Sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta

a - mở đầu Sau khi đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới toàn diện, vấn đề sở hữu đã có sự thay đổi theo chiều hướng có lợi cho việc phát triển và đảm bảo lợi ích cho người lao động. Với sự tồn tại của nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, quan hệ sở hữu khác nhau người lao động có điều kiện tự do sản xuất, kinh doanh, phát huy tính năng động sáng tạo của mình, tìm được nơi làm việc thích ứng với hoàn cảnh sinh sống và năng lực của mình,bảo đảm cho lợi ích tốt hơn. Kinh tế thị trườn

doc22 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1786 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g với nhiều thành phần kinh tế, sở hữu quy định tính chất của các hình thức tổ chức kinh doanh và dựa vào đây để phân định các thành phần inh tế. Trong bài này tôi chỉ muốn trình bày vấn đề quan hệ giữa sở hữu và các thành phần kinh tế. Đại hội VI đã xác định quan điểm chính sách sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Những chủ trương chính sách đó đã được cụ thể hoá và thể chế hoá trong nhiều văn bản pháp quy cuả Nhà nước. Được thực tiễn những năm qua kiểm nghiệm. Đồng thời cuộc sống cũng đòi hỏi phải tiếp tục làm rõ nhiều khía cạnh lý luận và đề ra một hệ thống chính sách cụ thể chung quanh vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế nhằm huy dộng mọi nguồn lực trong và ngoài nước, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá, vì cuộc sống ấm no hạnh phúc của nhân dân. Xem xét vấn đề "Sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta" là đi sâu vào nghiên cứu nhiều đề tài khoa học giúp ích cho việc xây dựng nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN. Quá trình tiếp cận thông tin chưa được đầy đủ, đề án này còn nhiều hạn chế nên em rất mong được sự giúp đỡ của thầy giáo. Em xin trân thành cảm ơn ! b - Nội dung I- Sở hữu về tư liệu sản xuất và những nhận thức mới về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay. 1.1. Lý luận chung về sở hữu Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã chỉ ra rằng, chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa vận động trong sự đối lập giữa hai cực: tư bản và lao động. Trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội, sự đối lập giữa hai cực này sẽ ngày càng trở nên gay gắt và đến một giai đoạn nhất định, sự đối lập sẽ phá vỡ hình thức tồn tại của nó, tức chế độ sở hữu TBCN. Điều này được đánh dấu bằng một cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa. Giống như mọi cuộc cách mạng xã hội khác, cuộc cách mạng này có nhiệm vụ giải quyết vấn đề chế độ sở hữu, xoá bỏ chế độ sở hữu cũ, xây dựng chế độ sở hữu mới. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là thực hiện cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN, thiết lập chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa. Lợi ích của giai cấp vô sản gắn liền với sự nghiệp xoá bỏ chế độ tư hữu. Vì chế độ sở hữu TBCN tồn tại trên cơ sở tước bỏ sở hữu của đại đa số cư dân trong xã hội, nên khi thực hiện sứ mệnh lịch sử củng mình, đem lại lợi ích cho bản thân mình, giai cấp vô sản cũng đồng thời đem lại lợi ích cho toàn xã hội. Lợi ích của giai cấp vô sản phù hợp với lợi ích của tất cả những người lao động và quần chúng bị bóc lột. Vấn đề là ở chỗ: giai cấp vô sản sẽ thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình như thế nào, đặc biệt là trong việc giải quyết vấn đề sở hữu - một trong những nội dung cơ bản của cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa? "Tuyên ngôn" nhấn mạnh rằng, mục đích của việc xoá bỏ chế độ sở hữu tư bản là nhằm tạo điều kiện để giai cấp vô sản giành lấy lực lượng sản xuất, xoá bỏ sự tách rời người lao động khỏi những điều kiện lao động, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của lực lượng sản xuất, cung cấp đầy đủ sản phẩm cho mọi người trong xã hội. Với chế độ sở hữu TBCN thì lao động sống phục vụ cho lao động quá khứ, lao động làm thuê phục vụ cho sự sinh sôi, nảy nở của tư bản. Xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN, thiết lập chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa trong đó lao động quá khứ phục vụ cho lao động sống, "lao động tích luỹ sẽ trở thành phương tiện để mở rộng, làm phong phú và làm giảm nhẹ cho quá trình sống của những người lao động". Như vậy, quá trình xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN không phải là quá trình phủ định sạch trơn sở hữu, mà là quá trình xoả bỏ sự đối lập gay gắt giữa hai cực mà sở hữu vận động trong đó là tư bản và lao động. Đối với tư bản, đó là quá trình chuyển biến tính chất xã hội của sở hữu, xoá bỏ tính chất tư sản của sở hữu, xoá bỏ quyền dùng chiếm hữu để nô dịch người khác. Đối với người lao động, đó là quá trình xoá bỏ tính chất bi thảm của chiếm hữu. "Tuyên ngôn" khẳng định, những người vô sản- những công nhân làm thuê - chỉ có thể giành được những lực lượng sản xuất xã hội bằng cách xoá bỏ phương thức chiếm hữ hiện nay của chính họ, thực chất là xoá bỏ "tính chất bi thảm của cái phương thức khiến cho người công nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư bản, và chỉ sống trong chừng mực mà những lợi ích của giai cấp thống trị đòi hỏi". Xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN là một quá trình, dựa trên những điều kiện hiện thực, là kết quả của hoạt động hiện thực. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản chỉ ra rằng, mặc dù lực lượng sản xuất xã hội của CNTB hiện đại chưa phát triển đến mức có thể sản xuất đủ sản phẩm cho mọi người và khiến cho chế độ tư hữu trở thành xiềng xích ngăn cản sự phát triển của các lực lượng sản xuất đó, thậm chí cho đến ngày nay nó vẫn còn tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, nhưng lực lượng sản xuất ngày nay đã được tạo ra với quy mô lớn chưa từng có và có điều kiện để nó tiếp tục phát triển. Cùng với quá trình đó, sự phân chia giai cấp trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết. Tuyệt đại đa số dân cư bị tước mất hết mọi sở hữu. Lực lượng sản xuất tập trung trong tay một số ít nhà tư sản, của cải của tư sản càng tăng thì quần chúng nhân dân càng lâm vào tình cảnh nghèo đói và không thể chịu đựng được nữa. Lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ đến mức mà những quan hệ xã hội cũ không chứa đựng nổi, dẫn đến những chấn động, những khủng hoảng trong xã hội. Những điều kiện hiện thực đó khiến cho việc xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN trở thành có thể và cần thiết. Tất cả chỉ còn phụ thuộc vào những hoạt động hiện thực của giai cấp vô sản. Điều này cũng đã được "Tuyên ngôn" nêu lên thông qua việc phân tích những bước đi cần thiết trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa. Bước đầu tiên là giai cấp vô sản phải "làm nổ tung toàn bộ cái thượng tầng kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội quan phương" giành lấy dân chủ, giành lấy chính quyền, biến thành giai cấp thống trị. Sau đó, với công cụ chính quyền Nhà nước trong tay, giai cấp vô sản sẽ "từng bước một" thực hiện quá trình thay đổi tính chất xã hội của sở hữu, chuyển chế độ sở hữu tư nhân TBCN sang chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa, "đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay Nhà nước", để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất xã hội. Trong quá trình thực hiện sự chuyển biến chế độ sở hữu, tuỳ theo điều kiện cụ thể của những nước khác nhau mà áp dụng những biện pháp khác nhau, thậm chí "khác nhau rất nhiều". Nhấn mạnh về khả năng sử dụng những biện pháp linh hoạt, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể để đi tới mục tiêu chiến lược cuối cùng mà "Tuyên ngôn" ra đời, Ăng-ghen đã viết: "Cho đến nay, xét về đại thể, những nguyên lý tổng quát trình bày trong "Tuyên ngôn" này vẫn còn hoàn toàn đúng. ở chỗ, có một vài chi tiết cần thiết phải xem lại. Chính ngay "Tuyên ngôn" cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử đương thời". Mặc dầu giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản, nhưng để có thể thực hiện tốt đẹp sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp này cũng cần phải có một quá trình chuẩn bị về mọi mặt. Về mặt nhận thức, giai cấp vô sản cần có một ý thức "hết sức sáng rõ về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản"; phải nhận thức được tính tất yếu, hợp qui luật khách quan của việc xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN; có một niềm tin đầy tinh thần lạc quan cách mạng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc cách mạng vô sản. Về mặt tổ chức, cần đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng có chung lợi ích trong việc xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN. Trong hoạt động thực tiễn, giai cấp vô sản cần ủng hộ tất cả các phong trào cách mạng chống lại trật tự xã hội và chính trị hiện hành, luôn luôn "đưa vấn đề chế độ sở hữu lên hàng đầu không kể là nó đã có thể phát triển đến trình độ nào"; trong khi đấu tranh cho những mục đích và lợi ích trước mắt, không bao giờ được xao lãng mục tiêu cuối cùng của cuộc cách mạng; xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN, xây dựng chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa - nhân tố cơ bản của chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa. 150 năm đã trôi qua, tính đúng đắn của những nguyên lý trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản ngày càng đựơc thực tế chứng minh. Chế độ sở hữu TBCN ngày càng tỏ ra bất lực, không bao chứa nổi lực lượng sản xuất xã hội ngày càng phát triển như vũ bão, tình trạng thất nghiệp, phân cực giàu nghèo quá xa... trong từng nước tư bản. Những vấn đề cấp bách toàn cầu như nạn đói ở Châu Phi, tình trạng huỷ hoại môi trường sinh thái, mối quan hệ bất bình đẳng giữa các nước phát triển với các nước chậm phát triển, cuộc khủng hoảng tiền tệ, những cuộc chiến tranh kinh tế.... đang đòi hỏi phải có sự thay đổi căn bản chế độ sở hữ TBCN, thay đổi cả chế độ xã hội tư bản. Nguyên lý về tính tất yếu phải xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN, xây dựng chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa của "Tuy ngôn" cho đến ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị. 1.2. Sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận. Song, đây lại là vấn đề hết sức phức tạp và cho đến nay vẫn còn có những ý kiến khác nhau. Trong bài viết này, chúng tôi không có tham vọng trình bày cặn kẽ vấn đề hết sức phức tạp, mà chỉ nêu lên một số ý kiến về các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Hơn mười năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã chứng tỏ tính đúngđắn của đường lối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tiễn đã cho thấy, một nền kinh tế nhiều thành phần, đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu, chứ không thể chỉ có hai hình thức sở hữu - toàn dân và tập thể - như quan niệm trước đây. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm các hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân, sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể , sở hữu cá thể, sở hữu tư bản tư nhân và các hình thức sở hữu hỗn hợp. Trong các hình thức sở hữu này, khái quát lại, chỉ có hai hình thức sở hữu cơ bản là công hữu và tư hữu, còn các hình thức khác chỉ là những hình thức trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp. ở đây, mỗi hình thức sở hữu lại có nhiều phương thức biểu hiện và trình độ thể hiện khác nhau. Chúng được hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và năng lực quản lý. Về sở hữu toàn dân. ở nước ta hiện nay, như Hiến pháp và Luật đất đai đã qui định rõ: "đất đai thuộc sở hữu toàn dẫn". Xét về mặt kinh tế, đất đai là phương tiện tồn tại cơ bản của cả một cộng đồng xã hội. Xét về mặt xã hội, đất đai là lãnh thổ, là nơi cư trú của cả một cộng đồng. Thế nhưng, khi xét trên cả hai phương diện, có thể nói rằng đất đai không thể là đối tượng sở hữu của riêng ai. Tuy nhiên, suy cho cùng, đất đai cũng là tư liệu sản xuất, hay nói cách chính xác hơn, nó là một bộ phận quan trọng của tư liệu sản xuất. Bởi thế, dù là đặc biệt thì trong nền kinh tế hàng hoá, nó vẫn phải vận động theo những qui luật của thị trường và chịu sự điều tiết của những qui luật đó. Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện sở hữu và quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao đổi quyền cho các hộ nông dân, kể cả quyền được chuyển nhượng, quyền sử dụng đất đai. Nếu biết giải quyết cụ thể các vấn đề sở hữu, biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng, chẳng hạn như ruộng đất vẫn thuộc sở hữu toàn dân, song người nông dân được quyền sử dụng ổn định, lâu dài, thì có thể đem lại một sức bật cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự tăng trưởng kinh tế nói chung. Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần thì đương nhiên là nó bao gồm nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo hướng có lợi cho quốc kế dân sinh. Nhà nước quản lý kinh tế với tư cách là cơ quan quyền lực đại diện cho lợi ích của nhân dân và là người đại diện đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Văn kiện Đại hội VII của Đảng ta đã chỉ rõ: "Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, ruộng đất được giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước qui định bằng luật pháp các vấn đề thừa kế, chuyển quyền sử dụng ruộng đất... Như vậy, hình thức sở hữu toàn dân ở nước ta hiện nay đã được xác định theo nội dung mới, có nhiều khả năng để thực sự trở thành nguồn lực phát triển kinh tế. Về sở hữu Nhà nước. Trong thời kỳ bao cấp trước đây, không chỉ ở nước ta, mà còn ở một số nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, thường đồng nhất sở hữu Nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy mà có một thời gian khá dài, người ta thường bỏ quên hình thức sở hữu Nhà nước, chỉ quan tâm đặc biệt tới hình thức sở hữu toàn dân với chế độ công hữu tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Và cũng bởi sở hữu toàn dân được gắn kết với sự phát triển của khu vực kinh tế quốc doanh, vì vậy mà chúng ta đã ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng chỉ có như vậy mới có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Thực ra, với quan niệm đó, sở hữu toàn dân đã trở thành thứ sở hữu không phải của một chủ sở hữu cụ thể nào cả. Trong một xã hội mà Nhà nước còn tồn tại, thì sở hữu toàn dân chưa có điều kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở hữu Nhà nước, xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên trong của sở hữu Nhà nước ở nước ta, có lẽ chủ yếu thể hiện quyền sở hữu đó ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp Nhà nước. Về sở hữu tập thể. ở nước ta trước đây, hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp), với nội dung là cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của đối tượng sở hữu đều là của chung, mà các xã viên là chủ sở hữu. Chính vì vậy mà với hình thức sở hữu này, quyền mua, bán hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất và lưu thông ở nước ta đã diễn ra hết sức phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thường rát hạn chế, song đôi khi lại có tình trạng lạm quyền. Sự không xác định, sự "nhập nhằng" với quyền sở hữu Nhà nước và với sở hữu tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. Để thoát khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, theo chúng tôi, phải xác định quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất, kinh doanh. Chỉ có như vậy thì sở hữu tập thể mới có thể trở thành một hình thức sở hữu có hiệu quả. Chúng ta đều biết, hợp tác xã không phải là hình thức riêng có, đặc trưng cho chủ nghiã, nhưng nó là một hình thức sở hữu kinh tế tiến bộ trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chúng ta cần phải duy trì và phát triển hơn nữa hình thức sở hữu này khi xây dựng chủ nghĩa xã hội, như V.I.Lênin đã khẳng định, "chế độ của những xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa". Hợp tác xã là nhu cầu thiết thân của kinh tế hộ gia đình, của nền sản xuất hàng hoá. Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp nhỏ phát triển tới một trình độ nhất định, nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu kinh tế về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm, v.v.. đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng cạnh tranh và phát triển. Chính nhu cầu đó đã liene kết người lao động lại với nhau và làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Thực tiễn cho thấy, ở nước ta hiện nay, đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. "Hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung". Điều này cho thấy, kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với thực tiễn ở nước ta hiện nay. Về sở hữu cá thể. Đa dạng hoá các lực lượng sản xuất là một trong những cơ sở để đa dạng hoá các quan hệ sở hữu, bởi như chúng ta đã rõ, sở hữu biểu hiện quan hệ của con người không chỉ đối với tư liệu sản xuất nói riêng mà còn đối với toàn bộ lực lượng sản xuất nói chung. ở nước ta, hình thức sở hữu cá thể tồn tại chủ yếu dưới hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ. Trước đây, kinh tế cá thể, tiểu chủ ở nước ta chủ yếu có tính chất tự cấp, tự túc, lại bị trói buộc bởi cơ chế quản lý. Hiện nay, nó đang được khuyến khích phát triển và đang có xu hướng phát triển thuận lợi. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có mối quan hệ chặt chẽ với kinh tế hợp tác xã, vì thế hình thức sở hữu cá thể cũng liên quan mật thiết với hình thức sở hữu tập thể. Kinh tế cá thể, tiểu chủ bao gồm những đơn vị kinh tế và những hoạt động kinh doanh dựa vào nguồn vốn và sức lao động của mỗi cá nhân, nhóm nhỏ là chủ yếu đang chiếm một vị trí quan trọng trong nhiều ngành nghề ở nông thôn cũng như ở thành thị. Nó có điều kiện phát huy nhanh và có hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng nhóm và từng người dân. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã chỉ rõ: "Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. Giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm sản phẩm. Hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ, vì lợi ích thiết thất và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bước đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp Nhà nước hay hợp tác xã". Chúng ta đã biết, kinh tế cá thể, tiểu chủ, về thực chất, là thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân và cho đến nay nó vẫn được coi là sở hữu cá nhân. Thứ sở hữu cá nhân đó không phải là một chế độ sở hữu độc lập. Bởi thế, nó không thể tạo ra quan hệ sản xuất, hoặc đại diện cho một quan hệ sản xuất mà chỉ là kết quả tất yếu của quan hệ sản xuất đang tồn tại và phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất đó. Thành phần kinh tế này cũng luôn chịu sự tác động của những qui luật kinh doanh và luôn bị phân tán, vì thế cần phải có các biện pháp kinh tế để tác động, hướng dẫn và cải biến nó theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về sở hữu tư bản tư nhân. ở nước ta hiện nay, kinh tế tư bản tư nhân đang hình thành và được phép phát triển. Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần sở hữu tư bản tư nhân, bao gồm cả doanh nghiệp của các nhà tư sản và các đơn vị kinh tế mà phần lớn vốn do một hoặc một sóo tư nhân góp lại, thuê lao động sản xuất kinh doanh dưới hình thức xí nghiệp tư doanh hoặc Công ty cổ phần tư nhân. Nó cũng bao gồm cả hình thức kinh tế tư bản tư nhân nước ngoài đầu tư 100% vốn, hoặc nắm giữ tỷ lệ vốn khống chế. Trong thời kỳ quá độ, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không còn nguyên vẹn nữa. Bởi thế, kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta chỉ hoạt động với tư cách là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, được "bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp". Về sở hữu hỗn hợp. Sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu có sự tham gia của nhiều loại chủ thể khác nhau về tính chất. Có thể nói đây là một loại hình kinh tế trung gian, có tính chất đan xen giữa thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới hiện đang có nhiều biến đổi, nhìn chung các nước trên thế giới, trong đó có nước ta, thường có ba loại chủ thể kết hợp với nhau để tạo ra các hình thức sở hữu hỗn hợp khác nhau. Đó là sự kết hợp, liên kết giữa các chủ thể; Nhà nước, tập thể và tư nhân để tạo nên các dạng sở hữu sinh động như: Nhà nước và nhân dân; Nhà nước và tập thể; Nhà nước, tập thể và tư nhân; tập thể và tư nhân, v.v.. Thực chất đây cũng là các xí nghiệp (hoặc Công ty) cổ phần, chỉ có sự khác biệt là ở chỗ các chủ thuể không đồng nhất về tính chất. Đó là các hình thức kinh tế không thuộc hẳn vào một thành phần kinh tế nào - hình thức kinh tế hỗn hợp nhiều loại sở hữu dưới dạng ty, xí nghiệp cổ phần hùn vốn liên doanh hai bên và nhiều bên ở trong nước với nước ngoài. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta còn phải sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước, hay hình thức kinh tế tư bản Nhà nước làm phương tiện và cứu cánh để phát triển. Bởi chủ nghĩa tư bản Nhà nước, theo V.I.Lênin, là một hình thức phổ biến trong thời kỳ quá độ, và sự tồn tại của nó là thực sự cần thiết. Đây là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó có phần tham dự của Nhà nước và tư nhân với nhiều hình thức cụ thể, trên mọi lĩnh vực sản xuất, lưu thông, dịch vụ, tín dụng, v.v.. ở nước ta hiện nay, "kinh tế tư bản Nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với tư bản nước ngoài". Nó có ưu thế mạnh hơn so với tư bản tư nhân ở chỗ, nó đã kết hợp được sức mạnh tổng hợp của hai thành phần kinh tế có tiềm lực lớn nhất trong thời kỳ quá độ. Bởi vậy, hình thức sở hữu hỗn hợp ở nước ta là cái có khả năng thực hiện tập trung hoá, chuyên môn hoá sản xuất và tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, có sức cạnh tranh lớn trên thị trường trong và ngoài nước. Để cho "chủ nghĩa tư bản Nhà nước" có những đóng góp thực sự cho vịêc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phải tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho sự tồn tại và phát triển của nó. Hiện nay, chúng ta đang chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, đó chính là một giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư bản Nhà nước, đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Tuy nhiên, vấn đề cổ phần hoá ở nước ta còn hết sức mới mẻ, cần phải nhận thức một cách đầy đủ, áp dụng từng bước, cần "thí điểm việc bán cổ phần cho người nước ngoài. Trong hình thức sở hữu hỗn ohựp, mà nòng cốt là thành phần kinh tế tư bản Nhà nước, còn tồn tại các thành phần kinh tế tư nhân tự cấp, tự túc, kinh tế tiểu chủ trong các khu vực kinh tế còn lạc hậu, sản xuất hàng hoá chậm phát triển. Các thành phần kinh tế trong sở hữu hỗn hợp có mối quan hệ nội tại và tác động qua lại lẫn nhau, nó là kết quả của công cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mỗi hình thức sở hữu nói trên có vị trí và vai trò riêng của chúng. Địa vị lịch sử của chúng phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất, vào trình độ quản lý, vào tiến trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.3. Những nhận thức mới về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay Cần hiểu rõ hơn định nghĩa sở hữu: Sở hữu là hình thức nhất định được hình thành trong lịch sử về chiếm hữu của cải vật chất xã hội. Chiếm hữu thể hiện quan hệ giữa người với tự nhiên, là hành vi gắn liền với sự tồn tại và phát triển của con người. Chiếm hữu là phạm trù vĩnh viễn trong tất cả các giai đoạn khác nhau của lịch sử nhân loại. Sở hữu là quan hệ giữa người với người về sự chiếm hữu tự nhiên. Sở hữu là hình thức xã hội của hành vi chiếm hữu trong hình thức kinh tế - xã hội nhất định. Sở hữu là phạm trù lịch sử, biến đổi cùng với sự biến đổi của hình thái xã hội trong lịch sử. Phân biệt giữa chiếm hữu và sở hữu là hết sức cần thiết để nhận thức khoa học về phạm trù sở hữu tư liêụ sản xuất. Lý luận kinh tế học tư sản đã lợi dụng cách hiểu lập lờ giữa hai phạm trù nói trên để biểu lộ cho sự tồn tại "Vĩnh viễn" của chế độ tư hữu TBCN. Họ cho rằng sở hữu là quan hệ giữa người với vật, đồng nhất sở hữu với chiếm hữu, không thấy (hoặc cố tình không thấy quan hệ giữa người với người thông qua chiếm hữu vật và mang tính đặc thù trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, không thấy trình độ chiếm hữu tự nhiên của con người gắn liền với hình thức xã hội nhất định của con người - cái hình thức không phụ thuộc vào ý chí của con người. Chính quan hệ sở hữu biến đổi là "sóng ngầm" bên trong quyết định sự biến đổi của chế độ kinh tế - chính trị - xã hội. Sở hữu là quan hệ kinh tế chứ không phải là quan hệ ý chí của con người trong xã hội. Sở hữu quyết định hệ thống chính trị chứ không phải ngược lại. Chỉ trong mối quan hệ giữa người với người độc lập với quan hệ ý chí thì vật sở hữu mới trở thành đối tượng sở hữu thực tế, mới đem lại quyền lợi thực tế của con người sở hữu, cho giai cấp nhất định và một hệ thống chính trị có màu sắc muôn vẻ. Đối tượng của sở hữu luôn biến đổi, thích ứng. Lịch sử cho thấy, đối tượng chủ yếu của sở hữu (sở hữu cái gì), đã từng chuyển dịch qua nhiều thứ: từ sở hữu vật tự nhiên quý, hiếm, sở hữu nô lệ, đất đai, tiến đến sở hữu tiền, tư bản, tư liệu sản xuất hiện đại (máy móc). Đối tượng của sở hữu ngày càng được mở rộng, không chỉ sở hữu về tư liệu sản xuất, vật phẩm tiêu dùng mà còn sở hữu vốn (tài chính, khả năng sinh lời v.v..). Việc "tiền tệ hoá" các đối tượng sở hữu là chủ yếu và là một bước tiến bộ lớn. Ngày nay, dưới tác động của cách mạng khoa học – công nghệ, lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, đối tượng chủ yếu của sở hữu xuất hiện nhân tố mới "trí tuệ". Trí tuệ trở thành đối tượng của sở hữu là những thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình sản xuất ra của cải vật chất xã hội. Những "trí tuệ" đó có chủ sở hữu, chủ quản lý kinh doanh, được Nhà nước bảo hộ về mặt pháp lý. Cuộc cách mạng tin học ngày càng phát triển thì "trí tuệ" (theo cách hiểu như trên) các trở thành đối tượng sở hữu quan trọng. Vấn đề này không chỉ trong từng quốc gia mà cả trên lĩnh vực quốc tế cũng ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều người, nhiều nước. Tuy nhiên, không thể thấy sở hữu "trí tuệ" thay cho mọi đối tượng sở hữu. Cần phải biết nắm đối tượng sở hữu chủ yếu nào chi phối cả hệ thống kinh tế để tác động, điều chỉnh quan hệ kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phải tìm kiếm các hình thức sở hữu phù hợp cho từng đối tượng sở hữu làm cho mọi tư liệu sản xuất, mọi của cải vật chất xã hội đều có chủ đích thực nhờ đó mà tránh được hao tổn, thất thoát, các nguồn lực kinh tế của đất nước. Nói tới sở hữu dễ nghĩ ngay tới "của ai"? Một đối tượng của cải vật chất nào đó được trả lời "của ai"? (của cá nhân, nhóm hoặc của Nhà nước) là tưởng như vấn đề sở hữu đã rõ. Song đó mới chỉ là cách hiểu sơ giản, bề ngoài. Thứ hai, sở hữu phải được thể chế hoá về mặt pháp lý, nó liên quna đến những vấn đề thuộc kiến trúc thượng tầng. Sở hữu thể hiện qua quan hệ pháp lý có tính ổn định tương đối. Vì thực chất là nó phản ánh những quan hệ khách quan đã có thực, khá phổ biến trong đời sống kinh tế – xã hội dưới dạng luật pháp và qui định. Thông qua đó, sở hữu phải đi tới thể hiện dưới dạng thực hiện hệ thống lợi ích kinh tế. Thứ ba, phạm trù sở hữu cần được nhận thức bao gồm nhiều khâu, nhiều mối quan hệ như của ai? Ai sở hữu? Ai quản lý kinh doanh (sử dụng)? v.v. và sự thực hiện lợi ích kinh tế như thế nào? dưới hình thức nào? Nhận thức nội dung khách quan của sở hữu mà không tìm thấy hệ thống thực hiện lợi ích kinh tế thì mới chỉ dừng lại ở mức nửa vời. Còn phải qua hệ thống lợi ích ở mỗi khâu, mỗi mối quan hệ để thấy vận động hiện thực của hệ thống quan hệ khách quan. Quan hệ lợi ích một mặt phải bảo đảm lợi ích cho nhóm chủ thể sở hữu, mặt khác phải bảo đảm lợi ích cho nhóm chủ thể quản lý kinh doanh (sử dụng). Động lực kinh tế bắt nguồn từ nội dung bên trong của quan hệ sở hữu tạo nên các lực lượng giai cấp, từng lớp khác nhau. Các giai tầng đó mới tác động trực tiếp đến hệ thống kinh tế - xã hội. Quan hệ sở hữu được thể hiện bằng hệ thống pháp luật (kể cả các qui định dưới luật) tạo nên chế độ sở hưũ. Chế độ sở hữu bao gồm các quyền như quyền sở hữu, quyền quản lý kinh doanh (quyền sử dụng), quyền thực hiện lợi ích kinh tế v.v… Trong tập hợp các quyền đó có thể chia làm hai nhóm quyền quan trọng là quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh (quyền sử dụng là phần quan trọng nhất nằm trong quyền quản lý kinh doanh). Hai nhóm quyền này có thể thống nhất ở một chủ thể, cũng có thể phân chia, tách biệt tương đối ở những chủ thể khác nhau. Sự phát triển kinh tế – xã hội càng phức tạp thì sự tách biệt, tác động qua lại giữa hai nhóm quyền này ngày càng phong phú, đa dạng. Lý luận về sự tách biệt tương đối giữa hai nhóm quyền nói trên mở ra một bình diện mới cho việc vận dụng quan hệ sở hữu vào thực tiễn. Đây là luận điểm chính để tìm giải pháp cải cách cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước và giải quyết quan hệ ruộng đất hiện nay. Mỗi phương thức sản xuất bao giờ cũng có một loại hình sở hữu đặc trưng, giữ vai trò chủ đạo, đồng thời còn tồn tại các loại hình thức sở hữu khác. Thực tiễn của thế giới đương đại cho thấy, ở bất cứ nước nào, dù mức độ phát triển và chế độ chính trị có khác nhau, vẫn tồn tại khách quan nhiều loại hình sở hữu. Việc khẳng định trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tồn tại 3 loại hình thức sở hữu chủ yếu: toàn dân (Nhà nước), tập thể, tư nhân là có căn cứ khoa học – thực tiễn. Mỗi loại hình thức sở hữu lại có nhiều hình thức, mức độ thể hiện khác nhau. Trên cơ sở cũng bản chất của một loại hình nào đó, tuỳ theo trình độ phát triển của sức sản xuất và quản lý mà hình thành nhiều hình thức sở hữu, nhiều cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế của sở hữu hết sức đa dạng. Mỗi thành phần kinh tế vừa tồn tại dưới hình thức tổ chức kinh tế nhất định, lại vừa có một loại hình sở hữu đặc trưng, hoặc đan xen trong đó có nhiều loại hình, hình thức sở hữu khác nhau. Nhận thức mới cần phải xác lập một chế độ đa dạng các loại hình và hình thức sở hữu. Song trong đó bao giờ cũng có một loại hình sở hữu thống trị chi phối căn bản hệ thống kinh tế xã hội. II- Thực tiển giải quyết vấn đề sở hữu ở nước ta khi chuyển sang phát triển nền kinh tế Trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, vì nhiều lý do khách quan và chủ quan khác nhau đã dẫn tới việc xoá bỏ nhanh chóng các loại hình tư hữu._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35259.doc
Tài liệu liên quan