác phẩm này, nổi bật là luận điểm: trong tiếng Phạn cĩ hai từ ‘vijđàna’ và ‘vijnapti’ cĩ thể dịch thành thức. Tiền tố từ ‘vi’ cĩ nghĩa là phân biệt (perception), xét đốn, nhận thức. ‘Vijnapti’ cĩ thể dịch là biểu (manifestation, perception, announcing), mà cũng cĩ thể dịch là thức. Vì vậy, nếu gọi là duy thức thì chỉ mới lột tả được nghĩa phân biệt trong khi từ nguyên vừa cĩ nghĩa phân biệt vừa cĩ nghĩa biểu hiện, cho nên ơng đề xuất dịch là duy biểu để bổ sung nghĩa biểu hiện. Suốt quá trình nổ lực hiện đại hĩa Duy thức học, khái niệm ý thức (nghĩa hẹp) trong Tâm lý học được ơng sử dụng tương đương với khái niệm chánh niệm để trị liệu các nội kết. Khái niệm nội kết được ơng sử dụng rất nhiều để chỉ cho các hiện tượng tâm lý bị dồn nén vốn khơng xa lạ gì với Tâm lý học. Ngồi ra, ơng cịn khẳng định một phần của tàng thức trong Duy thức học tương đương với vơ thức trong Tâm lý học, ơng đề cập thường xuyên đến vấn đề tự biểu, cộng biểu với cốt lõi là nghiệp bằng cách diễn đạt khá giống với vơ thức cá nhân, vơ thức tập thể của C. Jung và E. Fromm. Như vậy, cĩ thể thấy rằng Nhất Hạnh ít nhiều đã cĩ sự liên hệ giữa ý thức và chánh niệm, giữa vơ thức và tàng thức. Đối với 6 khái niệm cịn lại (nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức và mạt-na thức), trong tác phẩm của ơng, người ta thấy sự liên hệ với Tâm lý học là khơng rõ ràng về mặt giải phẫu, sinh lý và khái niệm. -Thích Tâm Thiện (Việt Nam) Cũng với nổ lực hiện đại hĩa Duy thức học, Thích Tâm Thiện, với Tâm lý học Phật giáo, đã cố gắng trình bày theo logic mới, khác hẳn với các logic trong lịch sử Duy thức học. Tác phẩm của ơng thể hiện mong muốn giải quyết các vấn đề cĩ tính quy mơ rộng lớn của thực tiễn xã hội hơn là giải quyết các vấn đề chuyên mơn thuật ngữ. Do đĩ, cả 8 khái niệm (nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na thức và tàng thức) trong tác phẩm của ơng khơng cĩ sự rõ ràng khi liên hệ với Tâm lý học về mặt giải phẫu, sinh lý và khái niệm. Tĩm lại, trong lịch sử nghiên cứu, một số nhà nghiên cứu Duy thức học đã cĩ sự so sánh với Tâm lý học nhưng khơng nhiều lắm. Đặc biệt, sự so sánh đĩ chủ yếu là so sánh tổng thể, so sánh về mặt Triết học chứ khơng thuần tuý chuyên mơn về Tâm lý học. 1.2/ Cơ sở lý luận của đề tài 1.2.1/ Cơ sở lý luận của việc lựa chọn đề tài a) Tâm lý học hiện đại, nhất là Tâm lý học Mác-xít, đã phê phán tính duy tâm, tính siêu hình hoặc tính duy vật máy mĩc của các học thuyết Tâm lý học trước và sau Mác; qua đĩ, khẳng định rằng “tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong não thơng qua chủ thể”, “tâm lý là chức năng của não”, v.v… Sự phê phán đĩ phải được tiến hành trên cơ sở so sánh Tâm lý học Mác-xít và Tâm lý học phi Mác-xít (trong đĩ cĩ Tâm lý học Phật giáo), nhưng sự so sánh đĩ vẫn là sự so sánh về mặt triết học của Tâm lý học. Như thế, cĩ thể nĩi rằng, chưa cĩ sự so sánh về mặt tâm lý học thuần túy, hiểu theo nghĩa là sự so sánh giữa khái niệm này với khái niệm kia (từ định nghĩa khái niệm cho đến các kiến thức Tâm lý học thuộc về khái niệm đĩ). Đề tài này là đề tài so sánh khơng phải về mặt triết học mà là về mặt Tâm lý học thuần túy giữa một số khái niệm của Tâm lý học hiện đại và một số khái niệm tương ứng của Duy thức học (Tâm lý học Phật giáo). b) Duy thức học là mơn Phật học về thức, do đĩ, ngồi những khái niệm và quan niệm về triết học, đạo đức, tơn giáo v.v… cịn cĩ cả những khái niệm và quan niệm về tâm lý. c) Khi trong một trường Phật học vừa dạy Duy thức học vừa dạy Tâm lý học cho tăng ni sinh, thì tất yếu sẽ cĩ các câu hỏi phát sinh trong giảng viên cũng như trong học viên là: “Tại sao lại phải học thêm Tâm lý học (một mơn khơng thuộc về Phật học)?” và “Những khái niệm và quan niệm giữa hai mơn này cĩ liên quan gì với nhau, cĩ gì giống nhau và cĩ gì khác nhau?”. Việc so sánh nếu được đặt ra và thực hiện thì chất lượng của việc học tập hai mơn này sẽ được cao hơn; cũng cĩ thể nĩi, hiểu biết về sự so sánh cũng rất bổ ích cho các nhà nghiên cứu và các giảng viên Tâm lý học và Duy thức học. d) Một luận điểm nữa thúc đẩy tác giả chọn đề tài này để nghiên cứu là luận điểm cho rằng việc dạy Tâm lý học đại cương trong các trường Phật học là sự tạo tiền đề khoa học cho sự dạy và học Duy thức học, một mơn học mang tính tơn giáo. Và đĩ cũng là luận điểm cho rằng Phật giáo – với tính chất vơ thần – là tơn giáo duy nhất cĩ thể song hành với khoa học, trong đĩ cĩ khoa học tâm lý. 1.2.2/ Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài Luận văn này được nghiên cứu và viết với tính chất là đề tài của một luận văn tốt nghiệp Cao học Tâm lý học của trường Đại học Sư phạm TPHCM, chứ khơng phải là một luận văn về Duy thức học trong một trường Phật học. Do đĩ, cơ sở lý luận để nghiên cứu đề tài này vẫn là quan niệm về tâm lý, về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu tâm lý đã và đang được giảng dạy ở bậc cao học Tâm lý học của trường Đại học Sư phạm TPHCM mà cơ sở triết học của nĩ là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác. Cụ thể là những luận điểm sau đây: -Mỗi con người là sự thống nhất của 3 mặt sinh lý (cơ thể), xã hội (lý lịch) và tâm lý. -Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thơng qua chủ thể và do đĩ, cĩ tính phản ánh, tính xã hội, tính lịch sử và tính chủ quan của chủ thể. -Mọi hiện tượng tâm lý đều cĩ cơ sở tự nhiên (sinh lý thần kinh) và cơ sở xã hội (nền văn hĩa của xã hội, các quan hệ xã hội, giao tiếp xã hội và hoạt động xã hội) của từng cá nhân và từng nhĩm xã hội. -Những khái niệm Tâm lý học như: nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính, ý thức, tự ý thức, vơ thức là cơ sở lý luận để ._.nghiên cứu những khái niệm Duy thức học được đề cập để so sánh (tám khái niệm: nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na thức và tàng thức). -Ngồi những kiến thức được học trong các tài liệu Tâm lý học Việt Nam, tác giả luận văn cũng tham khảo thêm những giáo trình Tâm lý học hiện đại của Mỹ để cĩ thêm những kiến thức mới, hiện đại về Tâm lý học nĩi chung và về những khái niệm được đề cập tới trong luận văn này nĩi riêng. Chương 2: Phân tích một số khái niệm trong Tâm lý học và Duy thức học Những khái niệm trong Tâm lý học và Duy thức học được phân tích trong chương này là những khái niệm cĩ sự giống nhau và khác nhau nhất định. Đĩ là tám khái niệm thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, mạc giác, ý thức, tự ý thức, vơ thức trong Tâm lý học và tám khái niệm nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na thức, tàng thức trong Duy thức học. 2.1/ Phân tích tám khái niệm trong Tâm lý học Trong tám khái niệm đã nêu ở trên của Tâm lý học thì thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, mạc giác là những cảm giác (và tri giác) thuộc về nhận thức cảm tính. Vì thế, trước hết, tác giả luận văn xin được nêu ở đây quan niệm của Tâm lý học về cảm giác, tri giác, sự chuyển hĩa từ cảm giác thành tri giác và nhận thức cảm tính. 2.1.1/ Nhận thức cảm tính 2.1.1.1/ Cảm giác a) Định nghĩa Cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng đang trực tiếp tác động vào một giác quan nào đĩ của ta. b) Phân loại Cĩ hai loại cảm giác: -Những cảm giác bên ngồi, gồm: cảm giác nhìn (thị giác), cảm giác nghe (thính giác), cảm giác ngửi (khứu giác), cảm giác nếm (vị giác), cảm giác da (mạc giác). -Những cảm giác bên trong, gồm: cảm giác cơ thể, cảm giác vận động và cảm giác thăng bằng. 2.1.1.2/ Tri giác a) Định nghĩa Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngồi của sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào một hay nhiều giác quan nào đĩ của ta. b) Phân loại -Tri giác được hình thành từ một loại cảm giác: tri giác nhìn, nghe, ngửi, nếm, da. -Tri giác được hình thành từ nhiều loại cảm giác: tri giác khơng gian, tri giác thời gian, tri giác vận động, tri giác xã hội, tri giác con người. 2.1.1.3/ Sự chuyển hĩa cảm giác thành tri giác Sự chuyển hĩa này thường nhanh đến mức ta khơng cảm thấy được rằng cảm giác cĩ trước, tri giác cĩ sau, mà ta tưởng rằng cảm giác và tri giác là một. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra theo 4 bước sau: các giác quan tiếp nhận kích thích, chuyển hĩa năng lượng vật lý thành xung thần kinh, phát sinh những cảm giác trên vùng tương ứng của vỏ não, các xung thần kinh lan truyền sang vùng liên hợp để các cảm giác liên hợp và tổng hợp lại thành ấn tượng hay hình ảnh trọn vẹn cĩ ý nghĩa gọi là tri giác. 2.1.1.4/ Nhận thức cảm tính Nhận thức là quá trình hoạt động tâm lý của con người để biết được một sự vật hay một hiện tượng nào đĩ là như thế nào. Cĩ hai loại nhận thức: -Nhận thức cảm tính (gồm những cảm giác và tri giác) là nhận thức chỉ phản ánh những thuộc tính bề ngồi, cụ thể của sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan.1 -Nhận thức lý tính là nhận thức cao hơn, được thực hiện trên cơ sở đã cĩ nhận thức cảm tính về sự vật hay hiện tượng đĩ và bằng sự tư duy hoặc tưởng tượng để phản ánh bản chất bên trong của sự vật hay hiện tượng đĩ. 2.1.2/ Thị giác (cảm giác và tri giác nhìn) 2.1.2.1/ Cơ sở sinh lý của cảm giác nhìn a) Giải phẫu mắt * Cấu tạo của cầu mắt Cầu mắt nằm trong hốc mắt của xương sọ, phía ngồi được bảo vệ bởi các mí mắt, lơng mày và lơng mi nhờ tuyến lệ luơn luơn tiết nước mắt làm mắt khơng bị khơ. Cầu mắt vận động được là nhờ cơ vận động mắt Cầu mắt gồm ba lớp: Lớp ngồi cùng là màng cứng cĩ nhiệm vụ bảo vệ phần trong của cầu mắt, phía trước của màng cứng là màng giác trong suốt để ánh sáng đi qua vào trong cầu mắt; tiếp đến là lớp màng mạch cĩ nhiều mạch máu và các tế bào sắc tố đen tạo thành một phịng tối trong cầu mắt 1 I.12, 67. (như phịng tối của máy ảnh); lớp trong cùng là màng lưới (võng mạc), trong đĩ chứa tế bào thần kinh thị giác, bao gồm hai loại: tế bào nĩn và tế bào que. * Cấu tạo của màng lưới -Các tế bào nĩn tiếp nhận các kích thích ánh sáng mạnh và màu sắc. Các tế bào que cĩ khả năng tiếp nhận kích thích ánh sáng yếu giúp ta nhìn rõ về ban đêm. Các tế bào nĩn tập trung chủ yếu ở điểm vàng (nằm trên trục mắt), càng xa điểm vàng số lượng tế bào nĩn càng ít và chủ yếu là các tế bào que. Mặt khác, ở điểm vàng, mỗi tế bào nĩn liên hệ với một tế bào thần kinh thị giác qua một tế bào hai cực, nhưng nhiều tế bào que mới liên hệ được với một tế bào thần kinh thị giác. Chính vì vậy, khi muốn quan sát một vật cho rõ phải hướng trục mắt về phía vật quan sát để ảnh của vật hiện trên điểm vàng. Cịn điểm mù là nơi đi ra để vào não của các sợi trục các tế bào thần kinh thị giác, khơng cĩ tế bào thụ cảm thị giác nên nếu ảnh của vật rơi vào đĩ, ta sẽ khơng nhìn thấy gì cả. b) Sinh lý của sự tạo ra cảm giác nhìn: Ta nhìn thấy được vật là do các tia sáng phản chiếu từ vật đĩ đi vào mắt qua lỗ đồng tử tới tận màng lưới, qua một mơi trường trong suốt gồm màng giác, thủy dịch, thể thủy tinh, dịch thủy tinh. Lượng ánh sáng vào trong phịng tối của cầu mắt nhiều hay ít là nhờ lỗ đồng tử ở mống mắt (lịng đen) dãn rộng hay co hẹp (điều tiết ánh sáng). Nhờ khả năng điều tiết của thể thủy tinh (như một thấu kính hội tụ) mà ta cĩ thể nhìn rõ vật ở xa cũng như khi tiến lại gần. Vật càng gần mắt, thể thủy tinh càng phồng lên để nhìn cho rõ. Các tia sáng từ vật qua thể thủy tinh tới màng lưới sẽ tác động lên các tế bào thụ cảm thị giác làm hưng phấn các tế bào này và truyền tới tế bào thần kinh thị giác, xuất hiện luồng thần kinh theo dây thần kinh thị giác về vùng vỏ não tương ứng ở thùy chẩm của đại não cho ta cảm nhận về hình ảnh của vật, tức là hình ảnh tâm lý ở trong não, là cảm giác nhìn (thị giác) về vật đĩ. Hình ảnh trên màng lưới là hình ảnh vật lý lộn ngược so với sự vật ở bên ngồi. Ta nhìn được là nhờ các tia sáng từ vật tới mắt đi qua thể thủy tinh tới màng lưới sẽ kích thích các tế bào thụ cảm ở đây vào não (thùy chẩm) để cho ta nhận biết về vị trí, hình dạng, độ lớn và màu sắc của vật. Ở phía sau não cĩ một vùng được gọi là vỏ não thị giác nguyên thủy, vùng này nằm tại vỏ não vùng chẩm chuyên xử lý các thơng tin đã được mã hĩa thần kinh từ hai mắt truyền tới. Tại đây, não “nhìn thấy” cái mà mắt đã thu thập được. Những xung động thần kinh từ các tế bào thị giác trên được truyền đi theo dây thần kinh thị giác để tới vùng chẩm của vỏ não trong đĩ cĩ một dây của con mắt này phải đi qua chéo thị giác để giao nhau theo hình chữ X với một dây của con mắt kia; như vậy, phần bên trái của thùy chẩm xuất hiện hình ảnh của các sự vật ở bên phải của chủ thể và ngược lại. 2.1.2.2/ Cảm giác nhìn: Cảm giác nhìn là loại cảm giác nảy sinh do ánh sáng tác động vào mắt. Theo lý thuyết vật lý hiện đại, cảm giác thị giác là cảm giác hình thành do tác động của sĩng điện từ cĩ bước sĩng từ 390 đến 780 Mm lên mắt.1 Cảm giác này cho biết vị trí, hình thù, khối lượng, độ sáng, độ xa, màu sắc của sự vật. Nĩ giữ vai trị cơ bản trong nhận thức thế giới bên ngồi của con người (90% lượng thơng tin từ bên ngồi đi vào não là qua mắt). Cảm giác nhìn cĩ đặc điểm khơng mất ngay sau khi một kích thích mạnh ngừng tác động (được gọi là hậu ảnh hay lưu ảnh, kéo dài chừng 1/5 giây).2 1 I.2, 70. 2 I.12, 72. Tĩm lại, cảm giác nhìn là một quá trình tâm lý phản ánh một thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng khi sĩng ánh sáng (sĩng điện từ) phát ra từ sự vật đĩ tác động vào mắt. 2.1.2.3/ Tri giác nhìn: I.M.Xetrenop đã chứng minh sự giống nhau khách quan giữa các vật, các hình ảnh vật lý của vật trên võng mạc mắt với hình ảnh trong ý thức. Con người khơng cảm giác được những gì đang diễn ra trong mắt khi nhìn: họ nhìn thấy cái đang nằm trước mắt. Cĩ thể so sánh tính khách quan hĩa của hình ảnh với việc xây dựng hình ảnh của vật bằng gương phẳng, nhưng đây là chiếc gương ý thức, xây dựng các hình ảnh đứng trước nĩ, một hình ảnh mà nĩ đã nhìn thấy, phĩng chiếu ra bên ngồi và hịa lẫn với vật đang được nhìn thấy, và trùng khớp với nĩ. Trải nghiệm thị giác là một quá trình chọn lọc. Cĩ nhiều tín hiệu đến và cạnh tranh với nhau để được xử lý trong não thì làm thế nào ta cĩ thể tránh khỏi nhầm lẫn và tập trung vào cái gì là quan trọng? Các đối tượng được ta chú ý lựa chọn như thế nào, mắt và tay ta hướng tới như thế nào để thao tác chúng? Khả năng với lấy, nắm lấy và thao tác các đối tượng được tri giác là một kỳ cơng do cĩ những tế bào đặc hiệu trong hệ thần kinh trung ương. Một số tế bào giúp ta hướng sự chú ý đến một số vật nào đĩ, một số tế bào khác lại giúp ta hướng cặp mắt về một vật được quan tâm nhiều nhất, cịn một số khác nữa lại giúp ta cử động các chi để nắm giữ và thao tác các vật. Trong giai đoạn đầu của quá trình chọn lọc này cĩ sự tách biệt hình với nền. Hệ thị giác phân tích khung cảnh để biết các ranh giới và sự tương phản nhằm phân biệt hình với nền. Trong giai đoạn hai của quá trình này, những bộ phận hoặc những nét đặc biệt của những hình được chọn lọc để phân tích kỹ hơn. Đĩ là giai đoạn chú ý của tri giác diễn ra bằng cách tập trung vào một hoặc hai vật cùng một lúc. Như vậy, tri giác nhìn là một quá trình tâm lý được chuyển hĩa từ những cảm giác nhìn, phản ánh trọn vẹn những thuộc tính bề ngồi của sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào mắt sau khi tách biệt hình ra khỏi nền và chọn lọc đối tượng. 2.1.2.4/ Thị giác Thị giác là một loại nhận thức cảm tính phản ánh một hoặc nhiều thuộc tính bề ngồi của sự vật hiện tượng khi sĩng ánh sáng (sĩng điện từ) phát ra từ sự vật, hiện tượng đĩ đang trực tiếp tác động vào mắt và tạo ra ở trong não (thùy chẩm) những cảm giác hoặc tri giác về sự vật, hiện tượng đĩ. 2.1.3/ Thính giác (cảm giác và tri giác nghe) 2.1.3.1/ Cơ sở sinh lý của cảm giác nghe a) Giải phẫu tai Tai được chia ra: tai ngồi, tai giữa, tai trong. -Tai ngồi gồm: vành tai cĩ nhiệm vụ hứng sĩng âm, ống tai hướng sĩng âm. Tai ngồi được giới hạn với tai giữa bởi màng nhĩ (cĩ đường kính khoảng 1cm). -Tai giữa là một khoang xương, trong đĩ cĩ chuỗi xương tai bao gồm xương búa, xương đe và xương bàn đạp khớp với nhau. Xương búa được gắn vào màng nhĩ, xương bàn đạp áp vào một màng giới hạn tai giữa với tai trong (gọi là màng cửa bầu dục, cĩ diện tích nhỏ hơn màng nhĩ 18 – 20 lần). Khoang tai thơng với hầu nhờ cĩ vịi nhĩ nên bảo đảm áp suất hai bên màng nhĩ được cân bằng. -Tai trong gồm cĩ hai bộ phận: +Bộ phận tiền đình và các ống bán khuyên thu nhận các thơng tin về vị trí và sự chuyển động của cơ thể trong khơng gian. +Ốc tai thu nhận các kích thích của sĩng âm. Ốc tai bao gồm ốc tai xương, trong cĩ ốc tai màng. Ốc tai màng là một ống màng chạy dọc suốt ốc tai xương và cuốn quanh trụ ốc hai vịng rưỡi, gồm màng tiền đình ở phía trên, màng cơ sở ở phía dưới và màng bên áp sát vào vách xương của ốc tai xương. Màng cơ sở cĩ khoảng 24.000 sợi liên kết dài ngắn khác nhau: dài ở đỉnh ốc và ngắn dần khi xuống miệng ốc. Chúng giăng ngang từ trụ ốc sang thành ốc. Trên màng cơ sở cĩ cơ quan Coocti, trong đĩ cĩ các tế bào thụ cảm thính giác. b) Sinh lý của sự tạo ra cảm giác nghe Sĩng âm từ nguồn âm phát ra được vành tai hứng lấy, truyền qua ống tai vào làm rung màng nhĩ, rồi truyền qua chuỗi xương tai vào làm rung màng “cửa bầu” và cuối cùng làm chuyển động ngoại dịch rồi nội dịch trong ốc tai màng, tác động lên cơ quan Coocti. Tùy theo sĩng âm cĩ tần số cao (âm bổng) hay thấp (âm trầm), mạnh hay yếu mà sẽ làm cho các tế bào thụ cảm thính giác của cơ quan Cooti ở vùng này hay vùng khác trên màng cơ sở hưng phấn, truyền về vùng phân tích tương ứng ở não cho ta nhận biết về các âm thanh đĩ. Như vậy, tai là bộ phận tiếp nhận âm thanh. Sĩng âm vào tai làm rung màng nhĩ, truyền qua chuỗi xương tai vào tai trong gây sự chuyển động ngoại dịch rồi nội dịch trong ốc tai màng và tác động lên các tế bào thụ cảm thính giác của cơ quan Cooti nằm trên màng cơ sở ở vùng tương ứng với tần số và cường độ của sĩng âm làm các tế bào này hưng phấn chuyển thành xung thần kinh truyền về vùng thính giác ở thùy thái dương của não cho ta nhận biết về âm thanh đã phát ra. 2.1.3.2/ Cảm giác nghe Sĩng âm thanh tác động lên bộ máy thính giác. Từ đĩ, cảm giác nghe cĩ thể được tạo ra bởi quá trình dao động chu kỳ cũng như bởi quá trình dao động phi chu kỳ với tần số và biên độ dao động thay đổi khơng đều. Loại dao động chu kỳ phản ánh trong âm nhạc, cịn loại dao động phi chu kỳ phản ánh trong tạp âm1. Cảm giác nghe phản ánh những thuộc tính của âm thanh, tiếng nĩi: cao độ (tần số dao động), cường độ (biên độ dao động) và âm sắc (hình thức dao động)2. Ngồi ra, cảm giác âm thanh thay đổi theo độ thăng trầm, độ to nhỏ và theo âm sắc.3 Như vậy, cảm giác nghe là một quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật thơng qua cao độ, cường độ và âm sắc của sĩng âm thanh đang được phát ra từ sự vật đĩ và đang tác động vào tai. 2.1.3.3/ Tri giác nghe Tri giác nghe là một quá trình tâm lý được chuyển hĩa từ cảm giác nghe, phản ánh trọn vẹn các thuộc tính bề ngồi của sự vật thơng qua những cảm giác đã cĩ về cao độ, cường độ và âm sắc của âm thanh đang được phát ra từ sự vật đĩ và đang tác động vào tai. 2.1.3.4/ Thính giác 1 I.2, 66. 2 I.12, 72. 3 I.8, 208 Thính giác là một loại nhận thức cảm tính phản ánh một hay nhiều thuộc tính bề ngồi của sự vật thơng qua cao độ, cường độ và âm sắc của âm thanh phát ra từ sự vật đĩ đang trực tiếp tác động vào giác quan tai. 2.1.4/ Khứu giác (cảm giác và tri giác ngửi) 2.1.4.1/Cơ sở sinh lý của cảm giác ngửi a) Giải phẫu mũi Mũi là giác quan để ta cĩ cảm giác ngửi thấy mùi. Trong mũi cĩ xoang mũi là nơi cĩ các tế bào thần kinh khứu giác chuyên tiếp nhận các kích thích của các phân tử hĩa học của vật chất bốc hơi hoặc của các hạt rất nhỏ trong khơng khí được hít vào mũi và chạm vào xương mũi. Khả năng ngửi mùi là kết quả của sự hoạt hĩa các tế bào nhận cảm khứu giác ở mũi, các tế bào này được chứa trong lớp màng nhầy khứu giác ở khoang mũi . b) Sinh lý của sự tạo ra cảm giác ngửi Cảm giác ngửi bao gồm một chuỗi các hoạt tính sinh hĩa học phát sinh các xung động thần kinh và truyền tín hiệu điện vào não để phát sinh ở đĩ cảm giác ngửi thấy mùi gì đĩ (thơm, thối, hơi, tanh, v.v…). Mùi, dưới dạng những phân tử hĩa học tương tác với protein thụ thể trên màng của các tế bào lơng rung ở mũi. Một khi khởi động, các xung động thần kinh này truyền thơng tin mùi đến hành khứu nằm ngay trên các thụ thể và ngay dưới thùy trán của vỏ não làm nhiệm vụ chuyên mơn hĩa trong xử lý thơng tin về mùi là khứu não, một trong những bộ phận nguyên thủy của não. Những tín hiệu khứu giác trực tiếp đi tới trung tâm khứu giác của não. Hệ thống khứu giác đĩng một vai trị rõ ràng qua việc kích thích khẩu vị và tập tính ăn uống. 2.1.4.2/ Cảm giác ngửi Cảm giác ngửi là một quá trình tâm lý phản ánh một thuộc tính riêng lẻ của sự vật thơng qua các mùi (hay các phân tử hĩa học) của sự vật đĩ đang tác động vào mũi 2.1.4.3/ Tri giác ngửi Tri giác ngửi là một quá trình tâm lý được chuyển hĩa từ các cảm giác ngửi, phản ánh trọn vẹn thuộc tính bề ngồi của sự vật thơng qua các mùi (hay các phân tử hĩa học) của sự vật đĩ đang tác động vào mũi. 2.1.4.4/ Khứu giác Khứu giác là một loại nhận thức cảm tính phản ánh thuộc tính bề ngồi của sự vật thơng qua mùi (hay các phân tử hĩa học) của sự vật đĩ đang tác động vào giác quan mũi. 2.1.5/ Vị giác (cảm giác và tri giác nếm) 2.1.5.1/ Cơ sở sinh lý của cảm giác nếm a) Giải phẫu lưỡi Lưỡi là giác quan gĩp phần tạo ra cảm giác nếm. Trên lưỡi cĩ những gai lưỡi chứa các tế bào thần kinh chuyên tiếp nhận các kích thích của các phân tử hĩa học của các chất trong thức ăn, thức uống. Sự kích thích đĩ tạo ra xung thần kinh trong các tế bào và truyền tín hiệu điện vào tới não (khu vị giác trên thùy thái dương) để phát sinh ở đĩ cảm giác nếm. b) Sinh lý của sự tạo ra cảm giác nếm Những tế bào thụ thể vị giác tụ tập tại những nụ vị giác, tập trung thành đám nhơ lên của màng nhầy gọi là nhú vị giác. Nhú được phân bố khắp khoang miệng đặc biệt ở phía trên của lưỡi.1 Khả năng nếm thức ăn của con người là kết quả sự hoạt hĩa của các tế bào cảm nhận vị giác trong lưỡi. Những tế bào này tìm ra những hĩa chất liên kết với bốn tính chất cơ bản của vị giác là ngọt, mặn, chua và đắng. Đầu lưỡi bao gồm các thụ quan nhạy cảm với chất ngọt, hai phần bên gần đầu lưỡi nhạy cảm với chất mặn, hai phần bên cuối lưỡi nhạy cảm với chất chua. Phần giữa cuống lưỡi nhạy cảm với chất đắng. Các cơ quan cảm nhận vị giác cịn cĩ ở hầu và vịm miệng. 1 I.8, 204. 2.1.5.2/ Cảm giác nếm Cảm giác nếm là một quá trình tâm lý phản ánh một thuộc tính riêng lẻ của sự vật thơng qua các vị của sự vật đĩ (hay các phân tử hĩa học) đang tác động vào lưỡi. 2.1.5.3/ Tri giác nếm Tri giác nếm là một quá trình tâm lý được chuyển hĩa từ những cảm giác nếm phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngồi của sự vật thơng qua các vị (hay các phân tử hĩa học) đang tác động vào lưỡi. 2.1.5.4/ Vị giác Vị giác là một loại nhận thức cảm tính phản ánh thuộc tính bề ngồi của sự vật thơng qua các vị (hay các phân tử hĩa học) đang tác động vào giác quan lưỡi. 2.1.6/ Mạc giác (cảm giác và tri giác da) 2.1.6.1/ Cơ sở sinh lý của cảm giác da a) Giải phẫu da Da là giác quan để cĩ cảm giác xúc giác, cảm giác đau, và cảm giác nĩng lạnh do sự vật gây ra khi chúng và chủ thể tiếp xúc với nhau. Trong da cĩ các tế bào thần kinh chuyên tiếp nhận các kích thích là sự đụng chạm, cọ xát và các tế bào thần kinh chuyên tiếp nhận kích thích của áp lực. Da cũng chứa những tận cùng dây thần kinh - mà khi bị kích thích do tiếp xúc với các vật bên ngồi - sẽ tạo ra những cảm giác về áp lực, nhiệt độ. Các cảm giác này gọi là xúc giác. Tính nhạy cảm của da với áp lực biến thiên trên cơ thể. Tính nhạy cảm tỏ ra mạnh nhất tại mặt, lưỡi và bàn tay. Sự phản hồi giác quan tỏ ra chính xác từ lưỡi và bàn tay. Sự phản hồi giác quan chính xác từ các phần đĩ của cơ thể giúp con người hoạt động cĩ hiệu quả trong các động tác ăn nĩi, nắm giữ.1 b) Sinh lý của sự tạo ra cảm giác da Mỗi loại cảm giác được các thụ quan tương ứng phát hiện ra. -Thụ quan xúc giác: cịn gọi là thụ quan cơ học, phát hiện ra sự đụng chạm, áp lực và những rung động tác động vào da. -Nhiệt thụ quan: nĩng và lạnh Các thụ quan cảm giác phản ứng lại nhiệt độ gọi là nhiệt thụ quan, cĩ hai loại: một loại phản ứng nhiệt độ dưới 30oC và loại kia phản ứng lại nhiệt độ trên 30oC. Các nhiệt thụ quan này cĩ khả năng tự điều chỉnh cho phù hợp với mơi trường bên ngồi -Thụ quan cảm giác đau: va chạm mạnh và nhiệt độ. Nhìn chung cĩ hai thụ quan cảm giác đau: thể nhận cảm giác đau cơ học được kích hoạt bởi tác nhân kích thích cơ học (như vết dao cắt trên cánh tay, hoặc cú đập vào đầu) và thể nhận cảm giác đau do nhiệt phản ứng lại nhiệt độ trên 45oC. -Thụ quan bản thể: vị trí và sự vận động 1 I.8, 205. Thụ quan bản thể nhận biết vị trí các chi của cơ thể. Một loại thụ quan bản thể nhận biết vị trí cố định của các chi trong khơng gian đối với các phần khác của cơ thể. Các loại thụ quan bản thể khác truyền thơng tin về sự vận động của các chi để chuyển thành cảm giác về sự vận động. Não cần thơng tin này để xác định vị trí của chân và tay để tính tốn chúng cịn cần thực hiện bao nhiêu động tác nữa để hồn tất một vận động.1 2.1.6.2/ Cảm giác da Cảm giác da là quá trình tâm lý phản ánh một thuộc tính riêng lẻ của sự vật khi sự vật đĩ đang tác động bằng các kích thích cơ học và nhiệt độ lên da. 2.1.6.3/ Tri giác da Tri giác da là quá trình tâm lý được chuyển hĩa từ các cảm giác da, phản ánh trọn vẹn những thuộc tính bề ngồi của sự vật khi sự vật đĩ tác động lên da bằng các kích thích cơ học và nhiệt độ. 2.1.6.4/ Mạc giác Mạc giác là một loại nhận thức cảm tính phản ánh thuộc tính bề ngồi của sự vật khi sự vật đĩ tác động lên da bằng các kích thích cơ học và nhiệt độ. 2.1.7/ Ý thức 2.1.7.1/ Định nghĩa Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ riêng con người mới cĩ, phản ánh bằng ngơn ngữ, là khả năng con người hiểu được các tri thức (hiểu biết) mà con người tiếp thu được. (Là tri thức về tri thức, phản ánh của phản ánh)2. 2.1.7.2/ Phân loại Căn cứ vào trạng thái hoạt động độc lập mà Tâm lý học phân loại ý thức như sau: a) Chú ý: là sự tập trung của ý thức vào một hay một nhĩm sự vật hiện tượng, để định hướng hoạt động, bảo đảm điều kiện thần kinh – tâm lý cần thiết cho hoạt động tiến hành cĩ hiệu quả. Thiền định cũng là một dạng chú ý mà bước đầu là chú ý và kiểm sốt hơi thở cĩ tác dụng thư giãn tinh thần và thể xác. b) Mơ mộng: là trạng thái đặc biệt của ý thức khi trong não con người tự động diễn ra những sự mơ tưởng lan man lúc thức. 1 I.4, 605-610. 2 I.12, 56. c) Giấc ngủ: là một trạng thái thay đổi của ý thức gồm năm giai đoạn khác nhau, trong đĩ mỗi giai đoạn ứng với một mức độ nhất định của sự kích thích sinh lý. Giai đoạn sâu nhất của giấc ngủ (ngủ say) là giai đoạn tiếp giáp với vơ thức. d) Giấc mơ: là một quá trình tâm lý diễn ra trong giấc ngủ kèm theo các hình ảnh thị giác. Trong giấc mơ, cĩ những thay đổi ý thức đặc trưng: giảm khả năng phản ánh hiện thực và nhận biết bản thân như là chủ thể nhận thức. e) Thơi miên: là một trạng thái tạm thời của ý thức, đặc trưng bởi sự co lại tới mức tối đa miền ý thức và áp lực mạnh mẽ của nội dung ám thị. Trạng thái này gắn liền với những thay đổi về chức năng kiểm tra của cá nhân và tự ý thức. f) Ảo giác: là những cảm giác khi khơng cĩ kích thích khách quan nào của mơi trường bên ngồi tới các giác quan. Đĩ là tình trạng méo mĩ, rối nhiễu trong ý thức khi con người thấy hoặc nghe những điều khơng cĩ trong thực tế. 2.1.7.3/ Các thuộc tính cơ bản của ý thức a) Ý thức thể hiện nhận thức cao nhất của con người về thế giới xung quanh: -Nhận thức cái bản chất, nhận thức khái quát bằng ngơn ngữ. -Dự kiến trước kế hoạch hành vi, kết quả của nĩ làm hành vi mang tính cĩ chủ định. b) Ý thức thể hiện thái độ của con người đối với thế giới xung quanh: Ý thức khơng chỉ là nhận thức sâu sắc của con người đối với thế giới mà cịn thể hiện thái độ của con người đối với nĩ. c) Ý thức thể hiện năng lực điều khiển, điều chỉnh hoạt động của con người Trên cơ sở nhận thức bản chất khái quát và tỏ rõ thái độ với thế giới, ý thức điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người đạt tới mục đích đề ra. Vì thế, ý thức cĩ khả năng sáng tạo. d) Khả năng tự ý thức: con người khơng chỉ ý thức về thế giới chung quanh mà cịn ở mức độ cao hơn, con người cĩ khả năng tự ý thức. Đĩ là khả năng tự nhận thức về mình, tự xác định thái độ đối với bản thân, tự điều khiển, điều chỉnh, tự hồn thiện mình. 2.1.7.4/ Cấu trúc của ý thức a) Mặt nhận thức của ý thức -Nhận thức cảm tính mang lại những thơng tin đầu tiên cho ý thức là tầng bậc thấp của ý thức. -Nhận thức lý tính là bậc tiếp theo trong mặt nhận thức của ý thức, đem lại cho con người những hiểu biết bản chất, khái quát về thực tại khách quan. b) Mặt thái độ của ý thức Đĩ là thái độ lựa chọn, thái độ cảm xúc, thái độ đánh giá của chủ thể đối với thế giới. c) Mặt năng động của ý thức Đĩ là quá trình con người vận dụng những hiểu biết và tỏ thái độ của mình qua hành động nhằm thích nghi với thế giới, cải tạo thế giới và cải tạo cả bản thân mình. 2.1.7.5/ Sự hình thành và phát triển của ý thức a) Sự hình thành ý thức của con người (về phương diện lồi) * Vai trị của lao động -Con người hình dung ra trước mơ hình và phương thức làm ra sản phẩm trên cơ sở huy động tồn bộ vốn hiểu biết, năng lực trí tuệ. Đĩ là ý thức về sản phẩm. -Trong khi lao động, con người chế tạo, sử dụng cơng cụ, tiến hành các thao tác và hành động lao động. -Kết thúc quá trình lao động, con người cĩ ý thức đối chiếu sản phẩm với mơ hình. * Vai trị của ngơn ngữ và giao tiếp đối với sự hình thành ý thức -Ngơn ngữ giúp con người xây dựng và hình dung các mơ hình tâm lý của sản phẩm. Hoạt động ngơn ngữ giúp con người sử dụng cơng cụ lao động, tiến hành hệ thống các thao tác hành động lao động và giúp phân tích, đánh giá sản phẩm. -Giao tiếp giúp trao đổi thơng tin, phối hợp cùng làm ra sản phẩm. b) Sự hình thành ý thức và tự ý thức của cá nhân - Ý thức cá nhân được hình thành trong hoạt động và thể hiện trong sản phẩm hoạt động của cá nhân - Ý thức cá nhân được hình thành trong mối quan hệ giao tiếp của cá nhân với người khác, với xã hội - Ý thức cá nhân được hình thành bằng con đường tiếp thu nền văn hĩa xã hội, ý thức xã hội. - Ý thức cá nhân được hình thành bằng con đường tự nhận thức, tự đánh giá, tự phân tích hành vi của mình. 2.1.7.6/ Các cấp độ của ý thức a) Cấp độ chưa ý thức hoặc khơng ý thức được - Vơ thức: Bản năng vơ thức (bản năng dinh dưỡng, tự vệ, sinh dục…) tiềm tàng ở tầng sâu, dưới ý thức, mang tính bẩm sinh, di truyền. - Ý thức bị dồn nén thành vơ thức. - Tiềm thức hoặc tiền ý thức: là cấp độ sẵn sàng, dễ dàng chuyển thành ý thức. b) Cấp độ ý thức Ở cấp độ ý thức, con người nhận thức, tỏ thái độ cĩ chủ tâm và dự kiến trước được hành vi của mình, làm cho hành vi trở nên cĩ ý thức. Ý thức thể hiện trong ý chí, trong chú ý. c) Cấp độ ý thức nhĩm và ý thức tập thể -Trong mối quan hệ giao tiếp và hoạt động: ý thức nhĩm, ý thức xã hội, ý thức tập thể… Tĩm lại, các cấp độ khác nhau của ý thức luơn tác động lẫn nhau, chuyển hĩa và bổ sung cho nhau làm tăng tính đa dạng và sức mạnh của ý thức. Ý thức thống nhất với hoạt động; hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động. Ý thức chỉ đạo, điều khiển, điều chỉnh hoạt động, làm cho hoạt động cĩ ý thức, tự giác. 2.1.8/ Tự ý thức 2.1.8.1/ Tự ý thức a) Định nghĩa: Ý thức của mỗi người về bản thân mình được gọi là tự ý thức. Đĩ là ý thức về cái Tơi của mình, về cái bản ngã của mình. Tự ý thức, trước hết, là sự phát triển cao của ý thức. Trong quá trình hoạt động, giao tiếp trong xã hội, cá nhân hình thành ý thức về bản thân mình (ý thức bản ngã – tự ý thức) trên cơ sở đối chiếu mình với người khác, với chuẩn mực xã hội. Do vậy, tự ý thức được xem là mức độ phát triển cao của ý thức. b) Phân loại: Trong tự ý thức cĩ: -Tự ý thức về ngoại hình của mình. -Tự ý thức về sức khỏe của mình. -Tự ý thức về vai trị, vị trí xã hội, thân phận của mình. -Tự ý thức về nhân cách (đạo đức, tài năng) của mình. -Tự ý thức về quá khứ và tương lai của mình. c) Chức năng: -Tự điều chỉnh, tự điều khiển hành vi theo mục đích tự giác. -Cĩ khả năng tự giáo dục, tự hồn thiện mình 2.1.8.2/ Cái tơi 2.1.8.2.1/ Cái tơi trong Tâm lý học phát triển Cái tơi trong Tâm lý học phát triển được nghiên cứu như quá trình phát triển ý thức và tự ý thức thơng qua nhu cầu và các hoạt động chủ đạo của từng giai đoạn. -Vườn trẻ (3 tuổi): muốn độc lập, muốn được khen ngợi, hoạt động cùng nhau. -Mẫu giáo (3-6 tuổi): khát vọng tiếp xúc với thế giới người lớn, hoạt động vui chơi, theo sự chỉ dẫn của người lớn. -Thiếu nhi (6-12 tuổi): hoạt động học tập -Thiếu niên (12-16 tuổi): phát triển tự ý thức, tự đánh giá -Thanh niên (16-18 tuổi): nhu cầu tự khẳng định; tự đánh giá một cách tỉ mỉ, nghiêm khắc; đời sống tình cảm phát triển; chín muồi sinh lý nhưng tâm lý, xã hội, kinh nghiệm chưa trưởng thành. -Sinh viên (18-25 tuổi): tự đánh giá phát triển mạnh: phê phán, phản tỉnh, định hướng giá trị; tình cảm phát triển vào giai đoạn đẹp nhất. -Trưởng thành: (25-40 tuổi): xây dựng gia đình, tay nghề khá cao, nếu nghề nghiệp khơng ổn định thì tuổi này thường bi quan, bất mãn, tự ti. -Trung niên (40-60 tuổi): cống hiến tài năng và sức lực cho xã hội. -Cao niên (60 tuổi trở lên): hồi tưởng về quãng đời đã qua, gắn bĩ với đời sống tâm linh. 2.1.8.2.2/ Cái tơi trong Tâm lý học nhân cách a) Định nghĩa: Nhân cách là hệ thống những phẩm giá xã hội của cá nhân, thể hiện những phẩm chất bên trong của cá nhân, mối quan hệ của cá nhân với cá nhân khác, với tập thể, với xã hội, với thế giới xung quanh và mối quan hệ của cá nhân với cơng việc trong quá khứ, hiện tại và tương lai. b) Đặc điểm -Tính thống nhất của nhân cách: nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa đức và tài của con người. -Tính ổn định của nhân cách: nhân cách là một tổ hợp các thuộc tính tâm lý tương đối ổn định, tiềm tàng trong mỗi cá nhân. -Tính tích cực của nhân cách: nhân cách là chủ thể của hoạt động và gián tiếp , là sản phẩm của xã hội. -Tính giao lưu của nhân cách: nhân cách chỉ cĩ thể hình thành, phát triển, tồn tại, thể hiện trong hoạt động, và trong mối quan hệ giao lưu với những nhân cách khác. c) Cấu trúc Cĩ nhiều quan niệm về cấu trúc nhân cách nhưng phổ thơng nhất là quan niệm của A.G. Kovalev, đĩ là quan niệm cho rằng nhân cách gồm bốn thành phần: xu hướng, năng lực, khí chất, tính cách. -Xu hướng nhân cách là một thuộc tính tâm lý điển hình của nhân cách, bao hàm trong nĩ một hệ thống những động lực quy định tính tích cực hoạt động của cá nhân và quy định sự lựa chọn các thái độ của nĩ. Xu hướng nhân cách biểu hiện ở một số mặt sau: nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng, ước mơ, lý tưởng, thế giới quan, niềm tin v.v… -Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đĩ cĩ kết quả. -Tính cách là một thuộc tính tâm lý phức tạp của cá nhân bao gồm một hệ thống thái độ của nĩ đối với hiện thực, thể hiện trong hệ thống hành vi giao tiếp ứng xử (cử chỉ, cách nĩi năng và hành động tương ứng). Trong đĩ, hệ thống thái độ gồm: thái độ đối với tập thể và xã hội, thái độ đối với lao động, thái độ đối với mọi người, thái độ đối với bản._., cơ bản nhất, là nguồn cội của các thức cịn lại; được ví như là nhà kho chứa tất cả hạt giống của một “dịng tâm thức”. Hạt giống là những nhận thức, tâm lý, kinh nghiệm đã được gieo trồng từ xa xưa, chúng cĩ khả năng biến thành Nghiệp lực khi cĩ đầy đủ điều kiện sinh thành. Do tàng thức trình hiện ra các sự vật, hiện tượng, nên các nhà Duy thức học chủ trương tất cả sự vật, hiện tượng đều bắt nguồn từ tàng thức. b) Phân loại: *Căn cứ vào chức năng chứa đựng mà các nhà Duy thức học chia tàng thức ra làm ba loại: năng tàng, sở tàng và ngã ái chấp tàng. -Năng tàng: khả năng bảo tồn và duy trì sự hiện hữu của các sự vật hiện tượng hoặc trong trạng thái phát hiện hoặc trong trạng thái tiềm ẩn. -Sở tàng: đĩ là nội dung của tất cả những gì được bảo tồn và duy trì. -Chấp tàng: tàng thức thường bị mạt-na thức nhầm lẫn là thật cĩ cái tơi và thật cĩ các sự vật hiện tượng. *Căn cứ vào mức độ chung-riêng mà tàng thức được chia thành tàng thức cá nhân và tàng thức cộng đồng. -Tàng thức cá nhân chính là nghiệp riêng. -Tàng thức cộng đồng chính là nghiệp chung. Qua đĩ, cĩ thể nĩi (một trong những biểu hiện của) tàng thức chính là nghiệp. c) Đặc điểm: -Hằng chuyển như bộc lưu: Tàng thức vừa biến chuyển vừa liên tục. Tàng thức gồm cĩ trong tự thân nĩ chủ thể (năng tàng) và đối tượng (sở tàng): hai phần này luơn luơn biến chuyển linh động. Nĩ được ví dụ như dịng sơng, nước trong sơng thay đổi luơn nhưng con sơng vẫn liên tục. -Tàng thức khơng cĩ hình thái, khơng cĩ dung tích. Trong thế giới hiện tượng, mỗi sinh vật cĩ tàng thức của mình, trí tuệ và kiến thức khơng thể chuyển đổi từ tàng thức này sang tàng thức khác được. Nghiệp báo cũng vậy, khơng thể gánh đổi cho nhau được. Tàng thức khơng chỉ là khả năng bảo trì hạt giống tâm lý mà cịn bảo trì sinh mạng của các lồi vật và thế giới vật lý trong đĩ các lồi vật tồn tại. -Sau khi chết, thức này dẫn nghiệp tái sinh, trình hiện ra cho cá nhân một thế giới mới, một hồn cảnh mới tùy theo nghiệp riêng và nghiệp chung. -Khi giác ngộ, thức này chuyển thành Đại viên cảnh trí (Great perfect mirror wisdom) 2.2.5.2/ Đối tượng tàng thức Đối tượng của tàng thức tánh cảnh. Nĩi cách khác, đối tượng nhận thức của tàng thức là chính nĩ. Khi tàng thức tự nhận thức lại chính mình, thì đối tượng của nĩ (tức là chính nĩ) lập tức biến thành thế giới ngoại cảnh, trở thành cái mà ta gọi là thực tại vật lý. Khi cĩ một đối tượng khách quan thì phải cĩ một chủ thể để nhận thức cái khách quan đĩ. Điều đĩ cĩ nghĩa là, từ tàng thức, thế giới và thân tâm được hình thành, do thức “biến hiện” ra. Tính cách của thế giới lẫn thân tâm của dịng tâm thức đĩ phù hợp với các chủng tử đang hiện hành trong tàng thức, đúng với nghiệp lực đang tác dụng. Chương ba: So sánh tám cặp khái niệm trong Tâm lý học và Duy thức học 3.1/ So sánh 5 loại cảm giác-tri giác trong Tâm lý học với 5 thức trước trong Duy thức học 3.1.1/ Sự giống nhau a) Về mặt giải phẫu Cả Tâm lý học lẫn Duy thức học đều thừa nhận rằng năm giác quan về mặt giải phẫu đều được cấu tạo bởi vật chất. b) Về mặt sinh lý Cả Tâm lý học và Duy thức học đều thừa nhận một số điều kiện để hình thành năm loại cảm giác-tri giác và năm thức trước như: căn, đối tượng. c) Về mặt khái niệm Năm loại cảm giác-tri giác và năm thức trước đều là nhận thức cảm tính về thế giới thơng qua các cơ quan phân tích của các giác quan. 3.1.2/ Sự khác nhau a) Về mặt giải phẫu -Tâm lý học nĩi rõ cấu tạo của mắt mà cụ thể là cấu tạo của cầu mắt và cấu tạo của màng lưới. Trong khi đĩ chưa cĩ tài liệu nào của Duy thức học nĩi rõ cấu tạo của mắt, mà chỉ nĩi sơ lược rằng: mắt được cấu tạo bằng gân, thịt, hay là cấu tạo bởi yếu tố đất trong tứ đại. Như vậy, Duy thức học phát biểu rằng mắt được hình thành từ vật chất. Tuy nhiên, đây cĩ thể được xem là một phát biểu từ gĩc độ triết học hơn là từ gĩc độ khoa học. -Tâm lý học chia cấu tạo của tai ra làm ba phần rõ rệt (tai ngồi, tai giữa và tai trong). Ở tai trong cĩ màng cơ sở mà trên đĩ cĩ cơ quan coocti chứa các tế bào thụ cảm thính giác. Thùy thái dương là đĩng vai trị quan trọng trong giải phẫu tai. Cịn Duy thức học chỉ phát biểu một cách đơn giản rằng lỗ tai là chỗ thu lấy âm thanh. -Theo Tâm lý học, thùy trán, mũi, xoang mũi, xương mũi và các tế bào thần kinh trên xoang mũi… là mặt giải phẫu của khứu giác. Trong khi đĩ, Duy thức học chưa thấy nĩi rõ về cấu tạo của mũi. -Theo Tâm lý học, lưỡi, gai lưỡi, các tế bào thần kinh, khu vị giác ở thùy thái dương v.v… là mặt giải phẫu của vị giác. Chưa thấy tài liệu nào của Duy thức học nĩi rõ về cấu tạo của lưỡi. -Theo Tâm lý học, việc tiếp nhận các kích thích đụng chạm, cọ xát, hoặc áp lực v.v… là của các tế bào thần kinh. Cịn trong Duy thức học thì coi việc tiếp nhận các kích thích đụng chạm, cọ xát, hoặc áp lực v.v… là của tồn thân. b) Về mặt sinh lý -Theo nghiên cứu của Tâm lý học thì hình ảnh trên màng lưới là hình ảnh lộn ngược so với sự vật ở bên ngồi. Thùy chẩm là nơi chuyên xử lý các thơng tin được mã hĩa từ hai mắt truyền tới. Bên trái của thùy chẩm xuất hiện hình ảnh của vật thể ở bên phải của chủ thể và ngược lại. Trong khi đĩ, chưa thấy tài liệu nào của Duy thức học nĩi về cơ chế sinh lý tạo ra cái thấy (nhận thức của mắt) từ gĩc độ sinh lý thần kinh cấp cao mà chỉ thấy nĩi về cái thấy từ gĩc độ triết học. -Theo Tâm lý học, sĩng âm vào tai làm rung màng nhĩ, qua một loạt các cơ quan khác để làm hưng phấn các tế bào thụ cảm thính giác ở coocti thành các xung thần kinh truyền về vùng thính giác ở thùy thái dương cho ta nhận biết âm thanh đã phát ra. Ngồi ra, theo Tâm lý học, tai trong cịn phụ trách thăng bằng, chuyên tiếp nhận những thơng tin về vị trí cơ thể và sự chuyển động trong khơng gian; đây là điểm khác biệt rất rõ rệt khi so sánh với Duy thức học. Trong khi đĩ, chưa thấy tài liệu nào của Duy thức học nĩi rõ ràng về cơ chế sinh lý nhận thức âm thanh. -Theo Tâm lý học, mùi (dưới dạng những phân tử hĩa học) tương tác với thụ thể protein trên màng của các tế bào lơng rung ở mũi thành các xung động thần kinh truyền thơng tin mùi đến hành khứu nằm trên các thụ thể và dưới thùy trán của vỏ não làm cho ta nhận thức về mùi. Trong khi đĩ, chưa thấy tài liệu nào của Duy thức học đề cập đến cơ chế phát sinh tỵ thức theo sinh lý thần kinh cấp cao; ngay cả về mặt triết học cũng chưa thấy đề cập đến cơ chế phát sinh tỵ thức. -Theo Tâm lý học, các phân tử hĩa học của các chất trong thức ăn, thức uống tác động lên các tế bào thần kinh ở gai lưỡi, từ đĩ tạo ra các xung thần kinh trong tế bào và truyền tín hiệu tới khu vị giác của thùy thái dương để nảy sinh ở đĩ cảm giác nếm. Chưa thấy tài liệu nào của Duy thức học nĩi rõ cơ chế phát sinh tỵ thức theo sinh lý thần kinh cấp cao. -Trong da cĩ chứa các tế bào thần kinh tạo ra những cảm giác về áp lực, ấm hoặc lạnh, cảm giác-tri giác mạc giác nẩy sinh trên thùy đỉnh của vỏ não. Chưa thấy tài liệu nào của Duy thức học nĩi rõ cơ chế sinh lý thân thức. c) Về mặt khái niệm -Theo Tâm lý học, thị giác nhận thức thuộc tính của sự vật thơng qua tia sáng vào mắt. Cịn khái niệm “nhãn thức” được đặt ra trên cơ sở con mắt. Nhãn thức là nhận thức của mắt được nảy sinh từ sự kết hợp giữa cơ quan phân tích thị giác và các đối tượng của mắt. Trong đĩ, nhãn thức nhận thức trực tiếp sự vật, chứ khơng đề cập đến tia sáng, mà chỉ coi ánh sáng như là một trong những điều kiện chứ khơng coi như là tia tới của ánh sáng mang thơng tin về sự vật vào mắt của chủ thể nhận thức. -Thính giác nhận thức thuộc tính của sự vật thơng qua âm thanh phát ra từ sự vật chứ khơng phải nhận thức âm thanh, cịn nhĩ thức ở Duy thức học thì nhận thức âm thanh như là một sự vật. -Tâm lý học cho rằng cảm giác nếm được tạo nên do tác động của các thuộc tính hĩa học của các chất hịa tan trong nước lên các cơ quan thụ cảm vị giác ở lưỡi, họng và vịm khẩu, cơ sở giải phẫu – sinh lý của cảm giác nếm là bộ máy phân tích vị giác. Cịn Duy thức học thì cho rằng lưỡi cơ quan phát sinh vị giác. - Tâm lý học cho rằng nhận thức cảm tính của da là do những kích thích cơ học và nhiệt độ tác động lên da tạo nên. Cơ sở giải phẫu – sinh lý của cảm giác da là các tế bào thần kinh dưới da và thùy đỉnh của vỏ não. Duy thức học coi hệ thần kinh bên trong thân thể là cơ quan sinh ra cảm giác xúc chạm. Nhận xét chung: 1) Tâm lý học nĩi rõ vai trị của não đối với sự xuất hiện của các cảm giác – tri giác, đặc biệt là về mặt giải phẫu: xác định các vùng thị giác (thuỳ chẩm), thính giác (thuỳ thái dương), khứu giác (thuỳ trán), vị giác (thuỳ thái dương), mạc giác (thuỳ đỉnh). Cịn Duy thức học, khi phân tích năm thức trước, tuy cĩ đề cập đến tịnh sắc căn nhưng khơng cụ thể như Tâm lý học . 2) Tâm lý học phân biệt sự khác nhau giữa cảm giác và tri giác cũng như sự chuyển hố từ cảm giác lên tri giác, cịn Duy thức học thì khơng đề cập tới những điều này. 3.2/ So sánh “ý thức” trong Tâm lý học và “ý thức” trong Duy thức học 3.2.1/ Sự giống nhau a) Định nghĩa Khi định nghĩa về ý thức, cả hai mơn học đều coi trọng tính chất lý tính của ý thức, coi ý thức vượt qua khỏi nhận thức cảm tính. Duy thức học cho rằng năm thức trước chỉ tương tác với thế giới vật lý bên ngồi (nhận thức cảm tính), chứ khơng phân biệt được bản chất sự vật (nhận thức lý tính). Phân biệt được sự vật hay nhận thức lý tính là chức năng của ý thức (cho nên thức thứ sáu cịn gọi là ‘phân biệt sự thức’). Tương tự, Tâm lý học cho rằng năm giác quan chỉ đạt đến cảm giác và tri giác là nhận thức cảm tính mà thơi, cịn tư duy và tưởng tượng là hoạt động của ý thức là nhận thức lý tính. Ngồi ra, cả hai mơn học đều chú ý đến và phân tích sâu sắc mối liên hệ giữa năm giác quan và ý thức, nhưng lại khác nhau ở phương pháp tìm ra mối liên hệ đĩ. Tâm lý học dùng phương pháp sinh lý thần kinh cấp cao để tìm ra mối liên hệ giữa chúng với nhau, cịn Duy thức học dùng phương pháp thiền định, quan sát, phân tích và kể cả kinh nghiệm để tìm ra mối liên hệ này. b) Phân loại Hai mơn học đều căn cứ vào trạng thái ý thức để phân loại ý thức. Khi căn cứ vào trạng thái hoạt động độc lập của ý thức, hai mơn học này đã cùng phân loại ra một số trạng thái như: trạng thái chú ý (tập trung hay thiền định), trạng thái mơ mộng, trạng thái giấc mơ. 3.2.2/ Sự khác nhau a) Định nghĩa Tâm lý học nhấn mạnh hình thức (phản ánh), cịn Duy thức học nhấn mạnh cấu trúc (gồm căn và cảnh). Trong khi Tâm lý học coi ngơn ngữ là phương tiện để ý thức thì Duy thức học coi ngơn ngữ nĩi riêng và pháp trần nĩi chung là bộ phận cấu tạo thành ý thức. Ngồi ra, người ta cịn thấy ý thức trong Duy thức học hoạt động với phạm vi rộng hơn: chẳng những ở thế giới ‘hữu hình’ mà cịn cả ở thể giới ‘vơ hình’, chẳng những cĩ thể hoạt động trong hiện tại mà cịn cĩ thể hoạt động trong cả quá khứ và vị lai; quá khứ ở đây khơng chỉ đơn giản là những việc đã qua mà ngay cả kiếp trước; vị lai ở đây khơng chỉ đơn giản là những sự việc sẽ xảy ra trong tương lai của một đời người mà cả những việc sẽ xảy ra trong kiếp sau. b) Phân loại: Trong khi Tâm lý học phân loại ý thức trên cơ sở các trạng thái khác nhau của nĩ, thì Duy thức học lại phân loại ý thức trên cơ sở kết hợp với năm thức trước. Nĩi cách khác, tuy cĩ cùng cơ sở phân loại trạng thái ý thức, nhưng Tâm lý học căn cứ vào nhiều trạng thái khác nhau của bản thân ý thức, cịn Duy thức học căn cứ vào một trạng thái ý thức là trạng thái kết hợp với năm thức trước. Thực ra, đĩ là do hai mơn học cĩ sự nhấn mạnh khác nhau: sự nhấn mạnh của Duy thức học là các trạng thái kết hợp ý thức với năm thức trước, cịn sự nhấn mạnh của Tâm lý học là các trạng thái khác nhau của chính ý thức. c) Các thuộc tính cơ bản Trong khi Tâm lý học xem xét các thuộc tính cơ bản của ý thức về mặt hoạt động (năng lực nhận thức cao nhất; năng lực điều khiển, điều chỉnh hành vi; thái độ; tự ý thức) thì Duy thức học lại xem xét các thuộc tính cơ bản về mặt tính chất (tính khơng liên tục, ba tính chất là thiện-ác-khơng thiện khơng ác). d) Sự hình thành và phát triển Tâm lý học coi ý thức là trình độ cao của tâm lý nên ý thức được hình thành và phát triển trên cơ sở sự phát triển chung của tâm lý. Ý thức nĩi riêng và tâm lý nĩi chung cĩ cơ sở tự nhiên và cơ sở xã hội. Trong khi đĩ, Duy thức học chẳng những chấp nhận tự nhiên và xã hội là cơ sở của ý thức, mà cịn coi mạt-na thức là cơ sở tâm lý của ý thức. Khi nghiên cứu về ý thức, do mục đích khác nhau nên Tâm lý học và Duy thức học quan tâm đến sự hình thành và phát triển của ý thức theo phương pháp luận của riêng mình. Nĩi một cách cụ thể, do nghiên cứu sự hình thành và phát triển ý thức dựa trên cơ sở nhân sinh quan và thế giới quan “hữu ngã”, cộng với mục đích là hồn thiện nhân cách nên Tâm lý học xem ý thức là trình độ cao của tâm lý. Cịn trong Duy thức học, do nghiên cứu sự hình thành và phát triển ý thức dựa trên cơ sở nhân sinh quan và thế giới quan “vơ ngã”, cộng với mục đích là giác ngộ nên ý thức vừa được xem là một thuận lợi thốt ra khỏi si mê vừa là một trở ngại cho sự giác ngộ1. Trong trường hợp tạo ra tội lỗi thì ý thức là “thủ phạm”. Trong trường hợp giác ngộ, thì ý thức là “cơng thần” và chuyển thành Diệu quan sát trí (“Wondrous Observing Wisdom” hay “Wisdom of unerring cognition”, tức là loại trí tuệ nhìn thấy được thực tướng vơ ngã của sự vật, hiện tượng). Tĩm lại, giống như Tâm lý học, Duy thức học cũng coi ý thức là trình độ cao của con người nhưng khác biệt là ở chỗ ý thức phát triển thành trí tuệ sau khi giác ngộ. Ngồi ra, vai trị của lao động và giao tiếp cĩ ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển ý thức được Tâm lý học nghiên cứu và đạt đến trình độ lý luận sâu sắc, trong khi Duy thức học chỉ đề cập các vấn đề này ở mức độ kinh nghiệm mà thơi. e) Các cấp độ của ý thức Trong khi Tâm lý học đề cập đến ba cấp độ của ý thức thì chưa thấy tài liệu nào của Duy thức học đề cập đến. 3.3/ So sánh “tự ý thức” và “mạt-na thức” 3.3.1/ Sự giống nhau: Về mặt định nghĩa, tự ý thức và mạt-na thức giống nhau ở chỗ được hai mơn học nhấn mạnh đến sự ý thức về bản thân, về cái tơi của mình; chỉ khác nhau ở tính chất “nhầm lẫn” mà Duy thức học đã đề cập. Chúng ta khơng ngạc nhiên khi trong tiếng Phạn thức thứ sáu và thức thứ bảy được gọi chung là ý thức (tức là ý thức và tự ý thức đều được gọi chung là ý thức). Đây là điểm tương đồng rất thú vị về mặt ngơn ngữ và thậm chí là về mặt nhận thức. Điều thú vị này lý giải rằng người thời xưa và thời nay, phương Đơng và phưong Tây coi tự ý thức và mạt-na thức căn bản giống nhau về mặt cấu trúc (gồm cĩ: ý thức và cái tơi). Dù được gọi là tự ý thức hay mạt-na thức đi chăng nữa thì thành phần cấu tạo nên nĩ là ý thức và cái tơi, hay ý thức về cái tơi. Cịn một điểm giống nhau nữa, đĩ là nếu Tâm lý học xem hoạt động là yếu tố quyết định sự khác nhau giữa các cái tơi thì Duy thức học cho rằng do nghiệp2 mà cĩ sự khác nhau giữa các cái tơi. 1 “Cơng vi thủ, tội vi khơi” nghĩa là: cơng đứng đầu mà tội cũng đứng đầu. 2 Tuy cĩ nhiều nghĩa, nhưng trong trường hợp này, nghiệp được hiểu là hành động và hoạt động. 3.3.2/ Sự khác nhau a) Định nghĩa Điểm khác biệt thứ nhất là tính chất “nhầm lẫn”. Tâm lý học định nghĩa tự ý thức là ý thức của chủ thể về bản thân, về cái tơi của chủ thể. Duy thức học cũng định nghĩa tự ý thức (chủ thể mạt-na thức) là ý thức về bản thân, về cái tơi nhưng lại là ý thức nhầm lẫn nghiêm trọng trong mối liên hệ khơng thể tách rời với cái tơi (đối tượng của mạt-na thức). Điểm khác biệt thứ hai là tính quyết định. Tâm lý học coi tự ý thức là một tâm lý thuộc về cái tơi, trong khi Duy thức học coi tự ý thức và cái tơi là hai thành phần khác nhau để tạo nên cái gọi là mạt-na thức. Như vậy, Tâm lý học cho rằng ý thức sinh ra tự ý thức, cịn Duy thức học cho rằng tự ý thức sinh ra ý thức. Qua đĩ cĩ thể thấy rằng, Tâm lý học quan tâm đến cái tơi hơn tự ý thức, cịn Duy thức học lại đặc biệt quan tâm đến tự ý thức (mạt-na thức). Bởi vì, theo Duy thức học, mạt-na thức mới là yếu tố cùng với tàng thức tái sinh ở nhiều kiếp sống khác và do đĩ nỗi đau khổ sẽ kéo dài vơ tận, cịn ngã chấp thường bị xem là một trong những nguyên nhân gây ra mê lầm, đau khổ trong hiện tại. Ngồi ra, như đã đề cập trong phần so sánh khái niệm ý thức, Tâm lý học coi tự nhiên và xã hội là hai cơ sở của ý thức nĩi riêng và tâm lý nĩi chung, Duy thức học chẳng những đồng ý mà cịn thêm cơ sở tâm lý của ý thức là mạt-na thức. b) Phân loại Do phân loại tự ý thức và cái tơi theo phân loại nhân cách nên Tâm lý học cho rằng cĩ nhiều loại nhân cách. Trong khi đĩ, Duy thức học khơng phân loại mạt-na thức mà chỉ căn cứ vào tính chất mê chấp để chia ngã chấp ra làm bốn loại (ngã si, ngã kiến, ngã ái, ngã mạn). 3.4/ So sánh “vơ thức” và “tàng thức” 3.4.1/ Sự giống nhau a) Định nghĩa Điểm giống nhau thứ nhất là tính chất hạt giống. Khi Tâm lý học phát biểu vơ thức là “ý thức đã được vơ thức hố do bị dồn nén” thì Duy thức học cho rằng các hoạt động tâm lý được đưa trở về trạng thái “hạt giống”, tức trạng thái tiềm tàng, tiềm năng. Điểm giống nhau thứ hai là tính chất chứa đựng. Vơ thức được xem là tầng, tàng thức được xem là kho. Tầng và kho đều là nơi chứa đựng, giữ gìn mà khơng phản ứng, khơng phán xét dù tốt hay xấu. Một điểm nữa là trong khi vơ thức được Tâm lý học xem là một tảng băng ngầm chưa được khám phá và chưa được hiểu hết, thì tàng thức được Duy thức học xem là bất khả tư nghì và chỉ hiểu biết về nĩ một cách cĩ giới hạn mà khơng thể biết một cách rốt ráo. “Tảng băng ngầm” vơ thức chi phối đời sống của con người như: bản năng, di truyền, thĩi quen, phong tục, tập quán v.v… Cịn tàng thức của Duy thức học là cái nghiệp mà con người mang theo để tái sinh qua nhiều kiếp sống, trình hiện ra cho cá nhân một thế giới mới, một hồn cảnh mới. Như vậy, trong quá trình định nghĩa, cả hai mơn học đều nhận thấy rằng, vơ thức và tàng thức chi phối và ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. b) Phân loại Trong quá trình phân loại, cĩ sự giống nhau nhất định, đĩ là cả hai đều đề cập tới cá nhân và cộng động. Do mục đích của hai mơn học khác nhau nên dĩ nhiên việc phân loại cũng khơng tránh khỏi những khác biệt sẽ được đề cập sau. 3.4.2/ Sự khác nhau a) Định nghĩa Vơ thức trong Tâm lý học được nghiên cứu như là một trạng thái tâm lý mà nội dung chứa đựng trong nĩ là những ẩn ức bị dồn nén và những bản năng bẩm sinh, di truyền. Cịn đối với Duy thức học thì tàng thức chẳng những chứa đựng nội dung trạng thái tâm lý vừa nĩi trên mà cịn chứa đựng cả các hiện tượng tự nhiên, xã hội. Như vậy, thơng qua quan niệm tàng thức của Duy thức học thì tâm lý và ngoại cảnh là một thực thể khơng thể phân chia, trong khi đĩ, đối với Tâm lý học, tâm lý (vơ thức) và ngoại cảnh khơng thể là một thực thể thống nhất vì tâm lý khơng phải là hiện thực khách quan mà là sự phản ánh của hiện thực khách quan vào trong não. b) Phân loại Tâm lý học ngồi việc phân loại vơ thức theo cá nhân và cộng đồng, cịn nhắc đến một cơ sở nữa để phân loại, đĩ là vơ thức sinh học. Cũng vậy, ngồi việc phân loại vơ thức theo cá nhân và cộng đồng, Duy thức học cịn căn cứ vào tính chất chứa đựng để làm cơ sở phân chia khái niệm thành: năng tàng, sở tàng và chấp tàng. Do mục đích của hai mơn học khác nhau nên sự phân loại cũng khác nhau. Mục đích của Duy thức học là giác ngộ nên phải phân loại làm sao cho các thiền sinh buơng bỏ cái chấp (chấp ngã và chấp pháp). Cịn Tâm lý học vì muốn hiểu biết nên tổng hợp và phân loại dựa trên các cơng trình nghiên cứu khoa học khác. I. Kết luận 1/ Phương pháp luận 1.1/ Tâm lý học coi tất cả các hiện tượng được gọi bằng khái niệm thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, mạc giác, ý thức, tự ý thức, vơ thức là những hiện tượng tâm lý hiểu theo nghĩa là sự phản ánh của hiện thực khách quan vào trong não người chứ khơng phải hiện thực khách quan. Cịn Duy thức học thì coi các hiện tượng được gọi bằng các khái niệm nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na thức, tàng thức là thức được hiểu khơng chỉ là hiện tượng tâm lý mà cịn là hiện tượng vật lý trong hiện thức khách quan nữa. 1.2/ Trong khi Tâm lý học nghiên cứu về cái tơi với xuất phát điểm là ‘hữu ngã’ thì Duy thức học là ‘vơ ngã’. Trong khi Tâm lý học coi ‘cái tơi’ là cái cĩ thực thì Duy thức học coi cái tơi là cái ảo, là sự nhầm lẫn nghiêm trọng của con người. 1.3/ Tâm lý học nghiên cứu tâm lý người theo chiều dọc lịch sử tiến hố từ lồi vật lên lồi người và sự tiến hố của bản thân lồi người. Cịn Duy thức học nghiên cứu tâm lý người nhưng là con người muơn thuở, con người trừu tượng. 2/ Phương pháp Phương pháp của Tâm lý học là quan sát, đàm thoại, điều tra, phỏng vấn, thực nghiệm v.v… Cịn phương pháp của Duy thức học là phân tích, trải nghiệm và thiền định1 trên cơ sở những tiền đề: vơ thường, vơ ngã, khổ, nghiệp, tái sinh, niết-bàn. Với hai hệ phương pháp khác nhau nhưng Duy thức học và Tâm lý học nĩi riêng và khoa học nĩi chung cĩ những cái nhìn rất tương đồng. Qua đây, cĩ thể khẳng định lại một điều mà khoa học đã khẳng định từ lâu: cùng một đối tượng nghiên cứu nhưng do phương pháp luận khác nhau, mục đích khác nhau nên kết quả khác nhau; sự khác nhau đĩ chưa hẳn là đối lập lẫn nhau mà trong rất nhiều trường hợp lại là sự bổ sung cho nhau. Nĩi một cách cụ thể hơn, thơng qua sự so sánh này, cĩ thể nĩi Phật học và khoa học cĩ thể bổ khuyết cho nhau. 3/ Mục đích Trong khi Tâm lý học muốn nhân cách của mỗi con người được phát triển và trở nên hồn thiện bằng cách khẳng định cĩ cái tơi riêng của mỗi con người, thì Duy thức học khẳng định sự vơ ngã và cho rằng cái ngã, cái tơi, sự vật, hiện tượng là ảo tưởng, là mê lầm, là mê chấp nghiêm trọng nhất 1 Tên gọi đầu tiên của Duy thức học là Du-già tơng (Yogacara). Trong đĩ cĩ chữ Du-già được dịch từ “Yoga”, tức là thiền định. của con người, là nguyên nhân si của mọi thứ tham, sân, và do đĩ, để đạt đến giác ngộ mỗi con ngưịi cần phải đoạn tuyệt với chấp ngã (cho rằng cái tơi là thật) và chấp pháp (cho rằng sự vật, hiện tượng ngồi thức mà cĩ). 4/ Giác quan Tâm lý học nghiên cứu rất sâu sắc về năm giác quan và về mối liên quan giữa 5 giác quan với hệ thần kinh, nhất là với vỏ não; cịn Duy thức học thì rất hạn chế về mặt này. Giải thích về sự hạn chế này của Duy thức học cĩ thể là ba nguyên nhân sau: 1) do trình độ khoa học thời bấy giờ chưa phát triển (khoa học thời bấy giờ chưa cĩ những hiểu biết về 5 giác quan như khoa học ngày nay), 2) do Duy thức học coi năm giác quan là cái ngọn nên khơng phát triển, chỉ chú ý và phát triển cái gốc là “thức”, 3) mục đích của Duy thức học là giác ngộ, tức là một mục đích cĩ tính tơn giáo, tín ngưỡng cho nên những thành tựu của khoa học về 5 giác quan, về não mà khoa học cĩ được từ thời bấy giờ đến nay cũng khơng giúp gì, khơng thay đổi gì cho Duy thức học vì nội dung của Duy thức học từ đĩ đến nay là đã đủ cho việc thực hiện mục đích giác ngộ của mình. II/ Kiến nghị Để Duy thức học trở nên gần gũi và dễ hiểu hơn, cần phải hiện đại hĩa Duy thức học – “khoa học hĩa” Duy thức học – và do đĩ phải gắn kết với Tâm lý học; đặc biệt là về mặt thuật ngữ, Duy thức học rất cần những thuật ngữ, những khái niệm của Tâm lý học để hiện đại hĩa và dân gian hĩa. Do đĩ, tác giả luận văn xin kiến nghị ba điểm như sau: 1/ Duy thức học nên bổ sung thêm vào nội hàm của năm thức trước bằng những kiến thức giải phẫu và sinh lý thần kinh cấp cao của Tâm lý học. 2/ Duy thức học nên bổ sung vào nội hàm ý thức bằng một số khía cạnh thuộc về định nghĩa, đặc điểm, tính chất, thuộc tính v.v… của ý thức trong Tâm lý học. 3/ Duy thức học nên xem thuật ngữ ngã chấp tương đương với thuật ngữ cái tơi của Tâm lý học. Kiến nghị thứ nhất và thứ hai sẽ giúp Duy thức học khắc phục được mặt hạn chế của mình là chưa nghiên cứu tâm lý về phương diện cá nhân mà chỉ nghiên cứu về phương diện lồi. Kiến nghị thứ ba nếu được thực hiện thì sẽ là một trong những cách tốt nhất, về mặt thuật ngữ, mở đường cho Duy thức học đến gần hơn với những ai quan tâm và muốn nghiên cứu mơn học này. Sự tiếp thu nĩi trên chẳng những khơng làm ảnh hưởng gì đến nội dung của Duy thức học mà cịn làm nổi bật tính chất vơ ngã của sáu thức trước và cái tơi. Để từ đĩ, Duy thức học sẽ được củng cố thêm luận điểm “các hoạt động tâm lý thường hay bị gán “của ta”, thật ra là diễn biến của nghiệp mà khơng cĩ ai đứng phía sau dịng nghiệp đĩ cả”. TÀI LIỆU THAM KHẢO I/ TÂM LÝ HỌC 1. Minh Đức – Hồ Kim Chung (biên dịch), Tâm lý học căn bản, NXB VHTT,TPHCM, 2004. 2. Vũ Dũng, Từ điển Tâm lý học, NXB Từ điển Bách khoa, HN, 2008. 3. Vũ Dũng, Tâm lý học xã hội, NXB KHXH, HN, 2000. 4. Nguyễn Đình Giậu (chủ biên), Sinh lý học người và động vật, NXBĐHQGTPHCM, 2000. 5. Phạm Minh Hạc, Tuyển tập Tâm lý học, NXB Chính trị quốc gia, HN, 2005. 6. Nguyễn Xuân Hiến (dịch), Phân tâm học nhập mơn, NXB ĐHQGHN, 2002. 7. Trần Đức Hiển, Tâm lý học (nguyên lý và ứng dụng) (dịch), NXBLĐ-XH, 2007. 8. Đặng Phương Kiệt, Cơ sở Tâm lý học ứng dụng, NXB ĐHQGHN, 2001. 9. Phạm Minh Lăng, S. Freud và Tâm phân học, NXB VHTT, HN, 2000. 10. Nguyễn Thơ Sinh, Các học thuyết Tâm lý nhân cách, NXB Lao động, 2008. 11. Nguyễn Xuân Thức (chủ biên), Giáo trình Tâm lý học đại cương, NXBĐHSP, 2006. 12. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Tâm lý học đại cương, NXBĐHQGHN, 2008. 13. Stafford - Clark D, Freud đã thực sự nĩi gì? (Lê Văn Luyện và Huyền Giang dịch), NXB Thế giới, Hà Nội, 1998. 14. Stephen Worchel – Wayne Shebilsue, Psychology: Principles and Applications, Prentice Hall, 1994. II/ DUY THỨC HỌC 1. Nguyễn Tường Bách, Lưới trời ai dệt, NXB Trẻ, 2005. 2. Thích Minh Cảnh (chủ biên), Từ điển Phật học Huệ Quang, NXBTHTPHCM, 2004. 3. Thiều Chửu, Hán Việt từ điển, NXB Tổng hợp TPHCM, 2008. 4. Sa mơn Thích Quảng Độ (dịch), Phật quang Đại Từ điển, 2000. 5. Nhất Hạnh, Giảng luận Duy biểu học, NXB Lá Bối, 1996. 6. Nhất Hạnh, Vấn đề nhận thức trong Duy thức học, NXB Lá Bối. 7. Phân viện Nghiên cứu Phật học, Từ điển Phật học Hán Việt, NXB KHXH, HN, 1998. 8. Trần Phương Lan, Buddhism through English reading, NXB TPHCM, 2001. 9. Thích Tâm Thiện, Tâm lý học Phật giáo, NXB TPHCM, 1998. 10. Trần Nguyên Trung, Từ điển Phật học Việt – Anh, NXB Tơn giáo, 2008. 11. Lê Mạnh Thát, Triết học Thế Thân, NXB Tổng hợp TPHCM, 2005. 12. Wei, Tat, Ch`eng Wei-shih Lun Publication,1973. 13. Chinese – English Dictionary, Foreign Language Teaching and Research Press, 2003. 14. Swati Ganguly, Treatise in Thirty Verses on Mere-Consciousness, Montial Banarsidass Publisher, Private Limited, Delhi, 1992. PHỤ LỤC Các thuật ngữ Duy thức học trong luận văn và các từ Anh ngữ tương ứng Ảo ảnh: illusion, delusion Bình đẳng tánh trí: even handedness, immediate cognition of equality Cảm ứng: response to appeal or need Chấp thủ: impressions, ideas grasped and held Chủng tử: seeds of mind Chứa: storing Diệt tận định: the freedom, or supernatural power of the wisdom attained in Nirvàna Diệu quan sát trí (“Wondrous Observing Wisdom” hay “Wisdom of unerring cognition” Duy biểu: manifestion-only, appearance-only, representation-only Duy thức: nothing but consciousness Duy thức học: the theory of mere-consciouness Đại viên cảnh trí: great perfect mirror wisdom, great mirror cognition Độc ảnh cảnh: the realm of mere images Đới chất cảnh: the realm of representations Giác ngộ: to awake, become enlightenment. Hằng: always, permanent Hương trần: the smells/odours Mạt-na thức: the seventh-consciousness, defiling-transmitter consicousness Ngã: self Ngã ái: self-love Ngã kiến: self-belief Ngã mạn: self-pride Ngã si: self ignorance Ngã sở: mine, possessions. Ngã tưởng: image of itself Nghiệp báo: karma reward Nghiệp cảm: the influence of karma; caused by karma Nghiệp chung: deeds of the community, collective karma. Nghiệp lực: the power of karma Nghiệp riêng: differentiated karma (the cause of different resultant conditions) Nhãn căn: the eye Nhãn thức: the eye-consciousness Nhĩ căn: the ear Nhĩ thức: the ear-consciousness Ơ nhiễm: soiled, defiled, polluted Pháp trần: the mental objects Pháp vơ ngã: non-substantiality of things Phần chủ thể: the subject, perceiver portion Phần đối tượng: the object, perceived portion Phần tự thể: the self-existence Phù trần căn: the organs of sensation Sắc pháp: rùpa-dharmas, Sắc trần: the forms/shapes Tác dụng: function, activity Tái sinh: rebirth, born-into Tánh cảnh: the realm of things in themselves Tàng thức: the eighth-consciousness, the storehouse consciousness, the warehouse consciousness, the repository consciousness. Tâm bất tương ưng hành pháp: conditions disassociated from mind Tâm pháp: mental dharmas Tâm sở hữu pháp: mental functions, mental associates Thanh trần: the sounds Thắng nghĩa căn: the surpassing organ Thẩm: reflecting Thân căn: the body Thân thức: the body-consciousness Thiệt thức: the tongue-consciousness Thiệt căn: the nose Thức: consciousness, cognitive-representation Tiền kiếp: former existence, previous life Trí: wisdom, direct knowing, direct cognition Trình hiện: appearance Tư lượng: mentation, cogitation Tỵ căn: the nose Tỵ thức: the nose-consciousness Vị lai: the future Vị trần: the taste/flavours Vơ ký: neither good nor bad, non-defined Vơ minh: ignorance Vơ ngã: no ego, no individual independent existence. Vơ phú: non-defiled Vơ thường: impermanent Vơ tưởng định: the concentration in which all thinking ceases in the desire to enter Vơ tưởng thiên Vơ vi pháp: unconditioned dharmas Xúc trần: the contact Ý địa: the stage of intellectual consciousness Ý căn: the mind faculty, the mind sense Ý thức (trong Duy thức học): the sixth-consciousness, the mind-consciousness, the sense- centre consciousness. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5326.pdf
Tài liệu liên quan